-
Thăng Long giai thoại
Thăng Long giai thoại - Bài 1: Bí ẩn động Thông Thiền
09/09/2010 0:02
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic.../169049219.jpg
Trên đất Thăng Long - Hà Nội, nếu chùa Khai Nguyên và đình Quán La có lịch sử khá rõ ràng, thì cho đến nay, động Thông Thiền vẫn còn là bí ẩn đối với các nhà sử học, khảo cổ học.
Tảo xã là vùng đất nằm ở phía tây thành Thăng Long được khai phá từ thời Trần, qua nhiều lần thay đổi nay thuộc phường Xuân La, quận Tây Hồ. Xuân La có hai di tích nằm sát bên nhau là chùa Khai Nguyên và đình Quán La.
Đình Quán La và chùa Khai Nguyên được xây trên một khu đất cao được gọi là thất tinh (7 quả núi). Đình và chùa có cảnh quan đẹp và theo sử sách thì đứng ở đây có thể nhìn thấy sông Thiên Phù (sông này còn có tên khác là Già La), nên xưa kia cụm di tích này còn có tên gọi là quán Già La.
Trước cửa đình và cổng chùa hiện vẫn còn cây đa cổ thụ và một cây thị có thể khẳng định đó là cây thị lâu năm và to nhất Việt Nam. Trong kháng chiến chống Pháp, do thân cây đa bị rỗng nên có cán bộ hoạt động bí mật đã ở đây đến mấy tháng. Ngày 23.11.1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Xuân La, Người vào thăm đình rồi đến trước cây đa cổ thụ căn dặn bà con: "Cây đa cổ thụ cũng như ngôi đình này là di tích lịch sử, kiến trúc có giá trị cao, phụ lão và toàn dân phải giữ gìn và bảo vệ cho thật tốt". Năm 1959, khi Chủ tịch nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên Kim Nhật Thành thăm nước ta, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã mời ông Kim Nhật Thành đến thăm đình và ông cũng được cụ từ trông đình cho biết dưới đình có một cái động. Đúng 7 năm sau, cũng vào ngày 23.11.1965, Bác Hồ lại về thăm nhân dân trong xã và lại ghé thăm đình Quán La.
Thiên khai long trạch sơn hà tráng
Địa tiếp long thành thảo mộc hương
(Trời mở ra thịnh vượng núi sông hùng vĩ
Đình ở bên thành Thăng Long cây cỏ hương thơm)
(Đôi câu đối trong đình Quán La)
Đình thờ thần hoàng làng là Duệ Trang cùng hai người em bà, gọi là hai Chầu Bà - những người đã có công khai phá đất đai ở vùng Tảo và dạy dân cày cấy. Cho đến nay chưa tìm thấy tài liệu nào nói đến thời gian xây đình, nhưng so sánh với chính sử và dã sử thì đình Quán La có từ rất sớm, vào khoảng đầu đời Trần. Đình hiện còn lưu giữ được 18 sắc phong do các triều đại phong kiến phong cho thành hoàng làng xã Quán La xưa. Trong đó có các sắc phong có giá trị như sắc phong năm 1653 đời vua Lê Thần Tông, sắc Cảnh trị bát tiên đời vua Lê Huyền Tông, sắc Dương đức tam niên đời vua Lê Gia Tông (1674)... Các sắc phong tặng bà là "Đại vương thượng đẳng thần", “Duệ Trang trung dũng uy mục", “Liệt nữ tôn thần"...
Ly kỳ động dưới đình
Phía dưới đình Quán La có một cái động (hoặc hang) gọi là động Thông Thiền. Cửa động nằm sau hậu cung đình nhưng hiện tại đã bị đất và gạch ngói vỡ lấp gần kín miệng. Bên trong động được xây khum khum hình múi bưởi bằng gạch có chạm trổ hình hoa khế và tứ linh (long, ly, quy, phượng). Chiều ngang động đủ cho một người lớn chỉ cần hơi khom lưng một chút là có thể vào sâu bên trong. Đi sâu chừng hai chục thước có hai nhánh rẽ. Dân làng từ nhiều đời nay vẫn truyền nhau là vào mùa mưa, thả quả bưởi ở cửa hang thì thấy quả bưởi ở hồ Tây, nghĩa là động kéo dài ra tận hồ Tây (hồ Tây ngày trước cách làng chỉ vài trăm mét, không xa như bây giờ - NV).
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...oip14-15a2.jpg
Đình Quán La - Ảnh: Trường Sơn
Khoảng năm 1943, Viện Viễn Đông Bác Cổ cho người xuống khảo sát hang nhưng chỉ vào được gần ba chục mét phải quay ra vì thiếu ô-xy và đèn mang theo không đủ ánh sáng để rọi đường. Năm 1964, một đơn vị của quân đội đóng quân ở đình, để chiếc máy phát điện gần cửa hang. Đơn vị này đóng quân ở đây cho đến năm 1970 thì chuyển đi nơi khác. Trong những năm này, khi nước sông Hồng lên cao, dân làng gánh gồng con trẻ đến đây tránh lũ. Những đứa trẻ nghịch ngợm nhất cũng chỉ dám chui vào chừng vài chục mét là phải quay ra. Lại có thông tin, đầu năm 80 thế kỷ trước, một nhóm các nhà khảo cổ cũng có ý định vào động nhưng việc không thành. Hiện tại, đất và gạch ngói vỡ đã bịt gần kín cửa động.
Có nhiều giả thiết khác nhau về động này. Theo cụ Hoàng Đạo Thúy, một nhà nghiên cứu văn hóa Hà Nội đáng kính thì động do vua Lý Thần Tôn xây. Tuy nhiên cụ Hoàng Đạo Thúy cũng không nói rõ là vua Lý Thần Tôn xây động Thông Thiền để làm gì. Có nhà nghiên cứu khác tiếp ý cụ Thúy đã lý giải Lý Thần Tôn xây động vì các vua triều Lý đều mộ đạo Phật và đạo Phật trở thành quốc đạo nên việc xây động mang ý nghĩa tâm linh: "Thông Thiền nghĩa là âm dương hòa hợp thì việc triều chính sẽ hanh thông". Song các nhà khảo cổ học dựa vào việc hang có ngách lại cho rằng đây là ngôi mộ có niên đại từ đời Hán, ngách dùng để đồ thờ cúng. Hơn nữa vùng đất này vào năm 930 là nơi mà Lý Khắc Chính và Lý Tiến của triều đình Nam Hán khi chiếm nước ta đã đóng quân ở đây nên lý giải của các nhà khảo cổ có vẻ logic.
Bên cạnh đó, căn cứ vào niên đại của các loại gạch dùng để trùng tu đình và sửa hang, các nhà nghiên cứu sử đưa ra một giả thiết khác: Thông Thiền được làm từ đời Trần để ém quân đánh giặc Nguyên Mông. Đến khi Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh (đầu thế kỷ XV) đã dùng hang này làm nơi cất giấu lương thực...
Cho dù các sách sử của nước ta bị quân đô hộ phương Bắc đốt hết sau mỗi lần chiếm Thăng Long, song nhiều di tích, địa danh nơi đây vẫn được các nhà nghiên cứu “giải mã” sau thời gian dài thu thập tư liệu, chỉ riêng động Thông Thiền dưới móng đình Quán La vẫn còn là bí ẩn chưa được làm sáng tỏ.
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 2: Vết đạn đại bác ở Bắc Môn
10/09/2010 0:19
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...1920549145.jpg
Đi qua phố Phan Đình Phùng, đoạn trước cửa nhà thờ Cửa Bắc là cửa Bắc Môn. Bên trái cửa là vết đạn đại bác sâu chừng hai chục phân và chu vi vết lõm chừng một mét. Đó là vết đạn do quân của Henri Rivière bắn ngày 25.4.1882 trong lần tấn công thành Hà Nội lần thứ 2.
Ngay từ khi xâm chiếm Việt Nam, thực dân Pháp đã nhận ra tầm quan trọng của Hà Nội trong việc thiết lập bộ máy cai trị Việt Nam và cả bán đảo Đông Dương. Để kiếm cớ đưa quân ra Bắc, thực dân Pháp đã bí mật dùng Jean Dupuis, một tên lái súng có tham vọng chiếm sông Hồng để ngược sông Hồng sang Vân Nam (Trung Quốc). Dupuis đến Hà Nội ngày 22.12.1872 với một lực lượng quân sự hùng hậu. Mặc dù triều đình Huế không cho phép nhưng hắn vẫn ngang nhiên đưa hàng ngược sông lên biên giới. Sau chuyến buôn trót lọt, hắn càng hung hăng hơn.
Hoàng Diệu người làng Xuân Đài, Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông sinh ngày 10.2.1829 trong một gia đình Nho học. 20 tuổi ông đỗ Cử nhân cùng với anh ruột là Hoàng Kim Giám. Năm 25 tuổi, trong khoa thi Hội năm 1853 ông đỗ Phó bảng. Ông được bổ làm quan ở nhiều tỉnh miền Trung và Bắc. Tự Đức ban khen: "Chăm lo cho dân Bắc Hà, ngoài Hoàng Diệu ra không ai hơn". Suốt đời làm quan, ông nổi tiếng là người thanh liêm thẳng thắn, hết lòng vì dân, vì nước.
Hắn cho quân lên bờ xé các bố cáo của Nguyễn Tri Phương, khi ông mới nhận chức Tổng đốc Hà Nội. Giữa lúc quan hệ đôi bên căng thẳng thì thực dân Pháp phái Francis Garnier đưa quân ra Bắc với danh nghĩa theo yêu cầu của triều đình Huế giải quyết vụ Dupuis. Sau khi có viện binh từ Sài Gòn ra, Garnier tuyên bố trắng trợn mở đường sông Hồng cho thương mại, thiết lập thuế quan mới rồi gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Nguyễn Tri Phương bắt phải giải giáp quân đội, rút hết đại bác trên mặt thành. Không đợi trả lời, sáng sớm ngày 20.11.1873, Garnier ra lệnh nổ súng đánh thành Hà Nội.
Dù không chuẩn bị kỹ càng và bị tấn công bất ngờ nhưng quân và dân Hà Nội chiến đấu rất anh dũng. Nguyễn Tri Phương trực tiếp đến cửa thành phía nam chỉ huy quân sĩ. Cuộc chiến diễn ra ác liệt trên mặt thành và Nguyễn Tri Phương bị thương nặng ở bụng. Ông bị giặc Pháp bắt, chúng mua chuộc nhưng ông xé băng, nhịn ăn để chết. Hà thành thất thủ, nhưng việc Garnier bị đền tội tại Cầu Giấy ngày 21.12.1873 đã làm nức lòng quân dân Hà Nội và góp phần buộc Pháp phải trao trả thành cho triều đình Huế.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...47/p14-15a.jpg
Cửa Bắc Môn - Ảnh: T.L
Khi tình hình Bắc kỳ căng thẳng, vua Tự Đức giao cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh. Năm 1882, lấy cớ triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874, Pháp bắt đầu tăng quân đồn trú ở Bắc kỳ. Tháng 3.1882, Henri Rivière được lệnh kéo quân từ Sài Gòn ra đóng tại Đồn Thủy. Hoàng Diệu chưa có lệnh của triều đình nên chỉ chuẩn bị mà không dám đối phó. Trước đó, ông dự đoán thế nào Pháp cũng kiếm cớ quay lại nên đã cho tu bổ thành, chuẩn bị vũ khí, tăng quân. Hoàng Diệu cũng bố trí một lực lượng ở ngoại thành để hỗ trợ khi thành bị tấn công và cả kế hoạch phòng thủ chung song triều đình không chấp nhận.
