kết quả từ 1 tới 14 trên 14

Ðề tài: Đạo - Con đường tu hành

  1. #1

    Mặc định Đạo - Con đường tu hành

    Kinh sách Đức Phật và các vị Đạo sư đã chỉ rất rõ, thế nhưng Nhiều người vẫn mải miết đi tìm ĐẠO - con đường dẫn đến sự giải thoát , con đường chấm dứt mọi khổ đau, mà không thực sự đi, vẫn chỉ loanh quanh đi tìm, để rồi thời gian trôi đi trong òng luẩn quẩn mơ hồ. Nay Viên Mộc viết một bài, biết đâu đúng lúc, đúng thời đánh trúng chỗ vô minh của những con người đang dò đường, tìm đường trong đêm tối.
    Đối tượng của bài viết, là những hành giả tìm đường, không rõ đường đi, nhưng phải có 1 điều kiện cần đó là:
    1.[KHỔ]
    Phải nhận thấy tất cả các pháp đều vô thường, đều đem đến cái KHỔ, và khởi tâm tu hành để chấm dứt KHỔ. Còn những người thấy cuộc sống sống này đầy niềm vui, không nhận thức khổ, đến với Đạo Phật vì muốn được thế này, thế nọ thì không phải đối tượng của bài viết này.
    2. [NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ]
    Nguyên nhân của mọi khổ là sự dính chấp, là những quan điểm sai lầm, là sự nhận thức sai lệch về cái gì là ta, hay cái gì đó là của ta. Vì dính chấp, tham ái, sân hận mà khổ đau phát sinh:
    + Ví dụ vì yêu người nào đó,mà người ta không yêu, đi lấy người khác, nên tâm đau khổ.
    + Vì muốn đạt thứ gì đó, hoặc đinh ninh thứ gì đó là của mình, phải thuộc về mình... Nên sinh đau khổ.
    .......
    3.[SỰ DIỆT KHỔ]
    Khi nhận thức được khổ, và hiểu rõ nguyên nhân phát sinh khổ, thì ta có thể tư duy ra được cách để chấm dứt khổ đó là : "BUÔNG BỎ, KHÔNG DÍNH MẮC VIỆC GÌ TRÊN ĐỜI" Bởi vì sao? Vì chỉ cần dính mắc vài cái gì đó, nhưng vì cái đó là vô thường, sẽ hoại diệt nên ta không được như ý, sẽ bị KHỔ.

    4.[ĐẠO - CON ĐƯỜNG DẪN ĐẾN SỰ DIỆT KHỔ]
    Nói buông bỏ được hết, khiong dính mắc việc gì trên đời là sẽ hết khổ. Nhưng mấy ai làm được? Do sự bám chấp của chúng ta chặt hơn cả bê tông cốt thép, thế nên cần có những pháp chúng ta có thể mượn để dùng, dẫn đến sự buông bỏ. Pháp thì vô vàn, nhưng không loại trừ các yếu tố sau:
    - CHÁNH TRÍ: Chúng ta lúc nào cũng phải sáng suốt biết mình đang làm gì, tu theo các pháp chúng ta cũng phải hiểu rõ ràng tại sao phải làm như thế, trí tuệ sáng tỏ làm kim chỉ nam để khiong đi lệch đường.
    - CHÁNH ĐỊNH: Làm bất cứ việc gì cũng hãy để tâm tĩnh lặng mới có thể soi xét tường tận vấn đề. + Để giải một bài toán, đầu tiên ta cần đọc kỹ đề rồi cần bình tâm suy xét xem nó thuộc thể loại nào, dùng phương pháp nào để giải, không bình tâm mà xem xét mà nhảy ngay vào giải đề thậm chí giải sai đề.
    + Để tâm định, ban đầu ta có thể dùng các pháp CHUYÊN CHÚ: chuyên chú vào hơi thở, chuyên chú vào bước chân, chuyên chú vài bước chân hay chuyên chú vào việc mình đang làm, bởi vì khi ta thực sự chuyên chú ta sẽ quên hết những việc khác lôi cuốn.
    Ví như ý người đang đi trên vách đá treo leo, sẩy chân một cái là đối mặt với cái chết, lúc đó người ta sẽ thực sự chuyên chú, các vọng tưởng khác về ham muốn, về phú quý, quyền lức sẽ không có chỗ khởi sinh.
    Về sau các pháp này cũng cần buông bỏ vì nó chỉ là pháp ban đầu giải quyết các vọng niệm thô.
    Mà nó phải được hình thành nhờ trí tuệ thấu suốt bản chất của sự việc và việc thực hiện GIỚI HẠNH.
    Các yếu tố sẽ bổ trợ cho nhau. Khi các bám chấp được tận diệt nhờ sự hiểu thấu bản chất của sự việc, các tâm rối loạn sẽ không sinh khởi, ĐỊNH TÂM SẼ VỮNG.
    - CHÁNH NIỆM: Để tỉnh giác, như thật nhận biết khi nào các tâm bám chấp, sân hận sinh khởi. Để đưa nó vào 3 cái sọt: NHƯ THẾ LÀ KHỔ, NÓ LÀ VÔ THƯỜNG, NÓ KHÔNG PHẢI LÀ TA... nếu không đủ chánh niệm tỉnh giác, khi các tâm bán chấp, sân hận, vọng niệm này khởi lên ta không nhìn rõ được tiến trình của nó để chặn lại, ban đầu là các đối tượng của giác quan thâm nhập (SẮC), ta không đủ tỉnh táo để nhận biết nó (TƯỞNG), nhận biết sai lầm, dẫn đến gán cho bó các giá trị sai lệch [THỨC] Và ngay sau đó các cảm THỌ sân giận, si mê nổi lên, đưa ta đến các suy nghĩ (HÀNH) và các hành động, sai lầm, và nó cứ lôi ta đi, lôi ta đi.... Mãi trong vòng sinh diệt.

    Đạo, diễn giải ra thì nhiều nhưng đâu có gì khác ngoài những cái đó: NHẬN THỨC KHỔ, VÀ BUÔNG BỎ MỌI SỰ DÍNH MẮC KHỔ , Nó là con đường như thật đưa đến HẾT KHỔ. Đâu cần tìm ở đâu xa.
    Last edited by Viên Mộc; 12-12-2020 at 11:00 AM.

