-
GIFTS
QUÀ TẶNG TRÊN SÂN GA
Khách xa xuống đợi tàu bến xép
Dép kẹp nách, bánh mỳ không, nham nhở cạp khan
Hà nội, Thanh Hoá, Huế, Nghệ An
Sài gòn, Đà nẵng, Pleiku, Cao Lạng
Dưới trăng nghiêng, mắt đêm, bình lặng
Nhốn nháo đứng lại ngồi
Dưới trăng, tàu từng chuyến, qua, qua
Người đứng ngồi, vẫn chừng ấy hay không còn là chừng ấy
Những tiếng gọi nhau í ới gần xa
Ở lại nhaaaaaaaaa a a
Đi nhaaaaaaaa a a
Nhaaaa á
Hà nội ơi…
Huế…
Sài gòn ơi...
Vòng sắt quay, tay nắm tay níu nấn
Tui rùi tê, anh chừ mô hì
Duyên tạm, bến hờ, còn đi, còn đi
Trời vô tận cuối sóng xanh biển hận
Sóng xoá đi rồi sóng sau lại đến
Sóng đến rồi sóng lại xoá ra đi
Thân ngập nửa đón đi chia xoá
Tâm ngập mơ còn đón còn đưa
Xóa hận đón đưa
Cười thương mình, thương đồng loại nay xưa
Một khắc một giây
Đón duyên tạm, biết một giây duyên tạm
.
-
Nếu không có những tiếng gọi nhau í ới
Tiếng rả rích của những buổi chuyện trò ngắn chẳng tày gang
Chỉ có những bóng người ngược xuôi đi lại
Thế gian toàn những kẻ khôn, ngồi lẳng lặng cạp bánh mỳ chờ giờ tàu
Hà Nội
Huế
Sài Gòn
Chắc sẽ buồn tẻ
Hơn những ngày mưa lê thê
Chắc sẽ nặng nề
Hơn những buổi trưa đặc khí
Chắc sẽ dài
Hơn những đêm ngồi chong đèn chờ nắng mai
Ngày có bao chuyến tàu đến lại đi
Đời mình có bao lần dừng chân tại cái ga xép ấy
Trong đám đông nhộn nhạo ấy
Có bao người dừng lại và cười với mình
Bao nhiêu người chịu co người lại để nhường cho mình một đầu ghế
Bao nhiêu người bẻ mẩu bánh mỳ mời mình
Đón duyên tạm, biết một giây duyên tạm
Sóng trước, sóng sau, chẳng thể xóa nổi bọt trắng trên mình
-
XỬ KIỆN ĐÊ
Một phú thương kia đi ngang qua làng nọ, thấy một đứa bé gái ngộ nghĩnh rất vừa lòng, bèn đem tiền bạc lại đóng cho cha mẹ em bé ấy để xin cưới khi em lên mười lăm tuổi. Rồi anh ta ra đi.
Cô bé đến tuổi. Có người con trai trong làng vừa ý, đem tiền đến xin cưới.
Sau ngày cưới, anh phú thương lại trở về, đòi cưới cô gái. Anh hỏi chàng trai:
- Tại sao anh cướp vợ tôi?
Chàng trai bảo:
- Ai cướp vợ ông? Lúc trước, khi ông cưới xin, cô ấy chỉ là một đứa bé lên năm. Vợ tôi bây giờ là một cô gái mười lăm. Đâu phải là cô bé năm tuổi khi xưa của ông!
Bèn đưa nhau ra tòa.
Một người kia đến một trại bán sữa tươi, mua một lon sữa.
Mắc việc phải sang làng bên cạnh, anh gửi lon sữa cho người chủ trại, hẹn khi trở về sẽ lấy. Vài hôm sau, trở lại thì sữa đã đông đặc và phai màu. Anh ta không chịu lấy:
- Đâu phải thứ sữa mà tôi đã mua hôm trước!
