Trong TGVH nhất định có nhiều Bác đã hoặc đang trải nghiệm cả hai con đường này , lxx mong dược lắng nghe một vài ghi nhận cá nhân. Xin mời
Printable View
Trong TGVH nhất định có nhiều Bác đã hoặc đang trải nghiệm cả hai con đường này , lxx mong dược lắng nghe một vài ghi nhận cá nhân. Xin mời
VÕ THUẬT VÀ CÁC NGHÀNH HỌC THUẬT
1.Võ thuật và đạo đức học:
Võ đức (đạo đức võ) là linh hồn của võ thuật. Tôn cao võ đức là truyền thống tốt đẹp của giới võ thuật. Thời xưa lấy "Nhân, Trí, Dũng" là ba đức cần thiết của người luyện võ, tức là người Nhân không sát hại, người Trí biết giữ mình, người Dũng không khiếp sợ.
Tất cả các phái võ đều lấy việc người tập võ phải biết tu thân, dưỡng tánh, dùng võ vào mục đích tự vệ, cấm cậy mạnh hiếp yếu hay gây sự đấu đá, tuân giữ đạo đức của xã hội, tôn sư trọng đạo, cứu khổn phò nguy.
Môn phái Võ Ðang yêu cầu người luyện võ phải "Lập tâm vì trời đất, lập mệnh vì nhân dân, cấm gây chuyện, cấm bạo hành". Thiếu Lâm thì yêu cầu "Cứu nguy phò khốn nhẫn nhục mà giúp đời, phải giữ là người đã quy y theo cửa Phật, tự mình luôn lấy từ bi làm chủ, không được có hành vi cậy khoẻ hiếp yếu". Ngày xưa, khi đệ tử phái Côn Luân khi nhập môn phải thề như sau: "Ðặt tổ quốc trên hết, không lừa thầy, phản bạn. Coi đồng môn như cốt nhục, không lấy danh nghĩa môn phái làm điều tàn ác vô nhân đạo"
Trong 6 điều tâm niệm của phái Linh Trường Không Thủ Ðạo (Suzucho Karatedo) tại Việt Nam có dạy:
" - Nguyện cố gắng rèn luyện Không Thủ Ðạo hầu tạo một lương tâm sáng suốt và một thân thể khoẻ mạnh để bảo vệ lẽ phải.
- Nguyện trấn tĩnh chịu đựng mọi thử thách, chỉ dụng võ trong trường hợp vạn bất đắc dĩ, thắng không kiêu, bại không nản.
- Nguyện trao dồi đạo đức không bao giờ có ác ý hay kiêu ngạo"
Trong 5 điều môn quy của Bình Ðịnh An Thái ( Bình Thái Đạo) đã dạy
“- Không phản sư phế đạo
- Không ỷ tài hiếp người
- Không sanh tâm đạo tặc
- Không loạn *** háo sắc
- Không thắng vinh, bại nhục”
Trong 7 điều môn quy của Bình Định An Vinh (Vương Kiểm Mỹ)
“- Không phản sư môn
- Không khoe mình chê người
- Không đắm sa “Tứ đổ tường”
- Không thắng vinh bại nhục”
Chúng ta cũng gặp những tư tưởng trên trong 10 điều tâm niệm của môn phái Vovinam - Việt Võ Ðạo:
" - Việt Võ Ðạo Sinh (VVÐS) nguyện đạt tới cao độ của nghệ thuật để phục vụ dân tộc và nhân loại.
- VVÐS nguyện đồng tâm nhất trí, tôn kính người trên, thương mến đồng đạo
- VVÐS chuyên cần học tập, rèn luyện tinh thần, trao dồi đạo hạnh
- VVÐS tôn trọng các võ phái khác, chỉ dụng võ để tự vệ và bênh vực lẻ phải
- VVÐS sống trong sạch, giản dị, trung thực và cao thượng"
Nói tóm lại võ đức là điều cần thiết của người luyện võ, có võ mà thiếu đức thì chỉ trở thành người tàn ác bất nhân gây hại cho xã hội.
2.Thiền và võ đạo
Ngày nay nhiều người tìm đến võ thuật như là một môn thể thao, họ hấp tấp học vội vã vài năm để mong đánh bể được vài tấm ván, thi đấu đoạt được vài huy chương hay có thể trở thành tài tử nổi tiếng như Lý Tiểu long, Thành Long để hái ra tiền.Thực sự họ đã đánh mất ý nghĩa thực sự của võ thuật. Võ thuật là một nghệ thuật sống, sống tỉnh thức cho chính mình, sống trong thực tại của từng hơi thở, từng sát na vọng niệm, sống để hòa mình với vũ trụ, với vạn vật muôn loài. Ðã có mấy ai nhận chân được cái đẹp thực sự khi tâm của mình và vạn vật đã hòa làm một
; ; Ðừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
; ; Ðêm qua sân trước một cành mai
; ; Mãn Giác thiền sư
Một kiếm sĩ khi xuất kiếm lấy đầu người chỉ trong nháy mắt không hề do dự, nhưng một kiếm sĩ chân chính cũng thừa hiểu rằng bản thân mình không thích bị giết hoặc bị chém mang thương tích; thì chúng sinh cũng vậy, từ loài người cho đến cầm thú, thảo mộc, tất cả đều có tâm cầu sống. Muốn hiểu được ý nghĩa thực sự của sự sống thì phải hiểu rõ sự chết. Chỉ có Thiền đạo của Phật Giáo mới trả lời được câu hỏi này. Ðây là lý do tại saoThiền (Zen) được dùng làm kim chỉ nam cho các nghành võ thuật Nhật Bản. Thiền (Zen) và võ đạo Nhật Bản (Budo) đã hòa trộn lẫn với nhau thành một thực thể không thể tách rời
Miyamoto Musashi một tay kiếm khách lừng danh của Nhật Bản vào thế kỷ thứ 16 khi lui về ẩn dật và viết cuốn Ngũ đại kỳ thư (The Book of Five Rings) đã từng viết rằng:
" Ðối với con đường của võ đạo (The Way of Bushi), phải nhận chân được Không tánh (Emtiness), phá vỡ cái mê mờ, vô minh (Illusion) thì trí tuệ (Wisdom) sẽ hiện tiền, sống tỉnh thức ngày và đêm. Khi đám mây mù vô minh tan biến thì người võ sĩ đạo chân chính (Bushido) sẽ được sống trong an lạc”.
3.Võ thuật và Chu Dịch học:
Theo quan niệm cổ đại thì loài người với vũ trụ vạn vật đều do âm dương tác động lẫn nhau mà thành. Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng biến bát quái. Trời đất có ngày đêm, sáng tối tượng trưng cho Âm và Dương, động vật và con người thì lấy giống cái làm âm, giống đực làm dương. Ngay cả trong cơ thể của con người cũng chia ra làm âm dương như: bên ngoài là dương, bên trong là âm, trên đầu là dương, dưới chân là âm, bên phải là dương bên trái là âm.
Bất kể loại võ thuật nào cũng nhấn mạnh việc làm khoẻ thân mình là ý nghĩa trọng yếu thứ nhất, đó là phải duy trì cho được sự cân bằng âm dương trong cơ thể. Vì vậy dù là quyền "nội gia" hay quyền " ngoại gia" đều nhấn mạnh "khí trầm đan điền" hoặc " trong luyện tinh thần khí, ngoài luyện bộ pháp tấn pháp" hay "trong luyện hơi thở, ngoài luyện gân cốt". Như thế âm bằng dương thuận, tinh thần ổn định. Âm dương đều hòa, tinh thần khoẻ mạnh, thân thể tráng kiện thì bệnh nào mà sinh?
Theo chu dịch thì 8 quẻ bát quái dùng để tượng trưng các hiện tượng trời, người và vạn vật như Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (gió), Tốn (sấm), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Ðoài (đầm). Một môn võ có liên hệ nhiều với bát quái là Bát quái chưởng. Bát quái chưởng có 8 chưởng chính gắn với 8 cung của bát quái, lấy sáu mươi bốn chưởng chia làm 8 tổ chưởng, mỗi tổ 8 chưởng ghép vào làm thành tám lần tám là 64 quẻ. Ðường đi lại (bộ pháp) theo thứ tự " Cửu cung bộ" của Hà Ðồ Lạc Thư, Bát quái chưởng lấy động làm gốc, lấy biến làm pháp, lấy nội dung của chu dịch để chỉ đạo kỹ thuật.
Ngoài ra các phái võ khác như Thái Cực Quyền, Thái Cực Ðạo (Tae Kwon Do) cũng chịu nhiều ảnh hưởng của bát quái.Trong môn phái Tae Kwon Do thuộc hệ phái (WTF) có tám bài quyền từ đai trắng đến đai đen nhất đẳng tức là 8 bài Taekeuk và bài Koryo (Triều Tiên Quyền), 8 bài Taekeuk án theo 8 cung của bát quái như,Taekeuk 1 Jang ( thái Cực Càn cung quyền), Taekeuk 2,3,4,5,6,7,8 Jang tương ứng vớI ( Thái Cực Ðoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn cung quyền)
Nói đến chu dịch thì không thể bỏ qua học thuyết Ngũ Hành, tức là lấy 5 loại vật chất cơ bản là Kim (kim loại), Mộc (gỗ), Thuỷ (nước), Hỏa (lửa), Thổ (đất) để cấu thành hình hình sắc sắc của thế giới đại thiên. Giữa chúng có một quy luật tương sinh tương khắc tuần hoàn không dứt. "Tương sinh" mang ý nghĩa cùng sinh ra nhau, giúp nhau lớn mạnh: Mộc sinh Hỏa, Hoả sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ. "Tương khắc" tức là mang ý khắc chế lẫn nhau, kìm hãm nhau tức Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ.
