-
Kinh Nghiệm Tu Hành
Chào các huynh đệ tỷ muội, tiểu đệ vừa đọc được một bài viết ở trên net, thấy hay, suy ngẫm cũng thấy có cái đúng, có thể cái hiểu biết của mình không bằng người khác, nên post lên đây cho mọi người tham khảo, mọi người đọc và cho biết ý kiến của mình nhé, tiểu đệ hy vọng bài viết này giúp cho chúng ta tu hành tinh tấn hơn nữa. Thân
Anbinh đã có dịp trao đổi với anh HaiLua (Cư sĩ Phước) và đọc những bài viết về kinh nghiệm tu hành tâm linh của anh bên diễn đàn vn-buddhism. Được biết anh đã đắc quả A Na Hàm, nên cái NHÌN của anh về đạo học, tâm linh rất đáng được nghiền ngẫm. Những bài viết nói lên cái Nhìn của anh có nhiều điều rất hay và ích dụng cho những bạn đang đi trên con đường tâm linh muốn tìm hiểu thêm.
Ngôn ngữ của các linh ảnh trong Mật tông
Có hai loại linh ảnh:
1. Linh ảnh dễ thương: Hào quang màu vàng ròng, ngôi hay đứng trên hoa sen năm cánh, có nhiều đầu và tay.
Khi hành giả thấy những linh ảnh này thì tự biết là mình tu tới đích hay chưa.
Ví dụ như lấy linh ảnh của Ngài Quan Thế Âm ra làm chuẩn thì:
1.1. linh ảnh cầm bình Cam Lồ, tay kia thì bắt ấn, Ngài đứng hay là ngồi trên hoa sen năm (5) cạnh
1.2. Kế đó là linh ảnh của Ngài nhưng không còn bình Cam Lồ nữa.
1.3. Kế đó là hình Ngài với bốn tay.
1.4. Rồi số tay càng ngày càng nhiều, và có kèm theo các binh khị
1.5. Và sau cùng là: Số tay lên đến 1000 tay và số cái đầu lên đến 11 cái.
Như vậy nhìn vào năm (5) trình tự trên, khi hành giả tập về Ngài Quan Thế Âm thì sẽ biết mình rơi vào trình độ nào của đàn pháp.
2. Linh ảnh dữ tợn: Khói lữa mù trời, linh ảnh la hét, nhăn nhó, le lưởi, nhảy múa trên xác chết, uống máu trong xương sọ ...
Đây là trình độ giải quyết sự hỗn loạn của hành gỉa. Có nghĩa là tương ứng với trình độ thanh tịnh của hành giả thì hành giả có thễ đủ sức hoá giải những tình trạng xáo trộn trong tâm thức y như linh ảnh đã đại diện.
Có nghĩa là hình ảnh càng dữ tợn bao nhiêu thì tâm của hành giả lại càng thanh tịnh bấy nhiêu.
Rõ hơn, trong ngôn ngữ đời sống để diễn tả sự yên tịnh của tâm thức thì chỉ có chữ "Thanh Tịnh" mà thôi.
Nhưng khi nghe nói như vậy thì người nghe không biết là trình độ thanh tịnh nó thật sự là như thế nào.
Nhưng trong ngôn ngữ Tâm Linh, thì lại khác hẳn:
Chỉ cần nhìn thấy vị Hộ Pháp của một tu sĩ nào đó và thấy nó càng dữ tợn bao nhiêu thì người nhìn lại biết được rất là rõ tình trạng thanh tịnh của vị tu sĩ đó! Khỏi cần quảng cáo và giải thích dông dài.
Như vậy thật là ngu si khi hù người ta rằng: Coi chừng khi thấy những linh ảnh dữ tợn này nọ thì hành giả có thễ bị khùng hay điện. Điều này thật là nghịch lý khi lại giải thích liền sau đó là: Đây là hoá thân của Ngài Văn Thù Sư Lợi!
Vì rằng:
Hoá thân của Ngài Văn Thù Sư Lợi mà ngu dốt đến độ làm cho người khác khùng điên khi xuất hiện! Thì đâu có gì là "Trí Tuệ " đâu nè!
-
Lục Thú Đồng Cư
Hỏi:
- Mỗi người tu tập đều có 1 vị Hộ Pháp ?? ...
- Hay là chỉ những tu sĩ Mật Tông mới có Hộ Pháp ?? ...
- Hộ Pháp có trách nhiệm hay là ý muốn làm gì ?? ...
- Hộ Pháp có là tu sĩ không ?? ... Hay chỉ là Hộ Pháp thôi ?? ...
Đáp (HaiLua):
Ở đây là chỗ lục thú đồng cư, và đã đồng cư như vậy lâu lắm rồi. Cho nên chuyện lai giống là đương nhiên. Nói riêng về con người thì lại có những phân loại đại khái như sau:
1. Người lai Tiên: Thích ở chỗ quang đảng, sáng sủa, và rất là hăng say làm việc, kỷ luật cá nhân lúc nào cũng ngon lành (Rất là règlo).
2. Người lai Con Người: Ăn ngay, nói thật. Lúc nào cũng thích nghe chuyện nhân nghĩa, và rất là có hiếu thảo.
3. Người lai Ma: Chuyên môn bi thảm hóa cuộc đời, lúc nào cũng như ông cụ non, có nghĩa là bi quan như là sắp chết tới nơi. Không ưa ánh sáng.
4a. Người lai Quỷ Atula: Chuyên môn bàn tán về quyền hành, tiền bạc và tầm ảnh hưởng băng đảng của mình, lúc nào cũng tính chuyên đánh nhau, hay ưa thích bành trướng và tranh dành quyền lợi.
4b. Người lai Quỷ đói: Chuyên môn đầu cơ tích trử, nhưng lại ưa ăn thức ăn củ. Hễ mà thấy ai có của nhiều hơn mình thì lại ghen ghét, ganh tỵ.
5. Người lai Súc Vật: Phải đi trên đường đã định, làm viêc vất vả, lúc nào cũng là cô đơn, đói và lạnh là những đe dọa trực tiếp, ưa thích tình dục (theo kiểu lung tung không kể gì già trẻ, trong gia đình hay ngoài gia đình).
6. Người lai Người ở Địa Ngục: Vào tù ra khám hoài, đi đâu cũng bị hỏi giấy, lúc nào cũng ở trong tình trạng báo động đỏ, ở đâu cũng gặp kẻ thù.
Như vậy trong sinh hoạt hằng ngày, khi mình càng ngày càng giống với các chúng sinh mà mình lai giống, thì mình sẽ có một số những chúng sanh này đến ... chơi với mình. những bạn bè này sẽ xuất hiện bên mình một cách tùy hứng, ít khi đi theo mình như hình với bóng. Vì thế mà mình không thễ gọi đây là những "Hộ Pháp" được.
Nhưng cũng có lúc mình lại làm được "chuyện ngược đời":
1. Như là bổng nhiên mình phát tâm ăn ngay nói thật. Và làm được một thời gian khá lâu.
Điều này lại kích động thế giới của những "con Rồng". Tại sao con linh vật này lại để ý tới mình khi mình lại thực hiện cái điều trên? Là vì cõi giới về Rồng nó rất là ghét con người (vì tính tham lam, và nhất là thói quen hay nói xạo để tự bao che, hay hại người). Nhưng nay, lại có một Con Người lại phát tâm làm chuyện ngược đời là "ăn ngay nói thật"! Nên nó theo dõi như hình với bóng. Và lâu ngày thì nó lại ưa mình và làm hộ pháp hồi nào mà nó thì không hay, mà mình thì cũng lại không biết!
2. Như bổng nhiên lại làm hành động là "Dơ cao mà đánh khẽ"!
Hành động này lại trái ngược với thói quen "đụng đâu là giết đấy" của những loài quỷ! Nên chính những hành động này đã lôi kéo những con quỷ loại có tầm cở như "Chư Bộ Đa" (phiên âm từ chữ Chưbruđa do con quỷ nó tự giới thiệu). Và con quỷ này (với đắc điểm là đánh chết và sau đó là ăn luôn xác người) lại rất là ngạc nhiên, khi nó thấy: Một Con Người yếu đuối kia lại có thễ kềm chế lại một hành động sát nhân và nhờ đó mà Con Người này lại có thễ cảm hóa một kẻ thù thành ra một người bạn! Hành động ngược đời này làm nó rất là cảm phục và khi nó đề tâm theo dỏi lâu ngày nên nó làm hộ pháp cho mình hồi nào mà nó chẳng biết! Tất nhiên, Con Người thì cũng lại chẳng hay rằng mình lại có một hộ pháp có tầm cở ghê gớm như vậy! [...]
Trở ngại:
1. Tuy nhiên, khi được loài Rồng làm hộ pháp thì lâu lâu người tu sĩ lại có những giấc mơ về tình dục một cách rất là bất ngờ! Điều này xảy ra là Con Người lại bị ảnh hưởng đến đặc tính của loài rồng như sau: Rồng thì không có rồng cái và rồng đực nhưng lại có những giấc mơ mà trong đó: Nó lại biến thành rắn để đi làm tình (rắn thì lại có hai giống).
2. Cũng vậy, khi được con quỷ nó làm hộ pháp thì lâu lâu vị tu sĩ này lại khó có thễ kềm chế được những cơn nóng giận bổng nhiên xuất hiện một cách bất ngờ.
Nhận xét:
Hầu như, bất cứ người tu sĩ nào mà thực hiện bất kỳ phương pháp tu tập nào về Phật Giáo đều có một trong hai loại Hộ Pháp "theo kiểu tự phát" kể trên.
Trên đây là những hộ pháp theo kiểu cây nhà lá vườn. Vì tính cách tự phát, nên chưa có thễ vào được hệ thống hộ pháp của dân Mật Tông thuộc giòng pháp Kim Cang được.
Tất nhiên, với hệ thống tự phát thì câu nhận xét của đệ lại không thễ áp dụng được. mà chỉ có thễ áp dụng cho hệ thống Mật Tông thuộc giòng pháp Kim Cang mà thôi.
Đi tìm Hộ Pháp Mật Tông (made in Việt Nam):
Trình độ tu sĩ: Tứ Thiền Hữu Sắc, và đang học được phần đầu của một đàn pháp có liên quan đến một Vị Bồ Tát bất kỳ nào đó. Phần đầu là hành giả đã có thễ quán thấy linh ảnh của vị Bồ Tát đó một cách nhu nhuyển, dễ sữ dụng.
Tên của Hộ Pháp: Kim Cang Vương
Nơi tìm: Trú Xứ của các Kim Cang Vương (thông thường vào lần đầu thì tu sĩ lại nhờ Vị Bồ Tát trùm hoa sen đưa đi đến nơi này).