Người chủ trại bảo:
- Thì chính lon sữa của anh, tôi có thay đổi gì đâu!
Hai bên không ai chịu thua ai, cùng đem nhau ra quan phân xử
.
-
CỌP RƯỢT
Một người đi đường bị cọp rượt chạy gần trối chết.
Chạy cùng đường, anh ta bèn nhảy đại xuống một cái hố sâu... may sao lại với được một sợi dây leo, và đeo lủng lẳng giữa không trung.
Nhìn lên miệng hố lại thấy một con hổ đói khác đang há miệng chờ mồi. Dòm ở đầu sợi dây: Hai con chuột, một đen một trắng đang gậm mòn đầu dây... Nhìn trước mặt: Một trái dâu rừng chín mọng...
Anh ta bèn một tay nắm sợi dây, một tay vớ hái trái dâu... ăn ngon lành. Dâu ngọt lịm làm sao!
-
BÃI NẠI
Có người thợ làm việc trên một tầng lầu cao. Rủi trật chân, té xuống đường. Trong khi té, lại rớt nhằm đầu một người đi qua đường. Người ấy chết, mà anh thợ thì sống.
Con trai người chết thưa lên quan, "mạng thường mạng". Luật hiện hành trong xứ ấy, hễ gây thiệt mạng cho ai, phải đền bằng tội chết.
Biết rõ người thợ không phải cố sát, nhưng trước luật pháp hiện hành, không còn cách nào khác để cứu người vô tội, quan tòa bèn tuyên án:
- Hễ "sát nhân giả tử", luật pháp là như thế không ai có thể gỡ được. Tên thợ này làm chết người, phải thường mạng. Nhưng muốn thực hiện công lý ấy, thì nó đã giết người bằng cách nào, bây giờ người ta phải giết nó bằng cách ấy. Nay ta phán rằng: Đứa con khổ chủ phải lên trên lầu cao ngay chỗ tên thợ trước đây đã đứng, đợi khi tên thợ ấy bước ngang, thì gieo mình ngay trên đầu nó, để giết nó!
Đứa con nạn nhân lật đật đến tòa xin bãi nại
.
-
SUỐI TRƯỜNG SINH
Miya Jima nước Nhật Bản xưa kia là một hòn đảo nổi tiếng linh thiêng. Dân ở đảo này hầu như không ai có quyền chết.
Đảo này là một trong ba thắng cảnh đẹp nhất xứ Phù Tang. Toàn đảo có một ngôi đền danh tiếng ở ngay trên bờ biển. Cửa chính của đền hướng ra biển. Những lối đi trong đền dựng không biết bao nhiêu những cây đèn bằng đá, liên tiếp từ cửa này đến cửa khác. Nơi đây có những con nai đi lại nhởn nhơ không chút sợ sệt sự qua lại của những người mộ đạo. Không khí rất trong lành, biện một màu xanh biếc. Bên kia eo biển, xa xa hiện lên những dãy núi tim tím, những cánh buồm rơm vuông vắng của những chiếc thuyền đánh cá phản chiếu ánh sáng mặt trời, trông như những đám lửa nhỏ nổi lên mặt nước.
Trong số dân cư ngụ tại đảo nầy có hai vợ chồng người tiều phu già, hết sức già. Chồng là Yoshida, vợ là Fumi. Họ được cả làng yêu mến vị nể. Ai nấy đều khen sự kiên nhẫn chịu đựng mọi sự mà họ đã trải qua, và ca tụng sự trung thành của hai người đối với nhau trên sáu mươi năm chung sống.
Họ không quen nhau mấy, hồi mà cha mẹ họ quyết định sự hôn nhân. Yoshida chưa bao giờ dám nói chuyện với Fumi, nhưng khi gặp nhau trên bãi biển thì chàng cứ nhìn nàng bằng cặp mắt trìu mến và cứ nhìn theo nàng mãi. Nàng đi thong thả, hơi cúi về phía trước(đó là lối đi của những thiếu nữ có giáo dục). Những ngày hội, chàng thích tìm nàng trong đám đông để thấy khuôn mặt trái soan của nàng, có cặp má đào đỏ hây, cái áo dài màu ngọc trai xám có thắt ngang một cái thắt lưng lớn, gấu áo viền bằng lụa nâu có thêu những bông cúc trắng.