  2. #2

    Mặc định TỨ NIỆM XỨ - 7 GIÁC CHI MỘT CÁCH NHÌN - CÁCH THỨC TU TẬP

    - Không biết các bạn hành thiền như thế nào? Có chú tâm vào 1 điểm : chóp mũi, đan điền...
    Các bạn biết là tu tập là tỉnh giác, lúc nào cũng BIẾT, Nhưng cái biết đó như thế nào? Có phải mình làm cái gì biết cái đó, quét nhà biết quét nhà, nhặt rau biết nhặt rau?..... Vậy thì các bạn chịu khó đọc bài viết này, khéo tác ý, bạn sẽ có một cách nhìn khác về cách nhìn vấn đề, cách tu tập.
    - Đầu tiên nói về việc tọa thiền, nếu như bạn đang hành thiền theo dõi hơi thở bằng cách:
    1. Chú tâm vào 1 điểm hơi thở đi qua, và quán sát nó, và nó cuốn ra cuốn vào rồi dần dần mỏng?
    2. Hoặc bạn tác ý từng HÀNH của hơi thở, rồi nhắc nhở bằng Ý?
    Làm như vậy bạn sẽ mắc phải một số trường hợp sau:
    - Bạn cố chú tâm, không cho mất 2 hơi thở nào để gắng tỉnh giác khỏi hôn trầm, nhưng khi hơi thở nó mỏng manh, hoặc do có niệm khác chen vào làm ta bị phân tâm, dẫn đến thất niệm, sau khi lấy lại quyền kiểm soát niệm bạn sẽ tự hỏi:
    Có phải mình vừa bị hôn trầm không?
    Có phải ta vừa đánh mất hơi thở, thực hành sai pháp?
    Lúc đó NGHI sẽ sanh khởi, NGHI sanh khởi làm bạn quán hơi thở không được thanh nhẹ nữa mà nó thô hơn trước do TRẠO HỐI sanh khởi.
    3/5 triền cái sanh khởi khiến cho việc tu hành không được tinh tấn, bị dậm chân tại chỗ.
    Vậy phải hành thế nào cho đúng? Đó là hiểu đúng về TỨ NIỆM XỨ, và HÀNH ĐÚNG TỨ NIỆM XỨ.

    TỨ NIỆM XỨ - là 4 nơi mà niệm hướng về, chỉ cần hiểu như thế, làm đúng như thế là chúng ta đã hành đúng giáo pháp.
    Cụ thể, khi bạn thực hiện GIỚI luật đầy đủ, sau khi thọ thực, bạn đến dưới 1 gốc cây, căn nhà hoang hay bãi tha ma.. Đùa thôi, b tìm một chỗ yên tĩnh, ngồi xuống và hành thiền ngồi.
    Chân xếp kiết già thì tốt, bán già cũng ok và bắt đầu thở ra, thở vào.
    Ban đầu bạn hãy đặt niệm của mình lên hơi thở và tập nhận biết nó, khi nào hít biết mình hít, khi nào thở, biết mình thở giống như khi đang lạnh ngồi bên đống lửa, mình biết mình ấm nóng, hay uống nước đá ta biết mình mát.
    Cái BIẾT ấy chỉ đơn giản như thế, đừng đặt nặng, tác ý gì trên cái BIẾT này cả.
    Sau đó hãy để cái biết quét qua toàn thân, từ đỉnh đầu đến tay chân.... Mình BIẾT các bộ phận đang ở trạng thái như thế nào.
    Trong quá trình đó, các NIỆM khác sanh khởi chen ngang qua, khi đó ta cần đọc kỹ kinh TỨ NIỆM XỨ để xem niệm này đang HÀNH là THÂN HÀNH NIỆM, THỌ HÀNH NIỆM, TÂM HÀNH NIỆM hay PHÁP HÀNH NIỆM và các chi tiết của nó
    Và quá trình ngồi thiền, hành thiền, làm việc, ta đều nhận biết các Niệm HÀNH như thế nào, bằng cách đó 7 giâc chi được khởi phát, được nhận biết, lâu dần được sung mãn, sẽ đánh tan 5 triền cái đánh bay vô minh.
    Khi hiểu rõ về pháp như thế, ta sẽ loại bỏ được những cách hiểu sai về pháp hành ví dụ như đi quét nhà biết ta đi quét nhà, đi kinh hành đến đoạn
    cuối đường cần quay lại, ta biết ta đi kinh hành đến cuối đường cần quay lại... là chưa thực sự BIẾT đúng, Vì hành động quét nhà nó bao gồm NGƯỜI QUÉT, CÔNG CỤ QUÉT(CHỔI), ĐỐI TƯỢNG QUÉT(LÁ, BỤI) và địa điểm quét HIÊN NHÀ... Nó không nằm trên THÂN KHÔNG PHẢI THÂN HÀNH NIỆM, không phải các cảm thọ, đối tượng của tâm hay pháp hành nên cũng không phải các HÀNH NIỆM còn lại.
    Phải BIẾT đúng như sau: TAY TA ĐANG ĐƯA RA, TAY TA ĐANG ĐƯA VÀO, ĐẦU GỐI ĐANG MỎI, TÂM ĐANG PHÓNG DẬT....

    Đó mới thực sự hành đúng TỨ NIỆM XỨ.

  3. #3

    Mặc định SƠ THIỀN

    [KINH SA MÔN QUẢ] Đức Phật đã chỉ rõ con đường dẫn vào SƠ THIỀN, Các yếu tố cần thiết để vào sơ thiền, đặc tính của sơ thiền, và sự vượt lên trên sơ thiền như sau:
    - Tỷ kheo thực hiện giới hạnh đầy đủ,bởi vì sao? Vì giới hạnh chưa được đầy đủ, là ta đang bón thức ăn cho 5 triền cái (ÁI, SÂN, HÔN TRẦM, TRẠO HỐI, NGHI), Mà 5 triền cái ấy là màng che (Vô Minh) ngăn trở ta với ánh sáng Trí huệ (MINH).
    Người bị vô minh che mờ, BỊ 5 TRIỀN CÁI CHE MỜ giống như người bị giam trong ngục tối, không biết sự phá triển văn minh bên ngoài, như người nô lệ, cố gắng phấn đấu nhiều mà không được hưởng thành quả nợ nần bám víu, lúc nào cũng lo trên lo dưới, đau khổ không thoải mái.
    - Người tu hành, Biết đươc giáo pháp (NIỆM GIÁC CHI), Hiêu thấu giáo pháp, hết nghi ngờ(TRẠCH GIÁC CHI) thực hiện giới hạnh: Ly dục, ly ác pháp, ăn thức ăn "sạch", ăn ít, ngủ ít, nói ít [XẢ GIÁC CHI]... Hôn trầm, tham ái giảm dần... Lại siêng năng tu tập (TINH TẤN GIÁC CHI), đoạn trừ đi 5 triền cái ấy.
    - Do 5 triền cái được đoạn trừ, giống như người bị nhốt trong ngục tối một ngày được thả ra ngoài sáng, lại như kẻ nợ nần tù túng, một ngày làm ăn khá giả, trả hết nợ nần.... tâm cảm thọ hân hoan (hỷ sanh), do TÂM HOAN HỶ THÂN ĐƯỢC KHINH AN, thân khinh an [KHINH AN GIÁC CHI] nên LẠC THỌ sanh, do lạc thọ, TÂM ĐƯỢC ĐỊNH TĨNH (ĐỊNH GIÁC CHI)... (7/7 giác chi xuất hiện)