Ở Đâu: Trong tậng cùng của một cái hang nằm sâu vào lòng đất.
Đặc tính của Hộ Pháp Kim Cang Vương:
1. Không có lưỡi.
2. Một Loại quỷ rất là dữ tợn và vì quá ghê tởm những tội ác của mình, nên nó đã tự động đào một cái hang nằm xâu trong lòng đất và ngồi vào tận cùng đáy hang để chờ coi có Tu Sĩ thứ dữ nào đến tìm ra nó và mời nó làm hộ pháp hay không? Với hy vọng là Tu Sĩ học được cái gì thì nó cũng học được cái đó! Đồng tu hành, đồng thành tựu là ý nguyện của nó.
Diễn tiến của Hộ Pháp Kim Cang Vương:
Tu sĩ càng tu cao đến đâu thì Kim Cang Vương càng to lớn đến đó và tướng pháp càng biến chuyển, càng ngày càng dữ tợn, ... cho đến khi tu sĩ Vào Cõi Vô Sắc (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng) thì Hộ Pháp sẽ có hình tướng như hình ở trang 45 của cuốn sách to tướng, có tên là: Celestial Gallery (ISBN 0-935112-59-6)
(Trang 50 là hình của Yamantara mà Huynh Nguyễn Anh Tùng đã đề cập vào những bài Mật Tông trước đây.)
Như vậy, với hộ pháp theo kiểu chính quy như vậy thì rõ ràng câu nhận xét của đệ lại áp dụng rất là đúng cho trường hợp các tu sĩ Mật Tông thuộc giòng pháp Kim Cang.
http://groups.yahoo.com/group/vn-buddhism/
-
Hộ Pháp
Hỏi:
1 - Có Hộ Pháp để họ mang đến lợi lạc gì cho mình ?
2 - Có thễ nào chọn Hộ Pháp?
3 - Có thễ nào từ chối Hộ Pháp?
Đáp:
1. Không ai hại mình cả, kẻ thù hầu như mất hứng khi thấy cải bản mặt mình.
Các loại thầy Bùa, thầy Ngãi đều de xa.
Tóm lại thì mình bình an hơn nhiều.
2. Loại "cây nhà lá vườn" thì chịu thua: mình không có đủ trình độ chọn họ được. Vì họ tự đến và tự tình nguyện làm hộ pháp cho mình, lý do là do mến tài mến cái đức của mình.
Loại KimCang Vương: Mình có thễ tự chọn lựa coi ông nào là dữ dằng nhất, hay là chọn lựa ông nào hiền lành hơn.
Vì sao? Là vì mình đã vào Trình độ Tứ Thiền Hũu Sắc cho nên mình có thễ liên lạc được với họ và như vậy mình có thễ làm cho họ hiểu là mình chê họ hay thích thú khi gặp họ bằng những thần thông mà mình đã tập được .
3. Không thễ nào bỏ được Hộ Pháp vì họ đã theo mình và tình nguyện làm Hộ Pháp Có điều là trong điều kiện cây nhà lá vườn thì: Họ có thễ thấy mình mà ngược lại mình lại không thễ thấy họ nên mình không thễ nào liên lạc được với họ. Vì vậy, mình không thễ làm cho họ hiểu rằng mình không muốn gặp mặt họ nữa.
Chỉ có một cách là mình ... tập "an trú chánh niệm đằng trước mặt" để nâng cao trình độ nhập định hơn nữa và như vậy thì họ không theo kịp mịnh Có nghĩa là mình ... "tàng hình" đối với họ. Do không còn thấy được mình nữa mà họ đành bỏ cuộc, không theo mình nữa
Và sau khi tu giỏi rồi thì nên nhìn lại và cám ơn họ bằng cách độ họ vào cõi thanh tịnh của Chư Phật Như vậy là đẹp cả đôi bên
Hay là nhờ một người có nghề độ họ đi. Và mình thì dùng kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt để mà trốn, không cho giòng họ của những hộ phắp bất đắc dĩ này tìm ra mình.
-
MỒ MẢ và LONG MẠCH
Theo phong tục Việt Nam thì khi ông bà chết lại có hai nghi thức rõ rệt về chôn cất.
Nghi lễ đầu tiên là khi ông bà mất thì đây là một nghi lễ thuộc về sự buồn phiền, ai cũng khóc và thậm chí lại có người mướn người khóc để chứng tỏ rằng đây là một người tài đức mới lìa đời!
Và một nghi lễ thứ nhì, đó là sau một thời gian, khi gia đình tìm ra được một "Long Mạch" thì sẽ đem hài cốt của ông bà về đó mà an tán, lúc này lại là một nghi lễ vui, ai cũng vui mừng khi biết chắc là sau khi an tán xong thì ... đời cháu sẽ phát vì lúc đó mả ... mới kết.
Nhu vậy thì Phật giáo lại phản ứng như thế nào với những chuyện xem ra kỳ quặc trên?
Trước khi vào vấn đề, em cũng từng tham gia và làm những công chuyện của một Thầy Địa Lý thuộc loại có lương tâm. Đồng thời cung có gặp những nhà Địa Lý khác va`cũng đã chứng kiến tận mắt những kết quả rất là linh nghiệm của vấn đề long mạch. Thế nhưng sau khi lui ra xa một tí và nhin sự việc với nhãn quan Phật Giáo thì tự thấy không ổn tí nào cả.
Và sau đây là những cái không ổn của vấn đề Long Mạch nhìn theo Thiên Nhãn:
1. Những long mạch thường nằm ở những cái eo và ngay lưng chừng đồi, chỗ có khí ẩm (sanh khí). Nhìn bằng mắt thường là như vậy nhưng khi dùng Thiên Nhãn thì lại thấy rất là khác: Những chỗ cây cối um tùm (do hơi ẩm sanh ra) nên 99% là cửa vào của các đền của A Tu La. Những lúc Long Mạch mở [được tính toán bằng nhiều cách: Kinh Dịch, báo mộng, căn cứ vào điềm lạ như luồn gió thổi cùng với bụi bậm lại có dạng hình con rồng (Thung Lũng tình yêu ở Đà Lạt)...]. Nhìn theo nhãn quang của Phật Giáo thì những con quỷ ATula thường rất là mạnh khỏe và xấu xí (nếu là quỷ đực), còn quỷ cái thì đẹp một cách diêm dúa và rất là thích vàng vòng, ngọc báu, nhưng lại có tính ganh tỵ, hiềm khích nhau, và cãi vã.
Và khi nhìn vào những gia đình bị tác dụng của những long mạch thuộc loại này thì: Trong gia đình cứ cãi vã nhau hoài. Mổi người là một thế giới, chẳng ai thông cảm cho ai, mạnh ai nấy sống ... y như đời sống của quỷ A Tu La vậy.
Nay lại bàn tiếp về long mạch khác
1% còn lại là những chỗ long mach với quang cảnh đẹp như tiên cảnh. Ngay chỗ đặt mồ thì cứ y như là có ai quét dọn vậy: Chỗ đó sạch sẽ, không có cỏ mộc, là ngay trung tâm của cái quang cảnh kia. Nhìn tứ phía đều là cảnh đẹp. Long mạch lại không nằm vào eo đồi mà lại nằm ngay chỗ thoáng và có cây đại thụ che chở. Đứng ngay vào đó thì lòng thấy thơi thới, mát mẻ và sản khoái vô cùng. Đây là cảnh tụ tập của các ĐịaTiên (quần tiên hội) Như vậy chỗ thì có rồi, bây giờ đặt cái gì vào?
Đây mới là vấn đề.
Nếu người chết lại là người ác đức: thì không khác gì đem cứt mà để lên bàn thờ. Các Địa Tiên rất là tức giận, họ lại có những phản ứng rất là lạ: Họ hè nhau gôm tất cả phước báu thuộc về nhiều kiếp và bắt linh hồn của ông bà mình phục vụ con cháu bằng cách mách nước cho họ làm giàu và chỉ chưa đầy một năm mà gia đình phát tài mãnh liệt và sau đó cũng là cảnh tàn lụi. Và một khi đã tàn lụi rồi thì hết ngốc đầu dậy được vì phước báu đã tiêu hao quá nhiều rồi. Kết quả, trong vài kiếp sau: họ vẫn nghèo đói, chỗ ở lúc nào cũng hôi thúi, ...
Họ cũng vì giận quá mà lại bỏ đi chỗ khác chơi (thông thường). Tiên mà đi, thì quỷ nó tới (tới để kiếm chác linh khí). Nó lại thấy linh hồn của ông bà của mình, thế là đồng thanh tương ứng, đồng khi tương câu (vì đều là người xấu, kẻ ác): Ông bà thành quỷ đói, chuyên ăn tinh khi con người!
Bây giờ tới phiên an vị người hiền đức:
Tiên rất thích (vì rất hiếm) nên ông bà thành ... Địa Tiên: Con cháu khỏe mạnh, thông minh và nhạy cảm, hay ưa việc thiện, thường tưởng nhớ đến ông bà, gia đình ... Làm việc nghĩa, giúp đỡ nhau khi hoạn nạn, tuy rằng cũng có những trở ngại nho nhỏ nhưng không đáng kể. Những cái hên bất ngờ thường hay đến với gia đình, tai qua nạn khỏi. Tình cảnh này thương hay tái diễn một cách rất là rõ rệt: Gia đình tưởng là bế tắc thì bỗng nhiên lại hanh thông.
Thông thường như vậy, ông bà hay tìm kiếm những tu sĩ và ... dẫn dắt họ đến nhà mình để cho con cháu nó tiếp xúc với những vị này. Đó là công việc của những người hiền mà được an vị đúng nơi đúng chỗ.
Phản ứng của con cháu
Phản ứng không đúng:
1. Gia cảnh đã là như vậy rồi mà còn chưa chịu yên thân: Họ bèn đi tìm kiếm coi mộ phần ông bà và lại tính toán cách an vị một lần nữa cho chắc ăn! Thật là hết chỗ nói luôn! Vô Minh đến như vậy là cùng.
2. Con cháu phải biết rằng năng lực của ông bà thì cũng có giới hạn, tuy rằng thương con, thương cháu nhưng cứ một mặt đòi hỏi quá nhiều thì ông bà cũng buồn phiền: Như là nhà cửa như vậy là ngon lành rồi! Khi khổng khi không lại ưa ở chỗ to, chỗ lớn!
Chỉ vì lý do đơn giản: Để nở mày nở mặt với thiên hạ! Mà quên đi cái lo lắng hết sức của ông bà mình! Dấu hiệu đầu tiên là sự ly tán gia đình! Nếu còn phước báu thì cũng chả sao! Nhưng cũng phải nghĩ đến cái chuyện là ông bà phải bỏ công ra để chăm nom gia đình mình nhiều hơn: Nay thì con Hai ở Úc Châu, mai thì thằng Ba ở Việt Nam ... Mình thì hễ hả, còn ông bà thì toát mồ hôi với đám con cháu:
Chết rồi mà chưa yên là như vậy đó!