Học thuyết Ngũ Hành ảnh hưởng nhiều đến kỹ thuật của môn Hình Ý Quyền. Hình Ý Quyền lấy hình dạng, tính năng phương vị của ngũ hành làm cơ sở chuẩn, đem các thức quyền phối hợp thành tổ, lấy ngũ hành làm hệ thống, làm nguyên tố cơ bản cấu thành các loại quyền thức, chiêu thức. Ngũ hành phân bố 5 phương vị Hỏa - Nam, Thủy - Bắc, Mộc - Ðông, Kim - Tây, Thổ - Trung Ương. Cũng như 5 phương vị của người: trước, sau, phải, trái và giữa. Trong thân thể người có ngũ tạng cũng phối hợp với ngũ hành: Can (gan) thuộc Mộc, Tâm (tim) thuộc Hỏa, Tỳ (lá lách) thuộc Thổ, Phế (phổi) thuộc Kim, Thận thuộc Thủy. Ðây là "nội ngũ hành"."Ngoại ngũ hành" thì có ngũ quan tức mắt thuộc Mộc, lưỡi thuộc Hỏa, miệng thuộc Thổ, lưỡi thuộc Kim và tai thuộc Thủy. Hình Ý Quyền cho rằng nội ngoại ngũ hành phải hợp với nhau tức "nội ngoại đồng hóa" điều hòa tạng, phủ, khí tức hơi thở tinh khí cùng hoà lẫn nhau đạt tới hiệu quả khoẻ thân sống thọ.
Bên cạnh đó giới võ thuật cũng lấy nguyên lý ngũ hành tương khắc để chế ra các chiêu thức khắc chế lẫn nhau, hoặc dùng nguyên lý ngũ hành tương sinh để sáng tạo các chiêu thức dịch sinh biến hoá với nhau.
Trong môn phái Vovinam -Việt Võ đạo tên của các bài binh khí cũng chịu nhiều ảnh hưởng của thuyết Chu dịch như "Thái Cực đơn Ðao pháp", "Tinh Hoa Lưỡng Nghi Kiếm Pháp", "Tứ Tượng Côn Pháp", "Bát Quái Song Ðao Pháp", "Nhật Nguyệt Ðại Ðao Pháp", "Âm Dương Hồ Ðiệp Phiến"
4.Võ Thuật với Y học:
Từ thời Bắc Triều nhà Ngụy -Tấn, Ðạt Ma Tổ Sư từ Ấn Ðộ vượt biển sang Trung Quốc chỉ dạy thiền tông cho tăng nhân chùa Thiếu Lâm. Nhưng do thấy phần đông các tăng nhân ngồi thiền hay bị ngủ gục nên Ðạt Ma đã dạy cho phương pháp vận động để điều hoà khí huyết. Ðây cũng là nguyên nhân để phát sinh ra võ thuật Thiếu Lâm. Và Thiếu Lâm Thương Khoa Y thuật (Y thuật chữa thương Thiếu Lâm) đã trở thành một trong 72 tuyệt kỹ của chùa Thiếu Lâm.
Thời Tam Quốc có Hoa Ðà sáng chế ra "Ngũ cầm hí" phỏng theo động tác của 5 con vật là Cọp,Nai, Gấu,Khỉ, Chim để vận động thân thể trừ tật bệnh. Ðây cũng là nguồn gốc để các môn võ thuật tượng hình sau này như Hầu quyền, Hổ quyền, Xà quyền, Ðường Lang quyền, Ưng quyền, Báo quyền v.v phát triển.
Như vậy nguồn gốc của võ thuật, ngoại trừ để đấu tranh sinh tồn còn có nguyên nhân nữa là để dưỡng sinh tăng tuổi thọ. Vả lại võ học và y học đông phương đều cùng nguồn gốc dựa trên âm dương ngũ hành sinh khắc. Nói về y học thì trời đất có âm dương, con người cũng có âm dương hội tụ, lại có ngũ tạng, ngũ căn ứng với ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa và thổ. Do đó y học căn cứ theo việc điều hòa âm dương, cân bằng ngũ hành để bốc thuốc trị bệnh.
Trong võ thuật thì lấy động tác nhanh chậm, cứng mềm làm âm dương, tấn công và ph*ng thủ, ta và địch là hai mặt của vấn đề chẳng khác gì âm dương. Người xưa bảo "tướng giỏi dùng binh như thầy hay chữa bệnh". Bệnh vạn biến thì thuốc vạn biến. Bệnh biến mà thuốc không biến, quyết là bệnh không thể khỏi được
Hơn nữa tư tưởng "trời người hợp nhất" cũng là tư tưỏng chỉ đạo của võ thuật và y học. Y học cho rằng "người là con của vũ trụ, con người rời trời đất là nguồn cung cấp hoàn cảnh điều kiện cho con người thì một khắc cũng không sống nổi"
Trên trái đất này có ai là người sống mà không cần dưỡng khí của trời đất? Trong võ thuật cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của thuyết "Trời người hợp nhất". Người tập võ dậy sớm luyện công lúc tinh sương, để hấp thụ không khí tươi mát của thiên nhiên. Trong lý luận võ thuật của nhiều môn phái đều có sự chú trọng đến sự biến hoá của giờ giấc kết hợp với sự biến hóa trạng thái tâm sinh lý của con người, nhất là môn "Theo giờ điểm huyệt" của Thiếu Lâm. Bên cạnh đó thuyết "Hình thần tương quan" cũng là chỗ tương đồng của võ thuật và y học. "Hình" là hình thái bên ngoài, "Thần" là hoạt động ý chí bên trong. Hình và thần kiêm đủ thì khoẻ thân sống thọ. Trong võ thuật có môn ngọai công tập hình, nội công tập thần, nội ngoại công kiêm đủ làm cho thân thể khoẻ mạnh, tinh thần sáng suốt, vui vẻ hoạt bát. Cái thần hàm chứa bên trong còn được gọi là cái "tâm", tâm sáng, tâm chính thì mới mong đạt được cảnh giới tối cao của võ thuật. Cũng không thể quên rằng giới võ thuật rất chú trọng đến vệ sinh ăn uống, kiêm với dùng thuốc để bồi bổ, có thứ uống, có thứ xoa để trị nội ngoại thương. Do đó võ thuật không thể lìa Ðông,Nam y và Ðông,Nam y dựa vào võ thuật để phát triển.
5.Võ thuật và thư pháp:
Võ thuật và thư pháp là "dị khúc dồng công" (hai khúc khác nhau nhưng kết quả như nhau). Võ thuật lấy tấn công và ph*ng thủ làm nền tảng, nội ngoại hợp nhất, hình thần kiêm đủ, tiết tấu phân minh. Trong tập luyện bài quyền thì thể hiện sự phối hợp chặc chẽ giữa tay chân, hít thở, bộ pháp tấn pháp "động" thì mau lẹ có lực,"tĩnh" thì như bàn thạch, có nhu có cương, tinh khí thần hàm đủ.
Thư pháp thì yêu cầu đưa bút có chổ nặng chổ nhẹ, nâng đè, ngút ngoặt có tiết tấu và ngữ luật như âm nhạc. Ðiểm đưa nét bút có nặng có nhẹ, đậm, nhạt, mà phải có biến hóa. Hạ bút, thu bút tròn đầy và chu đáo khiến cho nét điểm đưa có thế khí, có sức sống và có cốt lực.
Thư pháp coi trọng "nhập mục tam phân" tức là "cốt, cân, huyết, nhục" (xương, gân, máu, thịt). Võ thuật thì cũng thế, vô cùng chú trọng đến cốt pháp, ngay thẳng cường tráng, chặt chẽ hùng vĩ.
Võ thuật coi trọng thân ngay bộ vững, thức chính chiêu tròn, mỗi mỗi động tác phải chuẩn xác, lượng điệu tề chỉnh. Thư pháp coi trọng "anh tôi quay ngó", ngầm ngó nhình nhau, có nặng có nhẹ, có cứng có mềm, có ẩn có lộ, có hư có thực, có thẳng có nghiêng, có dài có ngắn, có che có mở.
Thư pháp có các kiểu chữ: chân, hành, thảo, lệ, triện. Võ thuật có đao, thương, kiếm, côn, quyền. Tập võ và viết chữ đều chú trọng đến tác dụng của cổ tay. Tập võ mà bả vai chẳng lỏng thì lực không thể thấu đến khuỷu tay, khuỷu tay không xuôi thì lực không thể đạt tới ngón tay. Kình lực có phát ra được đầu ngón tay mới mong tới được thân hình kẻ địch. Cầm bút viết chữ phải chú trọng đến cổ tay, nâng khuỷu tay, có thế ngón tay mới có thể linh hoạt được nét bút trơn tròn tự nhiên, nặng nhẹ, nhanh chậm, tâm ứng ở tay. Trước khi viết chữ phải ngưng thần tĩnh ý, trầm khí xuống đang điền. Khi viết thì ý ở trước bút, nét ở trong lòng, một nét là thành khí mạch liền nhau.
Trong võ thuật trước khi xuất quyền thì cũng phải có khí trầm đan điền. Tĩnh tâm dùng ý, ý dẫn khí, khí dẫn lực, ý đến đâu kình lực đến đó, đường quyền liên miên bất tuyệt như gió thổi hoa bay, như hạc trắng vẫy cánh, như bươm bướm vờn hoa, như rồng xanh vượt biển v.v...
Tóm lại thư pháp và võ thuật đều bắt nguồn từ cuộc sống, soi rọi lẫn nhau, bổ xung cho nhau. Võ thuật giúp thư pháp tăng cường ý cảnh khí thế, ý vị tiết tấu, mỹ cảm và công lực của thư pháp. Ðồng thời thông qua thưởng thức nghiên cứu, học tập thư pháp dẫn tới sự liên tưởng phong phú giúp nâng cao ý sáng tạo trong diễn luyện kỹ xảo và nghệ thuật biểu diễn bài bản của võ thuật.
