-
LÒNG YÊU NƯỚC THÚC GIỤC
(Dân trí) - Sau sự kiện tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm thềm lục địa Việt Nam, dường như có một sức mạnh được đánh thức, đó là sức mạnh của lòng dân. Trên các diễn đàn báo chí, trong bữa cơm, trong câu chuyện nơi công sở, ở đâu cũng sôi sục phản ứng.
Đã lâu lắm rồi, báo chí VN mới lên tiếng mạnh mẽ. Từ lâu đã có tình trạng tàu Trung Quốc bức hiếp ngư dân, nhưng phía VN vẫn dè dặt phản ứng, chờ đợi một sự hiểu biết và thái độ ứng xử phù hợp từ nước bạn trên cơ sở của tình hữu nghị hai nước và sự tôn trọng pháp luật quốc tế.
Nhưng sự kiên nhẫn đã đến mức vượt giới hạn, khi Trung Quốc cho tàu vào sâu vùng đặc quyền kinh tế của VN và có những hành động quá ngang ngược, cắt cáp thăm dò của tàu VN, cho tàu thuyền đánh cá xâm phạm ngư trường VN, và nghiêm trọng hơn là sử dụng tàu hải quân bắn tàu ngư dân thì không dân nào chịu đựng được nữa. Hành động từ phía Trung Quốc đã khơi dậy lòng yêu nước, mỗi con người VN đều thấy mình bị xúc phạm, đều thấy có lỗi với tiền nhân.
Lòng yêu nước là sức mạnh vĩ đại của một đất nước
Báo chí không thể đứng ngoài cuộc, các tổ chức nghề nghiệp khác cũng không thể khoanh tay. Đại diện của Liên đoàn Luật sư VN cũng thông báo, ngày 3/6, theo thông lệ quốc tế, liên đoàn sẽ chính thức đưa ra tuyên bố về mặt pháp lý phản đối việc tàu hải giám Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam và cản trở, phá hoại tài sản của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam vào ngày 26/5. Bản tuyên bố này căn cứ vào luật pháp quốc tế hiện hành.
Giới doanh nhân cũng thể hiện lòng yêu nước bằng cách của mình. Ông Lê Hùng Dũng - chủ tịch HĐQT Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) mang 1 tỉ đồng đến báo Tuổi Trẻ đóng góp cho chương trình “Góp đá xây Trường Sa” cùng với câu nói: “Chúng tôi đóng góp vì tự thấy trách nhiệm của công dân, trách nhiệm của doanh nghiệp khi lòng yêu nước thúc giục” .
Một trang web bán tour đi du lịch Trung Quốc cũng tham gia bằng cách ra thông báo: Những thông tin gần đây cho thấy Trung Quốc ngày càng lấn tới và ngang nhiên xâm lấn chủ quyền VN…Tuy rằng đó không phải là hành động của tất cả người dân Trung Quốc, nhưng để nêu cao tinh thần yêu nước, CANA tạm ngưng tất cả các tour đi Trung Quốc và tháo gỡ các thông tin du lịch Trung Quốc ra khỏi trang web.
Trước đây, có rất nhiều vụ tàu Trung Quốc tấn công tàu cá của ngư dân, nhiều người trở về trong sợ hãi, có người tuyên bố bỏ nghề đi biển. Nhưng lần này, không ai sợ hãi, tất cả đều quyết tâm ra khơi. Nhiều ngư dân Quảng Ngãi, Phú Yên khảng khái cho rằng đi biển bây giờ là để góp phần bảo vệ chủ quyền của quốc gia trên biển. Một đất nước mà ngay cả một người dân làm nghề đánh cá cũng có ý thức bảo vệ chủ quyền thì đó chính là sức mạnh vĩ đại.
Nếu có quyên góp mình xin quyên góp tháng lương của mình để góp phần trong việc CP mua thêm tàu chiến
tuy k bao nhiêu nhưng đó là tấm lòng .