Do không chịu vung bồi phước báu mà mình cứ không chịu ở yên, rồi sẽ có lúc mình quyết định bậy bạ để rồi chuyện đáng tiếc lại xảy ra:
Phước báu hết thế là tiêu đời trai.
Lúc đó mới biêt rằng gia đình mình nó đươc như vậy, như kia nhưng cũng rất là dễ mất thì đã muộn rồi.
Phản ứng đúng:
1. Nhìn thấy và cảm nhận được một sự an toàn trong gia đình: Tuy là công việc cũng vất vả nhưng đã bắt đầu có thễ để dành tiền được rồi.
2. Con cháu thì tự nhiên có dứa thích chuyện tu hành một cách ... không thực tế tí nào cả.
Đó là hai dấu hiệu chính của sự kết của mồ mả.
Bàn qua sự kết của mồ mả:
Nguyên tắc: tự nhiên ngay vùng đó: Nhiệt độ lại ổn định, và tự nhiên chỗ đó lại có thễ duy trì một độ ẩm rất là ổn định và không thay đổi thì lúc đó mồ mả mới kết. Trong nhà của em (bên vợ) thì nhà lại có hai hũ cốt được để lên bàn thờ. Tuy rằng, hũ cốt để khơi khơi như vậy mà hũ của Ba lại có hiện tượng kết. Em có mở ra coi thì thây có một lớp màn mỏng y như màng nhện và có màu hồng: Đời Cháu làm ăn khá. Quả nhiên là như vậy! Nhìn qua, nhìn lại thì lại thấy công này là do thằng rể là ... em.
Như vậy mồ mả kết là do phước báu tăng. Phước báu tăng nhanh nhất không phải là đem cốt của ông bà đem đi tán nơi long mạch mà lại là được tăng do sự hồi hướng công đúc tu hành của con cháu. Phước báu mà do công đức tu hành của con cháu là ... bất tận vì cứ hết một buổi công phu thì nó lại tự động hồi hướng y như là đấp đê vậy. Nó càng ngày càng to và càng chắc!
Thiên Tán: Có một vài người rất là hiền đức và họ lại có những nhân duyên với các cung trời (thuộc về Dục Giới) nên sau khi được báo mộng là sẽ lên trên đó làm Vua hay Chúa gì đó! Thì sẽ được ... thăng thiên cả hồn lẫn xác luôn. Có nghĩa là sau khi đi từ giả bà con hàng xóm thì họ sẽ ra đúng điểm hẹn và sét đánh xuống và họ biến mất luôn. (Thông thường những người tu thành Rồng thường hay bị như vậy).
Thũy Tán: Có người hiền đức lại có duyên với Thũy Cung nên sau khi ăn cơm xong từ giả cha mẹ và ra bờ sông để rửa miệng, hay rữa mặt gì đó và không về lại nữa. Tuy rằng mực nước trong và rất là cạng. Nhưng không ai tìm ra\.
Địa tán: Người hiền đức khi chết thì chẳng ai biết, nhưng Chư Thiên lại biết và họ tạo ra một cuộc động đất nhỏ để chôn người này.
Đối với gia đình mình thì anh thấy đó: Tai qua nạn khỏi sau bao nhiêu năm lái xe của anh. Anh hay ngủ và có những cơn giựt bắp thịt cũng vì do phản ứng nghề nghiệp. Con cháu thì ưa gì đều có đó. Tụi nó có cuộc sống khá yên ổn và có đứa phát tâm tu hành.
Như vậy nhìn theo nhãn quang Phật Giáo thì mả đang kết, cho dù mình không biết nó năm ở đâu, nhưng chắc chắng là nó đang kết. Như vậy thì công việc kế tiếp là ... "thiên tán" ông bà luôn cho nó tiện! Bằng cách như thế nào mà mình có thễ ... Thiên Tán ông bà của mình? Chỉ có một cách an toàn nhất đó là niệm Phật và hồi hướng công đức lại cho ông bà của mình và như vậy, ông ba được siêu thoát.
Và nếu ông bà muốn đầu thai trở lại thì sẽ đạt được khả năng: Nhập thai biết, xuất thai biết! Khả năng nay là khả năng của những vị Bồ Tát Nhất Sanh Bổ Xứ. Từ Tây Phương Cực Lạc về lại đây để cứu nhân, độ thế.
Thôi thì em cũng phải dừng bút, và chúc anh chị mà mấy cháu vững vàng trên đường tu tập, đừng sống theo quan niệm của người đời mà hảy sống theo quan niệm của người hiền đức đúng như câu kinh Pháp Cú sau đây:
Vui thay, chúng ta sống,
Không hận, giữa hận thù!
Giữa những người thù hận,
Ta sống, không hận thù!
Vui thay, chúng ta sống,
Không bệnh giữa ốm đau!
Giữa những người bệnh hoạn,
Ta sống, không ốm đau.
Vui thay, chúng ta sống,
Không rộn giữa rộn ràng;
Giữa những người rộn ràng,
Ta sống, không rộn ràng.
Vui thay chúng ta sống,
Không gì, gọi của ta.
Ta sẽ hưởng hỷ lạc,
Như chư thiên Quang Âm.
Lửa nào sánh lửa tham ?
Ác nào bằng sân hận ?
Khổ nào sánh khổ uẩn,
Lạc nào bằng tịnh lạc.
Ðói ăn, bệnh tối thượng,
Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy,
Niết bàn, lạc tối thượng.
Không bệnh, lợi tối thượng,
Biết đủ, tiền tối thượng.
Thành tín đối với nhau,
Là bà con tối thượng,
Niết bàn, lạc tối thượng.
Lành thay, thấy thánh nhân,
Sống chung thường hưởng lạc.
Không thấy những người ngu,
Thường thường được an lạc.
Sống chung với người ngu,
Lâu dài bị lo buồn.
Khổ thay gần người ngu,
Như thường sống kẻ thù.
Vui thay, gần người trí,
Như chung sống bà con.
Do vậy :
Bậc hiền sĩ, trí tuệ
Bậc nghe nhiều, trì giới,
Bậc tự chế, Thánh nhân;
Hãy gần gũi, thân cận
Thiện nhân, trí giả ấy,
Như trăng theo đường sao.
HaiLua
http://groups.yahoo.com/group/vn-buddhism/messages
-
Sự Tinh Khiết của Đồ Ăn và Bệnh Hoạn
1. Sân hận khi nấu ăn: Đồ ăn do một người sân hận nấu cũng có thễ làm cho một tu sĩ bị ... ói và ỉa chảy.
2. Ăn cắp: Đồ ăn do một nghiệp xấu (của ăn cắp chẳng hạng) rồi dâng tặng tu sĩ sẽ làm tu sĩ bị sình bụng.
3. Sắc dục: Đồ ăn do một người quá ưa sắc dục dâng tặng sẽ làm tu sĩ loạn tâm trong buổi thiền định ngay hôm đó.
4. Thiên ma: Đồ ăn có khi bị ... thiên ma nó vào cũng làm cho tu sĩ ... đau bụng .
Hỏi: Đồ ăn bị hư hoại do thiên ma phá quấy, có phải tương tự với cháo cúng cô hồn nhân dịp Vu Lan không?
Đáp:
Thiên Ma: Điều mà ít ai lại dám nghiên cứu và phân tích.
Trình độ: Tứ Thiền Hữu Sắc Bởi lý do tu chứng trong một môi trường có nhiều chuyện liên quan đến "Sân Hận". Nên tu sĩ hay bị nhiểm sự "Sân Hận".
Tin tưởng
Cõi Tứ Thiền là cõi "Giải Thoát" vì căn cứ vào lời Phật dạy: lúc hiểm hoạ "Hoại Kiếp" xuất hiện thì:
Cõi Sơ Thiền: Sẽ bị hiểm hoạ "Động Đất" mà tiêu tan.
Cõi Nhị Thiền: Sẽ bị nạn "Lửa" thiêu đốt
Cõi Tam Thiền: Sẽ bị nạn "Gió" tiêu hũy.
Còn cõi Tứ Thiền thì không bị gì cả.
Do vậy mà hệ thống tu sĩ này, có khuynh hướng ngăn cản những ai lại mưu cầu "Giải Thoát" qua các lớp Chánh Định cao hơn (bằng kỹ thuật "an trú chánh niệm đằng trước mặt").
Lý do:
Họ cho rằng là vô ích (Tới đây: "Tứ Thiền" đã là an toàn rồi).
Tầm ảnh hưởng của Thiên Ma
Vì tính cách đặc biệt của Thiên Ma: Tứ Thiền Hữu Sắc mà còn sân hận!
Nên họ lại có những phản ứng đặc biệt như sau:
1. Đối với những người cực kỳ ác độc, vì tiếng kêu oan của những nạn nhân chấn động đến cõi của họ nên họ làm cuộc điều tra bằng năm phép thần thông mà họ đã chứng đắc (Thiên Nhãn Thông, Thiên Nhĩ Thông, Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông và Thần Túc Thông). Sau đó là họ sẽ gài những lời nguyền của họ vào hào quang của những người cực kỳ độc ác này. Điều mà những tu sĩ có Thiên Nhãn Thông đều có thễ thấy rất là rõ qua những đốm sáng chói trong hào quang của người cực kỳ ác độc này.
Tác dụng
Những người ác độc này, rồi sẽ có lúc phát tâm tu hành trong một kiếp nào đó trong tương lai. Khi người này phát tâm là sẽ "ăn ngay nói thật" thì cũng là lúc thảm hoạ lại giáng xuống cho hắn: Những đốm sáng trong hào quang được kích động qua sự phát tâm Thiên Ma liên cảm nhận được và liền sau đó là họ tìm cách huỷ hoại hệ thần kinh của những người này!
2. Đối với những người ít ác độc hơn: Họ cũng sẽ gài những đốm sáng này vào hào quang của những người này, và chỉ ra tay tạo nên những cơn ngộp thở khi những người này tự tu được lên cõi Tam Thiền.
Tu sĩ mà thở hết nổi thì khó có thễ nhập định vào những cõi cao hơn!
3. Đối với những người cũng có lúc ác độc nhưng lại ít hơn những người ở trên: Họ cũng sẽ gài vào hào quang của những người này (bằng những đóm sáng chói). Những đóm sáng này sẽ tạo thành chất độc là làm cho tu sĩ đau bụng khi tự tu tới Tứ Thiền Hữu Sắc.
Tu sĩ mà đau bụng thì khó có thễ điều khí để vào các lớp định cao hơn (cõi Vô Sắc). Vì lúc nào cũng thấy mình yếu xìu.