Quân Pháp ngày càng đông, Hoàng Diệu yêu cầu các địa phương tâu lên triều đình xin thêm viện binh nhưng tới tận lúc Pháp sắp nổ súng, Tự Đức vẫn chỉ muốn thương thuyết. Quân Pháp hoành hành phá rối và hăm dọa trên các đường phố. Bên cạnh Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Trinh, Bố chánh Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với thành.
Rạng ngày 25.4.1882, Henri Rivière sai phiên dịch viên đưa tối hậu thư vào thành buộc trong 3 giờ phải hạ khí giới và giao thành, Hoàng Diệu cùng các tướng lĩnh phải nộp mình. Chưa hết thời gian, quân Pháp đã nổ súng. Từ 8 giờ sáng, tàu chiến trên sông Hồng thi nhau nhả đạn mở đường cho bộ binh xông lên. Tôn Thất Bá xin ra ngoài để đàm phán nhưng ra khỏi thành, Bá đầu hàng và khai hết vị trí có quân phòng ngự.
Rồi Bá lại dâng sớ lên Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu, mặt khác Bá xin Henri Rivière làm Tổng đốc Hà Ninh. Một trận kịch chiến xảy ra từ sáng đến trưa. Ngay từ lúc cuộc chiến bắt đầu, người dân đã mang theo khí giới đến cửa thành xin cùng tham gia chống quân Pháp. Dân xung quanh, các đình, chùa đều đánh trống gõ mõ để hỗ trợ cho tinh thần quan quân trong thành. Hàng nghìn dân binh mang gậy gộc, giáo mác do Võ Nguyễn Đồng người làng Bích Câu (nay là phố Bích Câu) chỉ huy, kéo đến đình Quảng Văn (nay là vườn hoa Cửa Nam) tập hợp rồi xông vào thành. Chưa vào tới nơi thì kho thuốc súng nổ, lửa bốc cháy ngùn ngụt. Đám cháy càng lan rộng, hàng ngũ chiến đấu càng hoang mang, quân giặc thừa cơ bắc thang trèo vào, phá cổng thành phía tây rồi ồ ạt kéo vào.
Do quân Pháp quá mạnh và tướng kẻ bỏ trốn, kẻ phản bội nên quân giữ thành dần tan rã. Hoàng Diệu về dinh, nai nịt gọn gàng, mặc chiếc áo the thâm, chít khăn nhiễu xanh lên đầu, dải dây lưng nhiễu hồng thắt ra áo ngoài, tay cầm thanh kiếm tuốt trần, lên mình voi xông vào Hoàng cung. Đến sân rồng, Hoàng Diệu lạy năm lạy, vừa lạy vừa khóc rồi quay ra. Đến Võ Miếu, xuống voi, ông đuổi đám quân về rồi bảo rằng: "Ai muốn về Huế thì về, ai muốn đánh thì theo thứ quân lên Sơn Tây". Nói xong đi vào Võ Miếu đóng cửa lại lấy chiếc khăn đang bịt trên đầu treo mình lên cành cây tuẫn tiết. Lúc đó là giờ Ngọ, ngày 25.4.1882.
Chiếm được thành, Pháp cho quân đồn trú tại đây. Sau đó chúng cho phá điện, lầu, phủ mà nhà Nguyễn trước đó đã xây để xây kho quân sự, trại lính và chỗ cho hậu cần. Về cơ bản Bắc thành chỉ còn là cái tên trong sử sách. Một điều thâm hiểm là khi xây doanh trại, chúng phá hết nhưng để lại Bắc Môn như để cảnh cáo những ai có ý định chống Pháp.
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 3: Chùa Báo Ân
10/09/2010 23:40
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...g/logo1000.jpg
Trên mảnh đất nay là Bưu điện Hà Nội từng tồn tại một công trình kiến trúc Phật giáo nguy nga mà giờ đây chỉ còn lại hình bóng trên các bưu thiếp cổ.
Thời Lê Trung hưng, chúa Trịnh Doanh cho xây lầu bên bờ đông của hồ Lục Thủy (hồ Gươm) để làm nơi duyệt quân, vì trên mái có 5 con rồng cuốn nên được gọi là lầu Ngũ long. Khi xây lầu, nhà chúa cho đắp con đường để cưỡi voi từ Phủ chúa sang (phủ nằm trong khoảng khu vực phố Tràng Thi - đầu phố Bà Triệu và Quang Trung hiện nay) nên hồ bị ngăn làm hai. Phía bắc gọi là Tả vọng, phía dưới gọi là Hữu vọng, hay còn được gọi là hồ Thủy quân vì hồ làm nơi luyện tập cho binh sĩ.
Đền vàng cửa ngọc
Năm 1786, khi Tây Sơn ra Bắc lần thứ nhất, Lê Chiêu Thống còn cho họp tướng lĩnh ở lầu này. Sau khi Phủ chúa bị Lê Chiêu Thống phóng hỏa đốt năm 1787 thì lầu Ngũ long cũng bị phá. Dân đến đây làm nhà, lập thôn Cựu Lâu. Khoảng năm 1842, Tổng đốc Hà Ninh là Nguyễn Đăng Giai đã quyên tiền dân xây dựng chùa ở khu vực này. Chùa có tên là Báo Ân. Vì hồ trong chùa rất nhiều sen nên dân còn gọi là chùa Liên Trì và cũng còn có tên khác là Quan Thượng, tên của viên quan lập chùa. Chùa có 180 gian, kiến trúc phức tạp và cầu kỳ.
Mùng 8 Tết 1876, Trương Vĩnh Ký với tư cách là nhà báo có ghé thăm chùa đã ghi lại trong nhật ký Một chuyến đi Bắc Kỳ. Trương Vĩnh Ký mô tả, bước qua cửa chùa có tháp cao hai bên, trong chùa có hồ được xây bằng gạch và đá, đường lát gạch chạy vòng quanh hồ. Trương Vĩnh Ký cũng mô tả trong chùa có nhiều cầu và xung quanh là hành lang có mái che. Những tấm ảnh chụp của sĩ quan quân y Pháp là Hocquard năm 1884 cho thấy chùa bề thế và có nhiều nhà ngang, dãy dọc.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...g/09/11/14.jpg
Chùa Báo Ân - Ảnh: DR Hocquard
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic.../09/11/15c.jpg
Tháp chùa Báo Ân - Ảnh: DR Hocquard
Trong một bức họa đăng trên Hà Nội báo (Ha Noi Journal) năm 1890 của Voignier vẽ cảnh phía đông hồ cho thấy còn cổng tam quan và tháp Hòa Phong nằm gần mép hồ. Tháp hiện vẫn còn. Tháp cao 3 tầng, tầng 1 có 4 cửa nên còn gọi là tứ môn tháp, một kiến trúc thường thấy trong các công trình của Phật giáo. Tầng một có 4 cửa vòm, tầng 2 có hình bát quái, dưới bát quái trên 4 vòm là tên từng cửa: Báo Ân môn, Báo Nghĩa môn, Báo Đức môn và Báo Phúc môn. Tầng 3, trên mặt đông-tây có ghi tên tháp là Hòa Phong nhưng 2 mặt bắc-nam lại ghi Báo Thiên tháp. Báo Thiên tháp do triều Lý xây năm 1057 (nay là khu vực Nhà thờ lớn). Tháp cao 12 tầng (khoảng 80 mét), bị sét đánh năm 1322, năm 1426, tướng giặc Minh là Vương Thông sai phá tháp lấy đồng đúc đạn. Có thể các nhà chủ trương xây chùa Báo Ân ghi chữ Báo Thiên tháp là nhớ về một công trình vĩ đại của đời trước đã bị phá?
Tháp Hòa Phong là nơi hội tụ tinh thần của 3 tôn giáo: Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo (tam giáo đồng nguyên) vốn tồn tại ở các triều đại phong kiến trước đó. Chùa được dân ca tụng:
Gần xa nô nức tưng bừng
Vào chùa Quan Thượng xem bằng động tiên
Lầu chuông gác, trống hai bên
Trông ra chợ mới Tràng Tiền kinh đô
Khen ai khéo họa dư đồ
Sau lưng Đồn Thủy, trước hồ Hoàn Gươm
Phong quang cảnh trí trăm đường
Trong xây chín giếng ngoài tường lục lăng
Rõ mười cử động tưng bừng
Đền vàng cửa ngọc chất từng như nêm.
Bài thơ này ra đời khi thực dân Pháp đã được triều Nguyễn cho đóng quân ở Đồn Thủy (khu vực Bệnh viện 108 hiện nay) và cũng cho thấy chùa còn nguyên vẹn.
Đốt nhà dân, cướp phá chùa
Năm 1883, Pháp chiếm được Hà Nội và lấy chùa làm cơ quan hậu cần. Thấy trong chùa có nhiều hình tượng của điện diêm cung dưới địa ngục nên lính Pháp gọi là "pagode des supplices" (chùa khổ hình). Hồi ký của một viên quan viết rằng cha ông ta là Thống sứ Bắc Kỳ có lấy một pho tượng Kim Cương lớn ở chùa Báo Ân đem về bày ở phòng khách gia đình ở Paris. Trong thời gian đóng ở chùa, đám binh lính đã cậy phá gạch đá, đập vỡ các tượng lớn và lấy cắp các tượng nhỏ làm kỷ niệm.
Tháng 11.1885, công việc đổ đất, cạp hồ Gươm và lấp các chỗ trũng bắt đầu. Trong một bức thư gửi cho một người bạn, Toàn quyền De Lanessan viết để kịp khánh thành con đường vòng quanh hồ đúng vào dịp Tết năm 1892, ông ta ngầm ra lệnh đốt các nhà lá quanh hồ. Đêm 22.1.1891, 300 nóc nhà ở Cầu Gỗ, Hàng Bè, Hàng Mắm, Hàng Thùng, Hàng Vôi đã cháy trụi. Đêm ngày 28.1.1891, vụ cháy thứ hai tiêu hủy cả thôn Cự Lâu. Chùa Báo Ân chỉ là mảnh đất hoang tàn. Nguyễn Khuyến trở lại Hà Nội, trước cảnh hoang tàn quanh hồ và các tòa nhà do thực dân Pháp xây dựng ở phía đông, ông đã viết bài Cảm đề:
Ba chục năm trở lại hồ
Bây giờ cảnh sắc khác ngày xưa
Nhà tranh đâu cả toàn lầu gác
Súng lạ đì đòm tịt trúc tơ
Chim chóc đi về lầm lối cũ
Cốc cò chiều tối ngủ sương mưa
Đáng thương văn vật trăm năm ấy
Còn lại bên hồ một đá trơ.