6. Võ thuật và binh pháp:
Trong quá trình phát triển của võ thuật, từ các đòn thế cơ bản để tự vệ đấu tranh sinh tồn của con người như chụp, vồ, quăng, quật, tóm, bắt, phát triển dần thành các kỹ thuật đơn đấu, đa đấu rồi hổn đấu. Từ cách dùng kỹ thuật cá nhân để tranh thắng dẫn đến nhu cầu dùng chiến thuật chiến lược trong chiến tranh giữa các bộ lạc, thị tộc, vương quốc đã dẫn đến sự ra đời của binh pháp.
Các cuốn binh pháp nổi tiếng còn lưu truyền đến ngày nay như Tôn Ngô Binh Pháp, Khương Thái Công Binh Pháp, Gia Cát Binh Pháp (Trung Quốc), Ngũ Ðại Kỳ Thư (Nhật), Binh Thư Yếu Lược,Vạn Kiếp Tông Bí Truyền Thư, Hổ Trướng Khu Cơ (Việt Nam). Trong đó cuốn binh pháp của Tôn Tử từ trong kinh nghiệm của chiến tranh đã tổng kết ra được những nguyên tắc chỉ đạo tác chiến có giá trị được các nhà võ thuật xưa nay xử dụng để phục vụ lại cho võ thuật như: "Tiên phát chế nhân", "Dương đông kích tây", "Ðả thảo kinh xà", "Dĩ tĩnh chế động", "Ðiệu hổ ly sơn", v.v...
Giả sử trong giao đấu võ thuật nếu đối phương đã biết ta quen dùng cước pháp tất sẽ ph*ng thủ trọng điểm vào đó. Khi bắt đầu giao đấu ta nên dùng chân tấn công liền liền để địch thủ càng tin chắc ta chỉ biết dùng đòn chân mà sơ hở ph*ng thủ phần thân trên của ta, lúc đó ta dùng đòn chân để tung hư chiêu rồi bất thình lình áp sát ra đòn tay liên hoàn để triệt hạ, đây là chiêu "Dương đông kích tây". Ðối với ph*ng thủ cũng vậy phải giả vờ làm theo ý đối phương để lộ sơ hở cho địch thủ tấn công, lợi dụng chiêu "muốn bắt phải thả" (Dục cầm cố tung), tranh thủ trong bảo vệ làm cho họ bất lợi hoặc sai lầm khi tấn công, như giả bộ hở vai lưng cho địch áp sát tấn công, lúc đó ta tung ra các đòn chỏ lật, chém ngược hay đá lái để triệt hạ. Tôn tử đã bảo "Binh giả, ngụy đạo giả" Việc Binh không ngại lừa dối đó là theo đạo lý trên vậy.
7. Võ Thuật và thẩm mỹ học cùng các ngành nghệ thuật:
Trong mỹ học có hình thức đẹp, ý cảnh đẹp, sức sống đẹp, trong vận động võ thuật cũng kiêm luôn 3 thứ đó. Các nhà võ thuật sáng tạo ra các loại quyền pháp lấy tiến thoái, công ph*ng, động tĩnh, nhanh chậm, cứng mềm, hư thực biến hoá lẫn nhau kết cấu nội dung dựa theo quy luật vẽ đẹp của tạo hình, ngoại hình của sự vật. Võ thuật chính là thiên nặng về tâm linh "tự ta cảm nhiễm" để thể hiện ý cảnh đẹp. Như trong sự biến hoá giữa "cao" và "thấp". "Cao" tựa rồng cuốn gió lốc xông thẳng lên trời mây, còn "thấp" thì như chim ưng mạnh bổ nhào xuống đất. Trong biến hoá "nhanh chậm", "nhanh" thì như sóng biển ào ạt gầm gừ không dứt khiến người ta phấn chấn tinh thần, còn "chậm" thì lại như mưa phùn gió hây hây thổi, ý vấn vít triền miên, tựa dòng nước manh mảnh ri như vẻ của thiên nhiên. Vẻ đẹp cuộc sống trong vận động võ thuật là vẻ đẹp thực sự chân thực. Võ thuật vốn có cơ sở từ cuộc sống, các động tác thường ngụ ý từ trong cuộc sống thường ngày được thi ca hóa thành những bài thiệu (ca quyết) để diễn tả động tác võ thuật như:
" Lão mai độc thọ nhứt chi vinh
Lưỡng túc kinh kinh tấn bộ hoành"
Lão Mai Quyền
"Ngọc trản ngân đài, tả hữu tấn khai
Thập tự liên ba, đả sát túc"
Ngọc Trản Quyền
"Long môn ngư vượt thủy
Hổ khẩu viên thượng phi"
Long Hổ quyền
Chính từ những hình thái đẹp đẽ từ trong các chiêu thức của võ thuật đã tạo cảm hứng cho các nhà nghệ thuật như hội họa, điêu khắc sáng tạo ra những tác phẩm đẹp truyền đời. Các bức tranh về các thế võ được vẽ trên vách chùa Thiếu Lâm, những hình khắc trên vách núi Hoa Sơn (Trung Quốc), hay các tranh vẽ các thế vật trong tranh Ðông Hồ, hoặc những hình chạm khắc trên vách ở các đình chùa, hình những dũng sĩ múa khiên đúc trên trống đồng Ngọc Lũ (Việt Nam) đều là những tác phẩm nghệ thuật để đời cho nhân loại
Cũng không thể bỏ qua ảnh hưởng của võ thuật trong các tuồng kịch nghệ hay sân khấu điện ảnh. Ở Trung Quốc có Kinh kịch (Bắc kinh), Việt kịch (Quảng đông), Dự kịch (Hà nam), Xuyên kịch (Tứ xuyên). Ở Việt Nam thì có Chèo (miền Bắc), Hát bộ (miền Trung), Cải lương (miền Nam). Tất cả các loại tuồng kịch đều lấy động tác võ thuật như múa kiếm, côn, đao thương, nhào lộn để diễn tuồng. Các loại nghệ thuật tuồng đều mượn võ thuật để diễn tả lại các nội dung của lịch sử, cổ xúy trừ gian dẹp loạn, trung quân ái quốc, đề cao nhân nghĩa.
Bước vào thế kỷ 21 nghệ thuật tuồng lần lần phải nhường bước cho nghệ thuật điện ảnh, trong đó các bộ phim hành động võ thuật rất là ăn khách, nội dung của các phim này cũng không ngoài bảo vệ kẻ yếu, nêu cao chính nghĩa, đem lại công bằng cho xã hội. Các bộ phim võ thuật hành động tiêu biểu như Rush Hour, Enter the Dragon, CrouchingTiger Hidden Dragon, Iron Monkey ,The last Samurai v.v...
Tài liệu tham khảo:
- Võ thuật Thần Kỳ - nxb Hà nội
- Sổ Tay Võ Thuật, cuốn 27, 30 và 31 - nxb Sàigòn
- Việt Võ Ðạo, Bàn Tay Thép và Trái Tim Từ Ái - nxb Thể Dục Thể Thao
- Căn bản Tae Kwon Do WTF – nxb Thể Dục Thể Thao
- Võ Thuật Cổ truyền Bình Ðịnh – nxb Ðồng Tháp
- Võ thuật Bình Định phái An Thái – nxb Long An
- Tôn Ngô binh pháp – nxb Thanh Hoá
- Miyamoto Musashi, The book of five rings – Bantam Wisdom Editions
- Journal of Asian Martial Art, volume 10 - Via Media Publishing Co
- The Zen way to the Martial Arts - Taisen Deshimaru - An Arkana book philosophy
(St)
http://truongton.net/forum/archive/i.../t-289338.html
Ván Cờ Sinh Tử
Chỉ cần có hai điều, Ka-jo-ju con hỡi ! Ấy là sự tập trung tâm ý hoàn toàn và lòng từ bi . Hai yếu tố quan trọng của Đạo Giác ngộ . Thế mà hôm nay con học được cả hai . Con đã tập trung tâm ý có hiệu quả vào ván cờ . Sau đó vì lòng từ bi mà con nguyện hi sinh mạng sống cua mình . Thôi, hãy ở lại đây, áp dụng kỷ luật của chúng ta trong tinh thần đó . Giải thoát sẽ là kết quá đương nhiên như mũi tên đến tiêu điểm theo đường nhắm trúng .
Lời vào truyện:
Có bao giờ chúng ta nghe từ miệng một vị thiền sư dạy Đạo cho môn sinh như thế này chưa:
- Này chư tử! Thưở còn trai trẻ, làm kiếm khách Áo Trắng, ta ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém. Hàng tục sĩ gọi ta là Kiếm vương.
Này chư tử! Thưở còn trai trẻ, làm giang hồ kì thủ, ta ít khi chơi cờ. Khi đã chơi, một quân cờ đặt xuống - trọng lượng như một quả núi - sẽ kết thành định mệnh. Định mệnh không lập lại hai lần. Dòng sông đã chảy, vậy thì những quân cờ kế tục đi đến chung quyết. Không do dự. Không ngập ngừng. Người đời gọi ta là kì vương.
Này chư tử! Kiếm vương ta cũng bỏ, kỳ thủ ta cung lìa, khoác tay nải, dép cỏ, nón mê lang thang học Đạo. Ba mươi năm chí thú tinh cần mới thấy được cửa vào. Mười năm lên núi sâu thiền tu, tịch mặc. Sở chướng đã trừ. Mê lầm đã tuyệt. Núi cũng là núi. Sông cũng là sông thôi. Kiếm vương kia thành Kiếm đạo. Kỳ vương kia thành Kỳ đạo. Tại sao như thế?
Này chư tử! Nay ta có mấy lời tâm huyết, như dao chạm đá, như kiếm xuyên mây. Hãy nghe mà lập tâm lập hạnh. Đốt cháy kiến hoặc, dội tắt nghi tình, vào chốn ngũ trần mà thong dong tự tại.