Fumi cũng không khao khát ngày cưới lắm, vì nàng biết đời nàng đã được định đoạt rồi, và mấy tháng trước ngày cử hành hôn lễ, nàng đội cái mũ "mũ cưới" tượng trưng cho người con gái sắp thành hôn. Bản tính Fumi dịu dàng, mà nàng vẫn sợ trước những sự nghiêm khắc, những sự bất hòa có thể xảy ra giữa vợ chồng. Nàng nghĩ đến câu phương ngôn: "Lòng người đàn ông dễ thay đổi như trời thu". Nhưng nàng sẽ nhất định giữ được tình yêu của chồng bằng sự kiên nhẫn, dịu dàng và sự âu yếm kín đáo của nàng. Nàng có biết câu phương ngôn: "Nếu người ta ngồi ba năm trên một tản đá đó cũng sẽ nóng..."
Cuộc hôn nhân của Yoshida và Fumi đã được cha mẹ định đoạt đúng luật lệ cổ truyền, nên được vui vẻ và tồn tại giữa hai vợ chồng. Ngay từ buổi đầu, Yoshida yêu Fumi với tất cả mối tình nồng thắm của tuổi trẻ và Fumi đền đáp lại bằng sự yêu kính chồng rất mực.
Họ được hưởng những lúc vui sướng cũng như những hồi buồn bã. Vui, là họ sinh liên tiếp ba trai. Rất buồn là ba con lúc đã trưởng thành lại bị chết một ngày vì nghề đánh cá. Một hôm ra khơi, biển đã cướp mất cả ba người con. Yoshida và Fumi trong lòng tan nát, cố chịu đựng trước bạn bè, gượng cười ra vẻ thản nhiên. Nhưng khi chỉ có riêng họ, họ khóc sướt mướt. Tay áo họ luôn luôn đẫm lệ đau thương. Họ đặt bài vị ba con trên một cái bàn nhỏ bằng gỗ quý, tại một căn phòng đẹp nhất để ngày đêm tưởng niệm. Mỗi ngày trước bữa ăn, họ đặt thức ăn lên một cái bàn bằng gỗ sơn, đốt hương để khấn các con về thụ hưởng. Những lúc đó họ ngồi hàng giờ để nghĩ tới những người con đã mất.
Bây giờ chỉ còn có hai vợ chồng, họ lấy sự kính yêu nhau làm nguồn an ủi duy nhất. Mỗi người đều muốn làm cho người kia bớt đau khổ, họ tìm đến cách âu yếm lẫn nhau. Dần dần tâm hồn họ bình thản trở lại, và họ trở nên kiên nhẫn. Họ lấy câu tục ngữ sau đây để tự an ủi: "Khi hoa anh đào đã tàn, không phải lấy sự tiếc thương mà làm cho hoa anh đào nở được"
Giờ đây họ đã già lắm, già như những con đồi mồi cổ kính. Yoshida thì nhăn nheo, khô héo, chân tay run rẩy, Fumi thì tóc và lông mày đã rụng nhẵn.
Người ta gặp họ đi chơi với nhau, bước chân chập chạp, vợ đi sau chồng một chút (vì tập tục như vậy) Thỉnh thoảng đôi cvợ chồng già này đi đến tận ngôi đền nguy nga làm cho hòn đảo nổi tiếng khắùp nước.