-
Chương trình VHNT tuần này giới thiệu những bài thơ yêu nước của ba tác giả Nguyễn Việt Chiến, Bùi Minh Quốc và Trần Mạnh Hảo.
Tình hình biển Đông vài ngày qua đang làm nhức nhối bao trái tim của người Việt. Lịch sử cho thấy khi chủ quyền đất nước lung lay thì hầu như mọi con tim đều hướng tới điều thiêng liêng nhất được gọi là tổ quốc. Nhà thơ, hơn ai hết tâm tình của họ trước nỗi lo mất nước luôn nhạy cảm hơn người bình thường. Hình như những rung động thi ca trong tim người nghệ sĩ lúc nào cũng nghe ngóng nhịp thở quê hương khiến họ nhanh chóng cảm thụ được nỗi nguy hiểm phảng phất trong không khí trước cả người làm chính trị. Họ nhanh chóng nắm bắt sự nguy hiểm rình rập đất nước bằng con tim trong khi nhà chính trị đối phó hoàn toàn bằng lý trí.
Lý trí bị chế ngự bởi số liệu và tầng nấc biến động của sự kiện nhưng con tim thì cảm nhận nhanh chóng những khoảnh khắc mà không máy tính nào đo đếm được. Sự chiêm nghiệm và nhạy cảm đặc biệt này làm cho thơ xuất hiện. Xuất hiện và chinh phục những trái tim khác có cùng tầng số.
Tầng số này không thể cảm nhận hay thu giữ bằng đám đông hay kỹ thuật bởi thi ca luôn là chất xúc tác vô hình với người đọc nó. Thi ca có chức năng khá độc đáo là trước rung động của người viết, tác phẩm trở thành nơi kết nối sự cảm thông nhiều lần hiệu quả hơn những lời hiệu triệu. Nếu làm một phép thử về sự kết nối này ra sao đối với người đọc, chúng ta có ngay những kinh nghiệm lịch sử về nhiều bài thơ yêu nước còn đọng lại trong tim người Việt hàng ngàn năm qua, trong đó Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt sẽ là bài thơ dẫn đầu:
Nam Quốc Sơn Hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
Sơn hà nước Nam thuộc quyền vua Nam
Ðiều này đã ghi rõ trong sách nhà Trời
Nếu kẻ nào dám đến xâm phạm
Chắc chắn sẽ bị thảm bại
Bài Nam Quốc Sơn Hà có lẽ là một ngoại lệ duy nhất vì bản chất thơ không là một công cụ để chống giặc ngoại xâm. Thơ chỉ mang thông điệp mà người thi sĩ muốn chia sẻ hơn là kêu gọi, qua đó tầng số rung động sẽ cộng hưởng với cái chung một cách sâu rộng và lâu dài. Một bài thơ hay khó thể xuất phát từ mục đích khích động người khác. Nó chỉ hay và nằm lâu trong lòng người bởi sự xúc cảm tột cùng của nhà thơ. Xúc cảm thật cộng với tài năng sẽ là chất kết dính bài thơ với người đọc.
Lý Thường Kiệt có thể được xem là nhà thơ tuyệt vời với khả năng truyền đạt những rung động của một thi nhân hơn là lời hiệu triệu binh sĩ dưới quyền của một danh tướng trong tinh thần này.
Những tác phẩm mà chúng tôi sắp giới thiệu cùng quý vị sau đây có lẽ đã đạt được phần nào tính chất chia sẻ đó. Những bài thơ này được sáng tác hoặc sau chiến tranh Biên giới hoặc trong thời gian có sự lấn chiếm biển đảo của Trung Quốc.
Bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” của tác giả Nguyễn Việt Chiến được sáng tác vào năm 2009. Đây là bài thơ đầu tiên anh sáng tác sau khi ra khỏi nhà giam trong vụ PMU18. Nói với chúng tôi về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, Nguyễn Việt Chiến cho biết:
“Tôi viết bài thơ vào tháng 4 năm 2009 trong một chuyến đi sáng tác của Văn Nghệ Quân Đội và từ cảm xúc về đất nước về dân tộc và tất cả những cái đã diễn ra trong thời điểm có vấn đề về biển. Nó gợi lên cho mình một niềm tự hào. Mình nghĩ cha ông mình mấy nghìn năm đã dựng nước, giữ nước và những quần đảo thiêng liêng của tổ quốc như một phần đất đai không thể tách rời. Và như thế cảm xúc nó cứ gợi lên thôi.