Hãy nghe đây! Phàm người tu Phật, một niệm phóng đi, tác thành nghiệp báo . Vậy hãy như tay Kiếm vương kia, chớ khinh suất mà ra chiêu, đừng cho ý tưởng tự do khởi động. Khi ngưng tụ sinh lực. Lúc buông lúc xả nghỉ ngơi. Hãy xuất niệm như xuất kiếm. Đã xuất là phải đạt .
Này chư tử! Phàm người tu Phật, phải tinh luyện tư duy, khổ hạnh tư duy. Một tư duy đặt trên đối tượng. Một tư duy dẫn dắt hành động. Phải như tên kỳ thủ kia, một quân cờ đặt xuống, trọng lượng một quả núi . Dòng sông không chảy hai lần . Đừng do dự . Đừng ngập ngừng . Quân cờ đặt xuống là tác thành định mệnh, tác thành nhân quả, nghiệp báo .
Này chư tử! Hãy xuất cờ ! Hãy xuất niệm! Hãy xuất kiếm! Bước tới ! Không ngoảnh đầu! Không có sinh tử giữa dòng chảy trôi liên lỉ! Không có sau trước giữa vòng tròn vô thỉ, vô chung!
Bài giảng kia đã từ một tu viện thâm u trên núi cao, đâm xuyên qua mấy đỉnh mây mù, băng tuyết, rơi xuống, cắm vào giữa lòng các đô thị . Người ta tỉnh giấc, bàng hoàng . Ngàn năm Phật giáo kinh điển, từ chương, thụ động, tiêu cực, đắm say bùa chú, hương khói vật vờ; chợt đứng dậy, vươn cao, nắm định mệnh mình bước đi như thớt voi lâm trận, hùng dũng hô to, cánh sát cánh, vai sát vai ... ánh lửa Trí Tuệ bùng lên, thổi sinh khí, đem lại Cái Đẹp, Sức Mạnh và Tự Do Tối Thượng cho con người .
Phật giáo thời Khâm minh Thiên Hoàng, đến đây, hậu bán thế kỷ XV, sống lại, mang cơ thể, mới tinh thần mới, dẫn Nhật bản đi vào thời đại phú cường . Công lao ấy có ai ngờ rằng khởi từ Trí Tuệ của một người : thiền sư Dai-so-kim! Ngài tịch năm 1491, nơi một am thất nhỏ ở Keti phía nam Tây hải đảo .
Truyện ngắn sau đây thuật lại một trường hợp dạy Đạo của Người .
Thanh niên Ka-jo-ju sau khi thất vọng về đường công danh, tình yêu, sự nghiệp bèn tìm đến một tu viện trên non cao và thưa với Tu viện trưởng:
- Thưa ngài! Con đã thấy rõ bộ mặt thật của đời nên mong muốn giải thoát khỏi những đau khổ . Thế nhưng, con không có khả năng hành trì một thứ gì lâu dài . Không bao giờ con có thể sống nhiều năm trong một thiền định, học tập, giới luật hay cái gì nghiêm túc tương tự như vây. Con sẽ thối chí và rơi trở vào cuộc đời, dẫu biết rằng mình không còn chịu đựng được . Quyên sinh là biện pháp hay nhất, có lẽ . Thưa ngài! Vậy thì còn con đường nào ngắn nhất, dễ dàng nhất dành cho những kẻ như con hay không?
- Có chứ!
Tu viện trưởng một thoáng lạ lùng nhìn người thanh niên rồi trả lời:
- Nếu con trung thực! Nhưng hãy cho ta biết là con đã học những thứ gì ? Sở trí ra sao? Có thể có những khả năng như thế nào ? Thảng hoặc, con thường hay tập trung tâm ý nhiều nhất vào chuyện gì ?
Ka-jo-ju có vẻ nghĩ ngợi, sau đó, y thở dài thườn thượt :
- Ôi! Thực sự thì không có thứ gì! Con chưa nghĩ là mình phải nên như thế này hoặc nên như thế nọ! Vả chăng, mục đích của sự học cũng chỉ đưa đến hư vô và phù phiếm ! Công danh, sự nghiệp giữa cuộc đời này cũng chỉ là giấc mộng đầu hôm . Hiện giờ gia đình con lại khá giả nên con không cần phải làm việc . Riêng về sở thích thì ... tuyệt, con thích đánh cờ nhất! Cả đời, dường như tâm trí con chỉ tập trung vào đó thôi . Trong vài cuộc tranh giải gồm những kỳ thủ già dặn bốn phương , thỉnh thoảng con cũng giật được một phần thưởng ưu hạng .
- Rất tốt!
Tu viện trưởng gật đầu:
- Chưa đếng nỗi phải bỏ đi . Nhưng mà điều này mới thật là quan trọng, con có niềm tin nào nơi ta không chứ ?
- Con đã chọn lựa .
- Thế nào ?
- Ngài là Kiếm vương!
Thanh niên Ka-jo-ju chợt nói lớn:
- Lại là Kỳ vương nữa . Ngài đã dùng sức mạnh của đạo đức và trí tuệ để thu phục nơi tu viện này những con ngựa hung hăng nhất, những tay giang hồ kiêu ngạo và bạc hãnh nhất . Khong cần phải nói rằng người ta tính phục ngài như thế nào, ngài Tu viện trưởng ạ!
- Hỡi con, này Ka-jo-ju! Ta muốn hiểu cường độ tín phục ấy ở riêng nơi con thôi.
Nghe gọi đúng tên mình, Ka-jo-ju rúng động cả châu thân. Bất giác, thanh niên đưa mắt nhìn Tu viện trưởng, và y cảm thấy một sức thu hút kỳ lạ không cưỡng được .
Ka-jo-ju gật:
- Tín phục . Con hoàn toàn tín phục .
Tu viện trưởng chậm rãi quay qua bảo thị giả:
- Vậy hãy cho gọi tu sĩ Mu-ju đến đây cùng với bàn cờ của y.
Người được gọi là một tu sĩ trẻ, rất trẻ, vóc người tầm thước, dáng dấp nho nhã, khuôn mặt sáng rỡ, tròn trặn đầy phúc hậu .
-Mu-ju con!
-Bạch thầy, con nghe.
-Bao nhiêu năm con theo thầy học đạo . Con mời cơm, ta ăn . Ta gọi, con dạ . Ta giẫy cỏ , con cuốc đất ... Tình thầy trò giữa chúng ta thật không có gì đáng phải phàn nàn cả chứ ?
- Dạ, quả thế thật .
- Ta còn muốn hỏi rõ hơn nữa . Từ trước đến nay, con khong hề mảy may nghi ngờ gì nơi ta đấy chứ ?
- Phải nói ngược lại, bạch thầy - giọng tu sĩ trẻ chợt như viên đá nặng ngàn cân- phải nói là con tuân phục thầy một cách tuyệt đối .
- Rất tốt! Vậy này Mu-ju! Ngây bay giờ ta yêu cầu con sự tuân phục "Kim cương bất hoại" đó .
- Xin vâng.
Tu viện trưởng - chính là thiền sư Dai-so-kim- chợt đứng dậy, bước tới bức tường phía đông. Ở đó có treo 1 thanh kiếm cổ, vỏ nạm bạc khảm xà cừ, nhưng tuế nguyệt đã phủ lên đấy 1 lớp bụi đục . Gần nửa thế kỉ nay, ngài không đụng đến thanh kiếm ấy . Cái thời Kiếm vương trai tráng oanh liệt dường như mới hôm qua đây thôi. Ngài thò tay. Một tiếng động khẽ vang lên. Kiếm đã ra khỏi vỏ . Mũi kiếm sắc lạnh ngời ánh thép xanh biếc .
Thiền sư Dai-so-kim quay lại, đứng thẳng như một cõi tùng gân guốc .
- Này Mu-ju ! Ngài nói chậm rãi - Con hãy chơi cờ với chàng thanh niên này . Và nghe đây ! Nếu con thua, ta sẽ chém đầu con. Nhưng ta hứa là con sẽ được tái sanh vào một cõi lạc phúc . Nếu con thắng, ta sẽ chém đầu chàng thanh niên . Suốt đời anh ta mê mải ham thích trò chơi đó, nếu để thua thì chém đầu y chẳng oan tí nào .
Hai người lạnh toát sống lưng nhìn Tu viện trưởng, và trong thoáng giây đó, họ hiểu rằng ngài nói thật .
Thanh niên Ka-jo-ju đứng trân, bất động, loáng thoáng theo hơi gió buốt lạnh câu nói xa xưa của Kiếm vương: "Ta ít khi rút kiếm ra khỏi bao, rút ra là phải chém!" Bất giác, thanh niên đưa tay sờ lên cổ mình, mồ hôi lấm tấm, gai lạnh. Tu sĩ Mu-ju chỉ thoáng một giây sợ hãi như tí gợn trên mặt hồ rồi mất . Trọn đời bằng vào đức tin tuyệt đối nơi đức Thầy, nên việc giao phó định mệnh không phải là điều đáng suy nghĩ lâu .
Giữa thiền đường, lư trầm nghi ngút. Cơn gió lạnh lẽo lùa qua liếp cửa . Thiền sư Dai-so-kim ngồi xuống sau làn khói lung linh mờ ảo, tay nắm chặt đốc kiếm trịnh trọng với phong độ của một bậc tôn sư. Không khí đọng lại, trang nghiêm và tĩnh mịch đến ghê người .
Cả hai hoàn toàn bị khiếp phục .
Họ bắt đầu bước vào ván cờ sinh tử .
Ván cờ không còn là trò chơi nữa . Là cái gì nghiêm trọng nhất trên đời này . Ván cờ chính là cuộc đời . Ván cờ chính là sinh tử . Và cả hai hoàn toàn tập trung tâm ý vào đó không một mảy may dám xao lãng .