    Như vậy thực hiện hành pháp Tứ NIỆM XỨ (gồm TẦM- Sự nhận biết đối tượng của TỨ NIỆM XỨ), Và TỨ- Sự thấu hiểu (BIẾT) Đối tượng đó ở đâu trong 4 xứ: THÂN HÀNH NIỆM, THỌ HÀNH NIỆM, TÂM HÀNH NIỆM, PHÁP HÀNH NIỆM và chi tiết của nó), giúp 5 triền cái (ÁI, SÂN, HÔN TRẦM, TRẠO HỐI, NGHI) Được trừ diệt, các giác chi (7/7)được tu tập nhuần nhuyễn. Khi đó sẽ có
    HỶ
    LẠC

    Và khi hành thiền tâm được chuyên nhất (không vọng động, không gián đoạn) [NHẤT TÂM] là hành giả tiến vào SƠ THIỀN.
    Last edited by Viên Mộc; 18-12-2020 at 08:41 AM.

  4. #4

    Mặc định HIỂU ĐÚNG HƠN NỮA VỀ CÁI BIẾT

    ( bài viết này Viên Mộc đã xóa vì nếu hiểu sai sẽ gây đau đầu- không tốt)
    Last edited by Viên Mộc; 18-12-2020 at 03:06 PM.

  5. #5
    Nhị Đẳng Avatar của smc
    Gia nhập
    May 2012
    Nơi cư ngụ
    Tân Phú - Tp.Hồ Chí Minh
    Bài gởi
    2,229

    Mặc định

    Đọc chia sẻ của đạo hữu @Viên Mộc một hồi nó "rối nùi như cái cục bùi nhùi chùi nồi" ấy nhỉ?!? Một niệm khởi lên còn phải xem NIỆM NÀY LÀ HÀNH GÌ ??? (Niệm này là hành gì... là cái gì trời ), rồi còn lại có thêm thân hành niệm, thọ hành niệm, tâm hành niệm, pháp hành niệm (#2)... Hic!!! Toàn những kiến thức mới mà SMC chưa từng nghe bao giờ. Vì đó giờ toàn nghe 3 hành: Thân hành, Khẩu hành, Ý (tâm) hành!

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi smc Xem Bài Gởi
    Đọc chia sẻ của đạo hữu @Viên Mộc một hồi nó "rối nùi như cái cục bùi nhùi chùi nồi" ấy nhỉ?!? Một niệm khởi lên còn phải xem NIỆM NÀY LÀ HÀNH GÌ ??? (Niệm này là hành gì... là cái gì trời ), rồi còn lại có thêm thân hành niệm, thọ hành niệm, tâm hành niệm, pháp hành niệm (#2)... Hic!!! Toàn những kiến thức mới mà SMC chưa từng nghe bao giờ. Vì đó giờ toàn nghe 3 hành: Thân hành, Khẩu hành, Ý (tâm) hành!
    .
    Hãy bỏ qua những cái nhận BIẾT của đạo hữu (THỨC) đang có về các DANH/KHÁI NIỆM mà đạo hữu vẫn hiểu nó là như thể, tạm gác nó qua một bên và khéo tác ý. Viên Mộc sẽ giải thích cho đạo hữu rõ.
    1) Hành: là cách thức vận hành của một đối tượng. Thân Hành: Các hành động của thân (4 thế lớn đi đứng ngồi nằm). THÂN HÀNH NIỆM, NIỆM (BIẾT) đặt trên các thế HÀNH Của THÂN ( KINH THÂN HÀNH NIỆM, là từ sẵn có không phải VIÊN MỘC tự đặt tên, nó là bản kinh khác không phải kinh TỨ NIỆM XỨ nhưng nội dung nó nằm trong kinh TỨ NIỆM XỨ, mà người dịch dịch là "QUÁN THÂN" và các mục khác là "QUÁN TÂM", "QUÁN THỌ", "QUÁN PHÁP", Viên Mộc thấy cách dịch này không hợp lắm nên dùng các từ " THÂN HÀNH NIỆM, TÂM HÀNH NIỆM, PHÁP HÀNH NIỆM, THỌ HÀNH NIỆM ".
    Thọ có các đặc tính: (Hành). Khổ, lạc... NIỆM Đi nhận biết nó tức là BIẾT (TUỆ TRI) các cảm thọ này khởi lên nên gọi là THỌ HÀNH NIỆM nghe hợp lý hơn quán thọ.
    2.
    Một niệm khởi lên còn phải xem NIỆM NÀY LÀ HÀNH GÌ ???
    Hãy khéo tác ý đoạn này, đây là chỗ độc đáo của pháp thiền mà Viên Mộc đang trình bày , khác các pháp quán sổ tức khác.
    - Các pháp thiền Quán sổ tức khác mà Viên Mộc biết đều dẫn đến các triền cái được Sanh. Bao gồm:
    Nghi, từ Nghi dẫn đến Trạo HỐI.
    Bởi vì sao? Vì lúc thiền tới một mức độ vi tế, hành giả sẽ thấy MÌNH HÀNH CHƯA ĐƯỢC ĐÚNG PHÁP, khi đó hơi thở đang đều sẽ bị thay đổi theo tâm bị giao động của hành giả.