Tôi nghĩ rằng vượt lên trên hết mọi tình cảm cũng như tất cả mọi điều khác mà tôi đang mặc cảm, điều tôi nghĩ đầu tiên về đất nước về dân tộc mình có lẽ là những cái bao trùm toàn bộ bài thơ ấy."
Tổ quốc nhìn từ biển
Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn
Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo
Lạc Long cha nay chưa thấy trở về
Lời cha dặn phải giữ từng thước đất
Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi
Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể
Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù
Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ
Thương Hòn Mê bão tố phía âm u
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích
Những đau thương trận mạc đã qua rồi
Bao dáng núi còn mang hình goá phụ
Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm hoạ
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng
Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo
Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn
Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy
Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân
Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả
Những chàng trai ra đảo đã quên mình
Một sắc chỉ về Hoàng Sa thủa trước *
Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi
Tác giả thứ hai chúng tôi muốn giới thiệu trong chương trình hôm nay là nhà thơ Bùi Minh Quốc với hai bài thơ “Bên Cột Mốc” và “Thơ Dâng”.
Cùng cảm xúc với những gì tổ quốc đang gánh chịu từ biển xa, Bùi Minh Quốc có những dòng thơ ngắn, chắt lọc, phát họa những hình ảnh khi hiện thực lúc mờ ảo tại nơi mà mầm sống phải tranh dành với những đe dọa không ngừng bởi thiên nhiên lẫn kẻ thù trên hai quần đảo yêu thương của tổ quốc. Bài thơ mang tên “Thơ Dâng” mang âm hưởng của sóng rì rào, vỗ về liên tục và êm ả nhưng phía sau những lọn sóng ấy là ngộp thở, là chờ đợi. Những ngắt dòng bất chợt cũng làm bài thơ trở nên hồi hộp bất thường hơn.
Thơ Dâng
Tôi ngước mắt vọng trời
Trời rựng máu
Hoàng Sa
Trường Sa
Tôi cúi đầu tìm đất
Đất ứa lệ
Hoàng Sa
Trường Sa
Tôi vây giữa ngàn thông ngàn hoa
Gốc thông nào cũng khắc
Hoàng Sa
Trường Sa
Cánh hoa nào cũng nhắc
Hoàng Sa
Trường Sa
Kìa vụt hiện ngọc ngà
Người mẫu
Em lớn từ lệ máu
Hoàng Sa
Trường Sa
Ê a bên thềm miệng sữa ê a
Vỗ lòng tôi tựa sóng
Hoàng Sa
Trường Sa
Sực nghe xuân gõ cửa mọi nhà
Âm âm
rền
Hoàng Sa
Trường Sa.
Nhà thơ Bùi Minh Quốc khi còn công tác trong hội Văn Học Nghệ Thuật Lâm Đồng đã có nhiều dịp tiếp cận với những vùng đất xa xôi nhất của tổ quốc. Sau chiến tranh biên giới năm 1979 do Trung Quốc phát động, nhà thơ đã đến Lạng Sơn, vùng đất bị giặc tàn phá nặng nề và trong chuyến đi này ông đã cho ra đời bài thơ “Bên Cột Mốc” rất nổi tiếng.
“Lúc ấy là năm 81 sau hai năm Trung Quốc nó đánh Lạng Sơn. Lúc ấy vẫn dằn co mấy cái điểm chốt ở Lạng Sơn. Các vùng khác cũng có nhưng lúc đó mình đến với đơn vị ở cao điểm 400 phía Tây bắc Đồng Đăng. Mình đến với anh em đang giữ chốt, không lên được chốt nhưng gặp anh em ở dưới chân núi. Anh em kể những ngày giữ chốt, những cảnh đồng bào sơ tán vẫn diễn ra, rồi những cảnh tàn phá ở thị xã Lạng Sơn rất hoang tàn. Cảnh tàn phá vẫn còn nguyên như thế.”