Chỉ vài nước khởi đầu, thanh niên đã sớm hiểu mình đang đối đương với một địch thủ kỳ tài và già dặn . Tu sĩ trẻ lại un đúc trầm tĩnh của thiền môn. Đó là những yếu tố đáng ngại . Mồ hôi từ trán chàng thanh niên chảy dài xuống ngực . Tu sĩ Mu-ju đã chiếm ưu thế mất rồi . Và như là một lão ngựa tự tin, sung sức - chỉ cần sải từng bước đều đặn giữ khoảng cách đầu ngựa .
Chiến thắng chỉ còn là thời gian .
Ka-jo-ju quên ngoại cảnh, quên bản thân, quên cả việc sống chết . Ngay giây phút này - tình yêu, công danh, sự nghiệp, ưu hận - là những đám mây đen bị xua tan một cách nhanh chóng . Tâm trí Ka-jo-ju hoàn toàn chú mục vào cái đam mê duy nhất của đời mình . Phong độ, sinh lực, thiện xảo, sự thông minh dễ dàng trở lại với chàng . Thế là Ka-jo-ju khôn khéo gỡ từng thế một . Tuy nhiên, tu sĩ Mu-ju vẫn tranh tiên. Rất chậm , vững chãi, từng bước vây hãm thành trì, không một sơ hở tối thiểu để cho chàng thanh niên lập lại thế quân bình .
Đột nhiên, thanh niên Ka-jo-ju bỏ thủ, bỏ cả thành trì, huy sinh quân mã, tung những đòn chớp giật . Lớp chết, lớp khác xông lên với khí thế quyết tử . Lấy công làm thủ là chiến thuật bình thường, nhưng sự hi sinh quá đột ngột, liều lĩnh và táo bạo như vậy thì quả là Mu-ju mới thấy lần đầu . Đến lượt tu sĩ trẻ toát mồ hôi, từng giọt, từng giọt rỏ xuống bàn cờ . Ka-jo-ju chỉ chờ có thế . Chỉ cần một thoáng bối rối lưỡng lự của đối thủ là y chém đông chém tây những thế táo bạo - nhưng chỉ là hư chiêu - rồi rút về an toàn, bình chân như vại .
- Đệ tử vây Ngụy, cứu Triệu, hao tổn tâm cơ là chỉ mong cái thế bảo toàn - Ka-jo-ju thở phào nói - Thật ra , nếu đệ tử không thất vọng tình đời thì không đi những thế tuyệt mạng như vậy . Vì từ bi, vì trung hậu và chơn chất mà tiểu sư phụ mất thế thượng phong. Hiện giờ tiểu sư phụ dẫu hơn quan nhưng chuyện thắng bại khó biết phần ai.
Lợi dụng khi quân mã tu sĩ đang tản mạn đó đây, thanh niên kéo đôi pháo giăng về giữ trung quân. Binh lính và ngựa ngăn ở ven sông. Một xa chợt đông, chợt tây, chợt tấn, chợt thoái xông xáo giữa chốn thiên binh vạn mã .
Tu sĩ trẻ bắt đầu thấy mình yếu thế . Tự tin một thoáng lay động là phía tả tiền bị viên hổ tướng của địch phá vỡ . Lão ngựa già của đối phương đươc hai chốt hộ vệ chặt chẽ, hờm sẵn đã lâu, bây giờ hung hăng nhảy đến thí mạng . Thế là đôi pháo bất khuất kiên cường của tu sĩ bị loại khỏi vòng chiến .
Mu-ju đã rơi vào thế thủ . Thỉnh thoảng vẫn đánh trả những đòn đầy trầm tĩnh và nội lực nhưng thanh niên vẫn đón đỡ dễ dàng . Vào phút bất ngờ nhất, thanh niên Ka-jo-ju tung quân dự bị . Hai pháo giữ nhà đồng loạt vọt qua sông, tung đòn tối hậu .
Tu sĩ đã nguy cơ thập tử nhất sinh.
Thanh niên len lén đưa mắt nhìn vị sư . Đấy là một khuôn mặt trong sáng đầy trí tuệ do bao năm tinh cần giới luật . Ôi! Một dung dấp thật đẹp ở trong một tinh thần cao khiết . Thanh niên nghĩ . Vị tu sĩ này từ hoà và đôn hậu hết mực, mang linh hồn trong sáng như viên ngọc không tì vết nhiễm . Ôi! Đâu có có hắc ám, bụi bặm, hiếu chiến, táo tợn và đa sát cuộc đời như ta ? Ôi! Một nhân cách như vậy mà bị kết liễu cuộc đời thật uổng lắm thay! Ta là gì ? Một kẻ du thủ du thực, vô tích sự, ăn bám mẹ cha va xã hội; nếp sống dơ dáy, hư hỏng, nội tâm đầy rẫy những ham muốn bất chánh và hèn hạ . Giá trị đời ta chỉ có thế thôi . Rơm rác còn có ích hơn ta.
Thanh niên nhè nhẹ thở dài . Và lòng từ bi khởi lên dịu dàng xâm chiếm lòng chàng . Ôi! Cuộc đời vô giá trị của ta nên hi sinh cho cuộc đời có giá trị .
Nghĩ thế xong, thanh niên khôn khéo tạo những sơ hở kín đáo, chỉ những kì thủ trứ danh mới biết được . Một thế, hai thế . Vậy là quá đủ cho tu sĩ lấy lại thế quân bình rồi chiếm luôn ưu thế tấn công .
Thanh niên Ka-jo-hu biết mình sẽ thua, lát nữa thôi, nhưng chàng không đổ mồ hôi, không lạnh lưng, không lạnh gáy . Một an tĩnh mênh mông, thân thiết vây phủ tâm hồn chàng . Chưa bao giờ mà chàng chời đợi cái thua - nghĩa là chờ đợi cái chết - một cách dịu dàng, trong sáng, bình lặng và thanh khiết như vậy .
Tu sĩ trẻ ngần ngại . Ngón tay vừa thò xuống quân cờ định mệnh, vội rút lui. Cũng vì lòng từ bi mà tu sĩ không nỡ hạ thủ .
Bàn cờ bất động giữa hai người .
Đối với những tay cờ ưu hạng, không có thế cuối cùng, Ka-jo-ju hiểu vậy, và vì đã nguyện hi sinh, bèn thò tay xuống ...
Bỗng một làn khí lạnh lướt qua. Tu sĩ Mu-ju thoáng thấy thiền sư Dai-so-kim đứng dậy chập chờn sau làn khói hương. Và một tia chớp phủ chụp xuống đầu chàng thanh niên . Tu sĩ nhắm mắt lại, khẽ tuyên Phật hiệu ...
Thiền đường lặng ngắt như tờ . Tu sĩ trẻ định thần mở mắt ra . Mắt y chợt tròn vo, kinh ngạc . Cái đầu với tóc tai rối bù của chàng thanh niên đã bị cạo nhẵn thín . Và giọng thiền sư Dai-so-kim trầm ấm, mồn một bên tai:
- Chỉ cần có hai điều, Ka-jo-ju con hỡi ! Ấy là sự tập trung tâm ý hoàn toàn và lòng từ bi . Hai yếu tố quan trọng của Đạo Giác ngộ . Thế mà hôm nay con học được cả hai . Con đã tập trung tâm ý có hiệu quả vào ván cờ . Sau đó vì lòng từ bi mà con nguyện hi sinh mạng sống cua mình . Thôi, hãy ở lại đây, áp dụng kỷ luật của chúng ta trong tinh thần đó . Giải thoát sẽ là kết quá đương nhiên như mũi tên đến tiêu điểm theo đường nhắm trúng .
Thanh niên Ka-jo-ju đưa tay sờ lên đầu mình, chàng mỉm cười .
Minh Đức - Trều Tâm Ảnh
Truyện vể một cao thủ
Nakajima Atsushi – Đại cao thủ
Tác giả: Nguyễn Đình Đăng
Nguyễn Đình Đăng dịch[1]
Lời giới thiệu: Những bức tranh trắng (1951) của Robert Rauschenberg và tác phẩm 4’33’’ (1952) của John Cage được bàn luận trên talawas blog vừa qua khiến người dịch (N.D.) nhớ lại truyện ngắn “Đại cao thủ” (1942) của nhà văn Nhật Bản Nakajima Atsushi. Xin trân trọng giới thiệu bản dịch truyện ngắn này từ nguyên tác tiếng Nhật.
N.D.
______________________
Thành Hàm Đan kinh đô nước Triệu có một người đàn ông tên là Kỷ Xương[2] nuôi chí trở thành tay cung đệ nhất thiên hạ. Trong khi tìm thầy, chàng được biết rằng, về ngạch cung tên hiện nay, không ai sánh được với danh thủ Phi Vệ[3]. Nghe đồn cao thủ này có thể bắn bách phát bách trúng[4] một cái lá liễu cách xa một trăm bước. Kỷ Xương lên đường tới yết kiến Phi Vệ, xin làm học trò của ông ta.
Phi Vệ bảo môn sinh mới của mình rằng trước tiên phải học làm sao không chớp mắt. Kỷ Xương quay về nhà, chui xuống nằm ngửa dưới khung cửi của vợ, mắt dán sát vào cái bàn đạp liên tục nâng lên hạ xuống[5], cố tập không chớp. Vợ chàng không hiểu nguyên do, rất đỗi ngạc nhiên. Nàng bối rối khi thấy chồng nhìn mình trừng trừng từ một góc độ kỳ cục như vậy. Nhưng Kỷ Xương mắng vợ, bắt nàng tiếp tục dệt. Ngày này qua ngày khác, Kỷ Xương cứ nằm trong cái tư thế kỳ quái đó, tập không chớp mắt. Sau hai năm, mặc cho cái bàn đạp chuyển động sát sạt, cạo đứt cả lông mi[6], Kỷ Xương đã luyện được nhìn mà không hề chớp mắt. Cuối cùng chàng bò ra khỏi khung cửi. Từ đó, ngay cả nếu bị dùi nhọn chọc vào mí mắt[7], chàng cũng không chớp mắt nữa. Chàng cũng không chớp mắt khi có tia lửa bất ngờ loé vào mắt. Cả một đám tro thình lình bốc lên ngay trước mắt cũng không làm chàng chớp mắt. Cứ như thể cơ mí mắt của chàng đã quên mất phải chớp như thế nào[8]. Ban đêm, thậm chí khi Kỷ Xương ngủ say như chết, mắt chàng vẫn mở trừng trừng. Cuối cùng, khi một con nhện nhỏ chăng tơ giữa hai hàng lông mi mắt của chàng, chàng cảm thấy tự tin hoàn toàn để thông báo với Phi Vệ sư phụ.