4. Đối với những tu sĩ thật là hiền đức và khi những tu sĩ này tự tu đến Tứ Thiền Hữu Sắc và có mưu tính vào các cõi cao hơn để mà đạt được sự "Giải Thoát Rốt Ráo".
Thì họ sẽ dùng ngũ thông để nghiên cứu coi tu sĩ có khuynh hướng ... "thả dê" như thế nào đối với người khác phái:
Đối với Đức Phật Thích Ca thì Thiên Ma biết Ngài rất thích thả dê ... những cô gái vị thành niên (căn cứ vào Túc Mạng Thông khi được dùng để soi vào những tiền kiếp).
Trong điều kiện này thì Thiên Ma sẽ, trước hết, lôi kéo những thanh nữ trẻ đẹp này đến vây quanh tu sĩ để học hỏi hay đòi tu, khen tặng, ca tụng ... với mục đích là làm cho tâm thức của tu sĩ bị giao động (Chuyện đã và đang xảy ra cho một số anh em trong bọn của đệ)
Nêu tu sĩ không bị quyến rũ thì đích thân Thiên Ma sẽ hiện ra nguyên hình những thanh nữ tuyệt trần này để lung lạc tâm thức của tu sĩ (y như Đức Bổn Sư đã bị họ làm như vậy).
Đối phó
Để đối phó với Thiên Ma: Tu sĩ nhập chánh định vào những đốm sáng chói trên hào quang của mình (dễ dàng) và niệm câu:
Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát
Tác dụng: Thiên Ma hiện ra nguyên hình (rất là đẹp) và nhìn tu sĩ với cặp mắt khinh khi và sau đó là biến mất.
1:46 AM 8/27/2007
Mến
Hai Lúa
TB: Ngài Mục Kiền Liên đã là một Thiên Ma trước khi gặp Đức Phật Thích Ca.
-
TRẠNG THÁI TÂM CỦA THIỀN ĐỊNH
Hỏi: Làm sao biết được mình vào Sơ Thiền trong khi ngồi thiền? Và nếu đã vào được Sơ Thiền rồi, khi xuất thiền trở về cuộc sống bình thường ở thế gian, khi mình nghe một tin tức nào đó, như chiến tranh trung-đông khiến nhiều người chết chóc, lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, đau khổ .v.v... rồi mình sanh tâm thương hại những người đó (rất mẫn cảm), khiến mình buồn sầu .... Như vậy cái trạng thái buồn sầu cảm thông với tha nhân này có khiến tâm mình (động loạn) bị "tụt dốc" trong tiến trình tu thiền không?
HL: Vipassana mà làm theo sách vở thì không cách gì mà biết được mình vào được Sơ Thiền hay chưa. Vì hành giả chỉ chơi với Thô tâm mà thôi.
Cứ nhìn vào cái trò chơi "Đập đầu con chó cỏ" thì biết liền: Người chơi cầm cái búa và hễ cái đầu con chó cỏ lồi lên thì người chơi liền đập lên đầu nó và làm cho nó thụt xuống hang.
Cảnh này rất là giống khi mình dùng vipassana để nhìn vào tư tưởng: Hễ mà tư tưởng nó trồi lên là nó bị vipassana hóa giải liền. Làm như vậy thì mức độ thanh tịnh của hành giả, sau một vài năm, có thể cao hơn người thường.
Tuy nhiên, vấn đề ở cái chỗ là tư tưởng cứ trồi lên hoài mà không chiụ dừng.
Nguyên nhân là vì Vi Tế Tâm chưa được khống chế. Chính vi tế tâm đã cung cấp năng lực và làm cho Thô Tâm cứ xuất hiện hoài thôi.
Trước khi vào vấn đề, đệ lại nói hơi ngoài lề một chút nghe:
Khi đánh giặc, người tướng phải hiểu là bên địch lúc nào cũng có ba (3) lực lượng:
- Thứ nhất là lực lượng lính đóng trong các đồn bót mà mình có thễ thấy được dễ dàng. và vì nó lộ thiên nên việc tiêu diệt nó không có khó khăn cho lắm.
- Thứ hai là các Lực Lượng Đặc Biệt, bọn này chuyên môn hoạt động âm thầm. Lực lượng này khó có thễ biết được. Vì không thấy nên việc tiêu diệt nó rất là khó.
- Thứ ba là Bộ Tổng Tham Mưu, đây là đầu não của địch quân, muốn thắng trận thì phải tàn sát cái lực lượng này. Và dĩ nhiên đây là niềm mơ ước và cũng là cái khó nhất khi muốn tiêu diệt nó.
Cũng y như vậy, khi tu hành, hành giả phải làm sao mà có thễ tàn sát Thô Tâm (được ví như lưc lượng thứ nhất) Vi Tế Tâm (được ví như lực lượng thứ hai) và cái Bản Ngã (được ví như lực lượng thứ ba).Phải có đủ phương tiện thiện xảo và sự kiên nhẫn để có thễ tiêu diệt
được những cái loạn động này.
Nay trở về lại câu hỏi.Khi làm vipassana vào hơi thở thì hành giả nên dùng phương tiện thiện
xảo này để tránh được tình trạng lo ra, và đồng thời tấn công vào vi tế tâm, bằng cách: Bắt nó làm vipassana luôn.
Phương pháp là:
Thay vì hành giả để ý đến cái sự phòng xẹp của cái bụng của mình trên thân thể, thì lần này hành giả nên:
1. Nhắm mắt lại 100%
2. Dùng trí tưởng tượng mà hình dùng ra cái bụng của mình. Linh ảnh của cái bụng sẽ xuất hiện ra ngay đằng trước mặt và ngang với tầm nhìn của mình. Linh ảnh lúc đầu chưa hoạt động đồng bộ được với hơi thở thực tế của hành giả. Nhưng chỉ cần một thời gian sau, thì sự phòng xẹp của cái bụng (trong linh ảnh) sẽ ăn khớp với hơi thở thực tế của hành giả.
Chỉ lúc này thì hành giả mới biết được mình vào Sơ Thiền được hay chưa. Bằng cách nếu linh ảnh xuất hiện 12 giây thì hành giả đã vào được Sơ Thiền rồi (Tất nhiên: từ 12 tới 40 giây là Nhị Thiền ...)
Sự nhạy cảm của hành giả không ảnh hưởng gì đến công phu cả. Với điều kiện là hành giả đừng có tru tréo, kêu gào thảm thiết khi hay tin buồn như vậy.
Hỏi: Khi hành giả ngồi thiền đạt được một trong 4 cấp độ ở các tầng của Vô Sắc, thì khi trở về cuộc sống thế gian bình thường, có bị mất đi tâm an lạc hạnh phúc do năng lực thiền định của các tầng trong Vô Sắc giới sanh ra hay không? Hay là tâm vẫn an nhiên tự tại hạnh phúc dù cho có bất cứ cảnh ngộ phiền não đau buồn nào sanh ra trong cuộc sống bình thường?
HL: Chỉ cần Tam Thiền thôi, thì độ an nhiên tự tại đã đủ bền vững để chịu đựng đưọc cảnh nghèo và đói (kinh nghiệm của đệ) huống chi là Vô Sắc. Ba Danh (thằng du đảng ở kinh tế mới Lộc Ngãi) khi nhập vào Tứ Thiền, Hữu Sắc đã nói lên kinh nghiệm thực chứng như sau:
Nhà thì nghèo, vợ thì bịnh, con thì đói mà sao cái đầu óc cứ thảnh thơi, nhẹ nhàng, sảng khoái như là không có chuyện gì xảy ra. Trong tình huống này, mình thấy rất là rõ cái nhân quả của ác nghiệp nên mình an nhiên tự tại là vì vậy.
-
Sát Sinh Trong Đạo Phật
Đặt Vấn đề: Trong chùa có dán đầy dẫy không có ai dám giết vì sợ tội sát sinh. Thế thì tu theo đạo Phật một con dán cũng không dám đụng tới. Bạn có biết trong mỗi bước đi bạn đã giết bao nhiêu sinh vật hay không?
Bạn có biết trong mỗi ngụm nước bạn đã uống biết bao nhiêu sinh vật hay không?
Bạn có biết trong mỗi cái hắt hơi bạn đã giết biết bao nhiêu sinh vậy hay không? etc...
Không sát sinh vì tình thương hay vì sợ mang tội!!!
Bạn có biết khi nào sát sinh là tạo phước hay không?
HL: Khi nào mình tu xong rồi thì mới biết được lúc nào sát sinh, lúc nào không?
Huynh còn nhớ cái chuyện có một ông tàu giết con mèo không? Theo Huynh thì đó là tội hay phước.
Kinh Phật thì chỉ tính nghiệp sát khi cố ý giết các sinh vật thuộc vào loại: "Các Chúng Hữu Tình". Có nghĩa là "Các Chúng Vô Tình" thì không sao.
Vậy thế nào là Hữu Tình?
Là có tình cảm. Có nghĩa là nó có thễ trình bày cái suy nghĩ riêng của nó.
Như vậy bất luận vật nào hay sinh vật nào mà có thễ "phát biểu ý kiến" hay "nói ra cái nhận định" của nó thì đều thuộc vào loại "Các Chúng Hữu Tình".
Câu chuyện này trở thành dài kinh khủng khi bàn về tình trạng ... "Chiết Linh".
Như câu chuyện cây hoa hồng lại có phản ứng ... khi người có ý định hái hoa đi đến gần nó. Như các linh phù (ngọc, cây ngãi) lại phản ứng khi ... đụng chuyện.
Quán Như Ý Túc
Chào các Bạn
Đa số khi đi tầm sư học Đạo đều chỉ nhắm vào cái kiến thức, cũng như là khả năng biện luận của một vi Thầy. Họ thường đi đến những buổi thuyết giảng với số người tham dự rất là đông đảo, ở đó có những vị Thầy đã từng đậu bằng Tiến Sĩ Phật Học, thông thạo rất là nhiều ngôn ngữ, hay là những vị Thầy hiện đang là Quốc Sư được chính quyền đương thời nể phục. Họ chuyền tay nhau những băng giảng về đủ loại đề tài với những trích đoạn hay trích dịch từ những cuốn sách nổi tiếng trên toàn thế giới.
Họ lại có thói quen: Tự đóng khung bằng cách hay nghe đi, nghe lại những đề tài mà họ... thích nghe mà thôi, đối với những chuyện vượt ra ngoài sự suy luận của họ thì họ cho đó là chuyện "tà đạo", chuyện "ma quỷ"... Tóm lại họ nghe toàn là những đề tài về cái "Không", còn những đề tài về cái "Diệu Hữu" thì hình như là không được bàn đến, và tất nhiên là ai muốn hiểu ra sao đó thì cứ việc hiểu theo ý thích của mình.