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 4: Từ “hỏa đài” tới Bưu điện Hà Nội
12/09/2010 0:01
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic.../logo1000a.jpg
Hơn một trăm năm trước, những con tem, bức điện báo đầu tiên gửi đi từ Bưu điện Hà Nội không dành cho người Việt. Và khi người Việt đầu tiên kiện vụ "xâm phạm bí mật thư tín", tòa án cũng không đứng về phía nguyên đơn...
Bưu điện Hà Nội được thực dân Pháp thành lập từ năm 1884, ngay sau khi triều Nguyễn ký hiệp ước đầu hàng, chấp nhận chế độ bảo hộ. Vị trí của Bưu điện Hà Nội là nền chùa Báo Ân cũ. Bốn dãy nhà hai tầng được dựng lên, phía bắc tiếp giáp với phố Lê Thạch, mặt chính là phố Đinh Tiên Hoàng, phía nam là phố Đinh Lễ, còn phần hậu của bưu điện là Bắc Bộ phủ. Công trình có kiến trúc đơn giản, cầu thang gỗ, phía trên lợp ngói ardoise màu đen.
Trước khi thực dân Pháp đưa điện tín, điện báo và thư từ vào Việt Nam để phục vụ cho việc cai trị của họ thì các triều đại phong kiến trước đó đã sử dụng cờ, đèn, kèn, trống, ngựa, thuyền, chim câu… để làm phương tiện truyền thông tin. Hình ảnh người cầm cờ tín hiệu trên mũi thuyền cong khắc trên trống đồng có thể là dấu hiệu của việc truyền tin bằng cờ hiệu. Quanh thành Cổ Loa vẫn còn di tích các "hỏa đài", đây cũng là những di chỉ thể hiện cách thông tin thời xưa. Theo truyền thuyết, trên đỉnh núi Bài Thơ (tên cũ gọi là "núi Truyền đăng" hay "núi Rọi đèn" ở Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh) có phiến đá lớn dùng làm chỗ đốt lửa báo hiệu khi có biến ở biên thùy. Với cách này, các đồn binh thấy lửa cháy trên núi sẽ chuyển tiếp thông tin về triều đình để vua, quan kịp thời ứng phó.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic.../09/11/p8d.jpg
Bưu điện Hà Nội xưa nhìn từ vườn hoa Paul Bert - Ảnh tư liệu
Thế kỷ 17, thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vẫn sử dụng cách đốt lửa. Nguyễn Hữu Dật, một tướng giỏi nhà Nguyễn, cũng xin lập "lạp đài" ở các cửa biển Quảng Bình để báo tin cho nhanh. Nhiều triều đại phong kiến còn lập trạm trên tuyến đường bộ, đường thủy làm nơi chuyển tiếp chiếu chỉ, lệnh dụ… tới khắp nơi. Trạm sử dụng ngựa, thuyền và các phương tiện khác để đảm bảo những yêu cầu về thời gian và an toàn trong suốt hành trình của phu trạm. Người của trạm, từ đội, lính hay phu vận trang phục như lính chiến triều đình. Ngựa được tuyển chọn kỹ càng và luôn sẵn sàng lên đường; khi phu trạm trước đến là người, ngựa phi ngay đến trạm tiếp theo. Thời kỳ đầu triều Nguyễn, tên trạm được xác định bằng cách ghép tên tỉnh với tên thôn nơi đặt trạm. Dưới triều vua Minh Mạng (1820 - 1841), trên địa bàn Hà Nội có hai trạm: Hà Trung ở thôn Yên Trung, tổng Tiền Nghiêm (sau đổi thành Vĩnh Xương), huyện Thọ Xương (nay là phố Hà Trung, quận Hoàn Kiếm); Hà Mai, nằm ngay trên đường Trương Định ngày nay. Khi thực dân Pháp xây dựng hệ thống bưu điện, các trạm bị hủy bỏ.
Con tem đắt hơn 1 cân gạo
Trong năm 1884, người Pháp chỉ mới lập ra Bưu cục Hà Nội cùng với các bưu cục Nam Định, Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây và Ninh Bình để phục vụ thông tin liên lạc cho bộ máy cai trị. Hoạt động của bưu cục chủ yếu là nghiệp vụ bưu chính, chuyển thư từ và công văn. Trước đó năm 1883, Toàn quyền Đông Dương đã cho phát hành con tem đầu tiên ở Việt Nam; tem có hình chim phượng hoàng, biểu tượng của Hoàng đế Napoléon đệ tam. Việc sử dụng tem khi ấy rất hạn hẹp, chỉ trong công sở, giới quan chức và số ít người giàu có. Cước rất cao, một con tem trong nước là 4 xu, giá một tiếng điện báo là 6 xu, trong khi một cân gạo giá 3 xu. Năm 1886, thực dân Pháp cho phát hành con tem đầu tiên dùng cho Nam kỳ và đến năm 1889 thì phát hành tem dùng chung cho ba nước Đông Dương. Cuối năm 1884, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương còn cho xây đường dây hữu tuyến Hà Nội - Sài Gòn dài gần 4.000 km và hoàn thành vào năm 1888. Cũng trong thời kỳ này, họ xây dựng đường dây Hà Nội - Hải Phòng. Năm 1888, thông tin điện báo được thiết lập giữa Hà Nội với Sài Gòn, Vinh, Huế và Đà Nẵng. Năm 1889, Bưu điện Hà Nội có đầy đủ các hình thức hoạt động: bưu chính, điện báo, điện thoại.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic.../09/11/p8e.jpg
Hình một số con tem được sử dụng tại Đông Dương thời Pháp thuộc - Ảnh tư liệu
Làm việc trong các bộ phận của Bưu điện Hà Nội chủ yếu là người Pháp hoặc người ở các nước thuộc địa do họ tuyển. Nhân viên người Việt hầu hết là người vào "làng Tây", cai hoặc lính đã giải ngũ. Tất cả những người Việt làm trong ngành phải tuyên thệ trước tòa sơ thẩm. Lời tuyên thệ của mỗi người được ghi vào biên bản tòa án và lưu trong hồ sơ cá nhân. Nội dung như sau: "Tuyệt đối giữ bí mật những điều đọc được ở bức điện công hay tư, một công văn hay một bức thư. Nghe được cuộc điện thoại không nói cho ai biết dù là đồng nghiệp. Nếu vi phạm bí mật sẽ bị phạt tù". Lương của nhân viên người Việt chỉ bằng một phần mười, thậm chí một phần hai mươi so với nhân viên người Pháp. Thời kỳ đầu, bưu tá của Bưu điện Hà Nội sử dụng xe người kéo đi phát thư. Bưu điện đã chọn những người kéo xe tay trẻ khỏe vì nhiều khi gia đình nhận thư xa trung tâm. Họ được trả công tùy theo độ dài của quãng đường. Những năm 1920, khi xe đạp được nhập vào Việt Nam thì mỗi bưu tá được giao một chiếc xe có gióng ngang làm chỗ để treo xà cột bằng da.
Năm 1917, Bưu điện Hà Nội bắt đầu tổ chức bưu chính nông thôn. Tuy nhiên, đối tượng nhận vẫn chỉ là cấp chính quyền xã hay huyện. Năm 1922, người Pháp tiến hành xây dựng đài phát vô tuyến tại Ngã Tư Vọng (nay là khu tập thể 128C phố Đại La) và tại số 4 Phạm Ngũ Lão (nay là Trung tâm Khí tượng - Thủy văn quốc gia) để liên lạc với Paris. Ngoài ra, đài này còn thông báo giá vàng, tỷ giá giữa đồng franc và đồng bạc Đông Dương. Năm 1930, một người Việt Nam tên là Trần Văn Sáng đã kiện Bưu điện Hà Nội, lý do là khi nhận được thư của người thân từ Sài Gòn gửi ra, anh này thấy thư bị bóc đã cương quyết không ký vào sổ của viên bưu tá. Vụ kiện không mang lại phần thắng cho anh vì tòa án đứng về phía bưu điện.
Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7.5.1954 đã buộc Chính phủ Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán tại Genève với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, rút toàn bộ quân khỏi Đông Dương. Ngay sau khi tiếp quản thủ đô vào sáng 10.10.1954, công việc bàn giao Bưu điện Hà Nội được tiến hành theo thỏa thuận trước đó. Mặc dù đã thống nhất phải để lại nguyên trạng Bưu điện Hà Nội, nhưng một số thiết bị tại đây đã bị phá hủy, một số khác bị người Pháp mang đi và trên thực tế chỉ còn một tổng đài điện thoại 1.500 số với gần 600 thuê bao.
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 5: Người phụ nữ 28 năm chỉnh giờ đồng hồ
12/09/2010 22:45
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...-15afgg555.jpg
Đồng hồ Bưu điện Hà Nội - Ảnh: Trường Sơn
Tuổi trẻ của bà Lê Thị Yến gắn liền với chiếc đồng hồ trên nóc nhà Bưu điện thành phố, khi tiếng chuông của nó còn là nỗi xúc động và sự chờ mong của bao người Hà Nội.
Công trình xây dựng “Nhà bưu điện mới” do Trung Quốc viện trợ được đặt tên là 7138. Theo cách viết của người Trung Quốc, 7138 nghĩa là công trình bắt đầu từ ngày 8.3.1971. Nhà giao dịch hai tầng mặt phố Đinh Tiên Hoàng bị đập bỏ, thay vào đó là tòa nhà 5 tầng và trên nóc đặt một chiếc đồng hồ. Năm 1976, tòa nhà dài 51 mét, trát đá rửa cơ bản hoàn thành. Bên trong không có đường nét uốn lượn. Bên ngoài nặng nề và thô vụng. Các kiến trúc sư lắc đầu vì công trình này phá vỡ sự mềm mại nhẹ nhàng của không gian phía đông hồ Gươm với nhiều công trình có kiến trúc nhẹ nhõm, sang trọng.
Chăm sóc “biểu tượng Hà Nội”
Trước khi chiếc đồng hồ trên nóc nhà bưu điện trung tâm xuất hiện thì Hà Nội có khá nhiều đồng hồ nằm rải rác ở các phố. Song đáng kể nhất là chiếc đồng hồ ở tháp chuông Nhà thờ lớn và nhà chính của ga Hà Nội. Cả hai chiếc chạy rất chính xác. Nhưng ngày 26.12.1972, Mỹ rải thảm bom bằng B52 đã phá tan chiếc ở ga Hà Nội.
