Chia sẻ với em, người muốn đi tu làm linh mục
Em thân mến, Anh viết những lời này để chia sẻ với em, bởi vì những lần “chát” qua internet em muốn anh chia sẻ với em về chuyện: muốn làm linh mục thì phải có những điều kiện nào, và phải như thế nào để trở thành một linh mục tốt lành ?
Anh thì mới chịu chức linh mục chỉ có 5 năm 1 tháng và 11 ngày mà thôi, chưa có kinh nghiệm nhiều cho bằng các linh mục đàn anh khác, tuy nhiên trong phạm vi có thể, anh xin chia sẻ với em về những cảm nghiệm thực tế của anh khi làm linh mục, để em có thể cân nhắc mà chọn làm linh mục hay đi hướng khác…
Linh mục phải là người có nhân bản
Em có biết không, người ta nhìn một linh mục khác với nhìn một thanh niên đàn ông bình thường, tức là người ta nhìn thấy cả một quyển sách dạy nhân bản nơi người linh mục, nhân bản chính là những “phép tắc” căn bản dùng để đối xử giữa con người với nhau cho đúng tình người, mà linh mục chính là những con người như thế, em muốn theo đuổi ơn gọi linh mục? Đó là một điều lành thánh và đáng được Thiên Chúa chúc phúc, cũng như được mọi người cảm phục, nhưng trước khi làm linh mục, thì người linh mục là một con người như những thanh niên khác, nhưng hạnh kiểm phải trổi vượt trên họ, hạnh kiểm đây chính là đời sống có nhân bản.
1. Lòng biết ơn
Biết ơn tức là hiểu sâu sắc và ghi nhớ công ơn của người khác đối với mình (1) , mà người luôn ghi nhớ công ơn của người khác trước tiên là linh mục.
Thiên chức linh mục chính là Thiên Chúa ban cho người nào thì tùy ý Ngài, Ngài chọn người này người nọ, nhưng không phải vì họ thánh thiện hay đạo đức hoặc học vấn trổi vượt hơn người khác, mà là vì tình yêu đặc biệt Ngài dành cho họ, Ngài chọn họ qua Giáo Hội và qua Hội Dòng của họ hoặc qua giám mục địa phận, và qua giám mục hoặc Hội Dòng mà họ mới được đứng vào hàng ngũ công hầu khanh tướng của Thiên Chúa như hôm nay, cho nên việc trước tiên là những người được chọn ấy – linh mục – biết ơn Thiên Chúa và cám ơn Ngài, nhưng Thiên Chúa không muốn họ làm như thế đâu, Ngài muốn họ phải cám ơn trước hết chính là địa phận của họ hoặc Hội Dòng của họ, nơi cưu mang họ, nơi mà nếu không có bề trên tổng quyền, không có cha viện trưởng hoặc là tập sư của họ cũng như ban cố vấn hội dòng, nếu như không có sự yêu thương dạy dỗ của các cha giáo trong chủng viện và của toàn ban giám đốc, nếu không có sự yêu thương của mọi người thì họ sẽ không được như ngày hôm nay.
Biết ơn mọi người, vì ngoài chủng viện hoặc hội dòng ra, thì còn biết bao nhiêu người mà người linh mục phải biết ơn.
Em biết không, anh đã tận mắt nhìn thấy một vài linh mục rất trẻ đã trả ơn cho bề trên tổng quyền của mình, cho hội dòng của mình bằng những câu xỉ vả nhục mạ ngài công khai trước mặt đại hội. Những linh mục trẻ này đã trả ơn Hội Dòng bằng những thái độ xúc phạm đến bề trên tổng quyền mà họ và các thành viên khác trong Hội Dòng gọi là Gia Trưởng, tức là phụ thân của mình, chính hành động chỉ tay vào mặt bề trên tổng quyền mà nói “ông là người nói dối”, chính hành động họ sừng sộ chỉ tay vào bề trên tổng quyền mà nói “ông là người vô tư cách” và những thái độ khác của họ, chắc chắn làm tổn thương quá lớn đến vị bề trên tổng quyền của mình, và làm tổn thương đến cả các thành viên trong Hội Dòng, bởi vì không một đứa con nào lại chỉ tay vào mặt cha mẹ mình mà hét lên “ông là người vô tư cách”. Hành động này, chính họ hiểu rõ hơn bất cứ người nào khác, vì họ là linh mục, là thầy dạy, giờ đây họ dùng những chữ như người vô học, như kẻ đầu đường xó chợ để nhục mạ bề trên tổng quyền của mình.
Cái nhân bản nó nằm ở đó, chính là sự biết ơn.
Em thử tưởng tượng ra hình ảnh này xem sao: giữa đại hội một thành viên linh mục trẻ vừa nói nặng lời vừa lấy tay chỉ vào bề trên tổng quyền của mình mà nói những lời vô lễ, anh nghĩ rằng em tưởng tượng cũng không bằng anh thấy đâu. Đó là sự trả ơn của những con người vô ơn, của những người ăn cháo đái bát, của những người vô ơn bội nghĩa, mà sau này nếu em chọn con đường làm linh mục thì phải luôn tâm niệm rằng: linh mục là thầy dạy mọi người về đàng nhân đức, chứ không dạy người ta chửi bới nhau; linh mục là người dạy người khác con đường đi lên Nước Trời, chứ không chỉ cho người khác con đường đi xuống hỏa ngục.
Nếu em không tâm niệm như thế thì khoan làm linh mục đã, bởi vì thời nay người ta cần những linh mục thích cầu nguyện hơn linh mục giỏi viết sách, người ta cần đến những linh mục biết thông cảm hơn những linh mục thông thái mà kiêu ngạo thô lỗ.
Sự biết ơn này càng rõ ràng và cụ thể hơn khi em làm linh mục trong một hội dòng, em thử nghĩ mà xem: từ khi em được tuyển vào các giai đoạn dự tu, thỉnh sinh, tập sinh, khấn tạm và khấn trọn đời. Em có biết là có bao nhiêu tinh thần và tiền bạc của hội dòng bỏ ra để đùm bọc nuôi dưỡng em cho đến khi em làm linh mục ? Biết bao nhiêu là mồ hôi và công sức của các bề trên và của mỗi thành viên trong hội dòng đổ ra ? Em có biết, có khi cha bề trên hoặc cha viện trưởng chịu nhiều lời phê bình không tốt để cho các thành viên được mọi sự tốt đẹp…?
Vậy mà em có biết, chính anh đã tận mắt thấy những linh mục rất trẻ tuổi đời và tuổi tu, họ chỉ vừa khấn trọn đời mới hơn hai năm, và chịu chức linh mục cũng chừng đó ngày tháng, chưa đủ lông đủ cánh bay nhảy, họ đã vung tay xói xỉa nhục mạ bề trên của mình, mà anh thấy tuổi đời của ngài cũng đáng là ông nội của những linh mục ấy, với tuổi linh mục thì ngài chịu chức khi họ chưa sinh ra đời, và chính ngài –anh có thể nói- đã sinh những linh mục ấy trong Hội Dòng này, vậy mà chỉ vì một chút kiêu ngạo, và quá coi mình là trịch thượng mà họ nhục mạ ngài trước mặt các thành viên người khác. Anh không hiểu khi đứng trên tòa giảng thì các linh mục này sẽ giảng gì cho giáo dân? Khi họ giảng dạy giáo dân hãy thảo kính cha mẹ thì các linh mục trẻ này có nghĩ lại mình đã nhục mạ bề trên mình không? Khi họ dạy giáo dân phải kính trên nhường dưới thì họ có nghĩ lại là mình đã xử sự như một người xa lạ với bề trên của mình không ?
“Nhân vô thập toàn”, bề trên cũng vô thập toàn, mọi người đều vô thập toàn, nhưng không phải vì cái vô thập toàn ấy mà chúng ta đối xử với nhau như kẻ thù, vô thập toàn không có nghĩa là con cái xấc láo với cha mẹ, coi cha mẹ như kẻ thù để rồi nhục mạ họ.
Em biết không,
Thiên chức linh mục cao quý vô cùng, chính các thánh, các nhà thần hoc đều nhìn nhận điều ấy, và ngay cả các thiên thần cũng cúi đầu nhường bước cho linh mục. Càng suy tư càng thấy con người quả là bất xứng đón nhận nó, và vì nó quá cao quý nên nó cũng sẽ trở thành án phạt nặng nề cho những linh mục sống không xứng đáng với chức vụ linh mục mà bản thân mình lãnh nhận. Vì thế, việc đề cử một ứng sinh lên chức linh mục thật quan trọng, nếu em làm linh mục giáo phận, mà giáo dân gọi là linh mục triều, thì ngoài việc các cha giáo coi sóc dạy dỗ em ra, thì còn có cha linh hướng và toàn ban giám đốc sẽ quyết định em tiến chức linh mục, nếu em là người của một hội dòng nào đó, thì người quyết định cuối cùng chính là bề trên tổng quyền đó, chính ngài có toàn quyền tất cả trong hội dòng theo giáo luật.
Phải biết ơn những người đã trực tiếp tuyển chọn mình vào hàng ngũ linh mục, đó là giám mục địa phận và bề trên của em và những linh mục khác nữa, nếu em biết mình có thái độ xấc láo, hổn xược thì anh khuyên em đừng theo đuổi ơn gọi làm linh mục làm gì, vì không trước thì sau em cũng sẽ làm bỉ mặt bề trên của em, như anh đã từng thấy dù các linh mục đó đã được các anh em nhắc nhở.
2. Tiết chế
Em thử nhìn lại mình xem sao, em thích gì thì em làm nấy vì em không phải là linh mục, cũng không phải là một tu sĩ, đôi lúc cái em thích là điều không tốt cho bản thân, như em thích uống rượu là uống, thích chơi bời thì chơi, thích hút thuốc là hút.v.v… em khỏi phải cần tiết chế gì cả, nhất là trong xã hội hưởng thụ như hiện nay.
Nhưng nếu em muốn đi tu trở thành một linh mục – đương nhiên là một linh mục thánh thiện – thì em cần phải tập cho mình tính tiết chế ngay từ bây giờ, bằng không khi em đã làm linh mục rồi, thì em sẽ khó mà tiết chế mình được, vì lúc đó em có một ý tưởng rất kỳ quái là: đỗ linh mục rồi, sợ quái gì nữa. Vâng, làm linh mục rồi thì không sợ gì nữa, không sợ bị đánh rớt bài thi, không sợ người khác dọa nạt, không sợ đói, không sợ thiếu tiền tiêu.v.v…nhưng điều mà người linh mục phải sợ chính là sợ đánh mất phẩm giá linh mục nơi mình, do đó mà anh muốn nói với em rằng, tiết chế là điều làm cho người linh mục thảnh thơi hơn, quảng đại hơn trong khi thi hành bổn phận mục tử của mình.
a. Tiết chế lời nói
Sách Cách Ngôn dạy rằng:
“Kẻ ngu si không kìm được giận dữ,
Người khôn khéo biết nén nhục nuốt sầu” (Cn 12, 16).
Em biết không, anh vẫn luôn xác tín rằng, khi một thanh niên chịu chức linh mục, hoặc một linh mục chịu chức giám mục thì Chúa Thánh Thần luôn làm cho các vị đó được trở thành người khôn ngoan, ngoại trừ những vị đó cảm thấy mình không cần đến sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần nữa, sự khôn ngoan ấy được bộc lộ rõ nhất là trong lời nói của các ngài, tức là các ngài biết tiết chế lời nói, biết lúc nào nên nói và lúc nào không nên nói.
Có nhiều người mắc nạn cũng vì không tiết chế được lời nói của mình, có những người phải ôm hận vì bản thân không tiết chế được lời nói, và có những người được người khác vị nể cũng do lời nói của mình.
Làm linh mục thì càng phải tiết chế lời nói nhiều hơn, nói khi cần nói và nín thinh khi không cần thiết phải nói. Anh đã thấy một vài linh mục trẻ nói cho sướng miệng, nói cách giận dữ mà không tiết chế lời nói của mình, kết quả là họ đã xúc phạm đến nhân phẩm của người khác và hạ uy tín của mình trước người khác.
Tiết chế lời nói khi tranh luận,
Tiết chế lời nói khi hội họp,
Tiết chế lời nói khi muốn phê bình người khác,
Tiết chế lời nói khi phát biểu…
Càng nói nhiều thì càng bày ra những khuyết điểm, càng nói nhiều thì càng trở thành người có tâm hồn trống rỗng, và có khi trở thành mục đích gièm pha của giáo dân hoặc cho những người có thành kiến không tốt với các linh mục.
Em muốn làm linh mục, thì ngay từ bây giờ phải tập cách tiết chế lời nói, mà cách tập hay nhất là cầu nguyện trước khi nói. Bởi vì như em biết đó, có những lần em “chát” và tâm sự với anh rằng, cha này khi giảng dạy không có ơn Chúa Thánh Thần vì ngài nói theo thói quen và chê bai phê bình giáo dân, cha nọ khi nói chuyện thì không chú ý đến lời nói vì ngài nói mà không biết người đối diện muốn nghe hay không ? Anh cám ơn Chúa vì em đã biết nhận ra đâu là lời giảng dạy của Chúa Thánh Thần nơi người linh mục, đó là lời giảng có tiết chế và chứa đựng giáo huấn yêu thương của Phúc Âm, và khi đã nhận ra được thế nào là tiết chế lời nói thì anh tin chắc rằng, em sẽ tập được cách tiết chế lời nói của mình cho thiên chức linh mục sau này của em.
b. Tiết chế nóng giận
Em biết không,
Không phải ai cũng có thể tiết chế sự giận dữ tính nóng của mình, chính anh đây cũng có lúc la toáng lên khi giáo dân làm trái ý mình, nhất là trong những thánh lễ trọng có nhiều nghi thức, nhưng sau đó thấy mình nóng nảy cách vô lý nên anh hứa sẽ tiết chế sự nóng nảy vô lý của mình. Bởi vì giận dữ và nóng nảy thì không giải quyết được gì cả, đó là điều mà tất cả mọi người đều biết, nhưng vì tính tình nó dính liền với cái tôi, nên dù biết mà cũng rất khó mà không chế được, do đó mà các nhà tu đức khuyên bảo chúng ta phải cầu nguyện và học hỏi gương của Chúa Giê-su và Mẹ Maria cũng như của các thánh nam nữ.
Nóng tính giận dữ là bởi coi mình quá cao trọng hơn người khác, thường có ý tưởng mình giỏi hơn người khác và muốn mọi ý kiến, mọi lời nói của mình cần được người khác nghe và thi hành, cho nên những linh mục có tính giận dữ thì giáo dân chỉ đứng xa xa mà nhìn, và không muốn cộng tác với ngài trong mọi việc ở nhà xứ.
Làm linh mục là để bày tỏ sự hiền lành và khiêm tốn của Chúa Giê-su giữa mọi người, chứ không phải bày tỏ một quyền uy của một chủ nhân ông giữa một cộng đoàn dân Thiên Chúa ngay trong giáo xứ của mình, do đó, nếu em muốn trở thành một linh mục của Chúa Giê-su với tất cả lòng yêu mến Ngài và Hội Thánh của Ngài, thì em cần tiết chế tính nóng giận của mình ngay trong cuộc sống ngay từ bây giờ, bởi vì chính mắt anh đã thấy sự giận dữ nóng nảy của một vài linh mục khi không bằng lòng một điều gì đó, các vị ấy cũng trợn mắt xỉa xói và nói những lời cộc cằn như những thanh niên ngoài đời khác, họ quên mất mình là một linh mục của Chúa Giê-su, họ to tiếng dùng những lời lẽ sâu hiểm để chơi nhau, chính những lúc này anh nghiệm ra được rằng nếu không có cầu nguyện và thực tập nhân đức, thì dù là linh mục họ vẫn như những người khác mà thôi.
Em thử nghiệm lại cuộc sống của em xem sao, có những lúc em kiềm chế được tính nóng nảy thì em thấy đời sao mà đẹp và vui vẻ thế, và những lúc em không kiềm chế được tính nóng mà nói to tiếng nặng lời với người khác, thì dù em có nhận lỗi hoặc em có chủ động bắt tay làm hòa chăng nữa, thì tự sâu thẳm của lương tâm em vẫn còn một chút gì đó rất áy náy ân hận. Đó là kinh nghiệm của anh, và anh muốn nói với em là phải tập tiết chế tính khí nóng giận của mình, nếu em muốn mình trở thành một linh mục tương lai của Chúa Giê-su và của Giáo Hội.
Con người thời nay rất nhạy bén với hành vi ngôn ngữ của các linh mục, họ nhạy bén là vì càng ngày họ càng hiểu rõ giáo lý của Giáo Hội hơn, họ nhạy bén là vì họ không còn giữ đạo theo kiểu pháo đài nữa, nhưng là họ sống đạo giữa đời theo kiểu men trong bột, và họ chỉ mong muốn các linh mục của Giáo Hội sống thật hiền lành và khiêm tốn như Chúa Giê-su, thế là họ an tâm phó thác linh hồn cho các vị mục tử ấy.
c. Tiết chế ăn uống
Em có biết không,
Các nhà tu đức học đều rất chú trọng đến việc tiết chế ăn uống, nghĩa là họ đã nghiên cứu sâu xa về việc ăn uống thoải mái và có nhiều chất dinh dưỡng rất có hại đến đời sống tu đức của các linh mục tu sĩ, bởi vì khi ăn uống no say thì có một trạng thái phát sinh theo là cảm thấy mệt và làm biếng, sau đó thì muốn nghỉ ngơi, em thử nghĩ xem, nếu một ngày chúng ta ăn ba bữa sáng trưa chiều tối với đầy đủ các thứ dinh dưỡng như bia rượu, thì thân xác của chúng ta ngày càng béo phì ra và trở nên mệt nhọc nặng nề không ưa thích hoạt động gì cả…
Tiết chế ăn uống chính là điều chỉnh lại bộ máy sinh học của chính mình, nhất là các linh mục đang làm việc mục vụ ở giáo xứ, các ngài được tự do ăn uống mà không một ai cấm cản hoặc gò bó, cho nên không lạ gì có nhiều linh mục xem ra đẹp mã tốt tướng nhưng thân mang đầy bệnh hoạn.
Tiết chế ăn uống giúp cho chúng ta được rất nhiều việc, mà ý nghĩa lớn lao nhất trong việc tiết chế ăn uống chính là biết cảm nghiệm sự thiếu thốn với những người nghèo khó.
Việc ăn uống cũng nói lên tính cách của người linh mục, có linh mục thích ăn ngon mặc đẹp, có linh mục thích ăn những thức ăn do tự tay mình nấu để hợp với khẩu vị mà mình ưa thích, lại có những linh mục thì rất chú trọng đến việc ăn uống và coi việc ăn uống đầy đủ như là một công việc chính trong ngày của mình. Anh thấy có nhiều linh mục trẻ, có lẽ sống trong môi trường – trước khi đi tu – thiếu thốn và ăn uống bị hạn chế, nên khi làm linh mục thì tha hồ ăn uống mà không tiết chế, lại còn chê bai này nọ khi thức ăn không ngon và ăn uống rất lãng phí.