Nhưng lại có một số rất là ít, khi đi tìm một vị Thầy thì lại để ý đến trình độ tâm linh của vị Thầy đó. Họ đòi hỏi vị Thầy đó phải có những khả năng siêu thế gian, một cái nhìn thấu thị, và một trí tuệ vượt ra ngoài sách vở.
Một cái gì đó ở trong lòng họ đã làm cho họ hiểu rằng: Để có khả năng... sáng tác ra Tam Tạng Kinh Điển, Đức Phật chỉ cần có Lục Thông.
Và cũng từ cái gì đó trong lòng họ đã cho họ biết rằng: Để độ 1250 vị A La Hán trong vòng có 50 năm thuyết pháp, Đức Phật chỉ cần có một "cái nhìn thấu thị".
Khác hẳn với số đông ở trên: Họ chỉ muốn thành Phật với Lục Thông và một cái nhìn thấu thị! Tóm lại một ông Phật với những cái "Có "! Chớ không phải là một Đức Phật với một cái "Không nhưng lại là diệu hữu" một cách thật là... khó hiểu .
Một cái gì đó trong lòng họ đã cho họ biết rằng đây mới là cách học ở cái gốc. Vì nó có thễ thâm nhập được trong mọi trường hợp khi tiếp xúc với đời sống của các chúng hữu tình!
Cái nhìn thấu thị cũng được gọi là cách "quán như-ý-túc".
Ghi tới đây, đệ lại nhớ đến một chuyện nhỏ đã xảy ra ở Đà Lạt tại nhà của một cư sĩ trồng hoa lan nổi tiếng ở Đà Lạt, chuyện rằng:
Thật là đáng nể khi hành giả vừa ngồi xuống, thì vị cư sĩ ngồi trước mặt đã cho biết rằng:
- "Khi anh đang đi vào đầu ngõ là tui đã biết từ tối hôm qua rồi, tui đã ghi vội lên tờ lịch mà tui kẹp trong cuốn kinh đây! Rồi tu sĩ đi lên lầu và sau đó đi xuống và đưa cho hành giả một cuốn kinh "Kim Cang" có kẹp một tờ lịch. Trên đó có ghi rất là vội vàng: hành giả tên gì, bận đồ gì khi tới đây, lúc mấy giờ.
Tất nhiên là tất cả đều đúng phóc!
Hai Lúa đệ cũng có mặt tại nơi đó.
Thế nhưng sau đó thì câu chuyện lại lạt phèo chẳng có gì là cao siêu, toàn là "Tánh Không", toàn là cái "uyên nguyên", toàn là những trích dẫn của Kinh này, sách nọ... Sao mà nó ... lý thuyết quá! Nếu so với sự chính xác của cái thấy vừa rồi của vị cư sĩ!
Từ đó, đệ lại nghi ngờ những khả năng đặc biệt mà những tu sĩ có thễ biểu diễn khi đàm đạo. Và đệ chỉ nghi ngờ mà thôi chớ không thách thức ai.
Sau này nhờ tinh tấn tu hành nên đệ có quay lại những trường hợp mà đệ đã gặp khi đi đàm đạo. Hầu như chỉ là xảo thuật, không có thật! Chuyện kể trên trở nên thật là lố bịch khi đệ thấy rõ ràng vị cư sĩ đó đi lên lầu, xé lấy một tờ lịch và ghi vội những điều trên rồi kẹp tờ lịch vào cuốn kinh, rồi đi xuống đưa cho vị hành giả nọ!
Sau đó đệ có tới nhà vị đó và biểu diển thần thông thứ thiệt cho vị đó coi và nói rằng:
- Anh đừng nên lừa người ta nữa, chuyện gì mình làm được thì cứ nói là làm được, còn chuyện gì không làm được thì đừng có làm ẩu, nó giảm phước báu của mình khi mình tự tu, tự chứng trong đời mạt pháp này.
Ngoài một vài xảo thuật như vừa kể trên: đệ cũng còn biết những cách thức quán như-ý-túc của vài cung trời:
0. Con Người mà đòi... quán như ý túc thì chỉ toàn là những suy luận, tư duy, so sánh dữ kiện, góp nhặt kinh nghiệm, dự trù... Tất nhiên đây chỉ là đơn thuần là những suy nghĩ mà thôi, chớ không phải là quán.
1. Quán Như Ý Túc với trình độ Tha Hoá Tự Tại.
Đây cũng không phải là quán mà chỉ dùng cái linh tính mà thôi. Khi thô tâm đã thanh tịnh rồi thì cái linh tính trở nên bén nhạy, tu sĩ lại có linh tính khá đúng về những hiện tượng trong một tương lai gần.
Huynh KKT lâu lâu lại ghi rằng: không hiểu tại sao mà khi tui hỏi như vậy thì tui lại biết ngay rằng Huynh sẽ hỏi như vầy, như kia ...
Đây là hiện tượng thô tâm đã tạm yên.
Độ chính xác chỉ là 70% là hết cỡ.
Quý vị có đi bói toán qua các cuộc lên đồng thì sẽ chứng kiến cái cảnh khi những vị nhập xác này tiên đoán về tên của người coi. Vì đệ tên là Phước, nên họ sẽ tuyên bố rằng:
- Tên anh khởi sự bằng chữ P phải không?
Và chỉ có tới đó mà thôi, và dĩ nhiên đó là hết mức, họ không thễ nào đoán tiếp được nguyên cả cái tên của đệ. Khi gặp hiện tượng tương tự như vậy thì quý Bạn nên nhớ là đây là trình độ của Tha Hoá Tự Tại.
2. Quán Như Ý Túc với trình độ Hữu Sắc
Cái này đã từng là chuyện thường tình của bọn lu bu (nhóm tu hành của anh HL). Họ dùng thiên nhãn, và thiên nhĩ, hay tha tâm thông để tìm cách chọn một pháp môn nào đó, hay là một đề mục thích hợp cho từng cá nhận Họ có thễ tìm ra những khuyết diểm của hành giả trong khi tu tập... tuy nhiên, những hiện tượng trên chỉ có chính xác đến 95% là hết mực. Sự chính xác sẽ tiến xa hơn nữa khi họ vào các Bậc Thánh (Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán) hay có đôi lúc vì đúng nhân duyên nên sự chính xác cũng rất là cao.
3. Quán Như Ý Túc với trình độ Vô Sắc
Sự nhạy cảm ở trình độ này rất là cao cấp. Có thể nói là đối tượng sẽ... trần truồng khi họ dùng cách quán này. Đến trình độ này thì tu sĩ có thễ biết một cách tường tận:
- Tâm còn tham, biết rõ là tâm còn tham.
- Tâm còn sân, biết rõ là tâm còn sân.
- Tâm còn si, biết rõ là tâm còn si.
- Tâm đã nhập được Chánh Định, biết rõ là tâm đã nhập vào Chánh Định.
Nhưng chỉ có một điều là hành giả không biết đó là: trình độ tâm Giải Thoát.
Tất nhiên, khi đã vào được các Bậc Thánh thì sẽ biết được trở ngại trên.
4. Quán Như Ý Túc với trình độ Đức Phật:
Anh Sơn (ở Đà Lạt, VN) có một cách quán là nhìn ra được luồng Bhavanga của đối tượng và anh ấy cũng tự sắp xếp, và hệ thống hoá những biểu hiện của luồng Bhavanga. Vì vậy mà anh ấy có thễ biết được các khuynh hướng ngủ ngầm của đối tượng, cũng như những trở ngại mà thông thường đối tượng không thể vượt qua được nếu không tận lực cố gắng!
Đệ lại có một cách quán để cho tình trạng "Ngộ Đạo" được lặp lại nhiều lần theo ý muốn của hành giả (Điều mà sách Vi Diệu Pháp có nói là kinh nghiệm "Ngộ Đạo" hay "Nhập Lưu" chỉ có thể xảy ra một lần duy nhất trong một đời người mà thôi). Và khi càng bị lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy, hành giả lại có thể vào được những "Bậc Thánh" cao hơn. Phương pháp là hành giả nhìn vào luồng Bhavanga của các Đức Phật trong khi hành giả Tự quán đảnh (cô bé DP ở Utah) hay vào các Mạn Dà La (cũng là cô bé DP ở Utah). Cô bé trình bày lại là khi làm như vậy thì lại bị ngầy ngật y như khi Ngô Đạo nhưng càng lúc cường độ lại càng mạnh hơn.
Diệt Thọ Tưởng Định
Thập phương Chư Phật không chấp nhận bất cứ một trường hợp "Bất Kỳ" nào cả .
Do vậy, chuyện vào Diệt Thọ Tưởng Định phải hội đủ những điều kiện tối thiểu sau đây:
1. Tâm lực phải đủ mạnh, có nghĩa là trình độ Nhập Định phải là Tứ Thiền Hữu Sắc. Tâm lực này biểu hiện qua ngũ thông . Mà mình có thể tập được.
2. Ý đồ Giải Thoát phải là cái đích để đến, Không nuôi dưỡng và tìm cách thực hiện cái ý đồ này thì "Không có chuyện Giải Thoát" cho dù có tu theo... Đạo Phật.
3. Bí quyết vào Diệt Thọ Tưởng Định phải được học thuộc nằm lòng.
4. Hành giả phải hiểu rằng khi vào đó xong thì hơi thở sẽ ngừng hoạt động. Do vậy, phải một mất một còn với cái... hột cát hơi thở này .
5. Họ cũng là người và đã làm được thì mình phải làm được . Chỉ hơn thua phương pháp mà thôi, nay mình đã được biết phương pháp rồi thì chỉ có làm mà thôi, không thèm nói nữa .
Phước Nguyễn (HL)
-
An Trú Chánh Niệm đằng trước mặt
Kỹ Thuật: Một kỹ thuật mà cho đến nay, có thễ nói là đã gần như là thất truyền trong Phật Giáo.
Giá trị: Anh Sơn (A La Hán ở Đà Lạt) đã từng than thở: Tui mà biết được cái kỹ thuật An trú chánh niệm đằng trước mặt và sự mầu nhiệm của nó thì tui đã không uổng phí thời gian trong vòng 30 năm để tu tập tầm bậy tầm bạ.
An trú chánh niệm đằng trước mặt có đề cập đến trong kinh điển nhưng không có một ai biết được hết cái giá trị siêu phàm vượt thánh của nó! Vì sự thật là: rất ít ai biết cách thức an trú chánh niệm đằng trước mặt!
Nên nhớ rằng: Kinh Majjhima Nikaya (trung bộ tập3) kinh số 107. Kinh Ganaka Moggallàna Gằnakamoggallana sutta) có đề cập đến một trình tự tu tập và trong đó, Đức Phật cũng có nhắc đến chuyện chú ý tỉnh giác khi đi đứng nằm ngồi và sau đó là quy trình "an trú chánh niệm đằng trước mặt" và chỉ có bấy nhiêu mà thôi, còn phần kỹ thuật thì không ai biết nó ra làm sao cả!