    Thực tế pháp thiền là để phát triển cái "GIÁC", làm cho sung mãn 7 GIÁC CHI, cái giác này không thể tác ý mà có, không phải chú tâm vào hơi thở mà có, mà nó phải là "Miên mật nhận biết (giác) các trạng thái của thân, tâm mà có".
    Pháp này làm được điều đó vì các lý do:
    - Thực hiện theo pháp Thiền này, hành giả chỉ như 1 người khác, quán sát, thân, tâm của 1 học giả đang tu hành khác, nên mọi sự sảy ra tự nhiên, không chịu sự tác ý của hành giả, hơi thở sẽ đều nhẹ, thân thể KHINH AN, sảng khoái, không hề gò bó, mà cái BIẾT luôn hiện hữu không mất đi.
    - Vì khi mà bị hôn trầm hành hành giả cũng TUỆ TRI" Tôi biết tâm tôi có hôn trầm", "ở đây có TÂM HÀNH NIỆM". Do đó không hề có chuyện khởi lên NGHI, HỐI.
    - Tất cả các niệm thiện, niệm ác, vọng niệm, chánh niệm... Khởi lên bình thường sẽ làm sao động tâm hành giả, sao động sự chú tâm của hành giả vào đối tượng thiền (hơi thở ). Nhưng với pháp này thì KHÔNG, bởi vì:
    - Đối tượng của việc Thiền, chỉ là cái BIẾT, cái nhận biết đặc tính, biết sự khởi phát, BIẾT trên nền tảng rất rộng: THÂN, TÂM, THỌ, PHÁP. Mà Tất cả các NIỆM thiện, ác đó đều có thể nhét vào 1 trong bốn cái sọt đó.
    - Quá trình đưa một đối tượng vào 1 cái sọt (nhận biết nó là cái HÀNH của cái nào) mất 1 chút thời gian, không giống như các pháp khác (đánh tan nó, gạt bỏ nó- Tác ý, ức chế), lượng thời gian này là cần thiết bởi vì:
    - Thời gian này hành giả vẫn có cái BIẾT.
    - Thời gian này hành giả sống trong Chánh TƯ DUY
    - Thời gian này cần để hành giả hiểu thấu triệt một vấn đề, đưa nó vào "KHỔ TẬP" và không để nó khởi lên nữa đối với các ác niệm khởi lên[KHỔ DIỆT], hay duy trì Niệm đó, vì niệm đó là chánh niệm, đưa đến giải thoát....
    Last edited by Viên Mộc; 18-12-2020 at 03:04 PM.

  7. #7

    Mặc định So sánh sự Ưu-Thắng --> Tối thắng của PHÁP HÀNH TỨ NIỆM XỨ VÀ PHÁP QUÁN HƠI THỞ

    Viên Mộc lấy ví dụ cụ thể pháp quán hơi thở mà Đức Phật dạy La-hầu-la để so sánh với pháp TỨ NIỆM XỨ.
    i. PHÁP QUÁN HƠI THỞ ĐỨC PHẬT DẠY LA- HẦU - LA(trong kinh ĐẠI GIÁO GIỚI LA HẦU LA).

    - Bối cảnh: Sau khi được Tôn giả Xá Lợi Phất khuyên nên đến gốc cây thực hành pháp Quán hơi thở, sẽ được lợi ích lớn, quả vị lớn, La Hầu La đã đến và hỏi Đức Phật: Pháp Quán niệm hơi thở : Hành như thế nào, được lợi ích lớn gì? quả vị lớn gì?. Đức Phật đã trả lời như sau:

    - Trước hết Đức Phật quán xét thấy La Hầu La còn nhỏ tuổi, tâm còn nhỏ nhen chưa quảng đại, Ham muốn (thần thông, chứng đắc" lợi ích lớn, quả vị lớn). Do đó trước khi Đức Phật trả lời vào câu hỏi, Đức Phật dạy La-Hầu-La về pháp tu tập tâm, học theo 5 GIỚI (ĐẤT -NƯỚC - GIÓ - LỬA -KHÔNG) và phápTỨ VÔ LƯỢNG TÂM: TỪ -BI-HỶ-XẢ, Để La-Hầu-La phát triển tâm vô thượng, đối trị tâm nhỏ hẹp. Sau đó ngài dạy pháp quán hơi thở bao gồm hai pháp: TỨC HÀNH NIỆM - DỤC NHƯ Ý TÚC"

    TỨC HÀNH NIỆM- Là Pháp Nhận biết hơi thở ra, hơi thở vào, một pháp nhỏ trong pháp THÂN HÀNH NIỆM, trong TỨ NIỆM XỨ: Tôi biết tôi đang thở vào, tôi BIẾT tôi đang thở ra...
    DỤC NHƯ Ý TÚC: Là pháp hướng tâm thay đổi hướng của DỤC từ ban đầu quay ra ngoài hướng đến LỢI ÍCH, QUẢ VỊ, thì cái dục này hướng vào trong tâm: DỤC LY THAM, DỤC LY SÂN, DỤC LY SI, cụ thể bằng các pháp...
    Quán Đoạn diệt tôi sẽ thở vào/ra
    , Quán Từ bỏ, Quán vô thường, quán ly tham, quán ly sân.....
    Đó là tác ý, hướng tâm muốn cho đoạn dứt KIẾT SỬ, cho từ bỏ nó đi.
    Và kết luận lại Kinh Đức Phật có dạy
    Này Rahula, tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra như vậy, làm cho sung mãn như vậy, thời khi những hơi thở vô, hơi thở ra tối hậu chấm dứt, chứng được giác tri, không phải không được giác tri.
    II. PHÁP TỨ NIỆM XỨ:
    Đối tượng của Pháp-Đó là sự Tỉnh thức, NIỆM BIẾT mọi lúc mọi nơi, mọi đối tượng từ thô tới vi tế của THÂN VÀ TÂM.
    - Nhận ra rõ BIẾT sự sinh khởi, đoạn diệt, trạng thái hiện tại của đối tượng của cái BIẾT đó là : THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP.
    - Miên mật, không gián đoạn nhận biết các trạng thái đó từ chân lông kẽ tóc, ruột gan NỘI THÂN cho đến ngoại thân, các cảm giác vui sướng lạc buồn, tham lam, sân hận (các trạng thái thô) đến những cái vi tế về PHÁP. cái BIẾT về sự sinh khởi, đoạn diệt các NIỆM khởi. Biết đặc tính chúng thuộc lục căn, hay các dạng khác, biết nó là nguyên nhân của khổ, dẫn đến khổ, hay dẫn đến giải thoát, niết bàn.
    Nghĩa là khi miên mật hành pháp đến thành tựu, Hành giả hiểu rõ sự vận hành của THÂN VÀ TÂM này, từ THỰC SỰ LÀM CHỦ CÁI THÂN VÀ CÁI TÂM, đồng thời với sự miên mật nhận biết mà không tác ý như thế, hành giả sẽ lìa được cái TỰ NGÃ của mình.
    Do đó tổng kết kinh Đức Phật mới nói:
    Này các Tỷ-kheo, không cần gì 7 năm/bảy tháng/1 tháng/nửa tháng, một vị nào tu tập Bốn Niệm xứ này trong bảy ngày, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng Chánh trí ngay trong hiện tại, hai là nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn. Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ.