Bên cột mốc
Tim thắt lại trong buổi chiều lúa non
Bản Nùng xa khói bếp
Hoa phượng đỏ đầy trời xứ Lạng
Đỏ lên từng tấc đất tôi thương
Máu đồng đội đỏ cho màu hoa ấy
Ôi màu khói màu hoa tự bao giờ cứ vậy
Dù ai để ý hay không
Sao lòng ta run rẩy
Tiếng xe ngựa qua cầu Kỳ Lừa
Lóc cóc dưới chiều mưa
Tấm bạt rách trên mui gió lật
Che mái đầu mấy người đàn bà
Nói những chuyện cuốc cày mua bán
Em bé Nùng ngồi trong quang mẹ gánh đi sơ tán
Như chính tôi thuở nào
Mắt em nhìn thăm thẳm làm sao!
Thăm thẳm một đời bao thứ giặc
Chưa giặc nào như giặc này
Quân ăn cướp quân phản trắc
Đã từng vào nhà ta
Như một người bạn thân một người đồng chí
Thăm hỏi vợ ta
Bồng bế con ta
Siết tay ta rất chặt
Cùng nhau ngồi ở góc phòng kia
Quanh bộ bàn ghế trúc
Bữa ăn tươi có nem rán bún bò
Bánh bao nhân thập cẩm…
Nhưng phút chốc bỗng tan tành tổ ấm
Ta đâu có thể ngờ
Phút chốc đã tan tành tổ ấm
Cái tổ ấm vừa nhen sau cuộc chiến tranh dài
Chính bàn tay đã cùng ta chúc rượu
Lại đến đây bắn pháo giật mìn.
Ta xin hiến đời ta làm cột mốc
Phân rõ ranh giới này
Người cộng sản và lũ bạo chúa giương cờ cộng sản
Đứng trên Thiên An Môn hô những lời cách mạng
Được tụng niệm như kinh
Đánh cắp niềm tin của triệu người lao động ngay lành
Ta xin hiến đời ta làm cột mốc
Mẹ Việt Nam cắm chắc ở nơi này
Gan góc
Thẳng ngay
Đến cái chết cũng chẳng hòng đánh bật
Ôi màu hoa lặng lẽ đỏ trong chiều
Lặng lẽ nói tình yêu
Những người lính đêm ngày trên điểm tựa.
Với Trần Mạnh Hảo thì tác phẩm “Nếu Tổ quốc tôi không còn biển” là cách để ông dàn trải những trăn trở của một kẻ sĩ trong hoàn cảnh khá khó khăn của đất nước. Dưới ngòi bút của ông biển đảo thân yêu đã trở thành máu thịt, thành hơi thở và vì vậy khi không còn đảo tức là không còn biển, mà Việt Nam không còn biển có nghĩa là chấp nhận diệt vong!
Bên cạnh điều lo lắng cho sự mất còn của biển đảo, Trần Mạnh Hảo cũng không ngần ngại dóng lên cảnh báo về kịch bản Trọng Thủy của thời hiện đại, thơ ông do đó đậm chất thời sự và hơi thở của sự kiện.
“Nếu Tổ quốc tôi không còn biển”
Mất Hoàng Sa, Trường Sa
Rồng Việt Nam không còn chỗ núp
Không có lối ra
Tổ Quốc như bị giam trong ngục
Xin Ngô Quyền trở về
Xin Trần Hưng Đạo trở về
Dìm quân xâm lược
Tổ Quốc nguy nan
Mỗi người Việt Nam
Hóa thành cọc nhọn
Bán đảo Đông Dương biển mất gần hết
Hồng Hà biết chảy về đâu ?
Cửu Long rồi giãy chết ?