Khi niệm Thân, sau một thời gian thực tập và tu sĩ đã tỉnh giác được rồi, thì kế đến là phân kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt trên "Thân" nó là như thế này:
1. Bước thứ nhất: Tu sĩ nhắm mắt 100% và nhìn chăm chăm về hướng đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và dùng trí tưởng tượng của mình, tưởng tượng ra một cái hình ellipse (hột vịt mà hai đầu đều bằng nhau) dựng đứng. Thông thường thì khi hình này hiện ra thì đã có một hình ảnh (mờ mờ) của một Con Người ngồi theo thế kiết già và bận áo Thầy Chùa màu vàng. Như vậy trong kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt với đề mục là "Thân" thì hành giả phải thấy được hai (2) thành phần của Con Người:
a. Thành phần Hào Quang (là phần không gian trong cái hình ellipse)
b. Và phần thân thễ là cái hình Con Người bận áo Thầy Chùa, đầu trọc ngồi kiết già ở trong cái hình ellipse đó.
1.1. Ý nghĩa: Tu sĩ đang bận áo Chánh Pháp và đang thực tập về cách quán hay an trú chánh niệm đằng trước mặt với đề mục là "Thân" với mục đích là ly khổ cắi đầu trọc)
1.2. Trình độ:
1.2.1. Bước thứ nhất (Thấp): Hành giả dùng trí tưởng tượng của mình và bằng cái nhìn chăm chăm vào cái linh ảnh đó và... tô (sơn) nó lên, và làm cho nó thật là rõ, khi cái hình nó nổi lên rõ ràng thì đó là dấu hiệu báo rằng bước thứ nhất đã tạm được.
1.2.2. Bước thứ nhì (Cao): Hành giả dùng trí tưởng tượng và ... thấy luôn cả bộ xương. Đây là trình độ cao nhất mà hành giả có thễ an trú chánh niệm đằng trước mặt trên đề mục là "Thân".
1.3. Khó khăn: Khó vô cùng, vì nó đòi hỏi "nguyên con cái tâm" (Vi tế tâm và Thô Tâm) phải tham gia vào việc quán hay an trú chánh niệm đằng trước mặt. Do vậy mà tu sĩ phải thật là chú tâm vào công thức quán này, thì nó mới chịu ra. Và phải kiên định lập trường phẳi tập cho xong) cũng như tinh tấn đến cao độ, có thễ nói là tập "một mất một còn" với nó... thì mới xong cái phần căn bản này!
1.4. Nhận Xét:
1.4.1. Kỳ lạ là: Tuy rằng tu sĩ, đang nằm, hay ngồi trên cái ghế, để quán thì lúc nào hình ảnh của Con Người trong cái hình ellipse cũng đều ngồi ở tư thế Kiết Già! Và lúc nào cũng bận đồ cà sa màu vàng và đầu lúc nào cũng là đầu trọc.
1.4.2. Một khi cái phần căn bẳn trên đã làm xong thì khi áp dụng kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt vào Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì chỉ là trò hề! Nó rất là dễ làm và có kết quả có thễ nói là rất là tức thời!
1.5. Áp dụng:
1.5.1. Hơi thở: áp dụng cho cả hai trình độ (thấp và cao). khi an trú chánh nịệm đằng trước mặt thì tu sĩ sẽ thấy rằng: khi mình thở "ở ngoài này" thì cái ông đang ngồi xếp bằng đó cũng thở y chang như mình! Sự hoạt động đồng bộ này là dấu hiệu của "nguyên con cái tâm" nó đang học và khi nó học thì nó hiểu rằng: Tất cả đều có, khi còn cái phòng xẹp này! Và tất cả sẽ biến mất, khi không còn cái phòng xẹp này nữa (dĩ nhiên).
Mở ngoặc: Trước đây chỉ có cái "Thô Tâm" nó hiểu mà thôi, còn cái "Vi Tế Tâm" thì nó cứ lăng xăng nên sự hiểu biết này chưa có đủ sức mạnh để ngăn cản những sự xé rào (bổng dưng mình cảm thấy ưa cái này, thích cái kia), và nhất là những cơn bùng dậy của Tham, Sân, Si sau khi đã... ngủ ngầm một thời gian! Nay, cũng là bổn cũ soạn lại, nhưng lần này thì có cái khác là: Nguyên con cái tâm nó biết và một khi nó biết rõ là như vậy, thì nó tự điều chỉnh. Nên chỉ cần vài tuần, hay vài ngày thì nó đã đủ sức mạnh để hiểu rõ cái tình trạng "Vô Duyên" hay sự "Lảng Xẹt" khi mình tham cái này, giận cái kia, hay thích cái nọ! Ái mà dứt được rồi, thì cái gì mà còn? Đóng ngoặc.
Kết quả: Tập như vầy thi cũng đã đủ để siêu vượt thế gian rồi.
1.5.2. Đi (Dứng, Nằm, Ngồi): Chỉ áp dụng cho trình độ cao, hành giả đi vừa quán thấy nguyên cả bộ xương mình cũng đang đi, y chang như mình đang đi ở... ngoài này!
1.5.2.1. Trí Tuệ: Cả bộ xương mà đi đứng nằm ngồi thì rõ ràng là tu sĩ hết còn cái nhìn ở lớp da (ai cũng biết cái nhìn này tạo ra sự phân biệt: có Nạm, có Nữ, có Già, có Trẻ, có Đẹp, có Xấu, ...) mà nó đã vào tới tận cùng xương tủy. Chỉ cần nguyên con cái tâm (gồm cả hai phần: Vi Tế tâm và Thô Tâm) mà thấy được như vậy thì tự nó hiểu rằng không có Nam, không có Nữ, không có Già, không có Trẻ,... vì vậy mà nguyên con cái tâm nó dứt được hết các phân biệt này nọ.
1.5.2.2. Kết quả: đi coi vũ sexy thì chỉ thấy bộ xương nó cục cựa, nhìn thấy người đẹp cười thì cũng chỉ thấy có bộ xương nó cười. Tham ái tự dứt: A Na Hàm và A La Hán trong tầm tay. Tập tới đây thôi cũng là đủ rồi! Không cần tập thêm cái gì nữa cả.
Chuyện bên lề: Một cô ở Utah đang tập tới đây thì bổng nhiên có nhận xét rằng: " Chú ơi, con đang tập cái chú đang nói đó! Nhưng sau đó thì cái chuyện "Vợ Chồng" nó trở nên lảng xẹt à! Sao nó tự nhiên, con thấy nó dững dưng dễ sợ luôn!" Đệ trả lời: " Thì chỉ có thằng điên, con khùng nó mới mê cái... bộ xương mà thôi! Con, thì chú thấy con đâu có điên gì đâu! Nên nó là như vậy đó!"
1.5.3. Thọ, Tâm, Pháp: Ba cái này rất là dễ làm! Chỉ cần tu sĩ chú ý đến cái phần không gian trong cái hình ellipse (cái hào quang).
Nguyên tắc: Một khi mà nguyên con cái tâm nó đã biết thế nào là đẹp thế nào là xấu thì nó tự động không thèm tham gia vào những hành động hay những suy nghĩ dẩn đến những cái xấu nữa! Y như tình trạng đem cứt mà để lên bàn thờ vậy! Nguyên con cái tâm nó không chấp nhận và nó cũng không làm được như vậy luôn.
Thực tế, khi an trú chánh niệm đằng trước mặt của "Thân trên Thân" thì nó đã tự động dẩn đến cái chuyện không còn Tham, Sân, hay Si rồi! Nhưng để gọi là "đóng chốt" luôn cái tình trạng này, nên các tu sĩ khác cũng đã cẩn thận cho "nguyên con cái tâm" nó học hỏi và hiểu biết luôn với mục đích là để chừa luôn, không còn thèm Tham Sân Si nữa: Bằng cách cho nguyên con cái tâm nó hiểu rằng những chuyện gì sẽ xảy ra khi mình Tham, Sân và Si.
1.5.3.1. Thực hành: Cho tới bây giờ thì khó có cơ hội để mà Sân hận được! Nên chỉ còn hai cách:
1.5.3.1.1. Nhìn người ta đang Sân Hân hay Tham: Sau đó thì nhìn hào quang của người đó. Tu sĩ sẽ thấy nó dơ như cứt vậy! Chỉ cần một lần thôi thì nguyên con cái tâm nó chê và không thèm chơi luôn với ba cái Pháp lăng nhăng này.
1.5.3.1.2. Hồi tưởng lại hồi xưa: Mình cũng còn giận hờn như ai vậy và tác ý muốn thấy lại cái hào quang của mình ngay vào lúc đó: Liền thấy ông ngồi Kiết Già với cái đầu thì trọc mà lại có cái hào quang quá là dơ dáy! Dĩ nhiên chỉ cần làm một lần thôi thì cả nguyên con cái Tâm nó đã thuộc bài và không thèm chơi với ba cái pháp theo kiểu xịt bộp này nữa!
Trên đây chỉ bàn đến kết quả tất nhiên của kỹ thuật an trú chánh niệm đằng trước mặt.
Nay đệ lại bàn về sự mầu nhiệm của an trú chánh niệm đằng trước mặt đối với ác nghiệp quá khứ và nguyên tắc trả nghiệp! Muốn bàn về vấn đề này thì nên biết về vài thông số kỹ thuật mà đệ đã thực nghiệm qua: Tất nhiên là khi an trú chánh niệm đằng trước mặt thì tu sĩ sẽ có thễ đo được sự xuất hiện lâu hay mau như thế nào của đề mục. Tuy rằng không chính xác cho lắm nhưng cũng gọi là tàm tạm.
Và sau khi nhìn lại từ trình độ Tứ Thiền thì đệ đã đúc kết ra được thời gian tối thiểu mà đề mục xuất hiện đằng trước mặt để xác định trình độ tâm linh của cá nhân đó như sau:
- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và lâu tới 12 giây: Sơ Thiền
- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và lâu từ 12 tới 40 giây: Nhị Thiền
- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và lâu từ 40 tới 70 giây: Tam Thiền
- Hình ảnh đề mục xuất hiện ngay đằng trước mặt, ngang với tầm nhìn và lâu trên 70 giây: Tứ Thiền
Theo Kinh sách thì:
- Tuổi thọ của Sơ Thiền: từ 1/3 đến 1 A Tăng Kỳ Kiếp [1 A Tăng Kỳ là: Một con số một với 47 con số không (từ điển Phật Học của Đoàn Trung Cồn)] (Và một kiếp là vài trăm vạn năm ở Trái Đất)
- Tuổi thọ của Nhị Thiền: từ 2 đến 8 Đại A Tăng Kỳ Kiếp.