Sau khi lắp xong chiếc đồng hồ trên nóc nhà trung tâm, các chuyên gia Trung Quốc thấy Lê Thị Yến còn trẻ lại nhanh nhẹn nên đề nghị bưu điện để Yến trông coi chiếc đồng hồ. Giám đốc Bưu điện Hà Nội là ông Nguyễn Minh Chí đồng ý. Đồng hồ được sản xuất tại Trung Quốc và theo các chuyên gia, mẫu này chỉ sản xuất có 2 chiếc. Bốn mặt giống hệt nhau quay về bốn hướng: đông, tây, nam, bắc. Mặt đồng hồ hình vuông, mỗi chiều 4,5 mét. Phía dưới có 16 chiếc loa chĩa về 4 hướng. Lễ khánh thành chiếc đồng hồ diễn ra vào đúng 11 giờ trưa ngày 2.9.1978. Bản nhạc Ca ngợi Hồ Chủ tịch với nhịp điệu chậm vang xa làm nhiều người Hà Nội trong cả một khu vực rộng lớn xúc động. Phó đoàn chuyên gia Trung Quốc tham gia xây dựng Bưu điện, ông Vương Ngọc Dung trước khi rút khỏi Việt Nam đưa cho Lê Thị Yến sơ đồ của chiếc đồng hồ rồi bảo vẽ lại. Yến thức trắng một đêm và hôm sau mang đến trước sự ngạc nhiên và thán phục của chuyên gia. Rồi đoàn chuyên gia mang theo sơ đồ chính chiếc đồng hồ về nước sau khi bàn giao một ngày.
Từ hôm ấy người phụ nữ rắn rỏi sinh ở ra ở Thái Bình đảm trách đời sống chiếc đồng hồ này. Hằng ngày, Yến có trách nhiệm chỉnh giờ sao cho chiếc đồng hồ chạy chính xác. Nhưng do không có thiết bị máy móc nên không biết thế nào là chính xác, bởi vậy thỉnh thoảng, Yến lại đạp xe đạp đến Nhà thờ lớn, lấy giờ chiếc đồng hồ đeo tay theo giờ của đồng hồ trên tháp nhà thờ mang về so sánh. Rồi tháng đôi lần, Yến đạp xe cách bưu điện mấy cây số để kiểm tra tiếng chuông và nhạc có vang xa không. Rồi lúc nào cũng lo tra dầu mỡ, chỉnh thanh đồng cho tiếng chuông trong hơn…
Bà Yến hiểu chiếc đồng hồ không chỉ để xem giờ mà nó đã trở thành "biểu tượng của Hà Nội". Nhà bà ở ngách 15, ngõ Thổ Quan, phố Khâm Thiên. Cái ngách sâu hoắm chật hẹp, nhà cửa san sát và cũng thường xuyên tắc nghẽn, cách bưu điện mấy cây số, nhưng dù là nghỉ lễ hay nghỉ chủ nhật, nếu không nghe tiếng nhạc, tiếng chuông là vội vã phóng ngay đến cơ quan để xem sự thể ra sao. Trong suốt 28 năm trông coi chiếc đồng hồ thì 20 năm liên tục bà Yến phải leo lên, leo xuống cầu thang cao chót vót vì thang máy không sử dụng được.
Còn đâu tiếng chuông, tiếng nhạc...
Không chỉ chăm chút, lo lắng cho chiếc đồng hồ "mẹ" mà bà Yến cùng anh chị em tổ viên còn phải lo 7 chiếc đồng hồ con mà chiếc đồng hồ mẹ có trách nhiệm truyền tín hiệu đến, lắp ở những địa điểm khác nhau trong thành phố. Gần là Bách hóa Tổng hợp, xa thì tận dưới Mơ và ngã tư Sở. Khi nhà khách Chính phủ xây dựng thêm đơn nguyên cao 5 tầng thì mặt đông của chiếc đồng hồ bị che lấp và người đi trên đường Lý Thái Tổ không thể xem được giờ, nhiều ngày liền bà đã khóc thầm. Thiệt thòi cho người dân đã đành, song đáng nói là làm mất giá trị của chiếc đồng hồ.
Chồng bà Yến cũng làm cùng cơ quan và theo quy định của thời bao cấp, vợ chồng được phân phối nhà tập thể. Song gần đến ngày phân chia, chồng bà lại "được" điều đi Huế lắp tổng đài. Xong việc quay trở ra thì việc phân chia đã đâu vào đấy, "vợ chồng đồng chí Yến chờ đợt sau nhé". Tuy nhiên, bà cũng không phàn nàn vì "nhà mình tuy không rộng nhưng còn có chỗ riêng tư, nhiều anh chị em vẫn phải ở chung với bố mẹ, chật chội lắm". Năm 2006, trước khi nghỉ hưu, bưu điện cho bà Yến đi du lịch Trung Quốc. Ngồi trên xe buýt, bà cũng ngó nghiêng, đến thành phố nào cũng nhờ phiên dịch hỏi đồng hồ công cộng to nhất đặt ở chỗ nào. Nếu có, bà tìm mọi cách đến bằng được xem nó có phải là anh em với chiếc đồng hồ mà bà đã gắn bó cả đời không. Trước khi về hưu bà vẫn tự hỏi, Việt Nam và Trung Quốc đã nối lại quan hệ từ năm 1992 nhưng sao không thấy ai trong tổ chuyên gia quay lại thăm chiếc đồng hồ do họ lắp đặt xem nó sống chết thế nào.
Bây giờ chiếc đồng hồ vẫn chạy tốt. Dù có đeo đồng hồ trên tay nhưng ai cũng ngước lên xem giờ rồi so với đồng hồ họ đang đeo nếu đi qua hồ Gươm. Còn bà Yến, hễ có ngày nào rảnh rỗi hay có việc phải ra đường, bà vẫn phóng lên bờ Hồ, chỉ có điều bà không vui như ngày xưa, bởi bây giờ người đông, xe máy ô tô chạy ầm ầm, đâu còn nghe thấy tiếng chuông, tiếng nhạc...
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 6: Truyền kỳ hồ Gươm
13/09/2010 23:54
“Khen ai khéo họa dư đồ Trước sông Nhị Thủy sau hồ Hoàn Gươm”
Thăng Long qua các triều Lý, Trần, Lê có rất nhiều hồ như: Thanh Giám, Thái Cực, Tú Uyên, Kim Âu, Chu Tước, Huy Văn... Nhưng lớn nhất là hồ Lục Thủy (tức hồ Gươm ngày nay).
Lục Thủy là dấu tích của đầm bị cát bồi lấp kéo dài xuống tận phố Hàng Chuối hiện nay. Phía bắc Lục Thủy tiếp giáp với hồ Thái Cực bị ngăn bởi thôn Minh Hương (nay là phố Cầu Gỗ). Phía tây ăn tới tận Nhà thờ Lớn hiện nay. Khi chúa Trịnh cho xây phủ chúa và lầu Ngũ Long thì Lục Thủy bị ngăn làm hai, phía bắc gọi là Tả Vọng, còn phía dưới gọi là Hữu Vọng. Con đường đi từ phủ Chúa sang lầu Ngũ Long là phố Hàng Khay hiện nay.
Nguyễn Văn Siêu đã từng bật lên cảm xúc trước vẻ đẹp của hồ Gươm:
Nhất trản trung phù địa
Trường lưu đảo tải thiên
Ngư châu xuân tống khách
Hồi trạo túc hoa thiên
Dịch nghĩa:
Một chén giữa lòng đất nổi
Nước dài chở lật trời
Thuyền câu ngày xuân đưa khách
Quay chèo về ngủ bên hoa
Năm 1952, chính quyền thành phố tổ chức hội chợ bắt đầu từ Thủy Tạ kéo đến nhà Khai Trí Tiến Đức giới thiệu và bán nhiều loại hàng hóa. Người ta còn bắc cả cầu phao ra tháp Rùa để khách có thể ra chơi và chụp ảnh lưu niệm. Năm 1992, sau 115 năm tồn tại, tháp Rùa được UBND TP Hà Nội cho trùng tu.
Không gian thơ mộng lãng mạn của hồ Gươm làm cho Trịnh Giang, vốn là vị chúa thích ăn chơi, đã cho xây Tả Vọng đình trên Gò Rùa làm nơi hóng mát về mùa hè. Khi triều Nguyễn lên nắm quyền thì Tả Vọng đình đã đổ nát. Theo truyền thuyết, Gò Rùa là đất "vạn đại công khanh", nhà nào để được hài cốt vào đó thì con cháu muôn đời làm quan. Chính vì thế, ông Nguyễn Hữu Kim (thường gọi là Bá Kim, 1832 - 1901), khi đó là hào mục của thôn Cựu Lâu (nay là khu vực phố Hàng Khay, Hai Bà Trưng và đầu phố Bà Triệu) đã "lo lót" Kinh lược sứ và cả viên quan Pháp chỉ huy đội quân đóng ở Đồn Thủy để xây tháp làm "hậu chẩm" cho chùa Báo Ân. Tháp Rùa được xây vào khoảng năm 1877.
Dân gian truyền rằng, khi bắt đầu xây móng, ông Bá Kim chờ đêm khuya mới cho người nhà mang hài cốt của cha mẹ đựng trong quách chôn giữa gò. Nhưng hôm sau thì chỉ còn quách mà không còn cốt. Dù không còn cốt song việc xây tháp không thể dừng nên ông Bá Kim buộc phải xây tiếp. Khi Tổng đốc Hoàng Diệu tự vẫn trước lúc quân Pháp chiếm thành Hà Nội ngày 25.4.1883 thì chính ông Bá Kim cùng với những người yêu nước đã lén lấy xác Hoàng Diệu mang đi chôn gần miếu Trung Liệt (sau gò Đống Đa hiện nay), rồi sau đó lại di ra Dinh Đốc học (Nhà máy xe đạp Thống Nhất sau này). Tháp Rùa có 3 tầng và không phải là công trình kiến trúc đặc sắc nhưng làm cho hồ Gươm đỡ trống trải và bớt đơn điệu. Sau khi Pháp chiếm Hà Nội năm 1883, Công sứ Bắc Kỳ là Bonnal đã cho quy hoạch lại khu vực hồ Gươm. Hồ bị lấp bớt và diện tích hồ chỉ còn lại 12 ha như hiện nay.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...9/15/15-15.jpg
Hồ Gươm nhìn từ tháp Hòa Phong - Ảnh: T.L
Năm 1883, con đường quanh hồ chưa hình thành nên để bớt nguy hiểm, phóng viên của tờ Le Temps và hãng thông tấn Havas ở bên này hồ trong một ngôi chùa nhỏ, còn phóng viên của Le Figaro ở bờ bên kia; để thăm nhau họ đi thuyền qua hồ. Cũng trong năm 1883, Cao ủy Harman khai trương đua thuyền trên hồ Gươm bằng chiếc thuyền độc mộc có mái che với 10 người chèo. Khách sạn Grand Hotel (nay là khu vực siêu thị Intimex) - khách sạn sang trọng đầu tiên ở Hà Nội, được khánh thành vào năm 1886 với 50 phòng ngủ và bàn billard, đã mua 2 chiếc ca nô để chở khách ngắm cảnh trên hồ khi hoàng hôn buông xuống. Hồ Gươm thời kỳ này còn có hoạt động đua thuyền gỗ và thuyền thúng dành cho người Việt. Điểm xuất phát là đền Ngọc Sơn, sau đó đua một vòng quanh hồ. Vì hồ đẹp nên thu hút rất nhiều người Hà Nội đến đây hóng gió, ăn kem và nhiều chuyện không hay diễn ra nên thi sĩ Tản Đà có câu:
Bờ Hồ những gió cùng trăng
Những trăng cùng gió lăng nhăng sự đời
Vào những năm 1930, các cô gái thất tình hay ra hồ Gươm tự vẫn. Trước những chuyện tình éo le, năm 1938, một nhà văn đã dựa theo phóng sự trên báo viết về chuyện tình của cô Phượng với kết cục bằng cái chết ở hồ Hoàn Kiếm để viết thành vở Mồ cô Phượng. Vở kịch này thu hút khá đông khán giả bình dân.