Linh hồn cha Lạc Long Quân
Không còn chốn đi về
Cái lưỡi bò ngoại tộc
Rót vào tai nhà đương cục
Mười sáu chữ vàng
Miệng vờ ôm hôn
Tay lừa bóp cổ
Lưỡi bò đang liếm sạch biển Đông
Trọng Thủy xưa Từng dùng lưỡi bò tỏ tình
Lừa tình cướp nỏ
Lừa tình cướp nước
Trong miệng người anh em
Giấu một lưỡi bò
Nếu Tổ Quốc không còn biển
Dân tộc tôi sẽ chết đuối trên bờ
Chết đuối trên cao nguyên
Chết đuối trong bùn bô-xít
Tổ Quốc không chịu chết
Biển Đông gầm đang hóa Bạch Đằng Giang.
Thơ ca thời chiến tuy hào hùng nhưng rõ ràng thấm đẫm máu đào của cả dân tộc. Có ai thích thú gì khi làm thơ trong cái thuơng tâm mất mát ấy. Thế nhưng bi kịch luôn đeo đẳng Việt Nam như số phận bởi kẻ láng giềng khó đối phó. Người Việt qua bao nhiêu ngàn năm đã tự động mang trong lòng hai chữ cảnh giác với những điều mà tổ tiên đã học được. Thơ ca và những loại hình nghệ thuật khác hình như không đủ để chuyển tải những khổ đau mà cả dân tộc hứng chịu từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.
Tạo hóa cho con người có khả năng sáng tạo để từ ngôn ngữ nhào nặn thành thi ca. Thi ca cũng chính là chiếc khăn dùng để thấm mồ hôi lẫn máu nếu cuộc chiến xảy ra, mà trong chúng ta ai là người trông chờ cuộc chiến ấy để có được những vần thơ tuyệt tác?
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
-
chuẩn bị có đổ máu cho một quốc gia vốn coi thường những người lính rồi !
-
Trích dẫn:
Nguyên văn bởi minhnga102 Xem Bài Gởi
Trong chiến tranh hiện đại này, mình nghĩ sẽ không có chiến tranh bằng vũ khí cũng như "giáp lá cà" như ngày xưa đâu. mình nghĩ sẽ chiến tranh trong quan hệ chính trị giữa các nước với nhau. Hệ thống chính trị Việt Nam rất tốt... Quan trọng là phải sáng suốt, bình tĩnh và cần sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc VIệt Nam.
4000 năm giữ được thì chắc chắn giờ cũng giữ được thôi. Trời ban cho ta thế rồi mà.
Trong 6 điều Bác Hồ dạy Công An nhân dân có điều:
" Đối với địch phải cương quyết khôn khéo"
Đề phòng thiên hạ năng như loạn
Xã tắc tổn thương tội muôn đời.
Chúng ta tin tưởng Đảng và Chính phủ hiểu việc này hơn ai hết.
-
Trích dẫn:
Nguyên văn bởi Love_Tamlinh Xem Bài Gởi
Hoằng Trí - Lý Công Uẩn tạo phước cho các bạn cùng được học hành
Hoằng Trí ngủ mộng đọc thơ than thở
"....
Hai vãi đạo đức cao thâm
Chuẩn Đề đến rước nên tầm Liên Hoa
Hoằng Trí than thở khóc bà:
Bấy lâu nhờ có hai bà nuôi con
Nay hai bà chết không còn
Đêm đêm hiu quạnh một con tủi lòng.
Hoằng Trí nước mắt ròng ròng
Vạn Hạnh lại bồng nhỏ nhẹ nhủ khuyên:
Chẳng qua người hết nghiệp duyên
Xác trần phủi bỏ, hồn tiên về Trời
Chẳng qua xác tục người đời
Con đừng bi lụy lắm lời thở than
Hồn vãi về ngự Phật đàn
Nên người bỏ xác lẹ làng lắm thay.