Tiết chế không có nghĩa là không ăn uống gì cả, hoặc mỗi ngày chỉ ăn cháo mà sống, nhưng tiết chế chính là tự mình kiềm chế những sở thích ăn cho thật ngon mặc cho thật đẹp không phù hợp với nhân cách của một linh mục.
Tiết chế ăn uống không những làm cho thân xác được khỏe mạnh, mà còn làm cho tâm hồn được nhẹ nhàng vì không phải chú trọng quá đến việc ăn ngon mặc đẹp. Em phải nhận ra được điều này trước khi chuẩn bị tập làm linh mục, bởi vì làm một linh mục truyền giáo thì không làm việc theo giờ hành chánh nhưng làm việc theo nhu cầu của giáo dân, có nghĩa là giáo dân cần xức dầu bệnh nhân hoặc muốn xưng tội lúc nào thì đi lúc ấy, nếu em hưởng thụ ăn uống no say thì khó mà nhanh nhẹn vui vẻ khi giáo dân đến gặp cha sở buổi trưa hoặc những giờ khác, em hãy cố gắng tập tự mình tiết chế trong cách ăn uống nếu em muốn trở thành một linh mục truyền giáo vui vẻ, khỏe mạnh và không vướng bận bởi việc ăn ngon mặc đẹp trong cuộc sống, đó là kinh nghiệm của anh.
c. Tiết chế sự vui vẻ
Vui vẻ là điều ai cũng muốn, nhất là sự vui vẻ nơi các linh mục của Chúa Giê-su, vui vẻ thì luôn đem lại bầu khi vui tươi cho những người chung quanh, nó là cây cầu nối kết giữa những người chưa quen biết với nhau, như những đóa hoa đem tặng cho nhau giữa ngày đại hội.
Em có biết không,
Anh đã nhìn thấy nhiều linh mục rất vui vẻ, lời nói rất thân tình dí dỏm, các ngài đi đến đâu thì nơi đó có nụ cười vui, chính các ngài đã nói cho anh biết bí quyết ấy đó là sự luyện tập, các ngài tập vui vẻ khi có điều buồn bực, các ngài tập vui vẻ khi bị người khác công kích hoặc hiểu lầm, sự vui vẻ ấy chính là một công cụ truyền giáo đó em ạ.
Vậy thì có cần phải tiết chế vui vẻ không ? Anh trả lời với em ngay là có, vì vui vẻ quá sẽ rất dễ dàng sinh ra sự bừa bãi tùy tiện, một thanh niên trong lúc cao hứng thì dễ dàng nói hoặc làm những điều quá đà cho phép, và như thế sẽ trờ thành gương xấu và khó coi hoặc khó nghe cho người khác. Cũng vậy, em thử tưởng tượng một linh mục khi sự vui vẻ phấn chấn lên quá độ rồi ăn nói bừa bãi tùy tiện giữa đám đông thì sao, chắc chắn là ngài sẽ bị những lời phê bình nho nhỏ là mất tư cách linh mục, hoặc người khác sẽ nhìn ngài với ánh mắt coi thường.
Ma quỷ thường lợi dụng sự vui vẻ quá độ để lôi kéo người ta phạm tội, linh mục cũng không ngoài “tầm ngắm” của nó, bởi vì ma quỷ rất hiểu tâm lý và nhu cầu của con người, vì khi người ta buồn bực thì ít phạm tội hơn khi người ta vui vẻ, cho nên biết tiết chế vui vẻ chính là một việc làm có tính cách hổ trợ cho tinh thần tu đức mà có lẽ ít người biết, hoặc biết mà không để ý cho mấy…
Nếu em là một thanh niên có tính tình vui vẻ, thì đó là một hồng mà Thiên Chúa ban cho em, và nếu em tin rằng đó là một khí cụ mà Thiên Chúa ban cho em để chuẩn bị cho em làm linh mục sau này, thì em phải biết phát huy sự vui vẻ ấy bằng sự trong sáng và tế nhị, và tự chế khi nó trở nên quá phấn chấn, để khi bước vào đời linh mục thì em sẽ trở nên một linh mục của mọi người thật đúng với ý nghĩa của nó.
3. Biết nói cám ơn và xin lỗi
Có một vài giáo dân thường nói “móc họng” rằng: ông cha đó làm “cha người ta” rồi nên không cần nói tiếng cám ơn hay xin lỗi gì cả khi vô cớ trách mắng ông X…
Em có biết không, lời phê bình ấy cũng rất có căn cứ vì anh cũng đã từng thấy cha sở nọ vì tính nóng nảy mà bạt tai chú giúp lễ, vì em ấy nhỏ con bê giá sách đụng vào bàn thờ, nhưng sau đó thì ngài vẫn tỉnh bơ như không có gì cả, còn em bé thì cái má bị đánh đỏ rần và khóc thút thít; anh cũng thấy linh mục nọ nói như tát nước vào mặt ông trùm họ vì một chuyện vô lý cỏn con mà không một lời xin lỗi: ông xin cha giảng vài lời sau khi đọc Phúc Âm, vì thánh lễ ngày thường ngài không giảng.
Những đức tính nhân bản nơi người linh mục phải trổi vượt trên những người khác, dù là nói lời xin lỗi hoặc lời cám ơn, bởi vì trong cuộc sống tâm linh, linh mục là người ban ơn cho người khác nhiều nhất, vì linh mục được chọn để làm việc đó, và cũng trong cuộc sống đời thường, người chịu ơn nhiều nhất có lẽ là linh mục, và người làm tổn thương giáo dân nhiều nhất cũng có lẽ là linh mục. Có lẽ chúng ta dễ dàng nói cám ơn hơn là nói xin lỗi, vì nói cám ơn là lòng dạ sung sướng khi được người khác tặng quà hoặc giúp đỡ mình, còn nói xin lỗi thì chúng ta cứ cảm thấy rằng nó nhục sao ấy, vì chẳng khác chi nói mình có lỗi, nhưng thực ra lời nói cám ơn hay nói xin lỗi đều đề cao phẩm giá của mình trước mọi người, và làm cho người khác cảm phục vì sự khiêm tốn của mình khi cám ơn hoặc xin lổi người khác.
Phải biết nói cám ơn khi người khác làm ơn cho mình, và phải biết nói xin lỗi khi mình làm thương tổn hoặc làm hại người khác.
Cám ơn và xin lỗi thì không miễn trừ một ai, dù là giáo hoàng hay tổng thống, dù là giám mục hay giáo dân cũng đều phải dùng đến nó, vì nó thể hiện lên một phong cách rất nhân bản của con người thì huống gì là linh mục, linh mục thì càng phải biết nói cám ơn và xin lỗi nhiều hơn nữa, vì chính các linh mục là những người trực tiếp làm việc với giáo dân, nên rất dễ dàng va chạm với người này người nọ, cho nên hai chữ cám ơn và xin lỗi là những viên thuốc xoa dịu những căng thẳng giữa cha sở và giáo dân, hoặc giữa nhóm này nhóm nọ trong giáo xứ.
Anh đã từng tham gia nhiều hội đoàn, đã tiếp xúc nhiều người và anh thấy đâu đâu người ta cũng đặt hai chữ cám ơn và xin lỗi trên môi miệng họ, họ xích lại gần nhau hơn bởi hai chữ cám ơn và xin lỗi ấy, đó là một biểu hiện của văn minh và có giáo dục. Và anh cũng thấy có rất nhiều linh mục cũng như thế, các ngài cũng vẫn nói cám ơn khi cô phục vụ trong tiệc chiêu đãi rót cho mình một ly nước lã, các ngài cũng nói lời xin lỗi khi thấy lời nói của mình làm giáo dân khó chịu…
Em biết không, bây giờ người ta cũng cài hệ thống ngôn ngữ vào trong người máy (robot) rồi đó, mà hai chữ cám ơn và xin lỗi được nhiều người thích thú nhất, vì nó thể hiện tính người nơi người máy, người ta cố gắng hiện đại hóa cuộc sống, hiện đại hóa công nghệ, và ngoài những lập trình vĩ đại dành cho người máy, thì người ta cũng không quên cài vào hai chữ cám ơn và xin lỗi nơi người máy, và khi nó biết nói cám ơn và xin lỗi, thì mọi người cười ồ vui vẻ nói: nó giống con người.
Người máy biết nói cám ơn và xin lỗi đã được gọi là giống như con người thật, và ngược lại, nếu con người ta không biết nói cám ơn và xin lỗi thì sẽ giống như người máy nặng nề không cài hệ thống ngôn ngữ cám ơn và xin lỗi.
Em thân mến, nếu sau này em chọn con đường làm linh mục, thì em đừng quên hai chữ cám ơn và xin lỗi trên môi miệng em, dù hai chữ đó em dùng để xin lỗi một thiếu nhi trong giáo xứ, thì em sẽ trở thành một linh mục dễ mến nhất của mọi người.
4. Biết lắng nghe
Em có biết không, lắng nghe ý kiến của người khác là việc làm quan trọng của một linh mục, nhất là các linh mục coi sóc xứ đạo, lắng nghe chứ anh không nói là làm theo ý của giáo dân, nhưng lắng nghe ý kiến của giáo dân rồi phân tích với tất cả khôn ngoan và kinh nghiệm, bởi vì cộng đoàn giáo xứ là của họ, là nơi họ sinh ra và lớn lên, còn linh mục là người được phái đến để coi sóc họ về phần linh hồn, để họ sống như ý của Thiên Chúa muốn.
Lắng nghe cũng là thái độ khiêm tốn của người mục tử, bởi vì có những linh mục không hề biết lắng nghe lời góp ý của giáo dân, các ngài chỉ muốn giáo dân thụ động nghe lời của mình mà thôi, nên giáo xứ của các ngài vắng đi nụ cười thân ái giữa cha và con, vắng đi lời giảng hùng hồn truyền cảm của cha sở, vì lòng ngài không vui khi có giáo dân góp ý cho mình trong việc xây dựng giáo xứ. Anh đã nghe nhiều giáo dân than phiền cha này cha nọ chỉ biết làm theo ý riêng của ngài mà thôi, bởi vì ngài muốn chứng tỏ cho giáo dân biết mình là người toàn năng, giỏi toàn diện trên mọi công việc. Có những việc cha sở phải “độc quyền” như lễ nghi và giáo lý, có những việc cha sở phải bàn hỏi với giáo dân và có quyết định sau cùng, có những việc cha sở giao cho giáo dân chủ động quyết định.v.v…thì giáo xứ chắc chắn sẽ phát triển về mọi mặt, mà phát triễn đẹp nhất chính là cha con trong giáo xứ biết yêu mến và thong cảm nhau.
Em biết không, đôi lúc anh tự nghĩ rằng có lẽ thiên chức linh mục cao quý quá, cao trọng quá, nên tự nhiên có những linh mục sau khi mới chịu chức thì thay đổi cả tính tình vốn hiền hòa khiêm tốn của mình, thay đổi luôn cả tư cách vốn rất bình dân thân thiện của mình để trở thành một con người tuy gần mà xa với giáo dân, đương nhiên anh không nói rằng tất cả các linh mục đều như thế, nhưng thực tế vẫn còn có nhiều linh mục vẫn không thay đổi gì sau khi làm linh mục, vì làm linh mục đối với các ngài là để phục vụ dân Thiên Chúa mà thôi.
Anh còn nhớ rất rõ hồi anh còn làm thầy giúp xứ, cha sở (và cũng là nghĩa phụ) của anh đã dạy anh rằng: “Lắng nghe giáo dân là một nhân đức, thầy cần phải tập ngay bây giờ và sau này làm linh mục”, cho nên anh không lạ gì ngài đến giáo xứ nào thì giáo xứ ở đó phát triển, và giáo dân rất đoàn kết cộng tác với ngài trong việc mở mang giáo xứ.
Đã nhiều lần trong công tác mục vụ anh đã lắng nghe ý kiến của giáo dân về một số vấn đề, và anh thấy những ý kiến ấy làm cho công việc truyền giáo của mình càng tốt đẹp hơn, giáo dân thấy cha sở biết lắng nghe ý kiến của mình họ cũng rất vui vẻ phấn khởi, và khi họ biết cha sở không có độc quyền độc đoán thì họ sẵn sàng làm tất cả những gì mà giáo xứ cần đến. Vậy thì lắng nghe trong những dịp nào, trong những dịp sau đây :
- Những lần hội họp ban hành giáo.
Những lúc họp như thế này thì thường thảo luận những việc sắp làm và kiểm thảo những việc đã làm, có một kinh nghiệm nho nhỏ của anh là khi ban hành giáo thảo luận vấn đề thì cha sở nên lắng nghe, không góp ý giữa chừng, tuyệt đối lắng nghe, chỉ nói khi họ hỏi ý kiến, tại sao vậy ? Bởi vì cha sở là người quyết định cuối cùng, nên phải lắng nghe để quyết định của mình được cả hai phía thuận, nghịch đồng ý, hơn nữa khi lắng nghe những lời bàn cải của họ, mình có thể hiểu thêm được nhân cách trí tuệ và khả năng từng cá nhân, để mời họ cộng tác vào những ban bệ trong giáo xứ của mình.
- Lắng nghe khi tiếp xúc trò chuyện với giáo dân.
Giáo dân chỉ thố lộ tâm tình hoặc góp ý cho cha sở khi ngài vui vẻ mà thôi, nhưng cũng có những trường hợp vì quá bức xúc nên giáo dân góp ý với cha sở mà không đợi khi ngài vui vẻ, trong những trường hợp như vậy thì linh mục cần phải lắng nghe hơn nữa, bởi vì khi những bức xúc được nói ra và được người lắng nghe thì giáo dân có cảm tưởng dễ chịu hơn và vui vẻ góp ý hơn.
Thường thì lời góp ý của giáo dân không có gì là to lớn lắm đâu, cũng chung quanh mấy vấn đề như: xin cha giảng ngắn lại chút xíu, xin cha đọc lớn tiếng trong thánh lễ để chúng con nghe được, hoặc xin cha cố gắng tiếp xúc hòa đồng với tụi thanh niên.v.v… tất cả những lời đề nghị như thế có lúc đụng chạm đến cha sở đấy, nhưng nếu sau này em làm cha sở thì nên biết bình tĩnh lắng nghe và nở nụ cười, rồi em sẽ thấy lời góp ý ấy quả không sai và dể dàng chấp nhận…
Anh cũng đã từng chia sẻ với các anh em linh mục rằng: lắng nghe giáo dân không phải là một việc làm nhục nhã của cha sở, cũng không phải là cha sở hạ thấp mình xuống, nhưng trái lại, khi biết lắng nghe giáo dân thì mình biết được cách quản trị giáo xứ của mình chổ nào chưa được và chổ nào đã ổn định cần phát triển tiếp tục (1), bởi vì lời và thánh ý của Thiên Chúa không đóng khung trong nhà thờ, không đóng khung nơi các mục tử của Giáo Hội, mà còn là nơi những người giáo dân của chúng ta, bởi vì khi cần thiết thì Thiên Chúa cũng có thể mở miệng con lừa để cho người ta biết thánh ý của Ngài ( Ds 22, 28-30), thì huống gì là giáo dân, những con người được Thiên Chúa giao phó cho các linh mục của Chúa Giê-su và của Giáo Hội chăm sóc.
Em thử tập lắng nghe tiếng của Thiên Chúa trước qua đức tin của em, rồi sau đó em tập lắng nghe tiếng của bạn bè khi họ góp ý cho em điều này điều nọ, tập lắng nghe cho biết ý của Thiên Chúa, để sau này khi vào học trong chủng viện hay một hội dòng nào đó, thì em biết lắng nghe các vị bề trên và các cha giáo của em, và khi trở thành linh mục thì em sẽ là một linh mục biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của giáo dân mà em có bổn phận coi sóc.
5. BIẾT THINH LẶNG
Người linh mục khôn ngoan là người biết thinh lặng đúng lúc, dù đang tranh cải gay cấn, dù đang bực tức, dù sự ấm ức lâu ngày dồn nén trong lòng, thì cũng phải biết thinh lặng đúng chỗ, đó chính là một ơn lành mà Thiên Chúa ban cho các linh mục của Ngài. Trong cuộc sống đời thường, sự thinh lặng đúng lúc luôn là liều thuốc giải độc cho các trường hợp, bởi vì sự thinh lặng này không phải là đồng lõa nhưng là sự nghỉ ngơi của khôn ngoan.
Em có biết không, anh đã từng thấy những vị linh mục thinh lặng trước những hỉ nộ sân si của các anh em linh mục của mình; anh cũng thấy (ít nữa là một lần) có một cha sở thinh lặng trước công kích của một vài giáo dân vì cha sở không làm theo ý họ, kết quả của sự thinh lặng ấy là gì, là chính những giáo dân ấy đến xin lỗi cha sở vì tính quá nóng nảy mà mình đã vượt qua quyền hạn của cha sở mình.
Linh mục, có thể nói là người của thinh lặng, vì Thiên Chúa thích hiện diện trong thinh lặng, và chỉ trong thinh lặng mà thôi thì linh mục mới thấy rõ ơn của Thiên Chúa ban xuống trên mình và trên giáo xứ của mình.
- Khi giáo dân tranh cải thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
- Khi giáo dân trách móc linh mục thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
- Khi giáo dân góp ý thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
- Khi các anh em linh mục hỉ nộ sân si chỉ trích thì linh mục thinh lặng lắng nghe.
Thinh lặng lắng nghe khi người khác công kích mình thì khó lắm, nhưng Chúa Giê-su đã làm được và có rất nhiều vị linh mục đã làm như thế và đã thành công. Em thử hình dung ra một linh mục mà đối chất tay đôi với một giáo dân thì như thế nào, nói về hành vi và hình dung thì cả hai người mặt mày đều đỏ kè, nhăn nhó xấu xí khó coi; nói về ngôn ngữ thì lại càng khó nghe vì dùng những chữ dao to búa lớn để choảng nhau. Cho nên nếu không giữ được thinh lặng thì không những linh mục sẽ trở nên gương xấu cho người khác, và nhất định là giáo dân sẽ hoảng sợ ngài khi muốn góp ý xây dựng với ngài trong công việc của giáo xứ.
Thinh lặng cũng bày tỏ công phu tu dưỡng nhân đức của linh mục, một linh mục biết giữ được trạng thái thinh lặng thì khuôn mặt luôn bày tỏ nét vui tươi và hoạt bát, bởi vì tâm hồn của các ngày đã tĩnh trong một thế giới động là những việc phải lo toan của giáo xứ, cũng như những lời công kích của người khác.
Anh nghĩ rằng trong đời em cũng đã nhiều lần chứng kiến hai người chửi nhau, công kích nhau, thậm chí còn thượng cẳng tay hạ cẳng chân nữa là khác, những lúc em thấy như thế thì nên rút ra cho mình một bài học, để sau này khi đối diện với công việc của một linh mục, thì em có một cách suy tư hơn về việc thinh lặng trong đời sống tu trì, chính Chúa Giê-su cũng đã thinh lặng trước quan tổng trấn Phi-la-tô. Em đọc lại đoạn Tin Mừng của thánh Mac-cô nơi đoạn Chúa Giê-su đứng trước ông quan Phi-la-tô xem sao:
“Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, nên ông Phi-la-tô hỏi Người:
- Ông không trả lời gì sao ? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội !”