Ở nhà, dù Fumi đã nhiều tuổi, vẫn cố gắng giữ gìn nhà cửa được sạch sẽ, xinh xắn. Bà ưa màu trắng của bức tường bằng giấy và ánh sáng của chiếc chiếu mới với một ý nghĩ rất tế nhị hòa hợp tình cảm, bà thường thay đổi sự trang trí tùy theo thời tiết, tùy theo từng mùa hoặc tùy theo màu sắc của từng ngày, tùy theo nỗi buồn trong tâm tưởng khi treo những bức tranh lụa trên tường, một trong cái bình bằng đồng bà cắm ba cành hoa rất khéo léo mỹ thuật.
Đôi khi cạnh lọ hoa, bà đặt hai pho tượng nhỏ, tượng trưng cho hai ông bà già đang quét là thông. Đó là tiêu biểu tình nghĩa vợ chồng những cặp vợ chồng già được ví như hai cây thông đã mật thiếc mọc liền thân với nhau đến nỗi trông như một và cùng già bên nhau.
Cũng có khi Fumi đặt trên bàn một pho tượng sơn, tượng một vị thần mà bà thích nhất, một vị thần rất ngộ nghĩnh, có bộ râu dài, đội một cái mũ kỳ lạ, tay cầm một cái gậy, còn tay kia cầm một quyển kinh, đó là một trong bảy vị linh thần, mà là vị thần tượng trưng cho hạnh phúc của tuổi già.
Yoshida và Fumi kể là đôi vợ chồng già sung sướng, biết gác ra ngoài những nỗi khổ cực của loài người để hưởng sự yên tĩnh và thương yêu lẫn nhau.
Nhưng dù sao họ vẫn có một mối sầu vương vấn. Bây giờ họ đã quá già, lòng luyến tiếc thời trẻ trung xưa kia đã quá xa. Người nào cũng nghĩ rằng: Khi mà một trong hai người chết đi, người còn sống sẽ đau khổ biết chừng nào, cô đơn biết chừng nào! Giá bây giờ họ còn trẻ cả hai, họ sẽ hưởng được một cuộc sống lâu dài bên nhau. Đời sống họ sẽ trở nên thơ mộng biết bao, êm đềm biết bao!...
Một buổi thu, trời trong sáng, Yoshida như có một cảm hứng huyền bí gì, đi về phía rừng một mình. Nơi đây, trước kia ông đã làm nghề đốn củi rất cần cù, bây giờ trước khi chết muốn nhìn lại cây cối mà ông đã sống gần suốt đời.
Nhưng khi đến nơi, ông không còn nhận ra phong cảnh xa xưa kia nữa. Ngay cửa rừng ông không còn thấy cây Phong to lớn lá đỏ của mùa thu, nổi bật giữa đám lá thông xanh thẫm. Ông không nhận thấy cả cái suối nước trong, trong một cách lạ lùng, màu xanh lơ...
Sau khi đã ngồi, ông thấy khát nước, thấy có một núi trong xanh ngay cạnh lối đi. Với hai lòng bàn tay, ông bốc nước lên, uống thông thả...
Nào ngờ? Khi nhìn bóng mình trong suối nước, ông thấy thay đổi hết: Tóc đã trở nên đen nhánh, mặt hết nhăn nheo, trong người các bắp thịt có một sức mạnh đang vươn lên. Yoshida đã trẻ lại như người mới hai mươi tuổi, ông đã vô tình được nước suối "trường sinh".
Khỏe mạnh, tươi vui, đầy nhựa sống, ông già Yoshida bây giờ là một chàng thanh niên trẻ trung yêu đời. Anh ta sung sướng chạy về nhà.
Bà già Fumi trông thấy một thanh niên đẹp trai đi vào nhà. Bà thốt lên một tiếng: "Ồ" rồi từ ngạc nhiên đến sợ hãi, làm bà chết đứng như người mất trí.
Yoshida vội an ủi vợ và giải thích rõ ràng sự may mắn vừa đến với anh.
Bây giờ đến lượt bà lão đáng thương vừa cười vừa khóc vì sung sướng. Sáng mai bà cũng sẽ ra cái "suối tiên" đó. Uống nước rồi, khi về, bà cũng sẽ trẻ lại như một thiếu nữ hai mươi.