  8. #8

    Mặc định Chiến đấu với cá chướng ngại, Vô Minh

    Với cái tâm còn bị vô minh che mờ, bị 5 triền cái, 5 căn, 10 kiết sử che mờ. Với trí tuệ ngu si bị dính mắc nhiều vào cái THỨC, cái TƯỞNG. Trên các chặng đường tu hành, ta sẽ bị nhiều cái mê lầm, cần khéo tỉnh giác, để tránh xa. Đây âu cũng là do các khó khăn trên đoạn đường tới : ĐỘC GIÁC CHI PHẬT, do không có được một vị thầy có nhiều kinh nghiệm chỉ dạy.
    I. NHỮNG CÁI MÀ TA ĐÃ CHO RẰNG MÌNH ĐÃ ĐÚNG, THỰC RA CHƯA ĐÚNG.
    - Khi viết các bài viết trước, Viên Mộc khá tâm đắc với những gì mình hiểu được, rằng đối tượng thiền là cái BIẾT, là ĐÁNH THỨC cái BIẾT. Nhưng không phải thế, thực tế đang bị Vô Minh nó lừa cho 1 cú. Thực tế cho thấy, có một số người bị một số căn bệnh lạ, không ngủ nghỉ trong vòng mấy chục năm vẫn khỏe mạnh, không biết trong thời gian thức liên tục ấy họ có để lôi kéo trong cái ý tưởng cơm áo gạo tiền lôi đi nhiều không, nhưng qua đó có thể thấy, một điều: " NẾU CÁI BIẾT - TỈNH THỨC MÀ KHÔNG GIÚP CHO QUÁ TRÌNH CHIẾN ĐẤU VỚI VÔ MINH, VỚI CÁC TRIỀN CÁI, KIẾT SỬ...THÌ CÁI BIẾT CŨNG CHỈ LÀM CẢNH".
    Có lẽ cả đời ngồi nhận biết hơi thở ra hơi thở vào mà không có thêm cái gì nữa, thì cũng chỉ ra đi với sự không hiểu biết gì hết.
    Mục đích của THIỀN, KHÔNG PHẢI LÀ NHẬN BIẾT , LÀ CÁI BIẾT, MÀ NÓ PHẢI LÀ QUÁ TRÌNH CHIẾN ĐẤU VỚI CÁC MÊ LẦM, GẠT BỎ HẾT CÁC MÊ LẦM, THAM LAM, SÂN HẬN... ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT RỐT RÁO.
    - CHỖ KHÁC NHAU Ở ĐÂY KHÁ VI TẾ, 2 Cái đều nằm trên thân, tâm, Nhưng một cái có xu hướng hướng Ngoại đến các Quả vị, chứng đắc, một cái có xu hướng đi vào, hướng vào TÂM.

    Nhận thức đến đây Viên Mộc lại thấy mình có tâm đắc mới, thấy nó là đúng.
    Nhưng không phải lại sai rồi, nói đúng hơn nó chưa đầy đủ, còn thiếu sót. Sự suy xét, nhận biết, và chiến đấu với Vô Minh trên THÂN TÂM này [TUỆ] nó phải được thực hiện trên nền tảng cái TÂM VẮNG LẶNG, KHÔNG DAO ĐỘNG [ĐỊNH] nếu không như kẻ ra trận không có vũ khí, chỉ làm mồi cho giặc, Người đi săn lại thành kẻ bị săn.
    Và 2 thứ [ ĐỊNH], [TUỆ] lại phải được xây dựng trên nền tảng của [GIỚI], lấy [GIỚI] làm căn bản.
    Nói cách khác, Quá trình tu hành không có gì khác ngoài [GIỚI] [ĐỊNH] [TUỆ]


    - Giờ đến đây Viên Mộc lại thấy thêm một điều nữa: Lên diễn đàn nói hơi nhiều, Cái tâm hướng ra ngoài nhiều, không hướng vào trong, trở ngại tu tập. Vậy Nên VIÊN MỘC XIN PHÉP KHÔNG LÊN DIỄN ĐÀN CHIA SẺ NỮA CHUYÊN CHÚ TU TẬP, CHÚC CÁC ĐẠO HỮU TINH TẤN TU TẬP TRÊN CON ĐƯỜNG ĐẠO CỦA Đức PHẬT
    Cuối cùng, Viên Mộc xin chia sẻ một Video mà Viên Mộc mới được một vị bằng hữu cho xem hôm qua. Video khá dài, Viên Mộc còn chưa xem hết nhưng thấy khá tâm đắc, vì đúng như vị bằng hữu kia nói, có lẽ Viên Mộc đang bước đi trên con đường của vị sư đáng kính đó:
    https://www.youtube.com/watch?v=lXkk9P60wGg
    https://www.youtube.com/watch?v=lXkk9P60wGg

  9. #9

    Mặc định

    Đạo hữu Vienmoc cứ làm theo ý của Đạo hữu, khi nào có thời gian lại lên diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm của Đạo hữu nhé. Minhsang cũng học hỏi được từ Đạo hữu ít nhiều cách đi vào Thiền.
    Cám ơn sự chia sẻ của ĐH.
    CHÚC ĐẠO HỮU TINH TẤN TU TẬP TRÊN CON ĐƯỜNG ĐẠO CỦA ĐỨC PHẬT.

  10. #10

    Mặc định Câu chuyện lão nông và căn nhà huyền bí

    Ở một làng nọ, có ông lão nông già cùng đàn cháu nhỏ. Ngày ngày lúc lũ trẻ đi học ông lão lại ra đồng làm ruộng, có thời gian rỗi ông lão lại tham gia các buổi nhậu nhẹt, đánh cờ, múa hát... Sau một ngày kia, sức khỏe đi xuống, lão nhận ra những việc làm kia của mình chỉ đem lại KHỔ đau.
    Rồi Lão nghe đồn làng bên có vị thày trí tuệ hơn người, dạy người ta làm sao hết khổ, lão cắp sách sang học hỏi, lấy Kiến Thức.

    Rồi y cứ lời dạy, Lão xa dần những cuộc vui, cuộc tu tập vô bổ, Lão chuyên chú làm việc và khi rảnh rõi lão không còn đi đâu nữa, chỉ quanh quẩn trong căn nhà của mình cùng lũ trẻ. Và Lão đã cảm nhận được niềm vui của cuộc đời, không còn thấy những khổ đau trước kia nữa.

    Và nhờ có các kiến thức vị thày kia chỉ dạy, Lão biết được ngoài niềm vui đó, Lão có thể còn có thể đạt được những niềm vui, hạnh phúc lớn lao hơn nữa.

    1) Đầu tiên lão ngồi xuống một góc nhà, và bắt đầu suy nghĩ về cuộc đời, về những khổ đau...
    Nhưng lắm lúc, Lão lại bị những người bạn cây khế cũ, đến rủ rê nhậu nhẹt, vui thú, làm lão phiền não, đuổi đi mãi không xong.
    Dần dần, bằng cách nghĩ về những vài học đã được dạy, lũ bạn kia cũng dần ít đến hơn, và Lão có thể chìm sâu vào trong những suy nghĩ đó, Lão cảm thấy được niềm vui, niềm hạnh phúc hơn hẳn những gì đã cảm thọ trước đó khi mà mới bắt đầu xa lánh hội bạn xấu.
    2. Và khi các bài học được suy nghĩ thấu suốt, Lão có thể ngồi một chỗ trong nhà, không cần phải suy ngẫm gì nữa, mà thỏa thích hưởng thụ những cảm giác thư giãn thoải mái.