Nhưng Chúa Giê-su không trả lời gì nữa, khiến ông Phi-la-tô phải ngạc nhiên” (Mc 15, 3-5).
Đúng là Chúa Giê-su không trả lời, Ngài đang thinh lặng, cái thinh lặng của người hiểu biết trước cái không hiểu biết của kẻ khác, cái thinh lặng của người chiến thắng trước một kẻ kiêu ngạo hiếu chiến của người đối thoại, cái thinh lặng của người khôn ngoan và thông minh trước mặt người chỉ ỷ vào quyền chức nhưng nhu nhược của mình.
Trong đêm vắng giữ được thinh lặng thì rất dễ, nhưng thinh lặng giữa cuộc sống xô bồ mới khó và có giá trị; thinh lặng giữa cảnh thuận hòa của anh em thì rất dễ, nhưng thinh lặng khi anh em chia bè lập cánh để đấu đá nhau thì rất khó, bởi vì không ai muốn mình bị “lãng quên” trên “cuộc chiến” đấu bằng nước miếng này…
Em thân mến,
Cũng có những lúc em thinh lặng thì người ta sẽ nghĩ rằng em sợ hoặc thua cuộc, nhưng em đừng sợ, bởi vì những người có tính hiếu thắng mới nghĩ như thế mà thôi, cho nên bây giờ dù em chưa phải là linh mục, chưa phải là tu sĩ, nhưng anh nghĩ rằng em cũng cần phải biết thinh lặng đúng nơi đúng chỗ giữa những bạn bè của em, giữa những người mà em tiếp xúc hoặc khi họ hiếu thắng muốn em về phe họ để lớn tiếng chửi rủa nhục mạ người khác.
Một linh mục không biết thinh lặng đúng nơi đúng chỗ, thì chẳng khác gì đem hạt lúa giống gieo vào trong vườn hoa sặc sỡ, lúa giống sẽ biến thành cỏ và nhọc công cho người làm vườn phải nhổ bỏ mà thôi…
6. BIẾT TẾ NHỊ
Em có biết không, người khôn ngoan họ rất tế nhị trong cách cư xử hằng ngày với người khác, có những việc mà đôi lúc người thông minh không giải quyết được, nhưng người biết tế nhị thì giải quyết được ngay mà làm vừa lòng mọi người…
Vậy tế nhị là gì ? Tế nhị có nghĩa là khéo léo, tinh tế nhã nhặn trong đối xử hoặc có những tình tiết rất nhỏ, sâu kín, khó nói hoặc không thể nói ra được (1).
Linh mục là người thường tiếp xúc với giáo dân, mà giáo dân thì có đủ nhiều thành phần học thức và không học thức, nghề nghiệp khác nhau và sự giáo dục cũng khác nhau, cho nên việc tế nhị đối với các linh mục rất là cần thiết, mà nơi cần phải tế nhị nhất là tòa giảng và khi giao tiếp với giáo dân.
Giảng dạy là một công việc quan trọng của linh mục, là quyền ưu tiên của linh mục, quyền này gắn liền với chức linh mục, cho nên khi làm linh mục thì cũng đồng thời có bổn phận giảng dạy Lời Chúa cho mọi người, quyền này chỉ mất đi khi với lý do chính đáng và chỉ có đức giám mục địa phận mới có quyền mà thôi. Vì quyền giảng dạy là độc quyền của linh mục, cho nên có một vài linh mục khi giảng dạy thì có những lời lẽ không tế nhị với giáo dân, các ngài dùng những lời nói rất thật, thật quá đến nổi giáo dân phải đỏ mặt tía tai, đôi lúc các ngài trình bày một vấn đề mà không tìm hiểu coi có đụng chạm đến giáo dân nào không ? Tế nhị là trình bày Lời Chúa và chỉ trong phạm vi Lời Chúa mà thôi, khi muốn dùng hình ảnh của câu chuyện để làm bối cảnh thì nên tế nhị kẻo làm tổn thương giáo dân của mình.
Con người thời nay rất nhạy cảm và hình như rất dễ bị tổn thương, nếu có một lời nói hay một cử chỉ không tế nhị nào đó của người khác, nhất là của bạn bè và người thân, mà linh mục không phải là người thân của họ sao ? Em thân mến, đôi lúc một lời nói hay một cử chỉ không tế nhị của một linh mục mà làm tổn thương rất lớn cho giáo dân, và đôi lúc chúng ta không lạ gì thỉnh thoảng gặp một vài trường hợp giáo dân không muốn đến nhà thờ, mà hỏi lý do họ cũng không trả lời, những lúc như thế -theo kinh nghiệm của anh dò hỏi- thì phải biết họ đang có ấn tượng không tốt vì thái độ và lời nói không tế nhị của cha sở, mặc dù cha sở rất vô tư không để ý.
Có những chuyện rất tế nhị trong cuộc sống mà đôi lúc không nên nói ra cho người khác nghe, hoặc không nên nhắc lại giữa một tập thể khi có người trong cuộc đang hiện diện ở đó, anh tin chắc em cũng đã thấy nhiều lần bạn bè em hay một người thân nào đó muốn “độn thổ”, vì người ta cứ nhắc lại chuyện cũ của họ ra mà làm đề tài trò chuyện. Linh mục là người cẩn trọng nhất trong lời nói và nghiêm túc nhất trong hành vi của mình, dù đang lúc giảng dạy hoặc là trong lúc thể thao giải trí, tất cả đều được ngài “trình bày” một cách tế nhị, và do đó ngài trở thành người khôn ngoan trong giao tiếp, dễ dàng thân cận và là người biết cách lãnh đạo cộng đoàn.
Em biết không, anh trước khi làm linh mục thì đã có một thời gian rất dài mười ba năm liên tục giúp xứ, vừa đi làm, vừa học hành, vừa chăm lo mọi việc trong ngoài nhà thờ, giáo xứ của anh giúp tuy nhỏ nhưng rất phức tạp, vì giáo dân gồm cả ba miền nam bắc trung đều có, là nơi mà thành phần bất hảo của Saigòn đa phần tập trung ở đó, em không thể hình dung ra được sự phức tạp của nó đâu: ma cô, đỉ điếm, trộm cắp, tù hình sự.v.v…đều có cả. Cha sở của anh phải khôn khéo tế nhị hết sức với xã hội, với giáo dân, với những thành phần bất hảo ấy để rồi nhà thờ ngày càng khang trang hơn, giáo dân đông hơn và thành phần bất hảo ít hơn, ngài rất tế nhị với mọi người, lời nói cử chỉ nhất nhất đều làm cho giáo dân tin tưởng, cộng tác và giúp đỡ giáo xứ. Anh học được nơi ngài rất nhiều điều trong cách phục vụ và trong cách hành xử của một mục tử, cho nên, nếu em muốn đi tu để trở thành một linh mục, một mục tử thì ngay bây giờ em nên tập tành những đức tính nhân bản ấy đi, vì anh nghĩ rằng, có tài uyên bác mà cuộc sống không có nhân bản thì uổng lắm, nhất là đối với một linh mục.
7. ĐƠN SƠ, THẬT THÀ
Em đừng cười khi anh nhắc nhở em là phải đơn sơ thật thà, bởi vì anh đoán rằng em sẽ cười và nói: đi tu thì đương nhiên là phải đơn sơ thật thà rồi, nhất là các linh mục cần phải đơn sơ và thật thà hơn nữa. Đúng như vậy, con người ta ai cũng yêu mến người đơn sơ thật thà, nhất là người ta vẫn luôn nhìn thấy các linh mục, tu sĩ là những người như thế, bởi vì tâm hồn của các ngài thì thật phẳng lặng không bon chen với đời, suy nghĩ của các ngài rất dạt dào sự yêu mến tha nhân nên luôn thật thà khi trò chuyện.
Nhưng em cần phải hiểu rõ ràng như thế này, các linh mục tu sĩ cũng là những con người, và các ngài đang sống giữa một xã hội lắm phức tạp như mọi người khác. Có một vài lần khi tiếp xúc với giáo dân hay bạn bè thì chắc là em co nghe một vài lời nói: “Ông cha này tính tình rất đơn sơ, còn ông cha kia sao ma lanh quá; ông cha này ăn nói thật thà, còn ông cha kia sao ăn nói ba xạo thế.v.v…”.
Em đừng ngạc nhiên gì cả, bởi vì mỗi một linh mục đều bị ảnh hưởng rất lớn do môi trường và hoàn cảnh giáo dục: có linh mục sinh ra trong cảnh nghèo đầu tắt mặt tối làm việc nuôi gia đình; có linh mục thì sống trong cành giàu sang phú quý; có linh mục thì xuất thân bởi thành phần trung lưu; đó là chưa kể hoàn cảnh gia đình của các ngài như thế nào nữa đó…
Linh mục có tính tình đơn sơ thì chắc chắn là ai cũng yêu mến các ngài, sự đơn sơ của các ngài được thể hiện qua công việc, qua cách giao tiếp, tắt một lời là qua nhân cách của các ngài. Các ngài không kiểu cách khi tiếp chuyện với giáo dân, cách nói của các ngài rất bình dị không cong môi uốn lưỡi cho dẽo ngọt, tâm hồn của các ngài thì đơn sơ, bởi được thanh lọc bằng lời cầu nguyện và phó thác cho Thiên Chúa quan phòng.
Anh đã từng thấy một vài linh mục –có lẽ do ảnh hưởng gia đình chăng- sống không thật lòng với mình, các ngài không có sự thật thà đủ khi giao tiếp với người khác cũng như là giữa các anh em linh mục với nhau, vì không thật thà nên lời nói của họ trở thành con dao hai lưỡi, một để bảo vệ mình và một để công kích người khác, ngay cả anh em trong hàng linh mục với mình.
Khi còn là một ứng sinh linh mục triều hay linh mục dòng, thì ngay từ bây giờ em nên tập sống đơn sơ và thật thà với chính mình cũng như với người khác, đơn sơ không có nghĩa là đem chuyện người này nói cho người khác nghe, đơn sơ không có nghĩa là xử sự như con nít, nhưng là xử sự khôn ngoan như rắn và đơn sơ như chim bồ câu. Em đừng đợi đến khi làm linh mục rồi tập sống đơn sơ thật thà, bởi vì khi làm linh mục rồi thì đa phần các linh mục trẻ đều có óc kiêu ngạo –anh không cường điệu đâu- và sống theo sở thích của mình, các ngài như con chim sổ lồng như cá ra khơi, và quên dần những bài học nhân bản đã được học trong chủng viện hoặc trong tập viện, các ngài không còn đơn sơ vâng lời bề trên như hồi còn ở trong chủng viện hoặc trong nhà tập, không còn hòa nhã hòa đồng với các anh em bạn bè khác, mà thường dùng lời lẽ và thái độ của người đã thỏa mãn được mục đích của mình.
Đơn sơ thật thà là đức tính của thiên thần mà ma quỷ rất căm giận, và tìm mọi cách để hủy hoại nó nơi con người linh mục, cũng như nơi những người dâng mình làm tôi tớ của Thiên Chúa. Sự đơn sơ thật thà này là dấu chỉ tốt lành cho người linh mục trong khi thi hành chức vụ mục tử đã được Giáo Hội ủy thác cho các ngài, là niềm vui của giáo dân khi được một mục tử không biết gì ngoài đàn chiên của mình và hết lòng vì đàn chiên ấy.
Các bạn của anh thường nói đùa với nhau như thế này: “Chúa thương những kẻ ngù ngờ (ngu ngơ)”, ý nói là những người đơn sơ thật thà thường được hưởng nhiều may mắn hơn trong cuộc sống, anh thấy câu này rất đúng vì thực tế anh đã thấy có nhiều người dùng âm mưu thủ đoạn để “chơi” những người hiền lành, nhưng dù cho họ có kế hoạch hẳn hoi rồi thì phút chót cũng không được như ý của họ. Linh mục tu sĩ là những người đơn sơ thật thà nhất, bởi vì họ đi tu là để làm người đơn sơ thật thà như ý muốn của Thiên Chúa, do đó dù ở trong chủng viện hoặc trong tập viện họ được học cái gì người ta không thèm biết, nhưng người ta vẫn luôn luôn biết chắc chắn rằng, linh mục và tu sĩ là những người có đời sống đơn sơ và thật thà hơn những người khác.
Em thử nghĩ xem sao, một linh mục mà thường dùng thủ đoạn với người khác, nói năng hàm hồ, vu khống cáo gian hoặc lường gạt bạn bè thì sao nhỉ? Chắc chắn là sẽ không được mọi người tôn trọng, và các ngài cũng rất khó mà làm tròn bổn phận mục tử của mình, bởi vì anh biết có một vài linh mục đã dối trá với bề trên, với anh em và với giáo dân nên phải bỏ giáo xứ nơi mình đang phục vụ mà đi, đó chính là hậu quả của sự lừa dối và “lươn lẹo” trong đời sống của một linh mục tu sĩ. Sống đơn sơ với mọi người, không kiểu cách làm bộ làm tịch, không nói lời đầu môi chót lưỡi như những phường buôn bán là phẩm hạnh của một linh mục tu sĩ, và hơn nữa là một phúc lành cho giáo dân.
Anh đã nói với em là em đừng ngạc nhiên gì cả vì có những linh mục như thế, bởi vì họ cũng là con người nên có những tham sân si như tất cả những người khác, nhưng nếu có chê bai họ, là chê bai họ đã làm cho thiên chức linh mục cao quý trở thành tầm thường, họ lãnh nhận quá nhiều ân sủng, học được học quá nhiều phương pháp để chiếm lấy Nước Trời, nhưng họ đã không sử dụng ân sủng ấy, không dùng phương pháp đã học để chiếm Nước Trời làm gia nghiệp cho mình và giúp người khác biết cách chiếm Nước Trời. Cho nên khi em nghe nói linh mục này như thế, linh mục nọ như kia thì em đừng nản chí về các linh mục của Chúa Giê-su và Giáo Hội, và em cũng đừng bi quan mà làm mất ơn gọi của mình, hãy cầu nguyện cách riêng cho các ngài và cách chung cho các linh mục –trong đó có em.
Em thân mến, đức tính đơn sơ và thật thà của linh mục là chìa khóa để mở cửa tâm hồn của giáo dân, họ sẵn sàng hy sinh cho chủ chăn của mình khi họ biết ngài sống rất đơn sơ thân tình với họ, không chấp tay sau lưng với vai vế của kẻ trên khi nói chuyện với họ, không dùng lời lẽ lắc léo để chửi khéo giáo dân thế này thế nọ, nhưng trãi bày tấm lòng yêu mến của mình cho họ thấy bằng sự đơn sơ thật thà của mình.
(nguồn: http://svcgtobenthuy.net/showthread....B%A5c.-%281%29)
Chia sẻ với em, người muốn đi tu làm linh mục (tiếp)
B. LINH MỤC VÀ ĐỜI SỐNG TU ĐỨCEm thân mến,
Để làm một linh mục thì học nhiều lắm, tuy nhiều nhưng rất có hệ thống nên đỡ ”ngán”, nhất là những môn triết và thần học. Anh nói vậy không phải để “hù” em đâu, nhưng thật đó, bởi vì linh mục là thầy dạy người khác về đường trọn lành, dạy cho người khác biết và yêu mến Thiên Chúa, đồng thời cũng để bảo vệ chân lý Công Giáo khi cần thiết nên phải học nhiều.
Nhưng chung quy đời sống tu đức của các linh mục tương lai cần phải đặt lên trên các mọi môn học, mà tu đức –nói chung- thì như bông hoa trong vườn, nhiều lắm, nhằm để cho các linh mục tương lai có đời sống kết hợp với Thiên Chúa, và đồng thời để cho các chủng sinh có cuộc sống thật gương mẫu khi lãnh đạo dân Thiên Chúa sau này.
Bài học tu đức thì nhiều lắm, đợi đến lúc em được vào học trong đại chủng viện hoặc trong học viện của dòng tu thì em biết, còn bây giờ thì anh chia sẽ với em hai việc quan trọng của đời sống tu trì mà thôi, nhất là với các linh mục, hai việc đó là cầu nguyện và khiêm nhường.
1. Cầu nguyện
Đi tu thì ai cũng biết cầu nguyện là vấn đề ưu tiên hàng đầu của họ, cho nên giáo dân không lạ gì khi thấy các linh mục và các tu sĩ nam nữ cầu nguyện luôn và cầu nguyện lâu giờ trong nhà thờ, sau thánh lễ hoặc bất kỳ lúc nào, bởi vì cầu nguyện làm cho linh mục tu sĩ cũng như giáo dân càng liên hệ mật thiết gắn bó với Chúa Giê-su hơn nữa.
Anh muốn chia sẻ với em về vấn đề cầu nguyện nếu em muốn đi tu làm linh mục.
Có một vài thanh niên cũng rất muốn đi tu như em, nhưng sao họ thấy đời sống tu đức của họ ngày càng xuống dốc, không phải vì họ không muốn tiến đến trong đàng nhân đức, nhưng là vì cuộc sống xô bồ, thời gian cầu nguyện không có để tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa coi có chọn mình đi tu không mà thôi.
Quá trình làm linh mục là một chặng đường có thể nói được là rất cam go, gian khổ và nhiều thử thách của một thanh niên, họ được các cha linh hướng, các người giáo dân quen biết, được mọi người khuyến khích nhắc nhở là phải cầu nguyện luôn để biết ý Chúa có muốn chọn đi tu làm linh mục hay không, bởi vì tất cả mọi người đều khẳng định rằng, chỉ có cầu nguyện mới nhận ra được thánh ý của Thiên Chúa mà thôi.
Em thân mến,
Dù em vào chủng viện hay em ở trong một dòng tu thì em sẽ được học trước tiên là cầu nguyện, dù em bận học hành hoặc sắp đến ngày thi cuối khóa thì em cũng không được miễn chuẩn bỏ giờ kinh nguyện ngắm, trái lại, các linh mục có trách nhiệm đều khuyên các chủng sinh nên cầu nguyện nhiều hơn nữa, và cầu nguyện luôn.
Nhưng thói quen cầu nguyện này sẽ từ từ bị quên lãng khi đã làm linh mục, anh không nói tất cả các linh mục đều quên cầu nguyện, nhưng có một số linh mục than phiền với anh là việc vàng bận rộn quá không có thời gian cầu nguyện, các ngài nói là một ngày từ sáng đến tối không có thời giờ rảnh, nào là đi thăm giáo dân, nào là họp các đoàn thể, nào là xức dầu bệnh nhân.v.v…và còn rất nhiều lý do khác khiến các ngài không thể có thời giờ cầu nguyện hay nguyện ngắm, và từ từ các ngài sẽ trở thành thói quen không còn thiết tha gì với việc nguyện ngắm nữa, có chăng là chỉ làm chiếu lệ theo luật đọc các giờ kinh phụng vụ mà thôi. Cầu nguyện là nhìn nhận mình yếu hèn, bất tài và tội lỗi để xin Thiên Chúa ban ơn cho, anh biết là tất cả các linh mục của Chúa Giê-su đều hiểu được điều này, bởi vì nếu không hiểu thì không thể làm linh mục và cũng không nên làm linh mục làm gì, vì bản chất của linh mục tu sĩ là cầu nguyện.