- Tuổi thọ của Tam Thiền: từ 12 đến 32 Đại A Tăng Kỳ Kiếp.
- Tuổi thọ của Tứ Thiền: từ 500 đến 16000 Đại A Tăng Kỳ Kiếp.
Như vậy tuổi thọ này nó tính ra làm sao đối với một Con Người đang tu tập với cách an trú chánh niệm đằng trước mặt? Ví dụ như là tu sĩ chỉ tới Sơ Thiền có 12 giây đồng hồ: Phải hiểu rằng tu sĩ chỉ ở Sơ Thiền chỉ có 12 giây thôi và hiện tượng tuột định liền xảy ra. Lý do là do hết sức, hoặc là do độ nhập Chánh Định chưa có mạnh cho lắm vì chưa quen vậy thôi. Tuy vậy chỉ cần 12 giây vàng son này thôi thì tu sĩ đã có thễ bao trùm vài ngàn kiếp ở Trái Đất thuộc về quá khứ!
Tại sao?
Mở ngoặc: Đường trở nên cực kỳ trơn trợt, xin Các Bạn giảm vận tốc đọc lại thật là chậm và suy nghĩ cho kỷ: Đóng ngoặc.
Lý do là vì tu sĩ chết ở Sơ Thiền 12 giây trước đó và tiếp tục sống lại liền ở đây! Do vậy mà cái tuổi thọ mà tu sĩ đă sống 12 giây ở Sơ Thiền, nó... lại bao trùm ngược về quá khứ, Có nghĩa là khi sống 12 giây ở Sơ Thiền thì tu sĩ đã sống tương đương với vài chục ngàn năm ở Trái Đất vào thời quá khứ!
Trả nghiệp: Đối với một người không có tu hành (anh A): Khi người này (anh A) bị ai đó đá một cú vào đít của mình, thì chỉ có một ý nghĩa duy nhất là: Vì kiếp trước anh A này đã có đá vào đít của người kia một lần! Và chỉ là như vậy mà thôi. Do vậy mà anh A rất là hận người đá vào đít của mình! Vì anh A đâu có biết nguyên nhân hồi kiếp trước đâu nè!
Đối với người tu tập theo cách an trú chánh niệm đằng trước mặt thì Nghiệp quả củng sẽ tới với một cú đá vào đít, y như anh A đã bị! Nhưng vì âm hưởng của thời quá khứ (do tuổi thọ 12 giây ở Sơ Thiền) nên nghiệp quả còn mang một tính chất đặc biệt nữa là: Nó lại đại diện cho vài ngàn cú đá ở vào những kiếp quá khứ! Do vậy mà tu sĩ này nhận cú đá với nụ cười trên môi . Vì tu sĩ biết chắc rằng: Mình đã có dịp trả nghiệp vào thời quá khứ nhanh gấp vài ngàn lần so với một phàm phu! Vì lý do đó mà Đức Phật Thích Ca chỉ nhắc chừng cho những tu sĩ mới tu, Ngài đã nói: Ông bị muổi cắn suốt đêm và ông ngủ không được à! Ông nên nhẫn nại.
11:14 PM 9/11/2007
Mến
Hai Lúa
-
Chuyện Niệm Phật
Chuyện niệm Phật là xưa lắm rồi, Con Người đã biết niệm Phật thì ... những cõi khác, họ cũng biết niệm Phật. Thế nhưng, chỉ có một vài cách niệm Phật thì mới có tác dụng y như Kinh mà thôi. Còn những cách khác thì chỉ là... niệm Phật mà thôi.
Ví dụ:
Đao Lợi niệm Phật: Nhưng ông bà tiên này chỉ niệm với tiếng xù xì, xù xì trong miệng Y như là tiếng tâm sự của hai người rất là thân thiết nhau: họ chỉ thì thầm và chỉ ... nói cho nhau nghe. Cung trời của những người dễ mến mà!!!
Đâu Xuất niệm Phật: ông tiên bà tiên này niệm to tiếng và luyến láy (y như tiếng luyến láy của Đàn Bầu hay violon vậy), Ở đây là nguồn gốc của nhạc... Ấn Độ
Tha Hoá Tự Tại niệm Phật: ông bà tiên này niệm ra tiếng và mạnh bạo, niệm liên tu bất tận ...
Như vậy trong Chùa ở trên Đà Lạt (chùa Linh Sơn) hay niệm Phật theo cách của Đâu Xuất:
Nam (a) Mô (a) A (a) Di (a) Đà (a) Phật (à à á)! (và cứ thế mà tiếp tục). Chắc quý vị có nghe qua cung cách niệm Phật này: Nó luyến láy ở đoạn cuối (Đâu Xuất đó)
Có những tu sĩ niệm Phật xù xì (Ba Má của đệ). Đao Lợi đó! Có những tu sĩ niệm Phật theo tiếng mõ rất là nhanh để phá vọng niệm: Tha Hoá Tự Tại đó. Như vậy, mình niệm theo cách nào thì vô tình mình cộng hưởng với những cung trời đó!
Niệm lâu ngày thì... họ tới. Rồi do lâu ngày, mà họ lần lần biết được ý thích của mình nên họ cho mình thấy này thấy nọ theo ý thích của mình.
Bây giờ nếu mà mình tỏ ý không thích nữa! Thì có lúc sẽ không còn thấy gì cả. Nhưng cũng có lúc họ lại thích đùa dai nên mình vẫn thấy như thuờng. Còn nếu mà mình thích thú thì họ sẽ làm tới và càng cho mình thấy nhiều điều hơn nữa.
Cái điều dễ nhận biết nhất là những vị tu sĩ này rất dễ nóng giận khi mà mình cố ý phê bình và đưa những nhận xét của mình cho những vị này biết.
Phỏng vấn những bậc trưởng lão ở trên những cung trời đó, thì họ trả lời rằng: Cũng có nghe là niệm Phật thì vãng sanh nhưng... họ không làm được. Họ chỉ thấy vui ra, và nhẹ nhàng nhưng không thấy hiện tượng vãng sanh.
Tuy vậy để mà dụ khị được họ để cho họ niệm Phật
lại cho đúng thì cũng trần ai chi chí lắm! Vì họ cũng có cái của họ! Và ác một điều, là họ cũng đã thoả mãn rồi! Nên khi đệ có trình bày cách niệm Phật của đệ ở dưới Trái Đất thì họ không nghe và thường thì họ coi không ra gì . Thế mới là ác nghiệp!
Do vậy, chỉ vì vô tình không biết, mà khi niệm Phật : mình vô tình cộng hưởng đến với những cõi trời Dục Giới này.
Chú ý! Khó hiểu, đọc chầm chậm:
Còn nếu mà mình thay đổi cách thức niệm Phật thì mình lại, không những, có thễ tránh được những sự cộng hưởng trên, mà còn có thễ lợi dụng cái phần quay về của những thần lực mà trước đó Ngài đã phóng ra từ cái đảnh của Ngài, để được vào Tây Phương Cực Lạc.
Thay đổi bằng cách nào?
Bằng cách phóng niệm ra đằng trước mặt ngay vào một điểm màu đỏ ngang với tầm nhìn của chính mình.
Đây là chìa khoá để không bị gì cả khi niệm Phật vì nó mang hơi hám của "Chánh Định".
Mến
TÁC Ý - NGHIỆP
Hỏi: Loài chúng sanh như vi khuẩn chẳng hạn, chúng nó có tác ý (tình cảm/ý thức) không?
HL: Ngài Mục kiền liên thấy rằng trong một giọt nước có vài chục ngàn chúng sinh. Nhưng Phật lại nhấn mạnh đến các "Chứng Hữu Tình" khi Ngài nói đến các chúng sanh. Mà đã có loại Hữu Tình thì tất nhiên phải có loại "Vô Tình".
Anh Sơn (ở Đà Lạt - người đắc A La Hán) lại nói đến giết vi trùng thì không sao là vì nó là chúng vô tình. Anh giải thích: Đây là các chúng sanh "Không có tình cảm"
Thực nghiệm :
Dùng Thức Vô Biên Xứ mà nhập vào... Vợ: Thì đệ, lại thấy những luồng tư tưởng di chuyển và xoáy theo hình trôn ốc. Những luồng này di chuyển va chạm nhau lung tung, không có chiều hướng nhất định.
Nhưng khi nhập vào thằng bạn (đàn ông): Thì đệ lại thấy những luồng tư tưởng trên lại di chuyển có chiều hướng hơn.
Khi nhập vào con chó: Đệ lại thấy những luồng đó lại di chuyển chậm chạp, không có sức và cứ xà quần, xà quần.
Khi nhập vào một cái cây thì những luồng sức này chạy rất đều và yếu. Những luồn này chạy từ rể lên đến ngọn.
Khi nhập vào vi khuẩn thì đệ không thấy gì hết:
Như vậy, vi khuẩn không có tình cảm.Làm sao xác định được Cảnh Giới Thiền?
Hỏi: Về các tầng cấp và cảnh giới trong Sơ Thiền đến Tứ Thiền. Làm thế nào hành giả biết chắc là đó là cảnh giới có tên đó (như ghi trong kinh điển Phật) - thí dụ như: Quang Âm Thiên, Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên, Không Vô Biên Xứ .v.v… nếu không có Thầy đã ngộ đạo, hay Minh sư xác định hoặc ấn chứng?
HL: Chào Huynh và các Bạn
Cái câu hỏi này, ít ai hỏi đệ lắm. Câu trả lời cũng phải dựa vào ba điểm chính đó là Giới, Định và Huệ.
Giới có nghĩa là: Kiểm tra tư tưởng một cách liên tục. Liên tục ở đây có nghĩa là không có vấn đề giải lao.
Với phương cách là: Khi mở con mắt thịt ra, để sinh hoạt hằng ngày, thì mình không thấy được cái phần không gian trên cái trán. Tu sĩ khéo léo để ý đến cái phần không gian này thì sẽ có cái cảm giác nằng nặng ở vào một điểm ngay trên trán. Điểm nặng này là trung tâm năng lực Ajna. Còn cảm giác nằng nặng là hiện tượng "cận định".
Với khả năng là cả ngày mình ở vào "cận định" thì tối đến, khi vào công phu thì tu sĩ nhập chánh định một cách khá dễ dàng. Đây là bước đầu tiên của sự kiểm tra tư tưởng một cách liên tục.
Bước kế tiếp là tu sĩ lại khéo léo an trú đề mục của mình vào cái khoảng không gian này. Bằng cách cố gắng dùng trí tưởng tượng mà cố vẽ cho ra cái đề mục thiền định của mình (trong trường hợp của đệ là: Kasina – lửa), và khi đề mục hiện ra rồi thì cố mà giữ lấy đề mục này trong khi sinh hoạt hằng ngày: Nó khó làm kinh khũng luôn.