Khoảng năm 1951, mật thám Pháp bắt được một người treo cờ đỏ sao vàng trên đỉnh tháp Rùa, chính quyền đem ra xử, luật sư Vũ Văn Hiền nhận bào chữa giúp không lấy tiền công. Luật sư Hiền học luật ở Pháp, ông là một trong mấy chục trí thức lớn cùng thời với Hoàng Xuân Hãn, bác sĩ Trần Văn Lai, Phạm Khắc Quảng, luật sư Nguyễn Mạnh Hà... ở Hà Nội trong nhiều năm liền, mỗi tháng bí mật góp 500 đồng Đông Dương, thuốc kháng sinh và các báo xuất bản ở Pháp để chính phủ kháng chiến biết tình hình thế giới. Khi người treo cờ bị tòa kết án tù chung thân, ông Hiền cãi: “Cờ đỏ sao vàng được Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua, Quốc hội là do dân bầu, mặt khác cho đến năm 1951 vẫn chưa có quyết định nào xóa bỏ cờ đỏ sao vàng nên việc treo cờ là không sai. Thưa quý tòa, cờ ba sọc được coi là cờ quốc gia nhưng nó không được Quốc hội nào thông qua, sao lại bảo treo cờ đỏ sao vàng là có tội ?” Tòa bí nhưng vẫn cố: “Treo cờ đỏ sao vàng khiến dân chúng tập trung quanh hồ Gươm gây mất an ninh trật tự nên tòa phạt”. Luật sư Hiền lại cãi: “Dân chúng đâu có mất trật tự, họ đứng quanh hồ Gươm vỗ tay mừng lá cờ được Quốc hội thông qua lâu lắm mới xuất hiện lại chứ đâu có làm gì mà tòa bảo làm mất an ninh trật tự?”. Trước những lý lẽ đầy thuyết phục nói trên, tòa đành phải tha bổng người treo cờ.
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 7: Hai cậu bé đốt cầu Thê Húc
14/09/2010 23:59
Đền Ngọc Sơn và cầu Thê Húc không chỉ là nơi ghi dấu văn chương, mà còn là biểu tượng của một thành đô không chịu khuất phục cường quyền ngoại xâm.
Nhà Trịnh suy vong, Lê Chiêu Thống trả thù bằng cách đốt cung Khánh Thụy, nơi dùng để yến ẩm cho chúa Trịnh Giang trên núi Ngọc vào năm 1786. Sang thế kỷ XIX, một ngôi chùa được dựng lên trên nền cung Khánh Thụy. Năm 1843, chùa đổi thành đền, thờ Văn Xương, Trần Hưng Đạo và Quan Vũ (một danh tướng thời Thục - Hán, Trung Quốc). Năm 1864 hoặc 1865, Nguyễn Văn Siêu - nhà thơ lớn đất Thăng Long và cũng là một trong 4 người được vua Tự Đức khen: "Văn như Siêu,Quát vô tiền Hán. Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường" - đã đứng ra tu sửa lại toàn bộ khu đền. Không chỉ là nhà văn, Nguyễn Văn Siêu còn là nhà thơ và nhà nghiên cứu văn hóa. Ông có câu nói nổi tiếng mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị: "Có hai loại văn chương, loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú vào văn chương. Còn loại đáng thờ là loại chuyên chú vào con người".
Nguyễn Văn Siêu cho dựng đình Trấn Ba, xây tháp đá ngoài cổng cao 9 mét, đỉnh tháp là ngọn bút lông gọi là Tháp Bút, phần thân tháp, ông tạc ba chữ "Tả thiên thanh” (viết lên trời xanh). Nguyễn Văn Siêu cũng cho xây thêm Đài Nghiên và sửa sang lại cầu đặt tên là Thê Húc (giọt ánh sáng đậu lại). Cuối đời vua Tự Đức, khi các kỳ thi Hương được tổ chức ở Hà Nội thì đền Ngọc Sơn đông nghịt sĩ tử vào lễ vì đền thờ Văn Xương chủ về văn học. Do quá đông nên nhiều sĩ tử phải trọ ở phố Cầu Gỗ chờ đến ba ngày mới vào được. Hằng ngày có một ông già chuyên đi các phố nhặt hết các giấy có chữ Nho mang về đây đốt ở miếu nhỏ bởi có quan niệm chữ Nho là chữ thánh hiền, giấy có chữ Nho không nên dùng để gói hoặc để chùi.
Đốt cầu Thê Húc
Sau khi hạ được thành Hà Nội, đền Ngọc Sơn trở thành nơi ở của một viên quan tư. Ban ngày, có một đám lính canh xua tất cả những ai lại gần. Và cấm tuyệt đối dân vào đây cúng lễ. Trước cảnh ngang trái ấy có một học trò tên là Nguyễn Văn Minh, 17 tuổi, đang theo học chữ Nho cùng một người bạn 14 tuổi là Đức Nghi, nhà ở phố Hàng Dầu (phố chuyên bán dầu thực vật), nảy ra ý định đốt cầu Thê Húc. Khoảng nửa đêm ngày 30.9.1887, Minh và Nghi lẻn vào cầu vì lính canh đã rút vào đền. Hai người nhét sẵn giẻ, giấy bản và bấc đèn tẩm dầu đã chuẩn bị sẵn vào khe ván trên mặt cầu rồi rải than hoa (than củi) đang cháy. Xong việc cả hai nhanh chóng về nhà. Giẻ dầu gặp than lại có gió bắc thổi đã bùng lên và khi lính trong đền phát hiện thì cầu đã thành tro.
Ngày hôm sau, lính Pháp phải chuyển đồ của viên quan tư đi nơi khác không dám ở đây nữa. Quân Pháp đóng ở đền Trấn Quốc, chùa Châu Long và đình làng Yên Phụ vội vã rút quân đi chỗ khác. Nhưng do còn quá trẻ, Đức Nghi đã kể chuyện đốt cầu cho một người bạn và cậu này kể lại với bố. Có ngờ đâu bố cậu bé đã báo cho quan Pháp, thế là hai ngày sau Minh bị bắt. Còn Nghi do chưa đến tuổi thành niên nên được tha. Nguyễn Văn Minh bị bắt tù rồi sau đó Pháp đưa vào nhóm tải đạn, tải lương phục vụ cho lính Pháp đánh chiếm các tỉnh miền núi phía Bắc. Mùa đông năm 1888, Minh bị đầy lên Thái Nguyên theo cuộc hành quân của lính viễn chinh đánh vào chợ Chu. Minh trốn thoát nhưng vì không thông thạo địa hình cuối cùng bị bắt lại và bị tử hình. Năm đó Minh tròn 18 tuổi.
Nơi truyền bá của Đông Kinh Nghĩa Thục
Trong 3 năm từ 1904-1906, Hà Nội bị dịch hạch. Nguyên nhân là do những người Hoa được chủ Pháp tuyển mộ ở Quảng Châu để làm đường sắt Vân Nam đi qua Hà Nội lây bệnh cho dân. Chính quyền đưa tất cả người bị mắc bệnh vào Văn Miếu để cách ly, đồng thời ra lệnh đốt hết quần áo, đồ đạc của các gia đình có người bị dịch mà không hề hỗ trợ kinh phí. Trước hành động mang tính cưỡng bức ấy, mấy trăm văn thân Hà Nội vào đền Ngọc Sơn họp bàn để làm đơn khiếu nại lên chính quyền thành phố. Cảnh sát biết chuyện đã đưa quân đến đàn áp. Trong lúc nguy nan ấy, có người nấp dưới gầm cầu Thê Húc, có người trèo lên cây đa, lại có người bơi qua hồ. Cảnh sát thu một đống áo, giày, mũ mang về sở và vài ngày sau đem bán đấu giá sung công.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...tlp14-15a1.jpg
Cầu Thê Húc xưa - Ảnh: Tư liệu
Đền Ngọc Sơn cũng từng là nơi những người tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục đến truyền bá tinh thần dân tộc, đổi mới xã hội và lòng hướng thiện. Sau khi phong trào bị Pháp đàn áp và bắt những nhà Nho có tư tưởng chống đối, đền lại trở thành nơi giảng Kinh đạo Nam với nội dung không khác nhiều với tư tưởng Đông Kinh Nghĩa Thục. Những người chủ trương đưa nội dung bỏ hủ tục, theo cái mới, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường đồng thời hô hào quốc dân thức tỉnh thông qua thơ lục bát, ca trù cho người nghe dễ thuộc và nhanh nhập tâm. Người chép ra Kinh đạo Nam là Nguyễn Đồ Tỉnh (còn gọi là đồ Tỉnh), một nhà Nho tiến bộ quê ở Xuân Trường, Nam Định. Năm 1920, Kinh đạo Nam bị cấm thì Hội Hướng thiện lại giảng Kinh Tâm Pháp trong đền, cái lõi của kinh này là khuyên con người tin ở thần thánh và nhân ái, bao dung trong cuộc sống. Sau đó Hội Hướng thiện mất dần sinh khí do bị chính quyền dọa nạt, phần khác do thời thế đã thay đổi nên hoạt động của hội trong đền chỉ là tụng niệm và cúng lễ.