Một linh mục luôn cầu nguyện thì giáo xứ của ngài giống như cánh đồng lúa luôn đầy tràn nước trong vụ lúa hè thu; một linh mục luôn cầu nguyện thì giáo xứ của ngài luôn có rộn ràng tiếng vui đùa của trẻ em; một linh mục luôn cầu nguyện thì giáo xứ của ngài sẽ không còn nạn chia bè chia phái chống đối nhau nữa, bởi vì hiệu quả rõ ràng nhất của việc cầu nguyện chính là củng cố lòng tin, gia tăng lòng mến và càng hy vọng vào sự quan phòng của Ngài nhiều hơn nữa. Trong Giáo Hội những tấm gương sáng về cầu nguyện của linh mục rất nhiều như thánh Gioan Maria Vianney, như thánh Don Bosco, thánh Phan-xi-cô Khó Nghèo.v.v…hoặc nói cách khác, tất cả những vị thánh trên trời đều là những con người rất yêu mến việc cầu nguyện với Thiên Chúa, và không có vị thánh nào tuyên bố cầu nguyện thật là vô ích cả.
Nhà bác học Archimede nói rằng, cho ông một điểm tựa thì ông sẽ bật lên cả vũ trụ. Trong đời sống tu đức của một linh mục cũng vậy, cầu nguyện chính là điểm tựa để cho ngài bật lên cả một họ đạo nguội lạnh khô khan lòng mến Chúa; cầu nguyện cũng là một điểm tựa để cho ngài bật lên những kiêu căng ra khỏi lòng ngài; cầu nguyện cũng là một điểm tựa để ngài níu vào khi gặp đau khổ thử thách.v.v…Chúa Giê-su đã làm như thế khi cầu nguyện và Ngài đã bật cả thế giới hướng lên trời bằng sự chọn lựa mười hai vị Tông Đồ, Ngài cũng đã cầu nguyện để chiến thắng cơn cám dỗ trong hoang địa, Ngài cũng đã cầu nguyện khi đau khổ tột cùng ập tới trong vườn Cây Dầu…
Nếu em muốn đi tu làm linh mục như ý của Thiên Chúa, thì em phải tập cầu nguyện ngay từ bây giờ, đừng viện cớ công việc quá nhiều mà tránh cầu nguyện. Em có thể cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc, nghĩa là em phải tin tưởng rằng Thiên Chúa hiện diện khắp nơi và mọi nơi mọi lúc, do đó mà em đừng nói là không có thời giờ để cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện là trò chuyện với Đấng thần thiêng nhưng hiện hữu khắp vũ trụ, nên chúng ta không cần phải đợi đến trong nhà thờ để cầu nguyện, chúng ta cũng không đợi đến ngày chủ nhật mới cầu nguyện, cũng khôn phải đợi khi được nghỉ việc mới cầu nguyện.
- Cầu nguyện luôn luôn.
- Cầu nguyện mọi nơi và mọi lúc vì Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta.
Em thân mến, nếu một linh mục coi thường việc cầu nguyện thì cũng đồng thời coi thường sự sống đời đời của mình; một linh mục quá chú trọng những hoạt động to lớn rầm rộ trong giáo xứ mà không cầu nguyện, thì dù cho những sinh hoạt đó thành công cũng chỉ là nhất thời mà thôi, và bản thân của ngài cũng phảng phất chút kiêu ngạo nào đó.
Một linh mục có tài năng thì giáo dân kiêu ngạo, nhưng một linh mục luôn cầu nguyện thì giáo dân vừa hãnh diện vừa an tâm vừa đạo đức. Em cố gắng nhớ điều ấy.
2. Lòng khiêm nhường
Em biết không, có rất nhiều giáo dân to nhỏ với nhau là không ai kiêu ngạo cho bằng các linh mục, không ai hách cho bằng linh mục.v.v… nhưng em cũng biết rằng, không phải tất cả các linh mục đều xấu xa và đều sống cách kiêu ngạo, nhưng thực tế thì chỉ có một vài vị đếm trên đầu ngón tay mà thôi.
Nhưng đó cũng là lời cảnh tỉnh cho các linh mục và cho những ai muốn làm linh mục, nếu em muốn làm linh mục để cho oai, để được ăn trên ngồi trước, hoặc là để được thỏa mãn tính kiêu căng của mình thì anh khuyên em đừng đi tu làm linh mục, nhưng đi làm công chức để tự do làm theo ý riêng của mình thì hay hơn. Có những lúc anh thấy mình thỉnh thoảng cũng rất kiêu ngạo khi có ai đó phê phán mình, anh cũng thấy mình đôi lúc cũng tỏ vẻ ta đây với những người khác vì mình là linh mục, nhưng rồi sau đó anh cảm thấy mắc cở với chính mình vì thái độ và lời kiêu ngạo ấy…
Em biết không,
Muốn trở thành linh mục tốt lành thánh thiện, thì trước tiên em cần phải tập sống nhân đức khiêm nhường, và hứa với lòng mình là phải luôn sống thật đơn sơ và khiêm tốn với tha nhân, nhất là với bề trên của mình, bởi vì anh thấy có một vài linh mục được giám mục hoặc bề trên cho đi du học để lấy học vị tiến sĩ này tiến sĩ nọ về giúp cho giáo phận hoặc cho hội dòng, nhưng khi trở về phục vụ thì phê bình ngay cả giám mục và bề trên của mình là “già rồi xuống (chức) đi, để người khác làm (giám mục, bề trên)”. Tre già thì măng mọc, nhưng nếu tre không già thì măng lấy đâu mà mọc lên, cũng vậy, giám mục hoặc bề trên rồi cũng già lão, rồi cũng sẽ về hưu, nhưng nếu các ngài không chọn linh mục này đi học ở Rô-ma linh mục nọ đi học ở Pháp.v.v… thì bằng cấp tiến sĩ ở đâu mà có, và nếu có đức độ thì những vị tiến sĩ này sẽ được Thiên Chúa chọn, cần gì phải kiêu ngạo “thúc” các ngài bề trên từ chức !
Nhân đức Khiêm Nhường không những phải bám chặt bên trong tâm hồn, mà còn phải bộc lộ thanh thoát ra bên ngoài bằng lời nói hành vi của mình nữa, hiểu sự khiêm nhường là như thế nào thì chỉ có các linh mục mới hiểu trọn vẹn, nghĩa là hiểu hơn tất cả những người khác, do đó mà dễ dàng ngã trong chức linh mục cao trọng của mình.
Em bây giờ đang học năm cuối của đại học, và em muốn đi tu làm linh mục sau khi tốt nghiệp đại học, anh khuyên em nên đọc thêm những sách tu đức nói về đức khiêm nhường, đọc thêm hạnh các thánh để thấy các ngài thực hành đức khiêm nhường như thế nào, và nếu được thì em nên xin một linh mục lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm trong đời linh mục làm linh hướng cho em, rồi em cũng sẽ được ngài trịnh trọng dạy bảo em rằng: đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức khác, và do đó, nếu một linh mục không có và không tập tành nhân đức khiêm nhường, thì giống như cái phèng la trống rỗng kêu to làm điếc tai nhức óc người khác mà thôi.
Anh đã tận mắt nhìn thấy một vài linh mục trẻ đem luật dòng (không phải luật Giáo Hội) đối chất với giám mục địa phương của mình, các linh mục trẻ này hết đem luật dòng điều này khoản nọ để đối chất với giám mục, mà vị giám mục này là chuyên gia giáo luật của cả một hội đồng giám mục quốc gia, anh phục nhất là thái độ lắng nghe và khiêm tốn của ngài, ngài nghe và ngài thấy hết tất cả lời nói và thái độ của các linh mục trẻ khi đối chất: sừng sộ, lý lẽ và nói được là như nóng giận với ngài. Thật đáng tiếc, các linh mục trẻ này ai cũng tưởng minh là nhà giáo luật học, là tiến sĩ giáo luật giỏi giang hơn cả vị giám mục tiến sĩ giáo luật đang khiêm tốn ngồi đây lắng nghe mình. Họ bắt lý bắt lẽ về những điều khoản trong luật dòng, mà họ quên mất một điều luật rất căn bản là: bản luật dòng trực thuộc giáo phận phải được giám mục địa phương phê chuẩn mới có hiệu lực (Giáo luật điều 595), vậy thì quá rõ ràng, ngài phê chuẩn hoặc ngài không phê chuẩn là quyền của ngài khi ngài thấy khả thi và không khả thi, điều này cho thấy giám mục địa phận có quyền hạn rất lớn lao trong việc này, vậy thì những gì ngài đã cho phép thì cứ thi hành, dù điều đó không có trong luật dòng hoặc có nhưng đã không còn phù hợp vì giáo luật ghi rõ ràng: “giám mục cũng có thẩm quyền giải quyết những vấn đề hệ trọng liên quan đến toàn thể hội dòng…”
Em biết không,
Kiêu ngạo thì luôn phá đổ những gì mà mình hoặc người khác đã xây dựng, kiêu ngạo được che giấu dưới mọi hình thức: nói để xây dựng, nói để mà biết, nói để hiểu rõ nhau hơn, nhưng tất cả những lý do đó đều bị gạt bỏ vì thái độ kiêu ngạo, hằn học, giận dữ và cố chấp khi chúng ta đối chất với người khác.
Khiêm nhường sản sinh ra rất nhiều hoa trái cho chính bản thân của mình cũng như cho người khác thưởng thức: hoa trái yêu mến, hoa trái tôn trọng lẫn nhau, hoa trái ôn hòa, hoa trái vui vẻ, hoa trái cảm thông.v.v…và còn rất nhiều hoa trái khác sẽ trổ sinh khi chúng ta thực hành đức khiêm nhường, tại sao vậy, là bởi vì nhân đức khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức, nếu không có nó –nhân đức khiêm nhường- thì các học vị tiến sĩ sẽ là mây khói, các tài năng động trời khuấy nước là vô ích, các bản lãnh siêu quần bạt chúng cũng chỉ là như ngọn cỏ ven đường mà thôi.
Một cha sở khiêm nhường khi tiếp xúc với giáo dân thì giáo dân thấy Chúa Giê-su đang nói chuyện với họ, nhưng một cha sở kiêu ngạo phách lối khi nói chuyện với họ, thì họ không thấy Chúa Giê-su đâu cả, mà chỉ thấy một con người tham sân si nơi cha sở mà thôi. Em đã đọc truyện thánh Gioan Maria Vianney chưa ? Ngài đã trở thành một vị thánh thời danh không phải vì học thức uyên bác nhưng là sự khiêm nhường của ngài đấy, ngài quả thật là đáng để cho chúng ta noi gương trong cuộc đời làm linh mục, làm cha sở của chúng ta.
Anh đã nhiều lần chia sẻ với các anh em linh mục trẻ cũng như với giáo dân rằng, khiêm nhường không có nghĩa là cúi đầu dạ dạ vâng vâng nhưng trong lòng thì cả một bầu trời bất mãn, khiêm nhường cũng không có nghĩa là cái gì “em cũng chã biết”, nhưng khiêm nhường -theo anh- thì biết rõ khả năng của mình đến đâu thì làm đến đó, làm được thì nói làm được, làm không được thì nói làm không được. Bởi vì anh thấy có nhiều linh mục làm được việc nhưng không làm, đợi người khác làm thì phê bình điều này điều nọ, hoặc làm không được nhưng vì tự ái, vì bè phái mà nói làm được, đến khi làm thì phá hỏng cả chương trình của tập thể.v.v…
Khiêm nhường là nền tảng của mọi nhân đức, em cần phải biết điều đó để tập luyện, trước là có ích lợi cho bản thân và công tác mục vụ của mình, sau nữa là trở thành mẫu gương sáng cho giáo dân…
B. LỜI KẾT
Em thân mến,
Nhân bản và tu đức, theo anh nghĩ, phải hòa quyện lẫn nhau nơi con người của linh mục, bởi vì con người thời nay rất thực tế và hưởng thụ, rất khoa học và rất sáng tạo, họ chỉ cần click con chuột trên máy vi tính thì cả một hoặc hai quyển Thánh Kinh bày ra trước mặt họ, tha hồ mà đọc; họ chỉ cần enter một cái, thì tất cả các chú giải Thánh Kinh phơi bày ra trước mắt họ, tha hồ mà nghiên cứu, có khi thích thú hơn cả linh mục giáo sư dạy; họ chỉ cần ấn một nút xanh nút đỏ trên màn hình thì thấy cả khung trời Rô-ma và đền thánh Phê-rô hùng vĩ.v.v…nhưng họ vẫn cứ cần những linh mục bằng xương bằng thịt sống Tin Mừng cho họ thấy, nói Tin Mừng cho họ nghe mà thôi…
Anh có thể nói với em như thế này: tu đức là nền nhà được chôn giấu chắc chắn dưới đât, nhân bản là cái nhà bên trên cái nền ấy; tu đức là sức sống bên trong thúc nhân bản là hành động bên ngoài. Nếu một linh mục giỏi về tu đức mà không có cách sống nhân bản thì không ai thấy ngài là một linh mục thánh thiện, ngược lại, nếu linh mục có đầy cách sống nhân bản nhưng không có tinh thần tu đức thì giống như cái phèng la kêu to rỗng tuếch mà thôi.
Em muốn anh chia sẻ những việc phải làm, những điều cần biết của một linh mục để em đi tu làm linh mục, anh đã chia sẻ với em tất cả những điều trên, theo kinh nghiệm của anh, và có lẽ cũng là của nhiều linh mục khác nũa, bởi vì mọi linh mục đều được học tập như nhau, nhưng cách thực hành những điều đã học thì không giống nhau, cho nên anh nhắc lại cho em một lần nữa là: linh mục cũng là một con người tội lỗi như những người khác, nhưng được Thiên Chúa đoái thương chọn làm tư tế thay mặt dân Ngài mà thôi, cho nên chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều cho các ngài.
Anh xin chấm dứt phần chia sẻ nơi đây, nếu có những gì em cảm thấy phân vân khó chịu, thì email hoặc “chát” với anh, nếu như em và anh có giờ rãnh. Xin Thiên Chúa là Cha nhân từ và Chúa Giê-su Ki-tô Đấng là thượng tế muôn đời chúc lành và gìn giữ ơn gọi làm linh mục nơi em.
Cầu nguyện nhiều cho anh trong chức vụ linh mục chánh xứ.
(nguồn : http://svcgtobenthuy.net/showthread....Fp%29.%282%29&)
Tình bạn và tình yêu trong đời tu
http://tgpsaigon.net/sites/default/f...htamkhan_b.jpg
Ý nghĩa đời tu: Có lẽ điều liên tưởng đầu tiên của những người ngoài đời về các vị đi tu là những người không lập gia đình, những người sống độc thân. Tuy nhiên, liên tưởng này không phải ai cũng hiểu được một cách thấu đáo, đặc biệt những người không phải là Kitô giáo. Chính vì nhẽ đó, mà có những người không phải Kitô giáo, khi gặp các vị linh mục, tu sĩ, thường hỏi: vậy đi tu có được lấy vợ không? Hoặc có kẻ không biết ác ý hay vô tình không biết còn hỏi: vậy đi tu có lấy được các soeur không! Thật là quá đáng và quá đáng!
Vậy đi tu là gì? Và tại sao đi tu lại phải sống độc thân? Nhiều người trả lời rằng, đó là dựa theo những lời khuyên của Tin mừng, dựa vào những đặc tính đã có từ lâu trong lịch sử. Chọn đời sống độc thân là vì tình yêu củ Đức Kitô. Trước tiên, có lẽ khỏi nói, từ bậc cao nhất đến hàng rốt chót, cũng biết đi tu là dâng mình cho Chúa. Nói như vậy cũng đúng nhưng xem ra chưa đủ. Ngắn gọn đó nhưng chưa mang tính chiến đấu cao. Bởi vì nếu như vậy sẽ có kẻ vặn lại ai cũng có thể dâng mình cho Chúa "mà lị". Họ sẽ phùng mang trợn mắt, nói văng cả nước miếng mà thuyết cho chúng ta rằng: một mức độ nào đó, bất cứ ai khi lãnh nhận bí tích Thanh tẩy cũng được xem là dâng mình cho Chúa rồi. Điều này là bởi vì, nhờ tác động mầu nhiệm và thầm kín của Chúa Thánh Thần, qua lời cam kết từ bỏ ma quỷ và mọi sự quyến rũ, thụ nhân chịu phép Thanh tẩy đã được thánh hiến cách riêng cho Chúa. Với lập luận cứng như "đinh đóng cọc" này, họ sẽ cho rằng cần cóc gì phải đi tu nữa, dĩ nhiên và ngang nhiên là không cần đến việc sống độc thân. Cho nên họ việc lập gia đình và sống đúng vai trò của con người và người con của Chúa là dâng mình cho Chúa cách trọn vẹn. Được lợi cả hai: vừa được cả đời này (vợ đẹp con ngoan) lẫn đời sau.
Điều này hoàn toàn đúng, không sai một chút nào. Nhưng còn một sự thánh hiến thứ hai dành đặc biệt cho một số người mà được Chúa tuyển chọn cách riêng. Thánh hiến trong bậc tu trì. Cuộc thánh hiến này làm cho họ thuộc về Chúa một cách quyết liệt hơn. Thật vậy, trong khi lời hứa của phép Thanh tẩy nhằm từ bỏ ma quỷ và quyến rũ của nó, thì lời khấn hứa của các tu sĩ trong dòng tuyên bố mình thuộc về Chúa cũng như tuyên bố công khai Chúa là chủ nhân tuyệt đối đời mình. Qua ba lời khấn, tu sĩ sẽ bằng lòng một cách tự nguyện từ bỏ chiếm hữu và sử dụng tài sản, giữ luật độc thân và khước từ mọi nhục cảm và tùy thuộc vào bề trên dòng. Nếu qua chịu phép Thanh tẩy ghi dấu ấn đặc biệt trên thụ nhân để làm họ thành dân riêng của Chúa, lời khấn dòng cũng phân hạng cho tu sĩ, biến họ thành những người được thánh hiến trong Hội thánh. Con đường này thật thánh thiện nhưng những người đi trên con đường này có thực sự thánh thiện lại là một chuyện khác. Họ tuy được thánh hiến đặc biệt nhưng vẫn là những con người với những bất toàn của phận người và sống giữa những người đời trong cuộc đời trần thế. Ở trong đời mà lại không thuộc về đời. Theo như nhà thần học Congar nói về đời tu trong thời đại mới: "ở đời mà lại ít thuộc về đời".