    - Đôi khi lũ trẻ con quấy phá sự thanh tịnh của lão. Làm lão nổi nóng lên và quát tháo bảo chúng hãy ở im. Nhưng rồi ngay sau đó lão Lại nhận ra rằng, bản chất trẻ con là như vậy, càng làm như thế càng thêm phiền não vào người. Và Lão Bắt đầu làm quen với sự hưởng thụ niềm hạnh phúc của bản thân, mà chung quanh lũ trẻ vẫn chơi đùa mà lão cũng không bị ảnh hưởng gì. Bằng cách đó, lão lại càng được an tĩnh ngồi một chỗ hơn không phải đi lại (để quát tháo chúng) nữa.
    - Lại có lúc, vì lão được học là ngoài niềm vui, hạnh phúc này mà Lão đang có, lại còn có cái gì đó cao siêu hơn nữa, thoải mái hơn nữa. Do đó lão thúc ép mình: phải làm thế này, phải làm thế kia để tiến lên. Sau một thời gian thử nghiệm, mệt mỏi mà không thu hoạch được gì, lão bắt đầu buông bỏ, biết chấp nhận, biết đủ với cuộc sống hiện tại, không muốn tìm kiếm thêm niềm vui mới mẻ gì nữa. Nhưng Lão vẫn chuyên cần, không lười biếng trông giữ ngôi nhà của mình trong niềm an lạc tự tại không xao động
    Và các ngày tiếp theo của Lão trôi qua mềm mại như thế: kẻ có ý xấu đến, lão đóng cửa không tiếp, Kẻ hiền đến, Lão vẫn bắt chuyện bình thường, còn lúc ở nhà một mình với đám trẻ Lão lại chìm vào trong vui thú Hỷ Lạc no đủ.
    3) Rồi một ngày bật chợt, trong sự tĩnh lặng no đủ đó, Lão phát hiện ra, dưới nền nhà có một cái giếng sâu hun hút, mà chỉ khi thực sự yên lặng, no đủ hỷ lạc, Lão mới cảm nhận được, cánh cửa nó mới mở dần ra.
    Có lúc nó vừa mở ra được một chút lại bị đóng lại vì tâm lão xao động.
    Có lúc cánh cửa đó mở ra đủ để Lão chui vào, nhưng chỉ vào được một chút xíu là Lão bị đẩy bay ra ngoài. Vì Sao? Vì cái bản Ngã của Lão,chưa thuần thục, nó sợ chết, nó kéo Lão ra.
    Nhưng chỉ cần như thế Lão cũng biết được rằng ở dưới đó có gì bởi vì:
    - Lão cảm nhận được, khi lão bước được vài bước, Lão đã cảm nhận được sự tĩnh lặng hơn hết, sự trải nghiệm mà thấy trước đó Lão chưa bao giờ cảm nhận thấy. Khi Lão hóng tai ra bên ngoài vẫn nghe thấy tiếng trẻ con nô đùa, nhưng nếu không muốn, lão có thể quên hết những âm thanh, cảm xúc bên ngoài ngôi nhà của mình.
    - Lại nữa đôi lúc Lão thấy được ánh sáng, ánh sáng rực rỡ trong căn hầm tối, soi sáng giúp Lão thấy được những bức phù điêu, những bức hình trong đó mang đầy những trí tuệ, mà đúng như vị thày kia đã dạy, và giờ Lão thấy thực tế.
    - Và nhờ những lần vào đó, khi quay lại ngôi nhà với những công việc đồng áng của mình, Lão vẫn có thể thoải mái cảm nhận niềm vui, hạnh phúc trong mọi lúc mọi nơi, mà không cần phải cố công tìm kiếm, hay ngồi một chỗ suy tư về giáo pháp trong sách vở nữa.
    - Và hơn thế nữa: Lão có được trí tuệ, Lão Biết được điều gì Lão cần làm tiếp, để khám phá tiếp cuộc hành trình còn dang dở trong căn nhà của mình, mà đã được vị thày mô tả sơ lược trong sách vở là còn rất nhiều chặng đường nữa còn phải đi.

  11. #11

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Viên Mộc Xem Bài Gởi
    Với cái tâm còn bị vô minh che mờ, bị 5 triền cái, 5 căn, 10 kiết sử che mờ. Với trí tuệ ngu si bị dính mắc nhiều vào cái THỨC, cái TƯỞNG. Trên các chặng đường tu hành, ta sẽ bị nhiều cái mê lầm, cần khéo tỉnh giác, để tránh xa. Đây âu cũng là do các khó khăn trên đoạn đường tới : ĐỘC GIÁC CHI PHẬT, do không có được một vị thầy có nhiều kinh nghiệm chỉ dạy.
    I. NHỮNG CÁI MÀ TA ĐÃ CHO RẰNG MÌNH ĐÃ ĐÚNG, THỰC RA CHƯA ĐÚNG.
    - Khi viết các bài viết trước, Viên Mộc khá tâm đắc với những gì mình hiểu được, rằng đối tượng thiền là cái BIẾT, là ĐÁNH THỨC cái BIẾT. Nhưng không phải thế, thực tế đang bị Vô Minh nó lừa cho 1 cú. Thực tế cho thấy, có một số người bị một số căn bệnh lạ, không ngủ nghỉ trong vòng mấy chục năm vẫn khỏe mạnh, không biết trong thời gian thức liên tục ấy họ có để lôi kéo trong cái ý tưởng cơm áo gạo tiền lôi đi nhiều không, nhưng qua đó có thể thấy, một điều: " NẾU CÁI BIẾT - TỈNH THỨC MÀ KHÔNG GIÚP CHO QUÁ TRÌNH CHIẾN ĐẤU VỚI VÔ MINH, VỚI CÁC TRIỀN CÁI, KIẾT SỬ...THÌ CÁI BIẾT CŨNG CHỈ LÀM CẢNH".
    Có lẽ cả đời ngồi nhận biết hơi thở ra hơi thở vào mà không có thêm cái gì nữa, thì cũng chỉ ra đi với sự không hiểu biết gì hết.
    Mục đích của THIỀN, KHÔNG PHẢI LÀ NHẬN BIẾT , LÀ CÁI BIẾT, MÀ NÓ PHẢI LÀ QUÁ TRÌNH CHIẾN ĐẤU VỚI CÁC MÊ LẦM, GẠT BỎ HẾT CÁC MÊ LẦM, THAM LAM, SÂN HẬN... ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT RỐT RÁO.
    - CHỖ KHÁC NHAU Ở ĐÂY KHÁ VI TẾ, 2 Cái đều nằm trên thân, tâm, Nhưng một cái có xu hướng hướng Ngoại đến các Quả vị, chứng đắc, một cái có xu hướng đi vào, hướng vào TÂM.