Sau khi nghe, Phi Vệ nói: “Chỉ biết không chớp mắt thôi thì chưa đủ. Tiếp theo là phải học nhìn. Khi nào con học được cách nhìn chăm chú sao cho các vật bé nhỏ thấy như vĩ đại, các vật li ti trở thành rõ mồn một, thì hãy lại đến gặp ta.” Kỷ Xương lại quay về nhà, bắt được trong đường chỉ khâu áo lót một con chấy[9], buộc nó vào một sợi tóc, đem treo dưới cửa sổ hướng nam, rồi nhìn nó suốt ngày. Chàng nhìn con chấy treo dưới cửa sổ ngày này qua ngày khác. Lúc đầu, tất nhiên đó chỉ là con chấy. Hai ba ngày sau, nó vẫn là con chấy. Tuy nhiên sau mười ngày, con chấy có vẻ như to ra. Hết tháng thứ ba thì rõ ràng nó trông to như con tằm. Thời gian trôi qua, phong cảnh ngoài cửa sổ treo con chấy cũng thay đổi. Ánh mặt trời dịu dàng của mùa xuân đổi thành nắng hè oi bức, bầu trời mùa thu trong trẻo đầy ngỗng trắng bay trên cao chuyển sang vòm trời mùa đông màu tro u ám, lốm đốm tuyết ướt[10]. Kỷ Xương vẫn kiên nhẫn nhìn con động vật chân đốt treo dưới cửa sổ. Con chấy này chết, chàng thay bằng con khác, cứ thế hàng chục con. Thấm thoắt ba năm trôi qua. Cho đến một hôm chàng bỗng nhận ra rằng con chấy treo dưới cửa sổ trông đã to bằng con ngựa. Xong rồi! Chàng sung sướng vỗ đầu gối, chạy ra ngoài đường. Chàng không tin vào mắt mình nữa: người trông cao lớn như toà tháp, ngựa to tựa trái núi, lợn bằng quả đồi, gà qué bằng cái chòi canh. Chàng nhảy cẫng lên, chạy lộn vào nhà, tới trước con chấy treo dưới cửa sổ, lắp một mũi tên làm bằng cọng cỏ sóc bồng[11] vào một cây cung bằng sừng[12], nhằm con chấy và bắn. Lạ kỳ thay, mũi tên xuyên trúng tim[13] con chấy mà không làm đứt sợi tóc.
Kỷ Xương ngay lập tức đến gặp sư phụ để báo tin. Phi Vệ đấm ngực, nhảy lên khen: “Thế là con đã làm được rồi!” Ngay sau đó, Phi Vệ bắt đầu dẫn dắt Kỷ Xương khám phá mọi bí mật của nghệ thuật nghề bắn cung. Kỷ Xương, đã trải qua năm năm rèn luyện cơ bản về nhìn, tiến bộ nhanh chóng kỳ lạ. Sau mười ngày, chàng đã có thể bắn bách phát bách trúng một cái lá liễu từ khoảng cách một trăm bước. Sau hai mươi ngày, chàng đặt một li nước đầy đến mép lên khuỷu tay phải, giương cung, bắn trúng đích mà nước trong li không nhểu ra ngoài một giọt. Sau một tháng, chàng thử bắn thật nhanh một trăm mũi tên. Mũi tên thứ nhất vừa cắm vào đích, mũi tên thứ hai đã bay tới cắm vào đuôi mũi tên thứ nhất. Ngay lập tức mũi tên thứ ba cắm vào đuôi mũi thứ hai, và cứ thế liên tục. Không mũi tên nào rơi xuống đất, vì mũi tên nào cũng cắm trúng đuôi mũi tên trước nó. Khi chàng bắn xong phát cuối cùng, một trăm mũi tên nối đuôi nhau như một chiếc tên duy nhất dài từ đích tới chiếc cung, và đuôi của mũi tên cuối cùng trông như còn đang mắc vào dây cung. Sư phụ Phi Vệ, đứng nhìn bên cạnh, thốt lên: “Được!”
Hai tháng sau, Kỷ Xương tình cờ về thăm nhà, và cãi lộn với vợ. Để dọa vợ, chàng giương chiếc cung bằng gỗ dâu[14] nhằm vào mắt nàng, bắn một mũi tên bằng trúc[15]. Mũi tên bay lướt sát mắt, cắt đứt ba sợi lông mi, song vợ chàng không hay biết gì, không hề chớp mắt, và vẫn tiếp tục nhiếc móc chồng. Tài nghệ và tốc độ bắn cung của chàng đã đạt tới mức tinh diệu.
Không còn gì để học từ sư phụ nữa, Kỷ Xương đột nhiên le lói có tư tưởng xấu. Suy đi tính lại, chàng thấy giờ đây về môn bắn cung chàng không còn địch thủ nào khác ngoài chính Phi Vệ sư phụ. Để trở thành cao thủ đệ nhất thiên hạ chàng phải tìm cách loại Phi Vệ. Thế là chàng bắt đầu bí mật tìm cơ hội. Cho đến một hôm, trong khi đang đi dạo ngoài đồng, bất chợt chàng thấy Phi Vệ một mình từ xa tiến lại. Sau một thoáng quyết định, Kỷ Xương rút tên, lắp vào cung, nhằm vào sư phụ. Phi Vệ, đoán được ác ý của học trò, cũng ngay lập tức lắp tên, giương cung nhằm vào Kỷ Xương. Cả hai thày trò cùng bắn một lúc. Hai mũi tên đâm vào nhau ở giữa đường, rơi xuống đất mà không có tí bụi nào bay lên. Tài nghệ của cả hai đều đạt tới mức siêu phàm. Họ cứ bắn nhau như thế liên tiếp hết phát này đến phát khác cho đến lúc Phi Vệ hết tên, Kỷ Xương vẫn còn một mũi. Lợi dụng dịp may, Kỷ Xương bắn ngay phát tên cuối cùng. Nhanh như chớp, Phi Vệ nhổ một cành hồng dại bên vệ đường, bắn rụng mũi tên xuống đất[16]. Hy vọng thực hiện mưu đồ đen tối của mình đã tiêu tan, Kỷ Xương bỗng dưng thấy lòng tràn đầy hối hận. Về phía mình, Phi Vệ thở phào vì đã thoát khỏi hiểm nghèo, đồng thời thấy thoả mãn về tài nghệ của chính mình đến quên cả tức giận. Cả hai thày trò lao vào ôm chầm lấy nhau giữa cánh đồng và cùng rơi lệ (Chuyện này xem ra có vẻ kỳ cục theo đạo đức ngày nay. Khi Tề Hoàn Công muốn thưởng thức món mỹ vị mà chưa ai từng nếm thử, quan đầu bếp đã nướng luôn con trai mình đem dâng vua. Cậu thiếu niên 16 tuổi, Tần Thủy Hoàng Đế, ngay trong đêm vua cha mất, đã cưỡng hiếp[17] ái thiếp[18] của vua cha ba lần. Câu chuyện này cũng đã xảy ra trong thời đại như vậy.)
Mặc dù vừa ôm Kỷ Xương vừa khóc, Phi Vệ rất lo ngại học trò sẽ lại tấn công mình lần nữa. Vì thế ông ta tìm cách hướng Kỷ Xương tới một mục đích mới để phấn đấu. Ông nói với gã đệ tử nguy hiểm của mình rằng ông không còn gì để dạy cho chàng nữa. Ông còn nói nếu chàng muốn đạt tới bí mật sâu xa của cung thuật thì hãy đi về phía Tây, vượt qua vách núi Đại Hành, leo lên đỉnh ngọn Hoắc Sơn[19], nơi ẩn dật của Cam Dăng lão sư[20] – đại cao thủ cung thuật của mọi thời đại. “So với tài nghệ của lão sư, cung thuật của chúng ta chỉ là trò chơi của trẻ con,” Phi Vệ nói. “Giờ đây, ngoài Cam Dăng sư phụ ra, không ai có thể làm thầy con được nữa.”
Kỷ Xương lập tức lên đường đi về phía Tây. Lòng tự ái của chàng bị tổn thương khi thấy cung thuật của mình bị coi là “trò trẻ con”. Nếu thực sự như vậy, mục đích trở thành tay cung đệ nhất thiên hạ vẫn còn là một tương lai xa vời. Nôn nóng so tài với người đó để xem cung thuật của mình có đúng chỉ là trò trẻ con không, chàng rảo bước đi thật nhanh. Thủng giầy rách chân trèo lên các vách đá treo leo, băng qua những chiếc cầu khỉ bắc ngang hẻm núi, Kỷ Xương lên tới đỉnh núi sau một tháng.