Hai vợ chồng sẽ lại sống cuộc đời tươi đẹp, với bao sự vui thú của tuổi trẻ và sẽ hài lòng khi nghĩ đến những kỷ niệm đã qua.
Sáng hôm sau khi nắng hồng mới hé, sau làn không khí trong trẻo. Fumi vội vàng đi ra cái suối nước trong... Yoshida ở nhà, anh ta đợi, không có gì sốt ruột. Anh biết rằng phải mất độ hai giờ cho một người già để đi đến suối, và lúc về sẽ mau hơn.
Vậy mà đã hơn hai giờ, Fumi vẫn chưa về. Yoshida ngạc nhiên: Từ suối về có bao xa, mà sao lâu đến thế? Rồi những giờ phút trôi qua, sự sốt ruột của anh càng lúc lại càng tăng.
Thời giờ cứ tiếp tục trôi đi một cách tàn nhẫn, chậm chạp. Đã ba giờ qua, bốn giờ qua, năm giờ qua... Sự gì đã xảy ra?
Yoshida không còn kiên nhẫn hơn được nữa, vì sự sợ hãi cứ tăng dần lên. Anh đóng cửa lại rồi chạy ra rừng.
Anh chạy vội đến chỗ "suối tiên". Anh nghe thấy nước chảy hòa lẫn tiếng lá reo trên cành. Chú ý im lặng tìm kiếm một vùng rộng, mà vẫn không thấy vợ đâu, anh bắt đầu thất vọng.
Bỗng một tiếng kêu, một tiếng rên, có lẽ một con vật bị thương... làm cho anh chú y.
Yodhida đã đến gần bờ suối... Khi đến tận bờ, anh đứng lại, ngạc nhiên trông thấy giữa đám cỏ cao, có một bé con... một đứa bé gái độ chừng vài tháng, chưa biết nói, chỉ giơ tay về phía anh với vẻ thất vọng...
Yoshida bế đứa bé lên. Nhìn vào mắt đứa bé, cặp mắt lạ lùng! Cặp mắt đó làm cho anh nghĩ đến những kỷ niệm xa xôi của đời anh. Sao lại có cặp mắt giống hệt cặp mắt vợ anh một cách lạ lùng đến thế? Anh đã nhận được cặp mắt của người vợ anh: Khóc khi anh buồn, cười khi anh vui. Lòng anh xúc cảm mạnh.
Rồi đột nhiên anh hiểu được tất: À, ra chính đứa bé này là vợ anh, là bà vợ già của anh, là Fumi đáng thương đã trẻ lại. Và đã trẻ quá, vì nó muốn trẻ lại hơn chồng, nên đã uống quá độ, nên đã biến thành một đứa hài nhi...
Yoshida thở dài, bồng đứa nhỏ lên và mang nó sau lưng, như bà mẹ thường địu con... Anh buồn bã trở về, nghĩ rằng, từ đây anh sẽ phải như một người cha săn sóc và nuôi dưỡng dạy bảo đứa bé mà trước đây là vợ mình: Người bạn trung thành của anh trên đường đời
.
-
CHM quả là hay mơ. đang há hốc nghe chuyện bên kia. sao văn viết kiểu đập phá buồn cười nhỉ. giống kiểu mình nhưng phang mạnh hơn. he he. CHM có phải nhà văn nhà báo gì không đó?
-
không có đầu, k có cuối. vừa xây vừa đạp đổ. vừa dựng lên lại đập xuống. để xem cái gì còn trụ lại được.
CHM k p nhà văn, cũng chả phải nhà báo, có mà họa
thôi k spam nữa. Thích truyện cọp rượt. Nặng dễ bằng một bồ kinh kệ ấy nhỉ
-
copy thôi, không xứng gọi là quà. truyện trong quyển Cái cười của thánh nhân. thấy cũng hợp với cái câu 'duyên tạm một giây'.