Từ khi hai vãi chết rày
Vạn Hạnh dạy sách hằng ngày gắt gao
Mỗi ngày mười chữ quá cao
Hoằng Trí sáu tuổi học rày biết ngay
Hôm nào cũng phải trả bài
Cả chữ lẫn nghĩa bày khai cùng thầy
Xóm Đông thiên hạ vầy vầy
Trẻ nhỏ xóm này thường đến Cổ Bi
Nhìn xem Hoằng Trí nhu mì
Đứa này thì lại thầm thì đứa kia
Có ông Đạo nhỏ mới về
Đầu chừa ba vá xem kia đẹp hình
Rủ nhau chúng nó lại nhìn
Rồi đem bánh trái khìn khìn mà cho
Đạo nhỏ cứ việc ăn no
Ngày nào lũ nhỏ cũng cho đủ đầy,
Hoằng Trí gặp lúc vui vầy
Trẻ con lũ nhỏ bạn bầy thiếu chi
Ba hôm không học chữ gì
Vạn Hạnh giảng sách Trí thì láo lơ
Trả lời thầy hỏi ỡm ờ
Vạn Hạnh lưu ý nghi ngờ nhìn xem
Rõ ràng thấy lũ trẻ đem
Lớp bánh lớp trái thầy xem dẫy đầy
Mải vui nên chẳng nhìn thầy
Vạn Hạnh mắng quở la rầy đòn roi:
Vở bài không học không coi
Để theo lũ nhỏ học đòi uống ăn
Làm sao thông đoạt thi văn
Mải lo cái uống cái ăn bên mình
Quên thầy quên sách quên kinh
Lần nầy thầy bỏ tội tình của con
Nếu như thói cũ mà còn
Thì là thầy phạt roi đòn gấp đôi.
Hoằng Trí quỳ bạch thầy ôi:
Xin thầy nghe trẻ khúc nôi tỏ bày
Thầy đây có sẵn thiên tài
Bạn con lũ nhỏ hiền thay thầy à
Một con thầy cũng dạy mà
Nhiều trò thầy cũng dạy qua một lần
Xin thầy bố đức thi ân
Dạy hết lũ trẻ ân cần văn chương
Xin thầy mở rộng lòng thương
Mở cửa Phật đường dạy trẻ nghề văn
Thì là con mới siêng năng
Con thương bạn nhỏ võ văn chẳng rành
Một con ôm sách học hành
Còn bao nhiêu bạn nó đành bất thông.
Vạn Hạnh rằng: chẳng có xong
Con muốn như vậy thầy không có chiều
Con là đạo nhỏ đáng yêu
Vạn Xuân gửi gắm lắm điều dặn ta
Nên ta chẳng ngại tuổi già
Dạy con chữ nghĩa ấy là vì dân
Cửa Phật đâu phép rộ rần
Vào ra nhiều trẻ bước chân dập dìu!
Hoằng Trí nghe rõ buồn hiu
Từ sáng đến chiều chẳng học chữ chi
Vạn Hạnh đánh quở li bì
Trói Hoằng Trí chẳng cho đi ra ngoài
Hoằng Trí bị trói chân tay
Nằm co mà ngủ miệng rày ngâm thi
Sư nghe bước lại xem thì
Thời nghe Hoằng Trí ngâm thi như hà
Dám nào ngay cẳng thẳng ra
Vì lo xã tắc sơn hà chinh nghiêng
Sư nghe lại mở trói liền
Hoằng Trí thì lại nằm yên ngủ khì
Sư nhìn bụng lại nghĩ suy
Đế Vương ngẫu hứng cao kỳ lắm thay
Một mình thân chịu lạc loài
Minh Vương xuất thế đọa đày tấm thân
Thương người lăn lóc phong trần
Cháo rau đạm bạc nương thân cửa chùa
Rõ ràng chân mạng nhà Vua
Ba sãi ở chùa biết thế khó phân
Đợi cho máy tạo xoay vần
Minh Vương phủi sạch phong trần nắng mưa
Nghĩ đời thượng cổ khi xưa
Phật Tiên Thần Thánh chọn lừa (lựa) Hiền nhân
Mỗi khi Chúa Thánh xuất thân
Mưa nắng cõi trần lắm lúc đổi thay
Ta nên rộng đức nới tay
Để mặc Hoằng Trí vui say nô đùa
Giữ nghiêm theo luật nhà chùa
Thời là tội nghiệp nhà Vua hội nầy
Nên sư không quở không rầy
Mặc cho Hoằng Trí bạn bầy cười vui
Xóm chùa trẻ nhỏ tới lui
Càng ngày trẻ nít càng vui cảnh thiền
Mẹ cha lũ nhỏ tâm hiền
Đồng đưa lũ trẻ cảnh thiền quy y
Được năm mươi đứa một thì
Đưa vào cửa Phật quy y cùng thầy.