Để hiểu rõ hơn chúng ta đọc đoạn văn sau đây: "Do phép rửa, tín hữu chết cho tội lỗi và được hiến dâng cho Chúa, Nhưng muốn lãnh nhận ơn ích dồi dào, họ phải dùng lời tuyên hứa trong Hội thánh mà thực thi các lời khuyên của Tin Mừng để gỡ mình ra khỏi những ràng buộc, ngăn trở có thể làm cho họ chậm bước trên đường mến yêu thờ phượng Chúa cách hoàn hảo. Nhờ những lời khấn này, họ hiến thân phục vụ Chúa cách mật thiết hơn. Sự dâng hiến này càng trở nên hoàn hảo khi càng được lời khấn bảo đảm." (LG 51)
Như vậy, qua đây chúng ta thấy sự hiến thân trong bậc tu trì và khi chịu bí tích Thanh tẩy cũng là một. Tuy nhiên, hình thức hiến thân trong bậc tu trì thì theo con đường chặt chẽ hơn để đi tới Chúa. Một trong ba yếu tố giúp cho việc theo Chúa chặt chẽ hơn là sống độc thân. Lý do có thể là các tu sĩ hoàn toàn tự do muốn hiến thân trực tiếp cho việc phục vụ và phụng thờ Thiên Chúa.
Tình bạn và tình yêu
Việc nói tới tình bạn và tình yêu trong đời tu hay cụ thể hơn là trong đời sống độc thân xem ra hơi khó và phức tạp. Thật vậy, cũng chính vì tình bạn và và tình yêu trong đời sống độc thân mà đã khiến bao nhiêu người "trần ai khoai củ" mới vượt qua được để đứng vững trong đời tu. Cũng chính vì tình bạn và tình yêu trong đời sống độc thân mà khiến bao nhiêu tu sĩ không muốn tu hoặc không tu được nữa. Tuy nhiên, thiết nghĩ và dám chắc chắn rằng với những người sống đời sống độc thân trong bậc tu trì một cách trọn vẹn thì vẫn có thể có những tình bạn, tình thân và thậm chí tình yêu một cách tốt đẹp và đáng được trân trọng. Cho nên việc quan trọng và thiết yếu là có một thái độ và giữ mối quan hệ như thế nào cho phù hợp về tình bạn và tình yêu trong đời tu. Như đã nói ở trên, một trong những điều liên tưởng đầu tiên mà cũng gây tò mò cho bao người, về những người tu sĩ là không lập gia đình, sống đời sống độc thân. Độc thân nhưng không có nghĩa là đơn độc. Độc thân nhưng không phải là sống một mình. Người ta thường hát "không ai là một hòn". Đúng vậy, con người là sống vì, sống cho và sống với mọi người. Đời tu, cũng vậy, cần phải sống vì, sống cho và sống với mọi người. Chính vì lẽ đó, những người tu sĩ cũng cần có tình bạn, thậm chí cả tình yêu trong đời sống độc thân. Cái quan trọng là khái niệm và biên độ của tình yêu và tình bạn của những người tu sĩ tới đâu là đủ. Có những tu sĩ, đặc biệt là các soeur, rất ư là "nhát đòn" trong khái niệm về tình bạn và tình yêu trong đời tu. Thật vậy, một số người vẫn nghĩ rằng hễ có một tình bạn hơi sâu xa một chút là đã vi phạm lời khấn khiết tịnh rồi. Theo họ việc trao hiến con tim cho Chúa thì cho đến chết chỉ một mình họ biết con tim đó, ngoài Chúa ra. Thái độ của những người theo lập trường này là sợ gắn bó với ai, sợ gắn bó để có một tình bạn, e dè đón nhận những cách bày tỏ tình thân một cách trong sáng, không hàm hồ. Đó cũng là thánh thiện, là một tu sĩ thánh thiện nhưng không vui. Một tu sĩ buồn là một tu sĩ đáng buồn! Một tu sĩ đích thực là cần phải hội đủ hai điều kiện: đi tìm Chúa và đem Chúa đến cho mọi người. Như vậy, người tu sĩ là những người đầu tiên giới thiệu Chúa cho những người khác. Họ là những người đầu tiên tình nguyện đón nhận và giới thiệu tình yêu Thiên Chúa. Giới thiệu một Thiên Chúa yêu thương trong sự thân ái, thiện cảm và vui vẻ. Có thể nói sứ mạng của người tu sĩ gieo rắc thiện cảm và niềm vui, sau đó gặt hái về trong tâm tình của những tâm hồn biết yêu và được yêu.
Trái lại với thái độ "nhát đòn" là thái độ quá "lì đòn" trong tình bạn và tình yêu trong đời sống độc thân. Quan niệm này có thể là do không biết hoặc chưa ý thức đủ về ý nghĩa của đời sống độc thân và những mối nguy hại của tình bạn và tình yêu trong đời sống dâng hiến. Tuy người tu sĩ sống đời sống độc thân nhưng, nhìn vào thực tế, chúng ta thấy có một số tu sĩ không đơn độc. Họ có rất nhiều con linh thiêng, cả những người ngoài đời lẫn những người trong nhà tu. Không phải nói quá, nhưng có những cha, thầy đi đâu cũng có những người con, cháu, anh, chị, em... kết nghĩa, tinh thần. Cũng vậy, có những souer gặp đâu cũng kêu bố, ông nội,... mà nếu tính đời linh tông đôi khi bắn đại bác cả ngày cũng chưa tới! Âu cũng là con người với những thu hút lẫn nhau và khác dấu hút mạnh hơn. Một thực tế, nếu chúng ta để ý, hình như các cha thầy có nhiều ông nội, ông ngoại,... linh tông, nhưng các soeur thì chỉ có ông nội, bố chứ không có ông bà ngoại, mẹ linh tông! Với nhiều tình thân trong mối dây linh tông như vậy sẽ khó mà có được tình bạn và tình yêu trong sáng trong đời sống dâng hiến. Dẫu biết rằng, họ luôn ý thức đó là linh thiêng, nhưng với một người đã thưa với Chúa "con chỉ muốn yêu mình Ngài thôi" mà lại có quá nhiều mối tình thân như vậy thì sao có thể còn chỗ cho tình yêu của Thiên Chúa triển nở nơi mình? Thay vào đó là những "tình bạn đặc biệt', những "linh tông bí mật". Chính những mối tình thân quá khép kín và đặc biệt này gây ra những dị nghị và cản trở cho việc phát triển trong cộng đoàn tu trì của họ. Kết quả là không ít những tu sĩ rơi vào tình trạng "khởi sự nhờ Thần khí, nhưng kết thúc bằng xác thịt". Thế mới có chuyện kể rằng: người mẹ, trước kia cũng là người đã từng đi tu, thấy con gái mình có mối quan hệ rất thân thiết với một ông thầy. Đi đâu ông thầy và cô con gái cũng đi chung. Thấy điều bất ổn như vậy, với kinh nghiệm của mình đã từng trải qua, bà mẹ nói với con gái: "Con nên cẩn thận và ý tứ trong việc tiếp xúc với ông thầy nhé!" Cô con gái đáp: "Mẹ cứ an tâm đi, chúng con là anh em kết nghĩa mà lị". Bà mẹ nói: "Tiên sư bố mày, hồi xưa tao cũng vì anh em kết nghĩa nên giờ tao mới khổ như vậy nè!".
Tình bạn và thậm chí tình yêu trong đời sống dâng hiến là không thể không có. Vì dù sao Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa và đôi khi Người có vẻ như ở xa chúng ta quá... Cho nên việc có những mối tình thân của những người tu sĩ là hết sức cần thiết và bình thường. Một người bạn thân có thể là một người, khác phái hay cùng phái, đang làm chung với ta hay ta thường gặp thường xuyên. Một người bạn thân có thể là một người mà ta cảm thấy có điều gì ràng buộc, dù không biết tại sao, vì có một thiện cảm trong sáng sâu sắc mà khó có thể phai nhòa được. Cho dù có xa cách, người đó vẫn là một điều gì đó thật quý báu với ta. Thật vậy, Thiên Chúa luôn muốn những người tận hiến cho Người, nếu cần, vẫn có thể tìm cho mình một người bạn nào đó để đem lại một tình yêu vô hình thành hữu hình.
...một quả tim bằng thịt
"Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và đặt thần khí mới vào lòng chúng. Ta sẽ lấy khỏi mình chúng trái tim chai đá và ban cho chúng một trái tim bằng thịt" (Ed 11, 19).
Thật vậy, Thiên Chúa đã gỡ bỏ con người quả tim gỗ đá và thay vào một quả tim bằng thịt, có lẽ Người cũng muốn con người biết yêu như Người, như người đã yêu Con của Người, bằng một quả tim nhân loại, một quả tim biết rung động và đau đớn. Cho nên, nếu lý tưởng của sự độc thân là vô cảm thì có lẽ đó không phải là sự độc thân của Kitô giáo. Vì thế, khó khăn của con đường độc thân là chúng ta vẫn phải có một trái tim thật cởi mở, có thể yêu thương một cách trong sáng không hàm hồ. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể bước vào con đường này một cách trong sáng và tốt đẹp. Nếu không đủ khôn ngoan, sáng suốt và khéo léo thì những mối quan hệ này sẽ gây ra thất vọng và có thể đưa tới ngõ cụt. Dĩ nhiên một tình bạn trong sáng trong đời sống độc thân là một điều người tu sĩ nào cũng mong muốn có. Nhưng điều nên nhớ là làm sao cho tình bạn triển nở trong sự tự do hoàn toàn giữa người này với người kia. Tránh đi những tình bạn quá nghiêng về cảm giác, từ đó dễ dành chỗ quá lớn cho nhu cầu cần đến nhau và những khát vọng. Là một con người với những nhu cầu bình thường, nếu đôi khi xác thịt bị những khát vọng dày vò, thì đó là chuyện bình thường, nhưng lúc đó không được phép nhượng bộ hay trì hoãn. Tình bạn chân thật trong đời sống độc thân có thể trao nhau với tất cả sự sáng suốt, không có hậu ý để minh chứng cho sự kết hợp vô hình giữa Người với những kẻ được Người yêu thương. Một sự kết hợp như vậy được thực hiện với sự liên kết của Thiên Chúa, giữa ta với Người. Cũng nhờ đó, tình bạn chân thật trong đời sống dâng hiến sẽ tìm thấy Chúa ở nơi sâu xa tới mức không có gì có thể cản trở tình yêu của họ đối với Thiên Chúa được.
Tạm kết
Nếu đặt câu hỏi tại sao có những tu sĩ nam nữ từ khước hôn nhân? Câu trả lời, với những người Kitô giáo, là "Vì Người, vì Đức Kitô". Làm sao có được chuyện ấy? Có hay không cũng vẫn không quan trọng nhưng đó vẫn là sự thật. Tuy nhiên, những người ngoài cuộc vẫn tò mò và đôi khi cảm thấy thương tiếc cho những người tu sĩ vì không có người yêu bên cạnh. Nhưng những người tu sĩ có thể nói như thánh Gioan rằng: tôi đã tin vào tình yêu của bạn thì bạn hãy tin rằng cả tôi nữa, tôi cũng biết thế nào là tình yêu chứ. Chính vì tình yêu vào Đức Kitô mà người phụ nữ khước từ anh thanh niên hấp dẫn, cương nghị và nồng nàn. Cũng chính vì tình yêu vào Đức Kitô mà chàng thanh niên từ khước cô thiếu nữ đang yêu, thông minh, hiền hòa và dễ thương. Tất cả vì tình yêu và để phục vụ và phụng vụ Thiên Chúa mà những người tu sĩ đã chọn đời sống độc thân.
Tuy nhiên, độc thân không bao hàm là có một lối sống đơn độc lẻ loi. Họ vẫn có những nhu cầu tình cảm, chia sẻ tình cảm của mình cho người khác và ngược lại. Đó là tình bạn trong đời sống độc thân. Một mối tình thân trong sáng và không hàm hồ. Đó là con đường thánh thiện mà người tu sĩ nào cũng phải đạt tới. Nhưng trên thực tế không phải tu sĩ nam nữ nào cũng cũng có thể có một tình bạn, một tình thân trong sáng, không hậu ý trong đời sống độc thân. Đúng vậy, với quả tim bằng xương thịt, không ít lần người tu sĩ bị những cảm giác và nhục dục lôi kéo theo những tình cảm mà tự nó cản trở cho đời sống độc thân. Cần phải có một thái độ triệt để trong lãnh vực này. Triệt để không có nghĩa là sẽ không bị thử thách, sẽ không bao giờ bị sa ngã và yếu đuối, sẽ không một tình cảm nào đó để lấp vào khoảng trống cần đáp trả yêu thương và được yêu vì hình như lúc này Thiên Chúa quá xa... Nhưng dù có vấp ngã, dù có sa ngã ta vẫn tiến lên phía trước như một người vẫn kiên vững trong quyết định của mình, cho dù thực tế vẫn còn bao yếu đuối.
(Nguồn: http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20110328/9581)
các dòng tu trì ở việt nam
Các tổ chức tu trì tại Việt Nam
Nguồn: Website HĐGM Việt Nam
I. GIỚI THIỆU CÁC TỔ CHỨC TU TRÌ TẠI VIỆT NAM
Xưa nay, người ta vẫn coi các tổ chức tu trì là một trong những dấu hiệu lớn cho biết Giáo hội Công giáo có mặt và hoạt động tại một địa phương nào đó. Có mặt và hoạt đôïng trước hết như những tổ chức có mục đích tôn giáo: thờ phượng Đấng Tối Cao không những bằng lời kinh và nghi lễ, mà còn bằng cả đời sống có phần khác với đa số đồng bào giáo dân. Đó là các tu sĩ, sống theo những lời khấn hứa (thường được xác định cách chung là độc thân khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, chuyên cần cầu nguyện và liên kết với nhau trong tình huynh đệ). Rồi có mặt và hoạt động như những tổ chức có mục đích nhân đạo: phục vụ đồng bào không những bằng việc hướng dẫn họ thờ phượng Thiên Chúa, mà còn bằng cả những việc nhân bản như giáo dục, chăm lo sức khoẻ, cứu tế… Đây không phải là cách hiểu riêng của những người Công giáo mà còn được chia sẻ bởi đông đảo những đồng bào khác, như ta có thể kiểm chứng được khi mở cuộc điều tra xã hội học về đời tu.
Bản thân Giáo Hội cũng coi các tổ chức tu trì không phải chỉ là bộ phận dân Chúa, mà còn coi đời tu như một trong các hiện thân chính yếu của Giáo Hội (x. Sắc lệnh của Công đồng Vatican II về Dòng Tu, số 1), đến nỗi sự thịnh suy của đời tu là sự thịnh suy của chính Giáo Hội. Vì Giáo Hội có ơn gọi gì, nếu không phải là ơn gọi tôn giáo và ơn gọi nhân đạo ấy mà các tổ chức tu trì đang tìm cách thực hiện cách đặc biệt hơn (x. Hiến chế của Công đồng Vatican II về Giáo Hội, số 44). Lịch sử đời tu và các hình thức tu trì khác nhau chính là bằng chứng cho thấy sự bền bỉ cũng như sức sống của Giáo Hội trong việc phục vụ Thiên Chúa và con người trong các địa phương qua các thời đại.
Chính vì tầm quan trọng ấy, Giáo Hội đã có những sự can thiệp chính thức vào việc xác định bản chất, phân loại và phân chia thẩm quyền mà các tổ chức tu trì sẽ thuộc về, đồng thời quyết định chính thức nhìn nhận một tổ chức tu trì đúng là tổ chức của Giáo Hội hay được Giáo Hội cho phép hoạt động tạm thời chờ phê chuẩn dứt khoát. Như thế, tất cả sự phân chia và sắp xếp các tổ chức tu trì như Giáo luật năm 1983 của Giáo hội Công giáo nêu ra trong quyển II, phần III, từ điều khoản 573 đến 746, đều nhằm minh định một lần nữa rằng các tổ chức tu trì ấy hoạt động tốt đẹp hơn trong đường hướng của mình. Nếu vậy, tất cả những phân biệt về loại (các tổ chức thuộc Đời sống Thánh hiến như: các Đan viện, Tu hội Dòng và Tu hội Đời; hay các tổ chức thuộc Đời sống Tông đồ như các Tu đoàn Tông đồ) và về thẩm quyền trực thuộc (thuộc thẩm quyền giáo hoàng hay Toà Thánh hoặc thuộc thẩm quyền giám mục địa phương hay giáo phận), và nhiều sự phân biệt khác nữa, mà độc giả sẽ gặp trong những trang sau đây, không nhằm phân biệt cao thấp về mặt giá trị mà chỉ để giúp tiện theo dõi và hướng dẫn, cũng như để giúp chính các tổ chức ấy thực hiện vai trò của mình tốt hơn trong chương trình hoạt động chung của Giáo Hội.
Cách riêng với những người trong cuộc, đời tu không chỉ là một sáng kiến thờ phượng Thiên Chúa, phục vụ đồng bào, mà trước hết và trên hết là một quà tặng của chính Chúa Thánh Thần ban cho nhân loại và chính cá nhân người tu sĩ. Đó là lời mời gọi người tu sĩ hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa để tham gia vào chương trình cứu độ của Ngài cách sâu sát hơn. Chính vì thế, trước khi được coi là một nỗ lực lớn lao của con người, của tổ chức tu trì và của Giáo Hội, đời tu chính là một nghĩa cử thân ái, dịu dàng được Chúa Thánh Thần làm cho tất cả và Ngài sẽ còn làm nhiều hơn nữa trong tương lai. Chính vì thế, những quy định của Giáo Hội về đời tu vẫn luôn mở ngỏ. Ngay trong những trang này, độc giả sẽ thấy có vài tổ chức tu trì không thể được xếp đúng vào loại nào đã có sẵn mà còn mở ngỏ cho những cách sắp xếp trong tương lai. Nhân đây, chúng tôi cũng phải thú nhận chưa thể đưa vào đây tất cả mọi tổ chức tu trì tại Việt Nam, vì nhiều lý do bên ngoài cũng như bên trong. Nhưng như thế, chúng ta càng có dịp thấy ơn Chúa Thánh Thần phong phú tới mức không bộ sách nào có thể khoanh vùng trọn vẹn được, mà chỉ có thể mô tả phần nào trong tâm tình kính trọng và yêu mến.
Trong khuôn khổ cuốn Niên Giám này, chúng tôi chỉ có thể kể tên, nói qua vài dòng lịch sử, châm ngôn hoạt động hay một vài con số về người và địa chỉ, chứ không thể trình bày nhiều hơn nét sáng tạo, đời sống phong phú và tác động mãnh liệt của Chúa Thánh Thần trong đời tu. Muốn cảm nghiệm được, xin mời độc giả hãy tìm đến một địa chỉ cụ thể để khám phá. Chúng ta sẽ thấy làn gió của Thánh Thần sẽ đưa ta đi thật xa để phát hiện chân trời bao la của Tình yêu Thiên Chúa (x. Ga 3,8).
Chúng tôi cũng lưu ý độc giả về những tên gọi chưa được thống nhất của mỗi tổ chức tu trì, vì muốn tôn trọng tính cách riêng tư và độc lập của các tổ chức đó. Tuy nhiên, chúng tôi xin tạm liệt kê vài định nghĩa sau đây để giới thiệu với giáo dân và những độc giả ngoài Công giáo:
- Đan sĩ: người sống trong đan viện. Đan viện: (monasterion, do từ Hy Lạp monazein: sống một mình) là nơi các tu sĩ nam hay nữ sống đời ẩn dật, vừa làm việc, vừa chiêm niệm, hát kinh thần vụ chung.