-
CHM biết bói không. Thử hỏi thế này nhé. Có một sự việc đã xong rồi, chỉ còn thông báo hay không thông báo kết quả ra thôi. Nếu nói dối thì mình được yên thân. Nếu nói thật thì mình cũng vẫn yên thân nhưng sẽ bị chán ghét. Hậu quả của chán ghét là gì thì chả ai mà biết trước được. Sự đời tuỳ biến, không câu chấp vào cái định luật nào được. Không e ngại nhưng mỗi tội lười nói dối. Vì đã dối là phải có kịch bản. Và dối trá chồng chất nhau, luỹ thừa nhau lên, không biết lúc nào quay hết cái vòng nhân quả của nó. Cũng mệt.
-
...
Ngủ ngoan rồi chăng
Ô cửa nhỏ của tôi
Đêm buông tóc
Giấc mơ trăng bạc bay ngang trời
Thao thức nữa đi những ngôi sao vô vọng
Giăng mắc tơ tình không thể gỡ
Dệt thành võng trăng nằm
Dệt thành tiếng hát buồn
Giữa đời không, vắng tanh
(1900 đã lâu, quên mấy đoạn)
-
NẮNG PHƯƠNG XA
(tản văn viết xuống dòng)
Tháng ngày trống rỗng rảnh rang.
Sáng nay lai dậy sớm mới chết, thôi thì dạo ra ngoại ô mua ly café uống chơi vậy.
Qua bên này cầu là city, qua bên kia đã là suburb.
Hai bên không khác nhau là mấy. Bên nhiều cỏ, bên nhiều bê tông.
Chỗ con người ngừng chỉ định, cỏ cây bắt đầu hát.
Vệ đường thơm ngậy lên. Không phải nước hoa đàn bà.
Thơm hăng hăng, là hoa mộc.
Thơm nhàn nhạt là cỏ hoang.
Thơm nồng nàn là hoa li ti trắng kia, chả biết tên gì nữa.
Cây Pohutukawa hoa đỏ nghìn sợi múa may như con điên giữa đám cỏ xuề xoà.
Cái xích đu không người, lốp đung đưa, gió vô hình.
Quán chủ nhật nghỉ, nắng tràn cả vào quầy ghế chổng.
Vỉa hè mát, mấy giọt mưa đêm sáng long xòng xọc.
Cây mùa này ít lá, cành gày vẽ lên trời nhiều bức tranh lạ
Đi qua nhà thờ
Dưới hành lang rêu khách chậm chân nghe tiếng hát
Mái nhà, gạch thân tường, cây cổ thụ, tiếng đàn organ đều giống nhau
Tinh khiết, dừng đúng chỗ, nhỏ nhắn, yên vui
Con chó già đen kịt hiền lành khụt khịt nhìn bàng quang
Gió sớm vẫn còn lạnh, nắng thì đã làm nóng lớp áo trong
Capucino
Ly sứ men 2 màu đỏ đen óng ánh
Anh kia mải đọc báo quên cả nắng đến hôn
Cô tóc vàng ăn sáng, tóc lấm lem nắng vàng
Dưới chân đồi có biển và núi xa xanh mượt
Khách chợt nhớ hình như thân mình chưa sạch sẽ lắm để đón món quà của mặt trời. Mà thôi có sao cũng được.
Lại đi
Đến một gốc cây thì ngồi lại nói chuyện với hai con chim sẻ ngu đần đang nhạt vụn bánh mỳ quanh sọt rác.
-Tao giống chúng mày, không cao quý hơn là mấy, bằng chúng mày, đủ ăn đủ mặc hề hề
Cửa hàng đóng cửa, đồ bày thành nhiều gói xanh đỏ xinh xắn
Hai cô cậu bé chơi xe đạp đi qua dừng lại nhìn thèm thuồng
Khách lại đi, chân mỏi nhẹ bâng
Trần gian vui thú biết đâu là tận
.