Chúng tôi đưa trẻ đến đây
Học đạo với thầy thầy dạy chúng tu
Chúng tôi sằng dã nông phu
Sẽ đem lúa gạo đến bù thiền môn
Miễn con tôi đặng hiền khôn
Quy y Phật Pháp thiền môn của thầy!
Vạn Hạnh mới nói lời nầy:
Quy y với thầy thầy thí pháp cho
Từ rày lũ trẻ cần lo
Thầy truyền kinh kệ học cho thấm nhuần
Mẹ cha lũ trẻ vui mừng
Con mình theo đạo thấm nhuần đèn nhang
Chúng ta đây phải lo toan
Dầu hương mang đến Phật đàng giúp con
Miễn con học đạo vuông tròn
Ta lo đầy đủ cho con mọi bề
Các trò đạo nhỏ say mê
Nào kinh nào kệ theo kề bên nhau.
..."
Ta thấy Hoằng Trí - Lý Công Uẩn khi còn nhỏ đã lo việc xã tắc. Khi bị thầy phạt, lúc ngủ nằm co ro mà miệng nói ra những câu thơ dưới đây. Thầy Vạn Hạnh nghe được từ đó về sau không làm khó vị Vua trẻ tương lai nữa. Thật đáng kính phục:
"Dám nào ngay cẳng thẳng ra
Vì lo xã tắc sơn hà chinh nghiêng"
"....
Sư nghe lại mở trói liền
Hoằng Trí thì lại nằm yên ngủ khì
Sư nhìn bụng lại nghĩ suy
Đế Vương ngẫu hứng cao kỳ lắm thay
Một mình thân chịu lạc loài
Minh Vương xuất thế đọa đày tấm thân
Thương người lăn lóc phong trần
Cháo rau đạm bạc nương thân cửa chùa
Rõ ràng chân mạng nhà Vua
Ba sãi ở chùa biết thế khó phân
Đợi cho máy tạo xoay vần
Minh Vương phủi sạch phong trần nắng mưa
Nghĩ đời thượng cổ khi xưa
Phật Tiên Thần Thánh chọn lừa (lựa) Hiền nhân
Mỗi khi Chúa Thánh xuất thân
Mưa nắng cõi trần lắm lúc đổi thay
Ta nên rộng đức nới tay
Để mặc Hoằng Trí vui say nô đùa
Giữ nghiêm theo luật nhà chùa
Thời là tội nghiệp nhà Vua hội nầy
Nên sư không quở không rầy
Mặc cho Hoằng Trí bạn bầy cười vui
Xóm chùa trẻ nhỏ tới lui
Càng ngày trẻ nít càng vui cảnh thiền
..."
Bác Hồ ở nhà lao Tưởng Giới Thạch cũng thao thức năm canh khác nào.
Chúng ta thời nay cũng nên coi việc nước như các bậc tiền bối thì hay biết mấy.
-
1 số ốc bu có tài sản đã chuẩn bị mang sang hoa kỳ để hưởng già.Đặng tử Bình đã nói cho Việt Nam 1 bài học thế nào là anh em chủ nghĩa.nếu có chiến tranh sảy ra,1 số sinh viên hay học sinh đang theo học tại Hoa kỳ sẽ được hưởng chế độ chính trị sẽ ở lại Hoa kỳ hợp pháp.
cứ vài chục năm lịch sử sẽ lập lại.