    Nhận thức đến đây Viên Mộc lại thấy mình có tâm đắc mới, thấy nó là đúng.
    Nhưng không phải lại sai rồi, nói đúng hơn nó chưa đầy đủ, còn thiếu sót. Sự suy xét, nhận biết, và chiến đấu với Vô Minh trên THÂN TÂM này [TUỆ] nó phải được thực hiện trên nền tảng cái TÂM VẮNG LẶNG, KHÔNG DAO ĐỘNG [ĐỊNH] nếu không như kẻ ra trận không có vũ khí, chỉ làm mồi cho giặc, Người đi săn lại thành kẻ bị săn.
    Và 2 thứ [ ĐỊNH], [TUỆ] lại phải được xây dựng trên nền tảng của [GIỚI], lấy [GIỚI] làm căn bản.
    Nói cách khác, Quá trình tu hành không có gì khác ngoài [GIỚI] [ĐỊNH] [TUỆ]


    - Giờ đến đây Viên Mộc lại thấy thêm một điều nữa: Lên diễn đàn nói hơi nhiều, Cái tâm hướng ra ngoài nhiều, không hướng vào trong, trở ngại tu tập. Vậy Nên VIÊN MỘC XIN PHÉP KHÔNG LÊN DIỄN ĐÀN CHIA SẺ NỮA CHUYÊN CHÚ TU TẬP, CHÚC CÁC ĐẠO HỮU TINH TẤN TU TẬP TRÊN CON ĐƯỜNG ĐẠO CỦA Đức PHẬT
    Tôi có theo dõi các bài viết gần đây của đạo hữu, thật nhận thấy ở đạo hữu Viên Mộc có một chiều sâu trong tu học và tu chứng, tuy rằng chúng ta cũng cần phải CHUYÊN TU mới là vấn đề chính giúp cho bản thân mình nhưng cũng nên chia sẻ với mọi người ngõ hầu đem lại lợi ích ko ít thì nhiều đạo hữu ạ. Mong đạo hữu hãy bớt chút thời gian lâu lâu vào diễn đàn.
    PS: Rất tâm đắc với các kiến giải qua các bài viết của đạo hữu, mến chúc đạo hữu luôn tinh tấn và ngộ được:"chẳng có gì để giải thoát cả"! Kính!
    Chớ nói nhiều. Niệm Phật đi

  12. #12

    Mặc định Vượt qua các giới hạn của ngôn từ - sách vở.

    Tạm gác kinh sách ra một bên, tĩnh lặng, tinh tế nhìn vào cuộc sống, để nghiệm ra đáp án của các câu hỏi :
    - Tại sao TÔI sinh ra, chết rồi TÔI về đâu?
    - Mục đích sống là gì? Tại sao phải tu hành, cái gì là đáng quý, đáng trân trọng, đáng gìn giữ trong cuộc đời này?

    I. Cái TÔI.
    - TÔI tên là A, quê ở B, bố mẹ là XY... Nó là DANH Tên để người ta quy ước xác mình, không có giá trị khảo sát.
    - Có 5 yếu tố thực sự SANH ra cái TÔI
    1. SẮC: TÔI cao x m, nặng x kg, dáng hơi gầy....
    2. THỌ: TÔI đang mệt, TÔI thấy đau tay, tôi thấy nóng quá, tôi đang hạnh phúc....
    3. TƯỞNG : Ngày xưa tôi như thế này, sự việc này là như thế này, cái đó không phải thế này mà là thế kia, Trái Đất đang hút chúng ta nên có trọng lực...
    4. HÀNH: Tôi sẽ làm thế này, Tôi muốn làm thế kia, tôi phải làm như thế, tôi nghĩ thế này...
    5. THỨC: Cái này là nhà, cái này là xe. Đây là màu vàng, nốt này là nốt Đô, La,...

    5 thứ này - NGŨ UẨN không ngừng biến đổi, tạo nên cái TÔI để tiếp xúc với thế giới. Cái TÔI được sinh ra, khi các giác quan tiếp xúc với các đối tượng của nó.

    II. Sự mất cân bằng của cái Nhân sinh ra Cái TÔI.
    - Mất cái THỨC, là thiếu đi sự nhận biết của 6 giác quan. Sống đời thực vật.
    - THỨC bị sai lệch : các chứng bệnh thần kinh.
    - Cái HÀNH bị trì trệ : con người sống thụ động, lười suy nghĩ, biếng nhác.
    - HÀNH quá mạnh mẽ: con người bồng bột, thiếu sự kiểm soát.
    - TƯỞNG bị thiếu hụt : người mất trí nhớ, không nhớ được việc trước.
    - TƯỞNG quá mạnh: Ảnh hưởng đến HÀNH đưa ra các nhận định, phán đoán sai lầm, tạo ra nhận THỨC sai lầm
    - SẮC thiếu hụt hoặc sai lệch : thân thể khuyết tật.
    - THỌ bị thiếu hụt : thiếu đi sự cảm nhận tinh tế đối với các đối tượng bên ngoài, làm TRÍ TUỆ phát triển chậm.
    - THỌ quá mạnh trên mức bình thường : gây đau khổ.

    - Trẻ tự kỷ là do nhận thức về cái TÔI không giống người khác phân làm 2 trường hợp :
    1) THỌ khi SẮC tiếp xúc Bên ngoài trả về kết quả : quá đáng sợ : Trẻ sống trong cái TƯỞNG, thiếu cái THỨC, HÀNH. La hét, kêu gào.
    2) Kết quả là: Chẳng có gì thú vị, không có gì cần nói, cần tiếp xúc : Trẻ quay về sống với nội tâm, hoặc sống với niềm vui nào đó của riêng mình, không dính mắc vào các ham muốn của cuộc sống bên ngoài => YẾU TỐ cần thiết để có ĐỊNH TUỆ (có định hướng) Đây là mầm mống của các Thiên tài, là cơ sở phát triển mạnh mẽ các năng khiếu (một dạng trí tuệ).

    II. Cái gì còn lại sao khi chết:
    - Hãy để ý các yếu tố sinh ra cái TÔI (Nhân). Khi cái SẮC thân này đi đến hoại diệt, 6 giác quan biến mất, các UẨN còn lại cũng không còn cái NHÂN mới sinh ra nó. Chỉ còn những cái NHÂN cũ là các cảm thọ, suy nghĩ, nhận biết lúc còn sống chưa sanh QUẢ còn níu kéo lại.
    Rồi cũng đến một ngày tan rã vào với tứ đại, với hư không. Và sự tái sinh được hình thành. Câu hỏi đặt ra Cái gì đi tái sinh?