Ra đón chàng trai hăng hái là một cụ già có đôi mắt hiền như mắt cừu, bước đi lẩy bẩy như sắp ngã. Cụ có lẽ đã ngoại trăm tuổi. Lưng cụ còng thấp khiến chòm râu bạc kéo lê trên mặt đất theo bước đi của cụ[21]. Thấy cụ có vẻ như bị điếc, Kỷ Xương vội cất cao giọng nói mục đích vì sao chàng tới đây. Nôn nóng phô diễn tài bắn cung của mình, Kỷ Xương không đợi cụ trả lời, rút ngay cây cung làm bằng gốc liễu có dây bện bằng sợi gai đang đeo trên lưng ra. Chàng lắp một chiếc tên có mũi làm bằng đá, giương cung, ngắm vào một đàn chim di trú đúng lúc đó đang bay qua trên trời cao. Chàng buông dây, một phát tên phóng lên, ngay lập tức năm con chim to từ trên trời xanh rơi xuống.
“Giỏi theo cách thông thường,” cụ già mỉm cười hiền từ nói. “Nhưng đó chẳng qua vẫn chỉ là xạ chi xạ (bắn bằng bắn)[22] thôi. Hảo hán[23] xem ra vẫn chưa biết thế nào là bất xạ chi xạ (bắn không cần bắn)[24].” Cụ già dẫn Kỷ Xương đang đầy tức tối tới một bờ vực cách đó chừng hai trăm bước. Dưới chân Kỷ Xương mở ra một quang cảnh giống y chang một bức bình phong dựng đứng cao bốn ngàn thước[25], ở xa tít bên dưới chàng thấy một con suối trông nhỏ như sợi chỉ, một độ cao khiến chàng đột nhiên hoa mày chóng mặt. Cụ già chạy lên một phiến đá chênh vênh nhô ra trên bờ vực, rồi quay lại bảo Kỷ Xương: “Nào, có giỏi thì hãy đứng trên tảng đá này trổ tài cho ta xem.” Đã quá muộn để rút lui! Khi Kỷ Xương leo lên, tảng đá lắc lư. Kỷ Xương cố giữ bình tĩnh lắp tên vào cung. Đúng lúc đó một viên sỏi lăn ra, rơi xuống vực. Nhìn theo viên sỏi rơi, Kỷ Xương nằm bò lên tảng đá lúc nào không hay. Chân chàng run bần bật, mồ hôi tuôn ra chảy tới gót chân. Cụ già cả cười, đưa tay đỡ Kỷ Xương bước khỏi tảng đá, rồi tự mình leo lên, nói: “Bây giờ hãy xem cái gọi là bắn đây này.” Vẫn chưa hết run, mặt tái nhợt, song Kỷ Xương chợt nhận ra và hỏi: “Nhưng, còn cái cung? Lão nhân không có gì trong tay cả.” “Cung à?” Cụ già cười lớn, “Bắn mà vẫn phải cần đến cung tên thì chỉ là xạ chi xạ. Còn bất xạ chi xạ là bắn nhưng không cần cả cung lẫn tên.”
Lúc đó trên trời rất cao ngay phía trên đầu họ một con diều hâu đang dang cánh lặng lẽ lượn vòng. Cụ già Cam Dăng nhìn theo con diều hâu trông nhỏ xíu chỉ bằng một hạt vừng, rồi nhanh như cắt, lắp một mũi tên tưởng tượng vào một cây cung vô hình, giương tròn như trăng rằm và buông tay, nhìn kìa, con diều hâu ngừng vỗ cánh, rơi xuống chẳng khác gì một hòn đá. Kỷ Xương kinh hoàng. Lần đầu tiên chàng được chứng kiến bí mật uyên thâm nhất của nghệ thuật bắn cung.
Kỷ Xương ở lại học lão cao thủ trong suốt chín năm trời. Không ai biết chàng đã tu nghiệp như thế nào trong quãng thời gian đó. Sau chín năm, khi chàng xuống núi trở về, mọi người thảy đều ngạc nhiên thấy vẻ mặt chàng đã biến đổi nhiều. Không còn tí bóng dáng nào của vẻ hiếu thắng hung hăng trước kia. Thay vào đó là dung mạo ngây ngô như tượng gỗ của một người ngu độn. Tuy nhiên, khi Kỷ Xương đến thăm thầy cũ, sau bao năm không gặp, thoạt nhìn thấy vẻ mặt Kỷ Xương, Phi Vệ đã cảm thán kêu lên: “Đây chính là đại cao thủ đệ nhất thiên hạ! Chúng ta sẽ không bao giờ có thể bì kịp anh ta.[26]”
Dân thành Hàm Đan nô nức chào đón cao thủ đệ nhất thiên hạ trở về. Họ chờ đợi một cuộc trình diễn tài nghệ bắn cung của chàng. Nhưng Kỷ Xương không đáp ứng nguyện vọng của họ. Ngay cái cung chàng cũng không sờ đến. Có vẻ như chàng đã quăng đi đâu mất cả chiếc cung làm bằng gốc liễu có dây bện bằng sợi gai mà khi xưa chàng từng đem theo lên núi. Khi có người tới chơi hỏi lý do, Kỷ Xương uể oải trả lời: “Tột đỉnh của hành động là không làm gi hết. Tột đỉnh của lời nói là im lặng. Tột đỉnh của bắn là không bắn.” À ra thế! Những người dân vốn rất thông thái của thành Hàm Đan hiểu ngay lập tức. Nhà đại cao thủ không cần sờ đến cây cung đã trở thành niềm tự hào của họ. Kỷ Xương càng không động đến cung tên, danh tiếng về sự vô địch của chàng lại càng được bàn tán ầm ĩ.
Nhiều lời đồn được truyền miệng từ người này sang người khác. Người ta nói rằng ban đêm, cứ đến canh ba, có ai đó luyện cung trên mái nhà Kỷ Xương, nghe rõ cả tiếng dây cung bật. Có người quả quyết đó là vị thần hộ mệnh ẩn náu trong mình nhà đại cao thủ, ban đêm thoát ra khi chàng ngủ để triệt mọi yêu ma định hãm hại chàng. Một thương nhân sống gần nhà chàng nói rằng có đêm đã thấy chàng, rõ ràng cầm cung trong tay, cưỡi mây bay trên mái nhà, đọ tài với hai bậc đại cao thủ xạ thuật đời xưa là Hậu Nghệ và Dưỡng Do Cơ. Những mũi tên ba vị này phóng ra vạch những tia sáng xanh sắc nhọn trên nền trời đêm trước khi biến mất giữa sao Sâm và sao Thiên Lang[27]. Một tên đạo tặc thú nhận có lần định lẻn vào nhà Kỷ Xương, song khi hắn vừa trèo lên bờ tường thì bỗng một luồng sát khí[28] từ trong nhà phóng ra, trúng vào giữa trán, làm hắn ta ngã lăn từ trên tường xuống đất bất tỉnh. Từ đó, bọn tâm địa gian tà đều tránh xa vùng quanh nhà Kỷ Xương, và những bầy chim di trú thông minh cũng không dám bay trên mái nhà chàng nữa.
Danh tiếng lan truyền tận mây xanh, song Kỷ Xương ngày một già đi. Tâm trí đã từ lâu không còn vương vấn tới cung tên của ông có vẻ như ngày càng nhập vào cõi thanh khô, đạm bạc, hư ảo và yên tĩnh[29]. Vẻ mặt vốn đã như tượng gỗ của ông nay lại mất cả mọi biểu hiện. Ông hầu như không cất tiếng. Cuối cùng, người ta không chắc ông còn thở hay không. Những năm cuối đời, lão cao thủ còn nói ông không phân biệt được đâu là mình đâu là người khác, không biết đâu là đúng đâu là sai[30]. Đối với ông mắt cũng như tai, tai cũng như mũi, mũi cũng như mồm.
Bốn mươi năm sau khi từ biệt Cam Dăng sư phụ xuống núi, Kỷ Xương từ giã cõi đời, lặng lẽ như một làn khói. Trong bốn mươi năm cuối cùng ấy, ông không hề nhắc tới xạ thuật, nói chi sờ đến cung tên. Lẽ dĩ nhiên, là một người viết truyện, tôi muốn ông sắm một vai quan trọng trong một sự kiện kích động nào đó để chứng minh cho tài dụng cung siêu phàm của ông. Song, tôi không muốn bóp méo các sự thật đã được ghi trong sử sách. Thực sự là người ta không biết gì về những năm cuối đời ông, ngoài câu chuyện được lưu truyền sau đây[31].
Chuyện xảy ra khoảng một hai năm trước khi ông qua đời. Một hôm, Kỷ Xương đến chơi nhà một người bạn. Tại đây ông nhìn thấy một vật, mà ông nhớ đó là một dụng cụ song không thể nhớ nổi tên và công dụng của nó. Ông bèn hỏi chủ nhà tên dụng cụ đó là gì và nó được dùng để làm gì. Cho rằng khách hỏi đùa, chủ nhà cười to, làm ra vẻ không biết. Ông lão Kỷ Xương nghiêm nghị nhắc lại câu hỏi. Song chủ nhà không hiểu ý khách, vẫn bối rối cười trừ. Khi Kỷ Xương làm nghiêm nét mặt hỏi lại lần thứ ba thì vẻ kinh ngạc bắt đầu hiện ra trên mặt chủ nhà. Ông ta nhìn trân trân vào mắt Kỷ Xương. Sau khi tin chắc rằng khách không đùa, không điên, và tai mình nghe không nhầm, chủ nhà kinh hãi lắp bắp kêu lên: “Trời đất, thưa phu tử[32] – cao thủ xạ thuật kim cổ vô song[33], ngài thật sự quên cả cái cung rồi sao? Quên cả tên gọi lẫn công dụng của nó?”
Sau đó ít lâu, tại thành Hàm Đan, hoạ sĩ giấu bút vẽ, nhạc công dứt đứt dây đàn, thợ mộc coi dùng thước[34] là một sự sỉ nhục.