Nhưng nếu làm được, tu sĩ lại có cái kết quả hiển nhiên là: Cả ngày mà nhập Sơ Thiền (đề mục cứ xuất hiện ra khoảng 12 giây rồi lại biến mất và cứ lặp đi lặp lại cả ngày) thì khi tối đến mà tu sĩ nhấn ga thì sẽ vào được Nhị Thiền (đề mục xuất hiện từ 12 giây đến 40 giây). Và cứ như vậy mà vương mình lên để mà tu, mà tập thì chẳng mấy chốc tu sĩ sẽ an trú một cách vững chắc vào Tứ Thiền Hữu Sắc (đề mục xuất hiện lâu hơn 70 giây, và kéo dài cho đến cả ngày). Tất nhiên vì não bộ hoạt động quá mạnh nên tu sĩ sẽ không thễ tránh khỏi một trạng thái nhức đầu vì hiện tượng quá tải, hay quá mỏi mệt. Nguyên tắc là hễ mà chớm bị (có nghĩa là chỉ hơi hơi) bị nhức đầu là tu sĩ liền cho cái tâm nó nghỉ mệt một vài giờ hay một vài ngày cho đến khi hết cái cảm giác đau đầu thì mới tập tiếp. Sau này, não bộ hoạt động quen rồi thì tu sĩ sẽ dễ dàng giữ đề mục cả ngày luôn mà không bị gì cả.
* Trên đây là đệ đã trình bày cái "bi hài dờ sin" (behind the scene) hay chuyện gì đang xảy ra trong cái óc của một tu sĩ nhà nghề qua hai phần "Giới và Định".
Đến phần kế tiếp là cái Trí Huệ là cái câu hỏi quá hay. Phần này có hai (2) trường hợp xảy ra:
Thứ nhất là: Tu sĩ (sau khi an trú vững chắc vào Tứ Thiền Hữu Sắc) lại dùng một câu trong các cảnh giới đã có ghi lại trong kinh sách ví dụ như cung trời Sơ Thiền với cái tên là "Phạm Chúng Thiên". Tu sĩ đọc trong đầu câu "Phạm Chúng Thiên" thì tuỳ vào độ vững chắc của tu sĩ, mà: Người sơ cơ thì phải đọc ba bốn lần, còn người đã thiện xảo rồi thì chỉ cần đọc có một lần thì linh ảnh của một Chư Thiên xuất hiện ra ngay đằng trước mặt của tu sĩ liền. Đó là hình ảnh nổi (ba chiều, 3D) của một Chư Thiên với mái tóc quăng dài màu vàng, với cặp mắt xanh lơ, với cái mũi dọc dừa và một khuôn mặt trái soan thật là hài hoà và đẹp y như những hình trình bày trong các sách khảo cổ về văn minh Hy Lạp vậy. Chư Thiên này lại bận áo choàng màu đen như các Cha ở trong nhà thờ Thiên Chúa Giáo vậy.
Tu sĩ nhìn trực diện vào linh ảnh và tác ý:
- Ngài là ai?
Chư Thiên này cùng nhìn trực diện vào... cái nhìn của tu sĩ và một giọng nói xuyên từ bên phải sang bên trái của cái não bộ của tu sĩ (hiện tượng chuyển di tư tưởng
trong cách "thần giao cách cảm") là:
- Tui là Phạm Chúng Thiên. Thế là tu sĩ có thễ chuyện trò với Chư Thiên này qua
cung cách truyền di tư tưởng như trên.
Thứ hai: Tu sĩ tác ý muốn thám du cảnh giới của Chư Thiên ở cung trời Phạm Chúng Thiên. Thì tu sĩ lại tác ý trong đầu như sau:
- Đây là đâu?
Hay là:
- Cái này là cái gì? (Câu hỏi của đệ). Một tư tưởng xuyên qua đầu của tu sĩ từ bên phải (bán cầu phải của não bộ) qua bên trái (bán cầu trái của não bộ) như sau:
- Phạm Chúng Thiên.
Kế đến là:
- Còn cái gì tui không thấy nữa không? Thì cái thấy lài tự động zoom ra xa để cho tu sĩ có thễ thấy được nhiều Chư Thiên nữa. Những Chư Thiên này bận đồng phục như nhau (áo choàng màu đen)với nét đẹp cá nhân và nét đẹp nào cũng thuộc diện "nghiêng thùng đổ nước" cả. Phải nói là các em playboy thơm như múi mít hay các chàng playgirl đẹp trai và tươi mát nhất mà đứng cạnh mấy Chư Thiên này thì... cũng giống như... Ngài Ananda đã nói (khi cùng với Đức Phật lên cung trời Đao Lợi): Thật chẳng khác gì con khỉ cái, nhe nanh khi bị chết cháy trong khu rừng!
Kế tiếp tu sĩ lại tác ý:
- Còn cái gì tui không biết nữa không?
thì một tư tưởng cũng xuyên từ bên phải sang bên trái:
- Đây là những Phạm Chúng Thiên ở cung trời Sơ Thiền đang tác ý về Con Người và vì lý do này mà tu sĩ mới có thễ thấy, nghe về họ được.
Kế đến tu sĩ lại tác ý:
- Còn cái gì tui không Thấy nữa không? Thì "Cái Thấy" sẽ thễ hiện cái trạng thái tâm của tu sĩ:
- Nếu tu sĩ có cái tâm là "Tiểu hành" thì sau câu hỏi này tu sĩ sẽ chỉ thấy một hay vài tầng trời thấp hơn cảnh giới Phạm Chúng Thiên như Tha Hoá Tự Tại... hay ngon lành hơn: "Cái Thấy" lại zoom ra xa để cho tu sĩ thấy những Phạm Thiên khác cũng đang nỗ lực nhập chánh định trên đề mục của mình, và khi nhìn như vậy thì tu sĩ lại hiểu, qua cái tư tưởng xuyên từ bên phải sang bên trái, rằng:
- Ở đây các Chư Thiên không ăn uống như ở Dục Giới, mà thức ăn của họ chính là đề mục mà họ đang cố gắng nhập Chánh Định!
Còn với tâm "Đại Hành" hết mức: Thì tu sĩ sẽ thấy nguyên một Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới với đầy đủ chi tiết còn hơn cả cuốn kinh mà Ngài Anurudha đã kể lại.
Như vậy làm sao để biết? Thì tu sĩ phải thiện xảo về Giới-Định và Huệ ( thễ hiện qua những tư tưởng xẹt qua, xẹt lại (chữ của Huynh KKT) trong đầu. Hay qua câu diễn tả của hai đứa con của "Cô Bé Hàng Xóm "tại Utah là: "cái màn tivi của con, nó nói với con là như vậy".
Mến
Hai Lúa
_ Anh HL có thễ vui lòng nói rõ thêm về hiện tượng "Chiết Linh" và bình giải câu truyện "Ông Tàu Trảm Miêu" (hình như là thiền sư Nam Tuyền)
Chào các Bạn
Chuyện giết này nọ của những Thiền Sư đều có những cái "hậu cảnh" như sau:
Thầy quán trước và thấy được con mèo là "bà con" của mình và dùng tâm lực mạnh mẽ của mình để đưa cái thần thức hay "cái linh hồn" của con mèo về cõi Tịch tịnh và sau đó là giết nó luôn Con mèo bị chết trước khi Thầy cắt cái đầu của nó.
Trong bọn lu bu thì cũng ít có ai không biết cái chuyện đệ cắt cổ gà (10 con) để làm đám cưới. Trước đêm đó đệ đã niệm Phật (A Di Đà Phật) để... dành chỗ trước cho những nạn nhân này.
Khi đệ lấy cái chân để đạp cái cánh con gà và sắp sửa cắt cổ nó thì nó cũng đã chết ngay lập tức, trước khi con dao cắt đứt động mạch ở cái cổ của nọ Hành động này được tái diễn tới 10 lần, bà con bỏ cả chuyện bếp núc đứng coi đệ... tế độ 10 nạn nhân này.
Anh Phước Nhỏ cũng làm được chuyện này khi xuống "Tà Inh" (?) để đào hầm tìm vàng. Lúc ấy anh ấy chỉ là Tam Thiền... tài tử (tức là ba hồi đề mục hiện ra ngon lành, ba hồi lại chẳng có xuất hiện gì cả). Anh ấy nhập chánh định và đã thấy rằng chỗ mình đào hầm sẽ sụp vì anh ấy đã thấy được cái cảnh một giòng sông (tù thời Pháp thuộc) đã chạy ngang qua chỗ anh định đào mà nay đã cạn. Và giòng sông này đã chảy qua ngay cái chỗ mà cả nhóm sắp đào! Đào hầm sâu cỡ vài chục thước mà lại trên cát thì sập là cái chắc. Chưa hết, khi anh thấy bên kia đồi có một nhóm anh em đang cột một con chó để làm thịt tạ ơn trời đất trước khi khởi công đào hầm. Thấy cảnh đó, anh Phước nhỏ đã tập trung tư tưởng để niệm Phật cho con chó: Con chó đi vòng vòng cái cột và xụm người xuống và tắt thở ngay tại chỗ!
Mới đây, một anh chàng tu Tịnh Độ mà chẳng thấy gì, khi phát tâm phóng sanh ba con chim tại bờ biển, anh chàng chỉ nhờ vào niềm tin vững chắc. Và sau khi cầu nguyện rằng: "Mấy ông ở d-ây thì họ cũng giết hay bắt lại nên tui nguyện xin mấy ông về ngay Cõi Tây Phương Tịnh Độ cho tui nhờ!"
Sau khi buông tay ra thì: Một con chết liền tại chỗ, hai con kia thì bay được vài chục thước cũng cắm đầu xuống biển mà chết luôn!
Kết luận: cả cái bọn cà xịch cà đụi này tu theo kiểu Made in Việt Nam, không thầy không bà, mà còn làm được như vậy thì thử hỏi các Tổ các Thầy có giòng, có pháp đàng hoàng bộ không làm được như vậy chăng?
Do vậy cho nên, chỉ khi nào mình tu thành công rồi thì mình mới biết là khi nào thì nên sát sinh và khi nào thì không nên. Và cũng tất nhiên, mình cũng biết là khi nào thì sát sinh nhưng lại là phước báu và khi nào thì sát sinh lại là nghiệp sát!
Xong phần 1, còn phần hai (chiết linh) thì khó viết hơn và rất là dài nên đệ hẹn kỳ sau vậy.
-
Cam on ban vi suu tam qua hay va bo ich
-
Đây là một bài HAY nếu không nói là đặc biệt .
Xin cảm ơn bạn Đỗ Anh Tuấn.