Tết Nhâm Thìn 1952, cầu Thê Húc bị sập vì dân vào lễ đền quá đông. Mấy chục người ngã xuống hồ, may nước cạn nên không ai thiệt mạng. Chính quyền thành phố lúc đó đã cho phá bỏ cầu cũ, tìm thiết kế mới và trong bản thiết kế của cả người Pháp lẫn người Việt thì thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Diệm (1908-1999) được lựa chọn. Cầu Thê Húc mới có hai hàng cọc, mỗi bên 15 trụ bằng bê tông cốt thép, các đầu trụ được vuốt nhọn như gợi nhớ lại chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng xưa. Dầm ngang và dầm dọc cũng bằng bê tông, mặt và thành cầu bằng gỗ. Đó là công trình đẹp, phù hợp với cảnh quan và không gian hồ Gươm.
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 8: Xẩm chợ Đồng Xuân
16/09/2010 2:57
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...4-15a2hh44.jpg
Chợ Đồng Xuân thời xưa - Ảnh: Tư liệu
Xẩm xuất hiện ở Hà Nội vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và đầu tiên người ta được thấy những người khiếm thị ê a trước cửa chợ Đồng Xuân.
Hà Nội như động tiên sa
Sáu giờ tắt hết đèn xa đèn gần
Vui nhất có chợ Đồng Xuân
Mùa nào thức nấy, xa gần xem mua
Cổng chợ có chị hàng dừa
Hàng cau, hàng quýt, hàng dưa, hàng hồng...
Ai ơi đứng lại mà trông
Hàng vóc, hàng nhiễu thong dong rườm rà...
"Xẩm chợ Đồng Xuân" liệt kê gần như tất cả các mặt hàng bán trong chợ, không khí bán mua nhộn nhịp khiến người nghe thích thú.
Giữa năm 1889, chính quyền thành phố cho lấp đoạn sông Tô Lịch từ cửa sông Nhị Hà (sông Hồng) trở vào đến chân tường thành cổ, tạo nên một bãi đất rộng hàng chục héc-ta để mở mang phố phường và lập chợ vì hai chợ Bạch Mã, Cầu Đông trở nên chật chội. Chợ Đồng Xuân ban đầu họp trên bãi đất trống mới lấp xung quanh có căng dây để tiện thu thuế và không cản trở người đi lại. Năm 1890, công việc xây chợ có mái che bắt đầu. Trúng thầu cung cấp phần khung sắt là nhà thầu Poinsard Veyret (Pháp), còn thi công là một nhà thầu khác. Khung thép cao 19 mét và rộng 25 mét được đúc cầu kỳ làm cho chợ trở thành độc nhất vô nhị ở Việt Nam. Tổng diện tích chợ khoảng 6.500 mét vuông, tuy nhiên xung quanh chợ vẫn trống hoác và đến năm 1912, người ta mới cho xây tường xung quanh.
Lúc đầu chợ Đồng Xuân chỉ họp theo lối chợ phiên, hai ngày một phiên, nhưng về sau do nhu cầu phát triển kinh tế thương mại, chợ họp theo ngày từ sáng đến tối. Khi cầu Long Biên hoàn thành vào năm 1902 thì chợ Đồng Xuân trở thành tụ điểm buôn bán sầm uất không chỉ nổi tiếng nhất Hà Nội mà còn nổi tiếng cả Bắc kỳ, thu hút được sự chú ý của giới thương nhân nước ngoài, nhất là các nước Pháp, Tây Ban Nha, Ấn Độ... thường xuyên qua lại buôn bán. Cùng với hàng hóa do các vùng lân cận và nhiều tỉnh mang đến thì hàng hóa nhập khẩu cũng phong phú. Không chỉ hàng tiêu dùng mà cả cam, táo và nho tươi được các thương gia nhập từ Hồng Kông, San Francisco (Mỹ) về. Đồng Xuân cũng là nơi đặt văn phòng thương mại của người Pháp, Hoa, Ấn, Việt. Do nguồn hàng đa chủng loại nên Đồng Xuân không chỉ là chợ bán lẻ mà còn là đầu mối phân phối cho các tỉnh ở hầu hết Bắc kỳ. Từ năm 1937 đến 1939, trước cửa chính của chợ có một quầy bán công khai sách báo của Đảng Cộng sản Đông Dương do Phạm Văn Hải trông coi.
Nhà nghèo, mới hơn 10 tuổi, cậu bé Kông Tu Nghiệp người làng Phú Thượng (nay thuộc quận Tây Hồ) đã phải đến chợ Đồng Xuân dọn hàng thuê cho một chủ sạp bán thực phẩm. Thấy cậu bé dễ thương nên vợ chồng một người Pháp hay đến đây mua thực phẩm nhận về làm con nuôi. Bà người Pháp này - rất giỏi nấu nướng các món ăn châu Âu và am hiểu ẩm thực Hà Nội - đã dạy cho Nghiệp cách nấu các món ăn. Lớn lên, Nghiệp xin ra ở riêng và mở quán ăn ở phố Hàng Gai, sau đó chuyển xuống phố Hàng Trống và trở nên nổi tiếng khi mở nhà hàng Phú Gia (136 Hàng Trống).
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...-15a1jjjjj.jpg
Một nhóm hát xẩm - Ảnh: Tư liệu
Đồng Xuân không chỉ là nơi xuất xứ của phở bò - vốn trước đó là bún sáo trâu, sáo bò bán cho phu phen ngoài bến sông vào ăn, mà còn là một trong những nơi đầu tiên bán bún thang. Khoảng năm 1915, cụ Lê Thị Tho khi đó 20 tuổi đã mở quán bán bún thang ở chợ và quán nổi tiếng khắp Hà thành đến mức dân Tây "biết ăn rau muống, nằm võng ngâm Kiều" thường xuyên tìm đến chợ thưởng thức. Sau đó cụ Tho truyền nghề lại cho con gái là bà Đàm Thị Ẩm. Bà Ẩm nấu theo cách của mẹ truyền lại nên duy trì được sự nổi tiếng cho đến khi nghỉ bán hàng.
Vì cổng chợ ngày càng có nhiều nhóm hát xẩm nên một số nhóm đã tỏa đi các nơi trong thành phố. Khi đường tàu điện phát triển đến Hà Đông thì có nhóm “cắm rễ” ở bến tàu bờ Hồ (nay là bãi trông giữ ô tô phố Đinh Tiên Hoàng). Tuy nhiên nhiều nhóm vẫn bám trụ ở chợ Đồng Xuân và các khu vực xung quanh. Do người hát hầu hết đều bị khiếm thị nên họ lấy thơ lục bát có nội dung buồn hay éo le như: Lỡ bước sang ngang (Nguyễn Bính), Anh Khóa hoặc các bài ca dao nói về thân phận người nghèo, do đó dễ gây rung động cho người nghe. Sau một ngày mưu sinh vất vả, chiều xuống, vợ chồng con cái những gia đình hát xẩm tay chiếu tay nhị dắt díu nhau về bãi An Dương (nay thuộc quận Ba Đình). Những năm 1930, khu vực nói trên có tới mấy chục nhóm nên mới có tên là "xóm xẩm".
Ngày 2.9.1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời và việc đầu tiên mà nước cộng hòa non trẻ này tiến hành là "diệt giặc đói và giặc dốt", đồng thời người ta vận động người hát xẩm, dù không biết chữ, tham gia tuyên truyền bình dân học vụ. Xẩm Tiễu trừ giặc dốt ra đời trong thời kỳ này đã lôi cuốn người mù chữ tham gia các lớp học. Sau Hiệp định Genève lập lại hòa bình ở Đông Dương, các nhóm hát xẩm được mời tham gia sáng tác và đến các vùng duyên hải miền Bắc hát tuyên truyền chống dụ dỗ di cư vào Nam của địch. Có rất nhiều bài xẩm thời kỳ này nhưng cảm động hơn cả phải kể đến bài Ở quê có tổ có tiên. Nhà văn Thanh Tịnh được giao phụ trách nhóm gồm 23 anh chị em xẩm Hà Nội đến hát ở vùng Bùi Chu, Phát Diệm.
Ngày 19.12.1946, Bác Hồ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Hà Nội bước vào cuộc chiến đấu chống quân Pháp xâm lược. Ngày 14.2.1946, một trận chiến ác liệt đã diễn ra ở chợ Đồng Xuân và trong cuộc chiến không cân sức ấy có cả những thiếu niên đã anh dũng hy sinh. Ngày 14.7.1994, trận hỏa hoạn đầu tiên từ khi có chợ xảy ra, do các họng nước dành cho cứu hỏa khu vực này khô khốc nên xe cứu hỏa phải chạy xuống hồ Gươm lấy nước. Chợ bị thiêu rụi hoàn toàn với tổng thiệt hại là 150 tỉ đồng (tương đương 14 triệu USD). Tháng 10.1995, UBND TP Hà Nội cho xây lại chợ như hiện nay.
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 9: Nguồn gốc tên gọi ô Cầu Dền, ô Đống Mác
16/09/2010 23:16
Hai cửa ô phía nam Hà Nội là ô Cầu Dền và ô Đống Mác nằm cách nhau chừng 2.000m trên đường Trần Khát Chân, tức đoạn đê Bình Lao, thuộc đất Lãng Yên - Lạc Trung. Thời Pháp là con đường đánh số voie 222.
Từ Trung tâm Thương mại Tràng Tiền bên bờ Hồ Gươm, theo phố Hàng Bài (chừng 620m) rồi theo phố Huế (khoảng 1.200m), ta gặp ngã tư lớn nối phố Huế, Bạch Mai, Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt. Đây chính là vị trí của ô Cầu Dền ngày xưa.
Ô Cầu Dền là một cửa ngõ của kinh thành Thăng Long, xuất hiện trong sử từ thời Lý, thế kỷ XI - XII (Đại Việt sử lược, quyển II, III, NXB Sử học, Hà Nội, 1960). Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cho hay: trước đó, cái tên này đã xuất hiện ở cố đô Hoa Lư (Trường Yên, Ninh Bình) với tấm bia cổ, chiếc cầu đá bắc qua sông Hoàng Long và cũng là một cửa ngõ của kinh thành Hoa Lư. Vì lẽ đó, có tác giả đã cho rằng cái tên Ô Cầu Dền cũng như nhiều tên khác ở Hà Nội: Cầu Đông, Chợ Dừa, Đình Ngang... đã được Lý Thái Tổ mang từ cố đô Hoa Lư ra kinh đô mới Thăng Long cách đây nghìn năm trước.