- Người mới khởi đầu việc tìm hiểu một dòng tu gọi là dự tu hay thỉnh sinh hoặc đệ tử, có nơi gọi là thanh tuyển sinh. Đây là giai đoạn cần thiết để hiểu biết đôi chút về đời tu qua kinh nghiệm cá nhân và để cho các bề trên biết rõ hơn về người muốn đi tu, trước khi được nhận vào Nhà Tập hay Tập viện. Giai đoạn này dài ngắn tuỳ theo từng dòng.
- Tập sinh: người được nhận chính thức vào một tu hội để chuẩn bị khấn; trong tu hội đời là người được thử nghiệm. Thời gian tập sinh sống đời tu cách chặt chẽ kéo dài khoảng 1-2 năm và có thể chia thành 2 giai đoạn: tiền tập sinh và tập sinh. Kết thúc giai đoạn này là lễ khấn tạm, sau đó, tập sinh trở thành khấn sinh.
- Khấn sinh: người cam kết với Chúa sống ba lời khuyên Phúc Âm: khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh. Mỗi tu sĩ sẽ khấn tạm một thời gian (tối thiểu 3 năm, tối đa 9 năm, theo Giáo luật) trước khi cam kết vĩnh viễn (vĩnh thệ hay khấn trọn). Trong thời gian khấn tạm, tu sĩ sống trong các học viện hay kinh viện để học các môn thần học, tu đức và truyền thống của dòng hoặc học thêm các chuyên ngành khác.
Chúng tôi sắp xếp các tổ chức tu trì dành cho nam giới (từ tr. 309 đến 356) trước nữ giới (từ tr. 359 đến 422), các tổ chức tu trì thuộc đời sống thánh hiến trước các tu tổ chức tu trì thuộc đời sống tông đồ, các tu hội dòng trước tu hội đời, dòng giáo hoàng trước dòng giáo phận và theo thứ tự chữ cái của danh xưng quen gọi.
II. CÁC TỔ CHỨC TU TRÌ DÀNH CHO NAM GIỚI
II. A. TỔ CHỨC TU TRÌ THUỘC ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
(Institutum Vitae Consecratae)
1. Tu hội Dòng (Institutum Religiosum, gọi tắt là Dòng)
a. Dòng thuộc quyền giáo hoàng (dòng giáo hoàng):
Dòng Biển Đức (O.S.B.) – 4 Đan Viện: Thiên An, Thiên Hoà, Thiên Bình, Thiên Phước (tr. 309).
Dòng Chúa Cứu Thế (C.Ss.R.) (tr. 311).
Dòng Đa Minh (Anh Em Thuyết Giáo: O.P.) (tr. 315).
Dòng La San (Anh Em Trường Kitô: F.S.C.) (tr. 318).
Dòng Phanxicô (Anh Em Hèn Mọn: O.F.M.) (tr. 320).
Dòng Salesien Don Bosco (S.D.B.) (tr. 323).
Dòng Tên (Chúa Giêsu: S.J.) (tr. 325).
Dòng Thánh Thể (S.S.S.) (tr. 327).
Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu (P.F.J.) (tr. 328).
Dòng Trợ Thế Thánh Gioan Thiên Chúa (O.H.) (tr. 329).
Dòng Xitô (O.C.) - 6 Đan Viện: Phước Sơn, Châu Sơn, Phước Lý,
Châu Thuỷ, Phước Vĩnh, Thiên Phước (tr. 330).
b. Dòng thuộc quyền giáo phận (dòng giáo phận)
Dòng Anh Em Đức Mẹ Người Nghèo (TP. HCM) (tr. 336).
Dòng Đồng Công (C.M.C.) - (TP. HCM) (tr. 337).
Dòng Lời Chúa - Dòng Thừa sai Đức Tin (Phú Cường) (tr. 338).
Dòng Thánh Gia (Long Xuyên) (tr. 339).
Dòng Thánh Giuse - Nha Trang (Nha Trang) - Ngôi Lời (tr. 340).
Dòng Thánh Tâm - Huế (Huế) (tr. 341).
2. Tu hội Đời (Institutum Saeculare)
a. Tu hội Đời thuộc quyền giáo hoàng
Tu hội Prado (tr. 342).
b. Tu hội Đời thuộc quyền giáo phận
Tu hội Chúa Giêsu - TP. HCM (tr. 343).
Tu hội Đắc Lộ - TP. HCM (tr. 344).
Tu hội Gia Đình Na Gia - TP. HCM (tr. 346).
Tu hội Nhà Chúa Thánh Gioan Tiền Sứ - TP. HCM (tr. 347).
II. B. TỔ CHỨC TU TRÌ THUỘC ĐỜI SỐNG TÔNG ĐỒ (TU ĐOÀN TÔNG ĐỒ) (SOCIETAS VITAE APOSTOLICAE)
1. Tu đoàn Tông đồ thuộc quyền giáo hoàng:
Hội Thừa sai Paris (M.E.P.)
Tu đoàn Truyền giáo Thánh Vinh Sơn (C.M.)
Hội Linh mục Xuân Bích (P.S.S.).
2. Tu đoàn Tông đồ thuộc quyền giáo phận
Tu đoàn Giáo sĩ Nhà Chúa - TP. HCM.
Tu đoàn Nhập Thể-Tận Hiến-Truyền Giáo (I.C.M.) - GP. Đà Lạt.
Tu đoàn Thừa sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế .
Hội Thừa sai Việt Nam.
DÒNG BIỂN ĐỨC (O.S.B.: ORDO SANCTI BENEDICTI - ORDER OF ST. BENEDICT)
Lược sử: Dòng Biển Đức do Thánh Bênêdictô sáng lập năm 520, tại Subiaco, Ý. Hiện nay, dòng Biển Đức trên toàn thế giới có 8.694 nam đan sĩ (linh mục và không linh mục) và 18.213 nữ đan sĩ, thuộc 21 tu hội (congrégation). Mỗi tu hội có các tỉnh dòng, và mỗi tỉnh dòng lại có các đan viện. Bề trên Tổng quyền của dòng Biển Đức là cha Thống phụ (Abbé Primat); đứng đầu tu hội là Đan phụ chủ tịch (Abbé Président); đứng đầu tỉnh dòng là Tỉnh phụ (Abbé Visiteur) và đứng đầu đan viện là Đan phụ hoặc Đan trưởng.
Sau đây là vài nét chính về tỉnh dòng Biển Đức tại Việt Nam:
Ngày 10-11-1936, cha Maur Massé, đan sĩ thuộc đan viện La Pierre Qui Vivre, Pháp, lập đan viện đầu tiên tại Đà Lạt, sau thành trụ sở cho đến năm 1954.
Ngày 10-6-1940, hai đan sĩ đan viện La Pierre Qui Vivre là cha Dom Romain Guillaume và Dom Corentin thành lập đan viện Thiên An, Huế. Sau đó, các đan sĩ đan viện Thiên An tiếp tục thành lập thêm 3 đan viện khác nữa. Tất cả đều thuộc tỉnh dòng Pháp.
Năm 1988, các đan viện ở Việt Nam tách khỏi tỉnh dòng Pháp, lập thành tỉnh dòng Biển Đức Việt Nam, với Bề trên Giám tỉnh tiên khởi là cha Tađêô Phạm Quang Điện, Đan phụ đan viện Thiên Bình.
Năm 1993, Bề trên Giám tỉnh kế nhiệm là cha Stêphanô Huỳnh Quang Sanh, Đan phụ Đan viện Thiên An. Cha sinh năm 1940, chịu chức linh mục 1972, làm Bề trên đan viện Thiên An năm 1984, Bề trên Giám tỉnh năm 1993, trở thành Đan phụ 1998.
Châm ngôn: Cầu nguyện và lao động (Ora et Labora).
Nhân sự: tại Việt Nam: tổng số đan sĩ khấn trọng 52, khấn tạm 80, tập sinh 28 và thỉnh sinh 41.
Hoạt động:
- Cử hành kinh Phụng vụ.
- Cầu nguyện cá nhân, và đọc sách thiêng liêng (lectio divina).
- Lao động trí óc và chân tay.
- Tiếp đón khách tĩnh tâm.
Điều kiện tuyển chọn:
- Có sức khoẻ.
- Tốt nghiệp lớp 12 trở lên.
- Có tinh thần tìm kiếm Chúa trong thinh lặng, cầu nguyện và lao động, được thể hiện trong việc ham thích kinh Phụng vụ, ái mộ vâng phục, vui chịu thử thách (QL 7, 58).
Địa chỉ Nhà Mẹ:
- Tại Italy: Via S. Ambrogio 3, 00186 Roma, Italy.
- Tại Việt Nam: Đan viện Thiên An, hộp thư lưu ký, bưu điện Huế.
Các đan viện Biển Đức tại VN:
- Đan viện Thiên An, giáo phận Huế.
- Đan viện Thiên Hoà, giáo phận Ban Mê Thuột.
- Đan viện Thiên Bình, giáo phận Xuân Lộc.
- Đan viện Thiên Phước, giáo phận TP. HCM.
ĐAN VIỆN THIÊN AN
Thành lập: Ngày 10-6-1940, do hai đan sĩ thuộc đan viện La Pierre Qui Vivre là cha Dom Romain Guillaume và Dom Corentin.
Bổn mạng: Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu.
Nhân sự: Khấn trọng 16, khấn tạm 21, tập sinh 9, thỉnh sinh 12.
Địa chỉ:
Thôn Cư Chánh, xã Thuỷ Bằng,
huyện Hương Thuỷ, Thừa Thiên-Huế.
Hộp thư lưu ký, Bưu điện Huế.
Đt: 054 865910
Email: taosb@pmail.vnn.vn
Bề trên đương nhiệm: Đan phụ Stêphanô Huỳnh Quang Sanh, sinh 1940, chịu chức linh mục 1972, bề trên đan viện 1984, Tỉnh phụ 1993, Đan phụ 1998.
Số linh mục: André Trông Nguyễn Văn Tâm, sinh 19-6-1945, lm 30-4-1975; Phêrô-cao Dương Đình Thời, sinh 1966, chịu chức 2002; Benoit Trần Văn Phúc, sinh 1961, chịu chức 2001.
ĐAN VIỆN THIÊN HOÀ
Thành lập ngày 8-12-1962 tại huyện Krông Păk, Đăklăk, do các đan sĩ đan viện Thiên An.
Bổn mạng: Lễ Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, 8-12.
Nhân sự: khấn trọng 6, khấn tạm 5, thỉnh sinh 8. Sau năm 1978, chính quyền địa phương thu hồi toàn bộ đất đai và cơ sở của đan viện, nên các đan sĩ tạm thời cư trú tại một họ lẻ của giáo phận Ban Mê Thuột. Năm 2000, chính quyền cấp đất lại và cho phép tái lập đan viện.
Địa chỉ:
Hộp thư 44 Krông Păk, Đăklăk.
Bề trên:
Đan sĩ Laurent Hoàng Thanh Trương.
Số linh mục: Phêrô Tuần Cao Kim Động, sinh 8-8-1943, lm 10-7-1985; Ephrem Phạm Huy Tụng, sinh 2-10-1941, lm 30-11-1995.
ĐAN VIỆN THIÊN BÌNH
Thành lập: ngày 11-6-1970.
Bổn mạng: Lễ Chúa Kitô Vua.
Nhân sự: khấn trọng 14, khấn tạm 29, tập sinh 10, thỉnh sinh 14.
Địa chỉ:
Hộp thư 2, Thiên Bình, Tam Phước,
Long Thành, Đồng Nai. Đt: 061 930470.
Email: Philippetuy@pmail.vnn.vn
Bề trên đương nhiệm: Louis Marie Trương Sinh, sinh 25-12-1939, lm 25-1-2000.
Số linh mục:
1. Jean Lê Chúng, sinh 19-12-1916, lm 22-5-1948.
2. Christophe Nguyễn Hữu Đức, sinh 4-9-1935, lm 5-6-1965.
3. Philippe Marie Vũ Ngọc Tuy, sinh 2-1-1953, lm 11-2-1993.
ĐAN VIỆN THIÊN PHƯỚC
Thành lập: ngày 13-5-1972.
Bổn mạng: Lễ Thánh Giuse (19-3).
Nhân sự: Khấn trọng 16, khấn tạm 25, tập sinh 4, thỉnh sinh 7.
* Địa chỉ:
294B, K.P 2, Tam Hải, Tam Bình, Thủ Đức, TP. HCM. Đt: 08 7294971
Email: bedthuyosbvn@hcm.fpt.vn
Bề trên đương nhiệm:
Đan phụ Beda Ngô Minh Thuý sinh 1932, lm 1965, Đan trưởng 1988.
Số linh mục:
1. Maurice Nguyễn Văn Binh, sinh 9-5-1917, lm 12-6-1954.
2. Arsène Nguyễn Thanh Long, sinh 26-2-1927, lm 28-5-1961.
3. Toma-Thiện Lê Thanh Các, sinh 15-9-1933, lm 21-12-1975.
4. Michel Phạm Văn Khoa, sinh 1-12-1963, lm 21-1-2000.
5. Phaolô Nguyễn Hữu Thanh, sinh 10-5-1962, lm 22-12-2000.
6. Gioakim Lê Văn Tấn, sinh 13-9-1962, lm 2002
DÒNG CHÚA CỨU THẾ (C.SS.R.: CONGREGATIO SANCTISSIMI REDEMPTORIS - CONGREGATIO OF THE MOST HOLY REDEEMER)
Lược sử: Ngày 9-11-1732, tại Scala, Thánh Alphonso Maria Ligori đã cùng với các bạn thành lập dòng “Chúa Cứu Chuộc”, về sau (1749) lấy danh hiệu là dòng “Chúa Cứu Thế” chuyên lo rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Bổn mạng: Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, 8-12.
Châm ngôn: “Ơn Cứu Chuộc nơi Người chan chứa”.
Mục đích, tôn chỉ: Tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế noi gương Chúa Giêsu Cứu Thế, rao giảng Lời Chúa cho người nghèo khó như chính Lời Ngài đã tuyên bố: “Người đã sai tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,8).
Hoạt động:
- Truyền giáo.
- Giảng tĩnh tâm.
- Mục vụ giáo xứ.
- Truyền thông lòng sùng kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.
- Truyền thông xã hội.
- Các lớp cầu nguyện.
- Mục vụ dành cho những người bị bỏ rơi: bệnh nhân phong, AIDS...
Cộng đoàn và cơ sở: Ở Việt Nam, có 15 cộng đoàn và 12 cơ sở.
Nhân sự: Ở Việt Nam, có 216 tu sĩ: khấn trọn 168, khấn tạm 48, tập sinh 12, dự tập 80. Tổng số tu sĩ trên toàn thế giới: 5.500.
Điều kiện tuyển chọn:
- Có lòng yêu mến người nghèo và lòng nhiệt thành thừa sai.
- Có sức khoẻ ổn định, tâm lý quân bình, đức tin và nhân bản trưởng thành.
- Có khả năng tiếp nhận sự đào tạo và phục vụ theo tinh thần dòng.
- Đã tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc đang học đại học, cao đẳng.
Địa chỉ Nhà Mẹ:
Via Merulana 31. CP 2458
Roma I-00100 Italy.
Đt: 00 390 649 490 600.
Email: ggcss@redemptor.com.br
Fax: 0039 064 466 012
Trụ sở Tỉnh Dòng Việt Nam:
38 Kỳ Đồng, P.9, Q.3, TP. HCM.
Đt: 08 8438559 - 9316322.
Fax: 84 08 8438559.
Email: dcctsg@hcm.vnn.vn
Bề trên tổng quyền: Cha W. Joseph Tobin, sinh 3-5-1952, khấn dòng 5-8-1973, lm 1-6-1978.
Bề trên tỉnh dòng (từ 2005): Lm. Giuse Cao Đình Trị, sinh 27-7-1938, lm 18-12-1965 .
Danh sách linh mục:
1. Giuse Phan Thiện Ân, sinh 1933, lm 1958; 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
2. Giuse Phạm Văn Bảo, sinh 1953, lm 1994; Tu viện Kỳ Đồng: 38 Kỳ Đồng, Q. 3, TP. HCM.
3. Giuse Đoàn Văn Bảo, sinh 1966, lm 2004; Xuân Lộc.
4. Giuse Nguyễn Ngọc Bích, sinh 1952, lm 1990; Tu viện Kỳ Đồng.
5. G.B. Nguyễn Thanh Bích, sinh 1954, lm 1997; Tu viện Kỳ Đồng.
6. P.X. Lê Thanh Châu, sinh 1938, lm 1963; NT Tân Hoà, 147 ấp Mỹ Thuận, Tân Hoà Bắc, Vĩnh Long.
7. Phaolô Nguyễn Văn Châu, sinh 1963, lm 2001, 134/13, Trần Phú, C.3, P.5, Vũng Tàu.
8. Marcô Bùi Duy Chiến, sinh 1965, lm 2002, Tu viện Kỳ Đồng.
9. Giuse Chu Đình Chuyển, sinh 1941, lm 1996; Tu viện DCCT Nha Trang, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
10. Phaolô Nguyễn Văn Công, sinh 1969, lm 2004; Nha Trang.
11. Inhaxiô Bùi Quang Diệm, sinh 1921, lm 1950; Tu viện Kỳ Đồng.
12. Phêrô Nguyễn Quang Diệp, sinh 1924, lm 1954; Tu viện DCCT Huế, 80 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
13. Rôcô Nguyễn Tự Do, sinh 1928, lm 1956; Tu viện Kỳ Đồng.
14. Anrê Nguyễn Ngọc Dũng, sinh 1964, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
15. Đa Minh Phan Văn Dũng, sinh 1968, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