Dịch xong tại Tokyo ngày 9/9/2009
Bản tiếng Việt © 2009 Nguyễn Đình Đăng
Bản tiếng Việt © 2009 talawas blog
[1] Khi được đọc truyện ngắn này lần đầu tiên qua một bản dịch tiếng Việt hơn hai chục năm về trước, N.D. tưởng đó là tác phẩm của một nhà văn Trung Hoa. Nhà văn Nhật Bản Nakajima Atsushi (中島 敦) (1909 – 1942), nổi tiếng vì cách hành văn ngắn gọn nhưng giầu hình ảnh và biểu cảm đến kỳ lạ, đã viết xong truyện ngắn này đúng vào tháng ông mất (tháng 12 năm 1942). Tên gốc tiếng Nhật của truyện là “Meijinden” (名人伝) có nghĩa là “Truyện về một cao thủ”. “Meijinden” đã được dịch ra vài thứ tiếng và được dựng phim hoạt hình nhan đề “Fu sha no sha” (Bất xạ chi xạ = Bắn không cần bắn) (1988). Hai bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp N.D. tìm thấy trên internet, tuy không sai nội dung, song một số chi tiết bị bỏ sót, cách hành văn nhiều chỗ được các dịch giả diễn tả lại, không đúng với nguyên tác tiếng Nhật. Bản dịch tiếng Việt của Dương Tường được thực hiện dựa vào hai bản tiếng Anh và tiếng Pháp nói trên. Trong bản dịch lần này, N.D. cố gắng dịch sát với bản gốc tiếng Nhật nhằm giữ được tối đa văn phong của tác giả. Một số chi tiết dịch thuật được liệt kê dưới đây để độc giả nào quan tâm có thể tiện so sánh sự giống và khác nhau giữa các bản dịch. Các từ gốc Hán được đọc theo phiên âm Hán Việt.
[2] Kỷ Xương (紀昌). Bản dịch của Dương Tường phiên âm là Ngật Trường (từ Chi Chang trong bản tiếng Pháp).
[3] Phi Vệ (飛衛). Bản dịch của Dương Tường phiên âm là Ủy Phi (từ Wei Fei trong bản tiếng Pháp).
[4] Nguyên tác: 百発百中 (Bách phát bách trúng). Bản tiếng Anh: “…hit a willow leaf without fail from a distance of a hundred paces.” Bản tiếng Pháp diễn tả lại: “… lancer à cent pas tout un carquois de flèches dans une seule feuille de saule choisie comme cible.” Un carquois de fleches là cái bao đựng tên. Dương Tườn dịch thành “…cách trăm bước, phóng cả bó tên trúng một cái lá liễu.” Tài bắn này còn được gọi là “bách bộ xuyên dương” (bắn xuyên lá liễu cách xa trăm bước).
[5] Trong phim, bàn đạp được thay bằng con thoi.
[6] Dương Tường dịch: vướng vào lông mi.
[7] Bản tiếng Anh: “…even if an irritating bit of debris got into his eye.” Bản tiếng Pháp: “…ni coup sur la paupière,…” Bản dịch của Dương Tường: “…một đòn đánh vào mi mắt,…”
[8] Bản tiếng Pháp: “Il avait exercé ses muscles oculaires à une inertie tellement parfaite que…” Bản dịch của Dương Tường: “Anh ta đã luyện cho cơ mắt bất động triệt để đến nỗi…”
[9] Bản tiếng Pháp thay bằng “un insecte minuscule au jardin”. Dương Tường dịch: “một con sâu bé tí tẹo” (tìm được ở ngoài vườn).
[10] Đoạn này tác giả tả cảnh chuyển mùa rất ngắn gọn nhưng đầy hình tượng, như các hình ảnh trong một đoạn phim vậy. Cả 3 bản dịch tiếng Anh, Pháp, và bản tiếng Việt của Dương Tường đều không truyền lại được văn phong này.
[11] Nguyên tác: 朔蓬 (sóc bồng): cỏ bồng (cỏ tranh) mọc ở phương bắc.
[12] Nguyên tác: 燕角の弧 (Yên giác cung): cái cung có cánh được ghép bằng sừng (角) và một số vật liệu khác như tre, gân, v.v. có xuất xứ từ nước Yên (燕国). Chữ 燕 ở đây là tên nước Yên – chư hầu của nhà Chu (thế kỷ 11 TCN – thế kỷ 3 TCN), chứ không phải là con chim nhạn (yến hay én) như trong bản tiếng Pháp: un arc Hirondelle. Dương Tường, dựa theo bản tiếng Pháp, phiên âm là cây nhạn cung. Bản tiếng Anh dịch là bow of Yan horn (cung sừng Yan).
[13] Bản tiếng Anh: “The arrow cut through the center of the louse,”
[14] Nguyên tác: 烏号の弓 (ô hiệu cung = cung tiếng quạ kêu). Cây dâu có cành dẻo, khi con quạ đậu lên, nhún mình định bay, cành dâu cong xuống khiến con quạ sợ hãi cất tiếng kêu. Vì thế cung làm bằng gỗ dâu còn có tên “cung tiếng quạ kêu.” Dương Tường phiên âm là ô cung, theo bản tiếng Pháp (un arc Corbeau) và tiếng Anh (a raven bow).
[15] Nguyên tác: 綦衛の矢 (tên Kỳ Vệ): một loại tên làm từ cây trúc mọc ở đất Kỳ (Trung Hoa cổ đại).
[16] Trong phim, Phi Vệ dùng răng cắn chặt lấy mũi tên của Kỷ Xương.
[17] Chỉ có bản tiếng Anh: “raped” là theo đúng nguyên tác 襲うた: tấn công, hãm hiếp (phụ nữ), trong khi bản tiếng Pháp đổi thành “faire l’amour” và Dương Tường dịch thành “làm tình”.
[18] Nguyên tác: 愛妾 (ái thiếp). Bản tiếng Anh dịch thành lover, bản tiếng Pháp: la concubine favorite, Dương Tường dịch thành cung phi sủng ái nhất.
[19] Nguyên tác: 霍山 (Hoắc Sơn). Bản tiếng Anh: mount Huo, bản tiếng Pháp: la montagne Ho, Dương Tường: núi Hồ.
[20] 甘蠅老師 (Cam Dăng lão sư). Bản tiếng Anh: Gan Yin, bản tiếng Pháp: Le maître Kan Ying, Dương Tường: lão sư phụ Khán Ảnh.
[21] Bản tiếng Pháp nhầm râu thành tóc: Il avait le dos tout voûté et quand il marchait, ses cheveux blancs traînaient sur le sol. Dương Tường: Lưng cụ còng và khi bước đi, mái tóc bạc kéo lê sát đất.
[22] Nguyên tác: 射之射 (xạ chi xạ)
[23] Nguyên tác: 好漢 (hảo hán): người tốt. Chữ 漢 khi có một chữ làm vị ngữ đứng trước thì không có nghĩa là người Hán nữa, không như một số ý kiến kỳ thị đã hiểu lầm. Ví dụ: 巨漢 (cự hán) người khổng lồ, 悪漢 (ác hán) tên vô lại, 痴漢 (si hán) kẻ dâm đãng, người Nhật đọc là chikang, và dùng để chỉ những kẻ (hoặc hành động) sờ soạng phụ nữ.
[24] Nguyên tác: 不射之射 (bất xạ chi xạ)
[25] Nguyên tác: 千仭 (một ngàn nhận). Nhận: đơn vị đo độ dài thời nhà Chu, bằng khoảng 1 – 3 m. N.D. dịch thành 4 ngàn thước tức khoảng 1600 m (một thước ta bằng 0.4 m)
[26] Nguyên tác: 我儕のごとき、足下にも及ぶもので �いとcó nghĩa là “Chúng ta sẽ không bao giờ có thể bì kịp (anh ta)”. Bản tiếng Pháp: “Je ne suis même pas digne de dénouer tes sandales.” (Ta không xứng đáng cởi giép cho con). Bản dịch của Dương Tường: “Đến mức thậm chí ta không đáng chạm vào chân con nữa.”
[27] Chỉ có bản tiếng Pháp: “Les flèches lancées par les trois maîtres disparurent dans le ciel sombre entre Orion et Sirius, laissant derrière elles un sillage bleu comme un éclair.” là gần với nguyên tác. Bản tiếng Anh bỏ sao Sâm (参宿星) và sao Thiên Lang (天狼星): “The arrows shot by the three masters made three bluish threads of light, and disappeared in space”, còn bản dịch của DươngTường bỏ hẳn câu này.
[28] Nguyên tác: 殺気 (sát khí). Bản tiếng Anh: a stream of spirit. Bản tiếng Pháp: une masse d’air. Dương Tường: một luồng không khí.
[29] Nguyên tác: 枯淡虚静 (khô đạm hư tĩnh). Bản tiếng Anh dịch thành spiritual mysteries, trong khi bản tiếng Pháp và
bản dịch của Dương Tường dùng tới 4 dòng để diễn tả trạng thái này.
[30] Nguyên tác: 是と非 (đúng với sai). Bản tiếng Anh: good and evil. Bản tiếng Pháp: ceci et cela. Dương Tường:“cái này” với “cái kia”.
[31] Bản tiếng Pháp và bản dịch của Dương Tường bỏ 3 câu cuối trong đoạn này.
[32] Nguyên tác: 夫子 (phu tử): danh hiệu dùng để gọi người đàn ông có đức hạnh và học vấn, ví dụ Khổng phu tử (孔夫子). Dương Tường dịch thành tôn sư có nghĩa là thày tôn kính.
[33] Nguyên tác:古今無双 (cổ kim vô song = xưa nay không có người thứ hai). Bản tiếng Anh: the greatest (archer) of all time. Bản tiếng Pháp: le plus grand de tous les temps. Dương Tường: lớn nhất của mọi thời đại.
[34] Nguyên tác: 規矩 (quy củ). Quy là cái khuôn tròn dùng để vẽ các đường tròn tương tự như cái compass, củ là cái khuôn vuông hay thước thợ.
http://www.talawas.org