Một truyện khác, Sự tích cửa ô Cầu Dền lại chép: đời nhà Mạc, ở làng Kim Liên có một người học trò cha mẹ chết sớm, nhà nghèo, phải đi dạy học kiếm ăn qua ngày. Mấy năm đói kém, nhờ có mấy mẫu ruộng rau dền nên anh đã cứu giúp được nhiều người qua khỏi nạn đói. Vì thế, người ta gọi chỗ ở của anh là Cầu Dền. Các cụ cao niên ở đây vẫn còn nhớ vùng này xưa kia (và thậm chí cho đến những năm 1945 - 1954) có con sông nhỏ dẫn nước thải từ nội thành ra, hai bên bờ có đất bãi phù sa, rau màu quanh năm xanh tốt. Trong đó có rau dền là nhiều hơn cả. Chiếc cầu bắc qua con sông hai bên bờ có nhiều rau dền nên gọi là Cầu Dền.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic.../09/17/15e.jpg
Ô Cầu Dền năm 1946 - Ảnh: T.L
Các tài liệu và bản đồ cũ cho chúng ta thấy rõ vị trí của địa danh này cố định và tồn tại khá lâu, ít ra là từ thế kỷ XVIII. Dưới triều Nguyễn, cửa ô Cầu Dền là cửa ô chính quan trọng nhất trên đường thiên lý. Đó là con đường nối liền Thăng Long với các trấn và các tỉnh phía Nam (vào kinh đô Huế) qua những đồi cây cối rậm rạp và cả một rừng mai (nay thuộc khu vực Bạch Mai, Trương Định). Năm 1782 Lê Hữu Trác lên kinh qua cửa ô Cầu Dền có tả như sau: “Tôi thấy một cái thổ thành không cao lắm, kế bên có một dãy tường nhỏ, trên mặt tường ngựa đi được; phía ngoài là hàng rào tre dày đặc, dưới hàng rào có hào sâu, trong hào thả chông, thật là mười phần kiên cố. Ba tầng vọng canh được thiết lập nơi đây, tầng nào cũng có quân lính đứng thành hàng hai bên, đao thương xán lạn, hào quang như tuyết. Lính giữ cửa thấy bọn tôi đi có mang binh khí, xét hỏi thật nghiêm ngặt, đến khi biết rõ đầu đuôi, lại nhận thấy dấu hiệu áo lính trấn thủ đất Nghệ An mới để cho đi”.
Cùng với việc mở rộng Hà Nội, người Pháp đã phá bỏ các cửa ô trong đó có ô Cầu Dền. Cái khung cảnh ô Cầu Dền vào đầu thế kỷ XX không có cái vẻ ngoài nghiêm trang, chững chạc như ô Quan Chưởng hay thơ mộng như ô Yên Phụ. Nhưng nó lại có cái sầm uất, bộn bề của cảnh chợ búa họp suốt quanh năm.
"Ông Mạc" là Mạc Đĩnh Chi?
Ô Đống Mác cách ô Cầu Dền không xa. Nay nằm ở cuối phố Lò Đúc, quãng giao nhau với đường Trần Khát Chân và đường Kim Ngưu. Cửa ô này dưới thời Chúa Trịnh Sâm (thế kỷ XVIII) có tên là ô Ông Mạc. Sau đó có tên là Thanh Lãng, vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, lại đổi là ô Lãng Yên. Cửa ô Đống Mác hiện nay đã mất hết hình tích cũ. Chẳng còn tìm thấy xứ đồng, cửa ô, trạm gác của lính triều ngày xưa. Giờ qua đấy chỉ thấy phố, nhà mới san sát.
Cửa ô này là nơi có thể vào thành Thăng Long cả bằng đường bộ lẫn đường thủy, nên thường có quân lính canh gác khá nghiêm ngặt. Trong Thượng kinh ký sự, Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác khi về thăm quê ở Hải Dương đã đi qua lối này: “Ngày 10.9, từ sáng tinh mơ còn trăng, tôi đi ra cửa ô Ông Mạc, cửa thành chưa mở, lính canh thấy có thẻ “Hành quân phù” (thẻ cấp cho đi đường của Phủ Chúa) mới mở cho đi”.
Ông Mạc là ai? Quần thư tham khảo của Phạm Đình Hổ (1768-1839) viết về Ông Mạc như sau: “Ông làm quan trong triều, nhà riêng ở Nam Xá (có lẽ là Cơ Xá Nam) thành Đại La, tục gọi là dinh Ông Mạc”. Đất Ông Mạc bao gồm mấy làng Lương Yên - Lãng Yên xưa (đất phố Lê Quý Đôn và Lương Yên ngày nay). Nhà nghiên cứu Hoàng Đạo Thúy trong cuốn Người và cảnh Hà Nội viết: “Đường dọc thứ hai của vùng này là phố Lò Đúc, đi từ phố Phan Chu Trinh đến cửa ô Đống Mác. Xưa kia phố này có nhiều lò đúc đồng, sau chuyển lên Ngũ Xá. Người ta kể là tên Đống Mác từ tên là Mạc Đĩnh Chi mà ra, vì ông Mạc có nhà riêng ở đây!”.
Dân gian lại giải thích tên ô Đông Mác là do từ thời quân Tây Sơn kéo ra Bắc, tiến đánh cửa ô này, giáo mác vứt lại thành đống. Từ đó, nơi đây có tên là ô Đống Mác. Cho đến nay, thật khó kiểm chứng xem cách lý giải nào là đúng là sai.
Mạc Đĩnh Chi là nhà văn, nhà ngoại giao nổi tiếng thời Trần Anh Tông. Người làng Lũng Động, Chí Linh, Hải Dương. Đỗ Trạng nguyên (1304), rồi làm quan cho ba đời vua Trần được phong đến chức thượng thư. Được các vua Trần cử sang sứ nhà Nguyên. Mạc Đĩnh Chi là một sứ thần ứng đối, biện luận giỏi, giữ vững được uy tín và lợi ích quốc gia, khiến triều đình nhà Nguyên kính nể. Giai thoại kể rằng ông là người có khuôn mặt xấu xí, vua Trần Anh Tông không muốn để ông đỗ đầu, Mạc Đĩnh Chi dâng bài Ngọc tỉnh liên phú (Bài phú hoa sen giếng ngọc) bày tỏ phẩm giá thanh cao của mình, ví mình như hoa sen trong giếng ngọc. Tương truyền khâm phục tài năng của ông, nhà Nguyên đã phong ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên (trạng nguyên của hai nước).
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại - Bài 10: Chốn ăn chơi của công tử Hà thành
18/09/2010 19:16
Vì Thủy Tạ là chỗ hẹn hò của các đôi tình nhân nên có chàng trai đã hẹn người yêu như thách đố: “Anh đợi em ở chỗ H2O 100 kg”. (H2O là nước, tức thủy, còn 100 kg là tạ).
Nơi đặt quán Thủy Tạ hiện nay vào thế kỷ 18 thuộc đất thôn Tự Tháp, huyện Thọ Xương. Thôn này nổi tiếng vì có trường Tự Tháp hay trường Hồ Đình do ông nghè Vũ Tông Phan sáng lập. Vũ Tông Phan đỗ tiến sĩ năm 1826, cáo quan về mở trường. Trường của ông có nhiều học trò xuất sắc sau này giữ chức vụ quan trọng ở Bắc Thành dưới các triều vua Minh Mạng và Tự Đức.
Từ năm 1880-1884, đoạn đường ven hồ Gươm này có nhà dân, hầu hết là nhà đất lợp tranh lụp sụp. Vào mùa mưa, lối đi lầy lội, người ta làm cầu ra hồ để tắm rửa, rác đổ cả xuống hồ. Sau khi Công sứ Bonnal cho làm đường quanh hồ Gươm thì dân thôn Tự Tháp phải dọn đi nơi khác. Không còn nhà nhưng xuất hiện vài quán rượu ven hồ. Những năm 1920, ngày càng có nhiều người đến hồ ngắm cảnh nên dân gần đó ra mở quán. Họ chăng dây thừng quanh các gốc cây, kê ít bàn nhỏ và ghế bán nước chanh chai, hoa quả, bánh gai, bánh quế, bánh xu xê, bánh cốm, kem cốc. Sau bán thêm chai nước “khai khai, cay cay” (bia chai Hommel sản xuất tại nhà máy trên đường Hoàng Hoa Thám, nay là Công ty bia Hà Nội).
Khoảng năm 1933, chính quyền thành phố quy định chỗ bán hàng quanh bờ Hồ và các ki-ốt phải đẹp. Nhiều người đành mua ô bằng vải bố in màu khác nhau. Năm 1936, một số quán thuê con gái ở nông thôn ra làm công việc chạy bàn. Họ bỏ tiền may quần áo tân thời cho các cô, một số quán còn huấn luyện cách mời chào lẳng lơ. Chính vì thế xuất hiện những câu chuyện hư hư, thực thực về “kem sờ bờ Hồ”. Khách tò mò kéo đến càng đông. Buổi tối, những người khá giả đưa vợ con ra đây hóng mát và dừng chân uống nước.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...9/16/p8-9a.jpg
Nhà Thủy Tạ trên tấm bưu thiếp xưa - Ảnh: Tư liệu
Nhưng dân thượng lưu không ra đây mà vào các bar. Có một quán tên là Ngọc Hồ, đây là quán duy nhất xây tường gạch, trên lợp ngói vẩy cá, bên trong bày biện theo kiểu mới, nghĩa là bàn gỗ, ghế gỗ. Chủ quán là cô Thược, con gái nhà quan. Cô Thược rất khéo trong việc tiếp khách, không làm mất lòng ai. Cô biết cách đưa đẩy câu chuyện, khách loại nào cũng nhận được nụ cười và câu thăm hỏi. Ngọc Hồ trở thành chỗ ra vào của trí thức, quan lại và nghệ sĩ. Chính vì thế, Ngọc Hồ đã châm ngòi cho cuộc chọi thơ châm biếm giữa hai tờ báo thị trường lúc đó là Loa và Ngày Nay. Nhà thơ trào phúng Tú Mỡ đã có bài Nhất phiến băng tâm trong đó có câu:
Hồ tù ngán nỗi con rồng lộn
Ngọc vết thương tình kẻ cố đeo
Tòa Đốc lý thấy khu vực này đông đúc nhưng hơi nhếch nhác có ý muốn xây lại ngôi nhà xây để quảng bá văn hóa Pháp, song lại không muốn mất kinh phí nên đã rao trên báo, ai bỏ tiền xây dựng sẽ được sử dụng để kinh doanh 10 năm và không phải đóng các loại thuế. Tòa Đốc lý cũng đưa ra điều kiện chỉ được xây một tầng và thiết kế phải do họ duyệt. Nhiều người giàu có nộp đơn nhưng trúng thầu là ông Hàn Ái, một nhà thầu ở phố Cầu Gỗ. Thiết kế nhà Thủy Tạ được chọn là của kiến trúc sư Võ Đức Diên (1906-1961). Ông Diên tốt nghiệp ngành kiến trúc trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Trước đó ông Diên đã thiết kế ngôi nhà của ông Trịnh Văn Bô ở 48 phố Hàng Ngang (nay là di tích lịch sử, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết Tuyên ngôn độc lập năm 1945). Kiến trúc sư Võ Đức Diên đã khéo kết hợp giữa kiến trúc phương Tây với những ô vuông và kẻ thẳng với đường cong trên mái của kiến trúc tôn giáo phương Đông. Thiết kế xong nhà Thủy Tạ, Võ Đức Diên bỏ nghề. Năm 1943-1944, ông mua lại một đoàn kịch với mấy chục diễn viên dẫn đi diễn khắp nước, rồi bặt tích.