16. Phaolô Trần Hữu Dũng, sinh 1954, lm 1994; Tu viện DCCT Huế.
17. Anrê Nguyễn Ngọc Dũng, sinh 1964, khấn trọn 1992, lm 25-9-2001.
18. Phêrô Nguyễn Quang Duy, sinh 1944, lm 1975; NT Cái Tắc, Thạnh Hưng, Đồng Tháp.
19. Giuse Trần Quang Đăng, sinh 1934, lm 1959; Tu viện Kỳ Đồng.
20. Giuse Phạm Kim Điệp, sinh 1946, lm 1975; NT Cần Thạnh, 183/2 ấp Phong Thạnh, TT Cần Giờ.
21. G.B. Nguyễn Bình Định, sinh 1969, lm 2004; Nha Trang.
22. Gioakim Nguyễn Định, sinh 1918, lm 1949; NT Phú Dòng, Định Quán, Đồng Nai.
23. G.B. Nguyễn Văn Đồng, sinh 1957, lm 2001, NT Cần Thạnh, 183/2 ấp Phong Thạnh, TT Cần Giờ.
24. Marcô Bùi Quang Đức, sinh 1966, lm 1999; 82/116 Lý Chính Thắng, P.8, Q.3, TP. HCM.
25. G.B. Nguyễn Minh Đức, sinh 1957, lm 1998; 8, tổ 1, thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng.
26. P.X. Hoàng Minh Đức, sinh 1965, lm 1999; Tu viện Kỳ Đồng.
27. Phaolô Bùi Thông Giao, sinh 1937, lm 1965; Tu viện Kỳ Đồng.
28. P.X. Trần Quang Hân, sinh 1958, lm 1997; Hoa Kỳ.
29. Micae Trương Văn Hành, sinh 1936, lm 1965; NT Lý Sơn, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi.
30. Phêrô Nguyễn Hữu Hạnh, sinh 1973, lm 2004; Tu viện Kỳ Đồng.
31. G.B. Trần Quang Hào, sinh 1948, lm 1994; Hoa Kỳ
32. Giuse Phạm Minh Hảo, sinh 1961, lm 1996; NT Châu Ổ, Bình Sơn, Quảng Ngãi.
33. Giacôbê Mai Văn Hiền, sinh 1953, lm 1999; Tu viện Kỳ Đồng.
34. Giuse Trịnh Ngọc Hiên, sinh 1947, lm 1994; Tu viện Thái Hà, 180/2 Nguyễn Lương Bằng, Q. Đống Đa, Hà Nội.
35. Giuse Nguyễn Thể Hiện, sinh 1970, lm 2000, Tu viện Kỳ Đồng.
36. Giuse Phan Đức Hiệp, sinh 1949, lm 1990; Tu viện Kỳ Đồng.
37. Giuse Trần Văn Hội, sinh 1948, lm 1990; NT Phú Lý, Vĩnh An, Đồng Nai.
38. Giêrađô Lê Văn Hoà, sinh 1948, lm 1993; 23 C1 Chu Mạnh Trinh, Làng Đại Học, Thủ Đức, TP. HCM.
39. P.X. Nguyễn Hữu Hoà, sinh 1952, lm 1994; NT Đồng Hoà, Long Hoà, Cần Giờ. TP. HCM.
40. G.B. Hoàng Thanh Huê, sinh 1936, lm 1968; NT Tin Mừng, Tân Thiện, Hàm Tân, Bình Thuận.
41. Tôma Trần Quốc Hùng, sinh 1947, lm 1976; NT Hàm Luông, Mỏ Cày, Bến Tre.
42. G.B. Nguyễn Thành Hưng, sinh 1968, lm 2002, Tu viện DCCT Nha Trang, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
43. Giuse Ngô Văn Kha, sinh 1958, lm 1998; 59 đường 1/5, thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng.
44. Luca Nguyễn Hữu Khanh, sinh 1965, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
45. Giuse Lê Chiếu Khắp, sinh 1946, lm 1997; Tu viện Kỳ Đồng.
46. Phêrô Đinh Ngọc Lâm, sinh 1961, lm 1996; Tu viện Kỳ Đồng.
47. G.B. Hồ Quang Lâm, sinh 1970, lm 2004; Buôn Ma Thuột.
48. Tôma Phạm Huy Lãm, sinh 1933, lm 1960; Tu viện Kỳ Đồng.
49. Phêrô Nguyễn Thanh Liêm, sinh 1945, lm 1975; NT Thanh Sơn, Mỏ Cày, Bến Tre.
50. Giuse Nguyễn Văn Lộc, sinh 1943, lm 1972; 146/16 Võ Thị Sáu, P.13, Q.3, TP. HCM.
51. Tôma Phạm Phú Lộc, sinh 1970, lm 2002, NT Cần Thạnh, TT Cần Giờ, TP. HCM.
52. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, sinh 1946, lm 1975; NT Phú Sơn, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng.
53. Giuse Nguyễn Bá Long, sinh 1958, lm 1997; Tu viện Kỳ Đồng.
54. Giuse Ngô Tấn Lực, sinh 1948, lm 2001, Tu viện Kỳ Đôàng.
55. Gioakim Nguyễn Đức Mầng, sinh 1950, lm 1993; tổ 17, khu 2, 63, đường 1/5, Bảo Lộc, Lâm Đồng.
56. Gioakim Nguyễn Quang Minh, sinh 1960, lm 1999; NT Phú Sơn, H. Lâm Hà, Lâm Đồng.
57. Antôn Phạm Văn Nam, sinh 1925, lm 1955; DCCT Nha Trang, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
58. Lêô Lê Trung Nghĩa, sinh 1927, lm 1954; Tu viện Kỳ Đồng.
59. G.B. Nguyễn Văn Phán, sinh 1936, lm 1963; 149 Trần Hưng Đạo, TT Ayunpa, Gia Lai.
60. Giuse Huỳnh Lê Pháp, sinh 1970, lm 2004, Nha Trang.
61. Giuse Ngô Văn Phiên, sinh 1950, lm 1994; Tu viện Kỳ Đồng.
62. Giuse Hoàng Phúc, sinh 1955, lm 1995, Tu viện Kỳ Đồng.
63. Antôn Trần Thế Phiệt, sinh 1947, lm 1975; NT Tùng Lâm, P.7, Đà Lạt.
64. G.B. Lê Đình Phương, sinh 1963, lm 1997; Tu viện Kỳ Đồng.
65. G.B. Nguyễn Minh Phương, sinh 1967, lm 2004; Xuân Lộc.
66. Giuse Lê Viết Phục, sinh 1928, lm 1955; 80 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
67. Matthêu Vũ Khởi Phụng, sinh 1940, lm 1970; Tu viện Kỳ Đồng.
68. Micae Nguyễn Hữu Phú, sinh 1929, lm 1956; 970D XVNT, P.28, Q. BT, TP. HCM.
69. Gioakim Hà Ngọc Phú, sinh 1973, lm 2004; Tu viện Kỳ Đồng.
70. Giuse Phạm Thanh Quang, sinh 1926, lm 1958; Tu viện Kỳ Đồng.
71. Phaolô Trần Văn Quang, sinh 1945, lm 1976; Tu viện Kỳ Đồng.
72. Giuse Trần Minh Quang, sinh 1958, lm 1996; NT. Phú Dòng, Định Quán, Đồng Nai.
73. Phêrô Phạm Thanh Quốc, sinh 1927, lm 1960; Tu viện Kỳ Đồng.
74. G.B. Nguyễn Minh Sang, sinh 1943, lm 1975; NT Cái Tàu Hạ, TT Cái Tàu Hạ, Đồng Tháp.
75. Giuse Phạm Cao Thanh Sơn, sinh 1965, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
76. Phêrô Nguyễn Thành Tâm, sinh 1940, lm 1970; Tu viện Kỳ Đồng.
77. Gioakim Hồ Quang Tâm, sinh 1950, lm 1994; 80 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
78. Giuse Hồ Đắc Tâm, sinh 1961, lm 2000; DCCT Nha Trang, 4 Tô Hiến Thành, Nha Trang.
79. Phaolô Nguyễn Văn Tâm, sinh 1971, lm 2004; Vinh.
80. Antôn Vương Đình Tài, sinh 1930, lm 1959; NT Thánh Tâm, 2 Quang Trung, Pleiku.
81. Phêrô Phạm Đức Thanh, sinh 1962, lm 2000; Tu viện Kỳ Đồng.
82. Giuse Trần Hữu Thanh, sinh 1915, lm 1942; NT Trần Nội, Hải Dương, Hải Hưng.
83. Antôn Lê Ngọc Thanh, sinh 1969, lm 2005; TV Kỳ Đồng.
84. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, sinh 1955, lm 1990; Tu viện DCCT Mai Thôn, 970D, XVNT, P.28, Bình Thạnh, TP. HCM.
85. Giuse Trần Ngọc Thao, sinh 1935, lm 1959; Tu viện Kỳ Đồng.
86. Phaolô Nguyễn Đình Thi, sinh 1972, lm 2004; Buôn Ma Thuột.
87. Phêrô Hoàng Văn Thiện, sinh 1931, lm 1957; 46/2bis Trần Xuân Soạn, ấp 5c, Nhà Bè, TP. HCM.
88. G.B. Nguyễn Thế Thiệp, sinh 1936, lm 1964; NT Châu Ổ, Bình Sơn, Quảng Ngãi.
89. Bart. Nguyễn Đức Thịnh, sinh 1959, lm 2001; Kontum.
90. Đa Minh Nguyễn Đức Thông, sinh 1957, lm 1993; Tu viện Kỳ Đồng.
91. Phaolô Nguyễn Thọ, sinh 1933, lm 1962; NT Châu Ổ, Bình Sơn, Quảng Ngãi.
92. Gioan Nguyễn Xuân Thu, NT Tùng Lâm, P.4, Đà Lạt.
93. Đa Minh Đỗ Văn Thừa, sinh 1918, lm 1949; Tu viện Kỳ Đồng.
94. Alp. Phạm Gia Thuỵ, sinh 1934, lm 1962; Tu viện Kỳ Đồng.
95. Stanislas Lê Vĩnh Thuỷ, sinh 1944, lm 1976, Tu viện DCCT Mai Thôn, 970D, XVNT, P.28, Bình Thạnh, TP. HCM.
96. Phaolô Đinh Khắc Tiệu, sinh 1926, lm 1956; Tu viện Kỳ Đồng.
97. Stêphanô Nguyễn Tín, sinh 1920, lm 1949; Tu viện Kỳ Đồng.
98. Giuse Trần Sỹ Tín, sinh 1941, lm 1972; Nhơn Hoà, Chư Sê, Gia Lai.
99. Antôn Phạm Văn Tịnh, sinh 1962, lm 1999; Tu viện Kỳ Đồng.
100. Anrê Đinh Duy Toàn, sinh 1950, lm 1995; NT Phù Mỹ, TT Phù Mỹ, Bình Định.
101. Giuse Cao Đình Trị, sinh 1938, lm 1960; Tu viện Kỳ Đồng.
102. Phêrô Đỗ Minh Trí, sinh 1961, lm 2002, NT Hữu Phước, Suối Nghệ, Châu Thành, Bà Rịa -Vũng Tàu.
103. G.B. Lê Minh Trí, sinh 1974, lm 2005; TV Kỳ Đồng.
104. Đa Minh Nguyễn Hữu Trung, sinh 1954, lm 1997; 3/4 ấp Long Toàn, Bà Rịa-Vũng Tàu.
105. Antôn Nguyễn Văn Trung, sinh 1926, lm 1958; ấp 1, xã Bình Đức, Bến Lức, Long An.
106. Giuse Lê Quang Tuấn, sinh 1963, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
107. Antôn Nguyễn Trần Tuấn, sinh 1966, lm 2002; 970D XVNT, P.28, Q. BT, TP. HCM.
108. Hilariô Nguyễn Gia Tước, sinh 1936, lm 1964; 292/11 Bà Hạt, P.9, Q.10, TP. HCM.
109. Antôn Trần Ứng Tường, sinh 1941, lm 1974; Tu viện Kỳ Đồng.
110. Giuse Lê Quang Uy, sinh 1959, lm 1998; Tu viện Kỳ Đồng.
111. Micae Ngô Đình Vãn, sinh 1952, lm 2000, 80 Nguyễn Huệ, TP. Huế.
112. Giuse Nguyễn Quốc Việt, sinh 1969, Tu viện Kỳ Đôàng.
113. Giuse Lưu Quang Bảo Vinh, sinh 1972, lm 2001, Tu viện Kỳ Đồng.
114. Giuse Nguyễn Trường Xuân, sinh 1953, lm 1995; Tu viện Kỳ Đồng.
DÒNG ĐA MINH (O.P.: ORDO PRAEDICATORUM - ORDER OF PREACHERS)
Lược sử: Dòng Đa Minh, danh xưng chính thức là dòng Anh Em Thuyết Giáo, do Thánh Đa Minh sáng lập năm 1216 tại Toulouse, Pháp. Dòng được Đức Giáo hoàng Honorius III châu phê ngày 21-1-1217, và được uỷ nhiệm trách vụ truyền giảng Lời Chúa, cung cấp cho các giám mục một đội ngũ các nhà giảng thuyết được đào tạo cẩn thận để hỗ trợ các ngài trong trách vụ lớn lao ấy. Dòng có trụ sở tại Roma. Bề trên tổng quyền của dòng hiện nay là lm. Timothy Radcliffe. Dòng có mặt tại 88 quốc gia trên thế giới với tổng số linh mục, tu sĩ khoảng 6.600 người.
Dòng Đa Minh đến Việt Nam từ thế kỷ XVI (1550). Từ năm 1756, dòng phụ trách miền truyền giáo Đa Minh, nay là 5 giáo phận: Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình và Lạng Sơn. Dòng đã có nhiều tu sĩ lấy máu đào tuyên xưng đức tin của mình. Trong số 117 Thánh Việt Nam, dòng Đa Minh có 38 vị, gồm 6 giám mục, 16 linh mục (11 người Việt Nam), 16 dòng Ba (3 linh mục, 6 thầy giảng, 7 giáo dân). Dòng đã đóng góp cho Giáo hội Việt Nam 2 giám mục: Đức cha Đa Minh Hoàng Văn Đoàn (giáo phận Bắc Ninh, Quy Nhơn) và Đức cha Giuse Trương Cao Đại (giáo phận Hải Phòng).
Năm 1967, tỉnh dòng Việt Nam được thành lập với tên gọi là Tỉnh Dòng Nữ Vương Các Thánh Việt Nam.
Bổn mạng: Lễ kính Thánh Tổ phụ, 8-8.
Châm ngôn: “Chiêm niệm và truyền thông chân lý” (Contemplata aliis tradere).
Tôn chỉ: Những yếu tố căn bản của đời tu Đa Minh là: sống cộng đoàn, tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, cử hành phụng vụ công cộng, chuyên cần học hỏi chân lý và thi hành tác vụ tông đồ.
Hoạt động chính: giảng dạy tại các chủng viện, học viện, giảng thuyết lưu động, điều hành giáo xứ.
Cơ sở: Tỉnh dòng Đa Minh Việt Nam hiện có:
4 tu viện:
- Tu viện Thánh Alberto cả (tu viện Ba Chuông): 190 Lê Văn Sỹ, Q. PN, TP. HCM, ĐT: (08) 8448206.
- Tu viện Mân Côi: 90 Nguyễn Thái Sơn, Q. Gò Vấp, TP. HCM, ĐT: (08) 8940477.
- Tu viện Mai Khôi: 44 Tú Xương, P.7, Q.3, TP. HCM. ĐT: (08) 9320360; (08) 9325738.
- Tu viện Thánh Martin: 1/4 KP. 10, Tân Biên, Biên Hoà, Đồng Nai. ĐT: (061) 881318; 885673.
2 tu xá:
- Tu xá Đa Minh: 16 Hà Huy Tập, Đà Lạt, Lâm Đồng, ĐT: (063) 832806.
- Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm: 116 P.Tam Phú, Thủ Đức, TP. HCM. ĐT: (08) 8961731.
10 giáo xứ:
- 5 ở TP. HCM, 3 ở Xuân Lộc, 1 ở Đà Lạt và 1 ở Phú Cường.
Nhân sự: khấn trọng 55, khấn tạm 75, tập sinh 21, dự tu 60.
Địa chỉ trụ sở Tỉnh Dòng:
43 Nguyễn Thông, P.7,Q.3, Tp.HCM.
Điện thoại: (08) 9321881
Bề trên giám tỉnh đương nhiệm: Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, sinh 1951, lm. 1991.
Danh sách linh mục (theo năm lm)
1. Đa Minh Hoàng Bình Thuận, sinh 1914, lm 1934; Tu viện Thánh Martin.
2. Giêrônimô Phạm Quang Tự, sinh 1917, lm 1944; Tu viện Thánh Martin.
3. Giuse Bùi Hiền Triết, sinh 1918, lm 1948; Tu viện Thánh Martin.
4. G.B. Nguyễn Văn Sâm, sinh 1920, lm 1948; Đt: 061 882804.
5. Phêrô Nguyễn Quang Hiến, sinh 1919, lm 1948; Đt: 08 8916729.
6. Gioakim Nguyễn Văn Liêm, sinh 1923, lm 1948; Tu viện Ba Chuông.
7. Antôn Nguyễn Đức Hiếu, sinh 1923, lm 1952; Nt Tân Hiệp, Long Thành, Đồng Nai. Đt: 061 841572.
8. Giuse Hoàng Kim Thao, sinh 1922, lm 1953; Nt Lạc Lâm, Đơn Dương, Lâm Đồng. Đt: 063 847213.
9. Vinh Sơn Bùi Đức Sinh, sinh 1926, lm 1953; Tu viện Ba Chuông.
10. Inhaxiô Nguyễn Ngọc Rao, sinh 1931, lm 1958; Tu viện Ba Chuông.
11. Đa Minh Nguyễn Văn Hộ, sinh 1932, lm 1961; Tu viện Thánh Martin.
12. Stanislaus Hoàng Đắc Ánh, sinh 1928, lm 1961; Tu viện Mai Khôi.
13. Anrê Đỗ Xuân Quế, sinh 1930, lm 1961; Tu viện Mai Khôi.
14. Giuse Đinh Châu Trân, sinh 1932, lm 1963, Tu viện Mai Khôi.
15. Tôma Thiện Trần Minh Cẩm, sinh 1933, lm 1964; Tu viện Mai Khôi.
16. Giuse Nguyễn Đức Hoà, sinh 1938, lm 1968; Tu viện Ba Chuông.
17. Tôma Trần Ngọc Tuý, sinh 1939, lm 1969; Tu viện Thánh Martin.
18. Đa Minh Nguyễn Văn Thái, sinh 1944, lm 1972; Tu xá Thánh Đa Minh.
19. Giuse Nguyễn Văn Luật, sinh 1945, lm 1972; Gx. Hoà Bình, Gò Vấp, TP. HCM. Đt: 08 8955730.
20. Raphael Nguyễn Văn Chúc, sinh 1945, lm 1972; Tu viện Thánh Martin.
21. Phêrô Trần Văn Huấn, sinh 1946, lm 1972; Nt Cao Xá, Châu Thành, Tây Ninh. Đt: 066 878188.
22. G.B. Nguyễn Đăng Trực, sinh 1947, lm 1973; Tu viện Mân Côi.
23. Gioakim Nguyễn Đức Văn, sinh 1920, lm 1974; Tu viện Thánh Martin.
24. Đa Minh Đinh Viết Tiên, sinh 1948, lm 1974; Gx. Ngọc Đồng, Tân Biên, Biên Hoà. Đt: 061 981226.
25. P.X. Nguyễn Đức Đạt, sinh 1949, lm 1975; Gx. Thánh Tâm, Hố Nai. Đt: 061 881354.
26. Luy Nguyễn Văn Hạnh, sinh 1949, lm 1975; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
27. Đa Minh Lê Thanh Liêm, sinh 1949, lm 1975; Tu viện Thánh Martin.
28. Giacôbê Phạm Văn Phượng, sinh 1949, lm 1975; Tu viện Ba Chuông.
29. Giuse Đỗ Ngọc Bảo, sinh 1950, lm 1975; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
30. Giuse Bùi Văn Viễn, sinh 1950, lm 1975; Nt Ngọc Đồng, Tân Biên, Biên Hoà. Đt: 061 981226.
31. Giuse Lưu Công Chỉnh, sinh 1951, lm 1978; Tu viện Ba Chuông.
32. Đa Minh Phạm Ngọc Điển, sinh 1948, lm 1988; Tu viện Thánh Martin.
33. G.B. Phạm Văn Mão, sinh 1952, lm. 1990; Tu viện Mai Khôi.
34. Antôn Trần Thanh Long, sinh 1954, lm. 1990; Tu viện Mai Khôi.
35. Giuse Nguyễn Cao Luật, sinh 1951, lm 1991; Tu viện Ba Chuông.
36. Giuse Phạm Quang Sáng, sinh 1953, lm 1991; Tu viện Mân Côi.
37. Giuse Phạm Hưng Thịnh, sinh 1951, lm 1993; Tu viện Ba Chuông.
38. Giuse Đinh Văn Vũ, sinh 1949, lm 1993; Tu viện Mai Khôi.
39. Giuse Đặng Chí San, sinh 1952, lm 1993; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
40. Phêrô Nguyễn Bá Ân, sinh 1952, lm 1993; Tu viện Mân Côi.
41. Giuse Nguyễn Trọng Viễn, sinh 1955, lm 1994; Tu viện Mân Côi.
42. Giuse Đỗ Văn Chung, sinh 1955, lm 1995; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
43. Đa Minh Nguyễn Đức Bình, sinh 1957, lm 1995; Tu viện Mân Côi.
44. Antôn Phan Tự Cường, sinh 1950, lm 1995; Tu viện Thánh Martin.
45. Đa Minh Nguyễn Ngọc An, sinh 1954, lm 1995; Gx. Tân Hiệp, Long Khánh, Đồng Nai. Đt: 061 841572.
46. Đa Minh Nguyễn Thế Hiệt, sinh 1958, lm 1995; Tu viện Thánh Martin.
47. P.X. Đào Trung Hiệu, sinh 1956, lm 1997; Gx. Minh Đức, Thủ Đức. TP. HCM. Đt: 08 8965152.
48. Giuse Nguyễn Tất Trung, sinh 1955, lm 1997; Tu viện Mân Côi.
49. Micae Nguyễn Văn Bắc, sinh 1956, lm 1998; Gx. Lạc Lâm, Đơn Dương, Lâm Đồng. Đt: 063 847213.
50. Giuse Lưu Ngọc Báu, sinh 1958, lm 1999; Tu xá Thánh Vinh Sơn Liêm.
51. Giuse Đặng Văn Tình, sinh 1962, lm 2000; Gx. Cao Xá, Tây Ninh, Đt: 066 878049
52. Anphongsô Vũ Đức Trung, sinh 1961, lm 2001; Tu viện Mân Côi.
53. G.B. Trần Quang Hiển, sinh 1964, lm 2001, Tu viện Mân Côi.
54. Giuse Nguyễn Đức Trung, sinh 1954, lm 2001, Tu viện Mai Khôi.
55. Phêrô Nguyễn Thế, sinh 1963, lm 2001, Tu viện Thánh Martin.
56. Vinh Sơn Phạm Đình Chiến, sinh 1972, lm 2001, Tu viện Mai Khôi.
57. Anbertô Nguyễn Lộc Thọ, sinh 1963, lm 2002, Tu viện Mai Khôi.
58. Phêrô Lâm Phước Hùng, sinh 1967, lm 2002, Tu viện Mân Côi.
DÒNG LA SAN (F.S.C.: FRATRES SCHOLARUM CHRISTIANARUM - BROTHERS OF THE CHRISTIAN SCHOOLS)
Lược sử: Dòng Anh Em Trường Kitô quen gọi là dòng Sư Huynh La San, được thành lập tại Reims (Pháp) vào năm 1680, do linh mục người Pháp tên là Jean Baptiste De La Salle.
Dòng đã tới Việt Nam từ năm 1866. Sau ít năm vắng mặt do chính sách chống các dòng tu của Đệ Tam Cộng hoà Pháp, dòng đã trở lại Sài Gòn năm 1890 và đã lãnh nhận trường Taberd, do cha Kerlan (MEP) lập ra. Từ đó, dòng đã phát triển và mở trường ở khắp Việt Nam cũng như ở Cambodia và Thái Lan.
Bổn mạng: Đấng sáng lập là cha Gioan La San, được tuyên thánh ngày 24-5-1900 và đã được tôn làm bổn mạng các nhà giáo dục Kitô ngày 15-5-1950. Lễ mừng mỗi năm ngày 15-5 trở thành Ngày Truyền thống La San ở Việt Nam. Lịch Phụng vụ của Giáo Hội kính ngày 7-4 hằng năm.
Châm ngôn: “SIGNUM FIDEI”: Dấu Chỉ Đức Tin.
Người tu sĩ La San để cho đức tin soi dẫn đời mình. Do đó, tinh thần của dòng là Tinh Thần Đức Tin. Trong đức tin, người tu sĩ La San chiêm ngưỡng ý định của Thiên Chúa muốn cứu rỗi các trẻ em, các thanh thiếu niên, đặc biệt những trẻ nghèo hoặc bị bỏ quên. Tinh thần đức tin nơi các sư huynh được triển nở thành Lòng Nhiệt Thành, cố gắng thực hiện ý định đó cùng với những ai được mời gọi theo cùng một sứ vụ.
Hoạt động: Hướng hoạt động chủ yếu của dòng thuộc phạm vi giáo dục nhân bản và Kitô, đặc biệt bằng trường học là phương tiện ưu chọn.
Trước 1975, tại miền Nam Việt Nam, anh em La San hoạt động trong các trường mang tên chung là trường La San, cùng những sinh hoạt bên ngoài học đường như các phong trào thiếu nhi, thanh thiếu niên: Hùng Tâm Dũng Chí, Hiệp Sĩ Chúa Hài Đồng, Thanh Sinh Công, hội Thánh Mẫu, hội Bác Ái Vinh Sơn...
Sau tháng 4-1975, tất cả các trường La San (23 trường lớn nhỏ, từ tiểu học tới đại học) được Nhà nước quản lý. Một vài Sư Huynh tiếp tục dạy trong các trường công lập cấp 3 và đại học, một số là giáo sư các Học viện Thần học, một số giảng dạy tại các trung tâm tin học, dạy nghề (sửa xe gắn máy, mộc) và thường xuyên tham gia huấn luyện giáo lý viên, linh hoạt viên tại các họ đạo...
Nhân sự: Số tu sĩ của tỉnh dòng La San Việt Nam hiện nay là 84, gồm 65 sư huynh khấn trọn và 19 khấn tạm, Tại TP. HCM, có 54 Sư Huynh (gồm 6 cộng đoàn). Còn lại rải rác vài cộng đoàn khác tại Đồng Nai, Nha Trang, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Huế...
Điều kiện tuyển chọn: Muốn gia nhập dòng, phải học hết trung học, và được các linh mục hoặc tu sĩ giới thiệu.
Bước đầu là nhập nhóm dự tu có thể có tại mỗi cộng đoàn La San. Tại đây, các em tìm hiểu ơn gọi, lo bồi bổ giáo dục nhân bản Kitô giáo, và nếu có khả năng, cố gắng lấy các bằng cấp cần thiết (sư phạm) cho việc dạy học sau này. Thời gian có thể kéo dài 3, 4 năm. Bước hai là được vào thỉnh viện và sống tại đây 1 năm hoặc hơn tuỳ trường hợp. Đây là thời gian củng cố việc giáo dục theo tinh thần Kitô giáo và ơn gọi La San. Bước ba là 1 năm tập viện, tập trung vào việc đặt nền móng cho đời thánh hiến La San.
Cuối tập viện, nếu mọi sự trôi chảy thì được phép khấn lần đầu và được gửi lên học viện. Trong thời gian 3-4 năm học tại học viện, người tu sĩ trẻ tiếp tục đào sâu đời thánh hiến, củng cố việc huấn luyện thiêng liêng, thần học, sư phạm và tông đồ, trước khi được gửi đến các cộng đoàn.
Địa chỉ Nhà Trung ương:
Via Aurelia, 476 - C.P.9099 (Aurelio) 00165 Rome - Italy.
Văn phòng tỉnh dòng:
53B Nguyễn Du - P. B.Nghé, Q.1, TP. HCM. Đt: 08 8299134.
Fax: 84 08 8299134.
Email: delasalle@hcm.vnn.vn
Bề trên đương nhiệm tại Việt Nam: Sư huynh Giám tỉnh Grégoire Nguyễn Văn Tân, sinh 1945, khấn dòng 1966.
DÒNG PHANXICÔ (OFM: ORDO FRATRUM MINORUM - ORDER OF FRIARS MINOR)
Lược sử: Dòng Phanxicô danh xưng chính thức là dòng Anh Em Hèn Mọn hay còn gọi là dòng Anh Em Phan Sinh do Thánh Phanxicô Assisi (1181-1226) khởi xướng khoảng năm 1209 tại thành phố Assisi, nước Ý. Lý tưởng sống của Thánh Phanxicô là noi gương Đức Giêsu: sống khó nghèo, khiêm hạ, yêu thương phục vụ mọi người, đặc biệt những người nghèo khổ, yêu quý thiên nhiên.
Dòng Phan Sinh Việt Nam được các cha Phan Sinh người Pháp, thuộc tỉnh dòng Thánh Phêrô (cũng gọi tỉnh dòng Paris), đến thành lập năm 1929. Người đứng đầu trong các vị lập dòng tiên khởi ở Việt Nam là cha già Maurice Bertin (1870-1968). Năm 1931, cha Maurice Bertin đã xây dựng tu viện Phan Sinh đầu tiên tại Vinh, miền Trung Việt Nam. Năm 1954, sau hiệp định Genève, dòng Phan Sinh tiếp tục hiện diện ở miền Nam cho đến nay. Năm 1969, dòng Phan Sinh Việt Nam trở thành hạt dòng độc lập, không còn là một chi tỉnh, phụ thuộc tỉnh dòng Paris như trước kia.
Năm 1984, hạt dòng Phan Sinh Việt Nam được nâng lên thành tỉnh dòng.
Đại gia đình Phan Sinh gồm có:
- Dòng Nhất: dành cho nam tu sĩ, gọi là dòng Anh Em Hèn Mọn.
- Dòng Nhì: dành cho nữ chiêm niệm, gọi là dòng Chị Em Thanh Bần (dòng Clara).
- Dòng Ba: gồm các tu sĩ dòng ba Tại Viện và anh chị em dòng ba Phan Sinh Tại Thế. Ở Việt Nam, hiện có dòng nữ Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ và nhiều huynh đoàn Phan Sinh Tại Thế.
Bổn mạng: lễ Thánh Phanxicô Assisi, 4-10.
Hoạt động: Tham gia phục vụ Giáo Hội và xã hội trong mọi lĩnh vực: mục vụ giáo xứ, tông đồ xã hội, giáo dục, chăm lo người phung, các bệnh nhân, đồng bào dân tộc và ưu tiên chọn lựa người nghèo.
Số cộng đoàn và nhân sự: Hiện nay, tỉnh dòng Phan Sinh Việt Nam có tất cả 17 cộng đoàn lớn, nhỏ tập trung tại các vùng Nha Trang, Đà Lạt, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, An Giang.. với tổng số 172 tu sĩ: khấn trọn 103 (trong đó có 64 linh mục), khấn tạm 55, tập sinh 12, hiến sĩ 2.
Điều kiện tuyển chọn:
- Tốt nghiệp phổ thông trung học, tuổi từ 18 đến 21, sức khoẻ bình thường, tâm sinh lý ổn định, ước muốn sống ơn gọi Phan Sinh theo lý tưởng khó nghèo, khiêm hạ, phục vụ tha nhân.
Trụ sở chính:
Tu viện Phanxicô Đa Kao,
số 3 Mai Thị Lựu, phường Đa Kao,
Q. 1, TP. HCM. Đt: 08 8222294.
Fax: 84 08 8228087
Email: phi_kv@yahoo.com
tutin@hcmc.netnam.vn
Bề trên giám tỉnh đương nhiệm: Tu sĩ Phi Khanh Vương Đình Khởi, sinh 1939, khấn trọn 1965, lm. 1969.
Danh sách linh mục dòng:
Cộng đoàn Đakao: 3 Mai Thị Lựu, P. Đakao, Q.1, TP. HCM.
1. Phi Khanh Vương Đình Khởi, sinh 1939, lm 1969.
2. Phanxicô Xaviê Vũ Phan Long, sinh 1951, lm 1977.
3. Anphong Nguyễn Công Minh, sinh 1951, lm 1992.
4. Augustin Nguyễn Trinh Phượng, sinh 1915, lm 1949.
5. Gioan Maria Trần Văn Phán, sinh 1919, lm 1949.
6. Pascal Nguyễn Ngọc Tỉnh, sinh 1936, lm 1966.
7. Savio Nguyễn Chí Chức, sinh 1937, lm 1967.
8. Irênê Nguyễn Thanh Minh, sinh 1945, lm 1971.
9. Camilô Trần Văn Phúc, sinh 1945, lm 1971.
10. Giuse Nguyễn Xuân Thảo, sinh 1947, lm 1975.
11. Phêrô Tự Nguyễn Tín, sinh 1948, lm 1975.
12. Đa Minh Nguyễn Ngọc Hiếu, sinh 1949, lm 1990.
13. Giuse Phạm Văn Bình, sinh 1957, lm 1996.
14. Ignatiô Nguyễn Duy Lãm, sinh 1957, lm 1997.
15. Giuse Nguyễn Tiến Dũng, sinh 1959, lm 1999.
Cộng đoàn Thủ Đức: 2/27 ấp Phong Phú, Tăng Nhơn Phú B, Q.9, TP. HCM. Đt: 8960017
1. Bosco Nguyễn Văn Đình, sinh 1937, lm 1967.
2. Ignatiô Ngô Đình Phán, sinh 1935, lm 1971.
3. Maria Antôn Trần Phổ, sinh 1918, lm 1957.
4. Daniel Nguyễn Thăng Cao, sinh 1927, lm 1957.
5. André Trần Hữu Phương, sinh 1936, lm 1964.
6. Guy-Marie Nguyễn Hồng Giáo, sinh 1937, lm 1968.
7. Phaolô Nguyễn Đình Vịnh, sinh 1952, lm 1992.
8. Phêrô Nguyễn Văn Khoan, sinh 1951, lm 1994.
9.Phêrô Khoa Ngô Công Tân, sinh 1948, lm 1990.
10. Anselmô Nguyễn Hải Minh, sinh 1965, lm 2002.
Cộng đoàn Cầu Ông Lãnh: 18 Phan Văn Trường, Q.1, TP. HCM. Đt: 8299810.
1. Clêmentê Trần Thế Minh, sinh 1928, lm 1957.
2. Biển Đức Trần Minh Phương, sinh 1918, lm 1948.
3. Giacôbê Huỳnh Liên Ban, sinh 1941, lm1971.
4. Luy Nguyễn Kim Hoàng, sinh 1957, lm 2000.
Cộng đoàn Xuân Sơn: huyện Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đt: 064 881251
1. Giuse Nguyễn Văn Huân, sinh 1955, lm 1992.
2. G.B. Nguyễn Gia Thịnh, sinh 1946, lm 1973.
3. Antôn Vũ Hữu Lệ, sinh 1959, lm 2000.
Cộng đoàn Bình Giả: xã Bình Giả, huyện Châu Đức, Bà Rịa - Vũng Tàu. ĐT: 064 882846
1. Phêrô Đậu Văn Minh, sinh 1950, lm 1977.
2. Giuse Chu Quang Vượng, sinh 1961, lm 2001.
Cộng đoàn Xuyên Mộc: ấp Nhân Đức, Xuyên Mộc, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đt: 064 875008
1. Giuse Lê Thanh, sinh 1946, lm 1974.
2. Antôn Phan Vũ, sinh 1963, lm 2001.
Điểm Hoà Hội: xã Hoà Hội, Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu. Đt: 064 875008.
1. Giuse Trần Trung Phụng, sinh 1957, lm 2001.
Cộng đoàn Sông Bé: xã Trừ Văn Thố, huyện Bến Cát, Bình Dương. Đt: 0650 552117.
1. Giuse Đinh Quốc Trụ, sinh 1962, lm 2001.
Cộng đoàn Cù Lao Giêng: xã Tấn Mỹ, Chợ Mới, An Giang. ĐT: 076 880009
1. Antôn Nguyễn Văn Chúc, sinh 1947, lm 1975.
2. Bonaventura Trần Văn Mân, sinh 1916, lm 1945.
3. Gioan Hoàng Gia Bình, sinh 1945, lm 1977.
Điểm Cồn Én: xã Tấn Mỹ, Chợ Mới, An Giang. Đt: 067 833733.
1. Nicôla Vũ Ngọc Hải, sinh 1953, lm 1992.
Cộng đoàn Du Sinh: 16 Huyền Trân Công Chúa, Đà Lạt. Đt: 063 823664.
1. Gioan TC Nguyễn Phước, sinh 1953, lm 1990.
2. Phaolô Nguyễn Văn Hồ, sinh 1925, lm 1953.
3. Phaolô Đinh Huỳnh Hoa, sinh 1948, lm 1977.
4. Antôn Nguyễn Ngọc Kính, sinh 1956, lm 1995.
Cộng đoàn Vĩnh Phước: NT Antôn, Vĩnh Phước, Nha Trang. Đt: 058 831112.
1. Giuse Nguyễn Xuân Quý, sinh 1945, lm 1971.
2. Giuse Đặng Minh Tuấn, sinh 1958, lm 1996.
3. Đa Minh Ngô Đức Thiện, sinh 1960, lm 2001.
Cộng đoàn Đất Sét: xã Diên Xuân, Diên Khánh, Khánh Hoà. Đt: 058 767314.
1. Gioakim Nguyễn Văn Có, sinh 1944, lm 1975.
2. Phanxicô Xaviê Lê Khắc Lâm, sinh 1965, lm 2001.
Cộng đoàn Đồng Dài: Diên Lâm, Diên Khánh, Khánh Hoà. Đt: 058 785005.
1. Giuse Cupertinô Nguyễn Đình Ngọc, sinh 1946, lm 1974.
2. G.B. Nguyễn Kỳ, sinh 1952, lm 1995.
Cộng đoàn Cư Thịnh: Suối Hiệp, Diên Khánh, Khánh Hoà. Đt: 058 745289 - 740091.
1. Carôlô Phan Châu Lý, sinh 1942, lm 1970.
2. Phêrô Nguyễn Quế, sinh 15-6-1957, lm 9-5-1996.
Điểm Ngọc Thanh: 230 đường 2/4 Vĩnh Phước, Nha Trang. Đt: 058 822549
1. Phêrô Bapt. Đỗ Long Bộ, sinh 1921, lm 1950.
2. Matthêô Nguyễn vinh Phúc, sinh 1935, lm 1965.
Điểm Thanh Hải: 42 Củ Chi, Vĩnh Hải, Nha Trang. Đt: 058 832949
1. Đamianô Đoàn Văn Lữ, sinh 1943, lm 1967.
2. Norbertô Nguyễn Văn Khanh, sinh 1941, lm 1970.
3. Alexis Trần Đức Hải, sinh 1948, lm 1975.
Roma
1. Ambrôxiô Nguyễn Văn Sĩ, sinh 1943, lm 1973.