Công trình hoàn thành năm 1939 và ăn nhập với cảnh quan hồ Gươm. Nó được làm quán bar và sàn nhảy. Chơi nhạc ở đây là một ban nhạc Philippines. Quán xuất hiện nhiều nghệ sĩ và ca sĩ Ngọc Bảo hầu như tối nào cũng có mặt. Cũng như nhiều thanh niên học lối sống Tây, Ngọc Bảo đến đây để hát và gặp các “bóng hồng”. Có hai người say mê nhảy tối nào cũng đến quán là ông Vũ Đức Hùng nhà ở phố Hàng Bông và cô Xuyến ở phố Hàng Gai. Ông Hùng làm thợ may mê nhảy đến mức không lấy vợ.
Ngày 22.9.1940, Toàn quyền J.Decoux ký hiệp ước trao Đông Dương cho Nhật. Cuối tháng 10.1940, toán lính Nhật đầu tiên đến Hà Nội và theo chân có cả các thương gia. Để gây ảnh hưởng với quốc gia trên bán đảo Đông Dương, Nhật đã tổ chức các hoạt động văn hóa, triển lãm hàng hóa Nhật và kem que là sản phẩm của người Nhật chứ không phải người Pháp. Thủy Tạ cũng là điểm đầu tiên bán kem que. Trước đó, trên phố Đinh Tiên Hoàng, cách Thủy Tạ không xa có quán kem cốc Zéphyr. Một trong hai chị em bán quán Zéphyr là Phạm Thị Cúc, sau này trở thành phu nhân của Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Thua đau ở Chiến dịch Biên giới năm 1951, quân Pháp bắt đầu mệt mỏi vì cuộc chiến tranh cách xa nước Pháp hàng vạn dặm. Lính Pháp đóng ở Hà Nội và đám lính tác chiến ở vùng Tây Bắc và Đông Bắc có dịp về Hà Nội đều đến Thủy Tạ uống rượu. Một buổi tối mùa đông năm 1952, tiếng du dương của điệu valse trong Thủy Tạ vẫn như mọi tối thì bỗng có tiếng nổ. Một lính Pháp bị thương. Tất cả tán loạn. Sau đó chỉ biết rằng một cậu bé đánh giày đặt hộp thuốc lá
Caravel lên bàn. Một lính Pháp nhảy hết điệu thấy hộp thuốc lá đã mở ra. Ngày hôm sau, các báo Hà Nội giật tít Việt Minh đã bắt đầu tràn về thành phố. Còn đám phóng viên phương Tây thường trú ở Hà Nội đồn đoán ngày thất bại ở chiến trường Việt Nam của quân Pháp không còn xa.
Ngày 10.10.1954, bộ đội về tiếp quản thủ đô, Thủy Tạ được giao cho ngành văn hóa.
Nguyễn Ngọc Tiến
-
Thăng Long giai thoại: Bài 10 - Vị quan bảo vệ dân "KT3" thành Đông Kinh
18/09/2010 1:10
Sau khi quân xâm lược nhà Minh đã rút hết về nước, ngày 15.4.1428, Lê Lợi rời dinh Bồ Đề (nay thuộc phường Bồ Đề, quận Long Biên, Hà Nội) vào thành Thăng Long, làm lễ lên ngôi hoàng đế (sau này được tôn là Thái Tổ), lấy niên hiệu là Thuận Thiên, đặt quốc hiệu là Đại Việt, đổi Đông Quan thời thuộc Minh thành Đông Đô, sau đổi thành Đông Kinh vào năm 1430. Tuy nhiên người dân vẫn quen gọi là Thăng Long.
Thời Lý, Trần, Thăng Long được chia làm 61 phường nhưng Lê Thái Tổ đã chia lại đơn vị hành chính thành Đông Kinh gồm 1 phủ là phủ Phụng Thiên, với hai huyện: Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện có 18 phường. Hà Nội 36 phố phường như thường gọi bây giờ có xuất xứ từ thời Lê. Trong 36 phường, nhà Lê chia thành ba loại: phường làm ruộng, phường làm thủ công và phường buôn bán. Nhà Lê cũng chia bổng lộc cho các quan và tùy theo chức mà cấp cho từ một đến hai mẫu ruộng.
Mạnh tay xử tham quan
Sau khi Thăng Long được giải phóng, dân chạy giặc lục đục trở về kinh thành và bắt đầu gây dựng cuộc sống mới. Dân tứ trấn cũng kéo về đây làm ăn và chỉ trong khoảng 6 năm, Đông Kinh đã phát triển thành một đô thị với đời sống kinh tế thủ công chuyên nghiệp và thương nghiệp khá thịnh vượng. Dù mang tư tưởng của Nho giáo "sĩ, nông, công, thương" và thậm chí có lúc nhà Lê còn "ức thương", song Đông Kinh vẫn phồn thịnh vì các phường sản xuất hàng thủ công phải tiêu thụ hàng hóa và chính họ là người đóng thuế cho triều đình.
Thương mại phát triển kéo theo đô thị cũng phát triển, điều đó đã hình thành rõ nét đời sống đô thị. Bên cạnh lối sống lành mạnh, những tiêu cực trong xã hội cũng nảy sinh ở Đông Kinh như cờ bạc, rượu chè và hối lộ. Các quan được chia cấp đất nhưng chưa có tiền xây thái ấp đã nảy sinh lòng tham. Triều đình nhận ra nguy cơ nên vua Thái Tông (1434-1442) đã ban hành một số điều nghiêm cấm nạn hối lộ. Tuy nhiên nạn tham nhũng vẫn hoành hành.
Sử sách chép, năm 1449, Lê Nhân Lập là con của Thiếu úy Lê Lan cùng với bọn người xấu trong kinh thành là Nguyễn Thọ Vực họp nhau đánh bạc, trộm cướp. Tệ hại hơn, Lập đã lợi dụng chức quyền của cha để nhũng nhiễu và nhận hối lộ. Trước những kẻ làm bậy, triều đình sai người đến tận nhà Vực để dụ Lập và đồng bọn ra ngoài rồi thẳng tay chém đầu và loan tin trong dân chúng tội lỗi của Lập.
Cũng trong năm 1449, Chuyển vận phó sứ huyện Văn Bàn là Lương Tông Ký nhận hối lộ bị phát giác. Án xử đem chém thì Ký nhờ những người ăn lộc của Ký xin tha mạng chết. Trước tình thế đó, thái úy Lê Khả càng cương quyết khi tội lỗi của Ký đã rõ ràng, và cho rằng: ăn trộm của một người phép nước cũng không tha, huống hồ Ký móc túi của cả một huyện. Để tâm phục khẩu phục, Thái úy Lê Khả cho xét lại, nhưng cuối cùng vẫn xử Ký tội chết.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...l1p14chan2.jpg
Tranh minh họa Lê Lợi trả gươm cho rùa thần - Ảnh: T.L
Bênh vực dân "KT3"
Phủ Phụng Thiên ngày càng phát triển, dân cư ngày càng đông đúc và thương mại ngày càng sầm uất. Phần vì không quản lý nổi, phần muốn kiếm chác nên Phủ doãn Phụng Thiên lệnh cho đuổi dân tứ trấn ngụ cư ở Đông Kinh về nguyên quán. Ngay cả những người có ngạch thuế và đóng thuế cho bản phường vẫn bị bắt trở về quê. Nhiều người có cuộc sống ổn định và làm ăn phát đạt thấy nguy cơ liền bắt đầu "chạy" tiền. Song, sự nhũng nhiễu quá mức làm cho nhiều người ngầm tố cáo lên triều đình, làm dấy lên nghi ngờ lệnh của Phủ doãn Phụng Thiên.
Trước tin đồn râm ran trong dân chúng, năm 1481, Phó đô ngự sử Quách Đình Bảo, một người chính trực, đã tâu với vua. Sử sách chép lại lời tâu của Quách Đình Bảo như sau: "Kinh sư là gốc của bốn phương, tiền của trao đổi tất phải cho lưu thông đủ dùng để không phải thiếu thốn. Trước đây dân phủ Phụng Thiên, trừ người quê quán ở đó hoặc những người không có quê quán ở đó nhưng có cửa hàng, thuế ngạch và nộp thuế chịu sai dịch với bản phường. Nay quan phủ Phụng Thiên lại không hỏi xem dân tạp cư đó có cửa hiệu thế ngạch hay không mà đuổi hết về nguyên quán, e như thế sẽ buôn bán thưa thớt không còn sầm uất phồn thịnh nữa, không những người làm nghề buôn bán thất nghiệp nhiều mà chợ búa e sẽ rỗng trống, ngạch thuế thiếu hụt có phần không tiện. Lâu nay dân chúng cũng đồn đại chuyện thiếu minh bạch của các quan phủ Phụng Thiên. Vì thế xin thưa, ngoài những kẻ vô loài tạp cư thì nên đuổi đi, còn những người có cửa hàng, cửa hiệu trước đây đã biên vào thuế ngạch thì hãy cho được cư trú để buôn bán sinh nhai cho nộp thuế như cũ và cũng là để ngăn chặn hành vi nhũng nhiễu vòi vĩnh tiền bạc của các quan huyện và trưởng phường". Lời tâu của Quách Đình Bảo được chấp thuận, cuối cùng nhà Lê chỉ cho đuổi những người tạp cư, không nghề về nguyên quán, còn những người có cửa hàng, cửa hiệu vẫn được buôn bán giao thương và cho điều tra các hành vi nhũng nhiễu.
http://www.thanhnien.com.vn/News/Pic...4chantrang.jpg
Tranh minh họa Lý Công Uẩn dời đô - Ảnh: T.L
Tất cả việc mà triều Lê sơ làm trong suốt quá trình trị vì đã tạo ra bộ pháp điển hoàn chỉnh gọi là Quốc triều Hình luật - mà ta thường gọi Bộ luật Hồng Đức. Thực ra không phải do Lê Thánh Tông biên soạn trong những năm Hồng Đức (1470-1497) mà nó là cả quá trình trị nước của nhà Lê. Công lao của Lê Thánh Tông chính là san định các luật lệ của các triều vua trước để hoàn thành bộ pháp điển. Trong Bộ luật Hồng Đức có nhiều quyển quy định về điền sản, bổng lộc nhưng quan trọng nhất là có một chương về chống tham nhũng với các điều khoản cụ thể. Những bài học về chống tham nhũng thời Lê sơ cách đây 5 thế kỷ song vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.
Năm 1446, triều đình đã ra lệnh cấm các đại thần, các quan văn võ, các mệnh phụ, vợ cả, vợ lẽ các sắc dịch cùng đàn bà con gái trong nội điện không được ra vào nhà quyền thế, biếu xén nhờ vả lẫn nhau. Những kẻ nhận hối lộ đều bị xử tử.
Nguyễn Ngọc Tiến