    III. Sự tái sanh
    Để trả lời câu hỏi : cái gì đi tái sinh, quên hết sách vở đi, nhìn vào những đứa trẻ sinh ra và lớn lên để thấy : Ngoài các yếu tố Zen di truyền từ bố và mẹ, còn có gì khác nữa không?
    Câu trả lời là có.
    Đó chính là ĐỊNH và TUỆ (từ kiếp trước). ĐỊNH và TUỆ này nó chịu sự tác động của thế giới mới nên không ngừng biến đổi. Nhưng thực sự nó là có sẵn đi theo, sanh ra cùng với đứa trẻ chào đời. Quá trình nhận thức thế giới qua 6 giác quan của nó, hình thành NGŨ UẨN mới, nhưng trên nền ĐỊNH và TUỆ của kiếp trước.

    Định ở đây là gì: Là mức độ an trú hay dao động của đứa trẻ khi 6 giác quan tiếp xúc trần cảnh. Ta nói đó là BẢN TÁNH đứa trẻ, rất khó dạy bảo, đào tạo, giáo dục.
    Tuệ ở đây là gì: Là các năng khiếu: Khoa học, chính trị, thương gia, hội họa, âm nhạc, kiến trúc .... Nhiều dạng khác nhau, nhưng nó đều là trí tuệ.

    IV. SỰ SINH RA TRÍ TUỆ.
    - Hãy nhớ lại xem, để giải một bài toán ta cần: YÊN LẶNG, TẬP TRUNG, VẬN DỤNG KIẾN THỨC, điều đó giúp ta giải bài toán, cũng là một quá trình PHÁT SINH TRÍ TUỆ. Một loại TRÍ TUỆ CÓ ĐỊNH HƯỚNG.

    V. SỰ TU HÀNH :
    Chỉ tập trung suy nghĩ có định hướng vài phút cũng làm trí tuệ phát sinh. Vậy nếu trong mỗi một phút giây bạn đều làm điều đó thì sao?
    - Là sẽ gây đâu đầu, điều đó đúng với những người thiền với ham muốn (có định hướng) Trí tuệ có sinh ra nhưng không thực sự nhiều, và cũng không đầy đủ, toàn diện.
    - THIỀN ĐỊNH, sống tĩnh lặng, tỉnh thức với tâm buông xả là pháp phát triển trí tuệ vô hướng. Bằng cách đó chúng ta tiến đi được xa, định được sâu, không bị các tệ đoan cản trở.
    Khi TUỆ vô hướng (ĐỊNH), vượt qua được những giới hạn của thân xác (TOÀN ĐỊNH), Lúc đó là lúc hành giả có thể thực hành phát triển các TUỆ có hướng một cách không giới hạn, TUỆ THẾ GIAN VÀ XUẤT THẾ GIAN.

    VI. Giá trị của cuộc đời :
    Đến đây bạn nhận thấy cuộc đời này có giá trị thé nào rồi chứ:
    Chúng ta sinh ra với thân người, có đầy đủ 6 giác quan để hình thành 5 uẩn. Cho dù hiện tại nó có bị mê lầm, nhưng nó cũng đều là Pháp, là Thuyền bè để mình vượt sông, mà các loài súc sanh khác không có được.
    Mỗi một phút giây trôi qua ta sống trong chánh niệm, tỉnh thức, tĩnh lặng, là một giây ta đã vun bồi ĐỊNH, TUỆ - Cái mà có thể duy trì vượt qua luân hồi.
    Mỗi một phút giây ta buông thả, là ta đã đánh mất đi thứ giá trị nhất của cuộc đời. Đừng lo lắng về tiền bạc, địa vị, danh vọng... Nếu so sánh với ĐỊNH- TUỆ, nó chỉ như đống rác mà thôi

  13. #13

    Mặc định Nhị Thiền

    Tại sơ thiền, hành giả đã cảm nhận được các chi thiền: TẦM TỨ HỶ LẠC NHẤT TÂM, nhưng chưa thực sự hiểu rõ được HỶ là gì, NHẤT TÂM là gì. Cũng như chưa thực sự nhìn thấu sự sinh diệt của nó.

    Tại nhị thiền, hành giả đã có HỶ GIÁC CHI, hiểu rõ sự sinh diệt của HỶ.
    HỶ: translate Sự vui sướng. Trong thiền định nó cũng theo đúng nghĩa đen vậy.
    " như một người đi đường dài trong sa mạc, nhìn xa xa thấy thôn làng, thấy hồ nước, người đó phát sinh niềm vui sướng HOAN HỶ".
    Nhờ có HỶ, bước chân của kẻ lữ hành trở nên thanh thoát, không nặng nề như trước ".
    - Với người hành thiền: Nhờ nhìn thấy Đức PHẬT - chân lý ở đây ngay bên trong chính mình, nhìn thấy PHÁP, thấy bản chất của các vấn đề, sự vật, hiện tượng. Do đó HỶ phát sinh.
    Nhờ có HỶ mà quá trình hành thiền trở nên thoải mái, phát sinh LẠC, không còn gò bó, o ép, phải thế này, thế kia nữa.
    - Nhờ có HỶ GIÁC CHI này mà làm tiền đề để tiến lên tầng thiền thứ 3.
    - NHẤT TÂM:
    Tại sơ thiền hành giả cảm nhận được nhất tâm nhưng nó không rõ ràng, sinh diệt mau chóng, chỉ biết nó khi mà chạm đến nó thì nó phát sinh lạc nên khó định nghĩa.

    NHẤT TÂM tại NHỊ THIỀN nó rõ ràng hơn: NHĂT TÂM là TÂM KHÔNG, Vì là TÂM KHÔNG nên nhất tâm.

    TÂM KHÔNG là gì? Không TẦM, Không TỨ.
    Tầm: Các suy nghĩ miên man như dòng nước chảy, tại đây, NHỊ THIỀN này nó trở nên đứng yên, dòng nước chảy đã đứng yên.
    Một sự KHÔNG rõ ràng không mù mờ gì hết. Rõ ràng bởi vì có THỨC nhận biết.
    THỨC nhận biết cái KHẨU HÀNH (TẦM TỨ) trước khi vẫn cháy, nay do duyên lửa hết, đã ngừng cháy, thấy được sự vụt tắt của TẦM và TỨ. (Tại NHỊ THIỀN SƠ KHỞI, vẫn phải giữ cho TÂM KHÔNG TẦM được duy trì nên có TỨ) sau nó trở thành tự nhiên, TẦM, TỨ thực sự vụt tắt.

    Khi đó cái KHẨU HÀNH đã "diệt". Thiền định trong cái tỉnh giác KHÔNG SUY NGHĨ, KHÔNG VỌNG NIỆM, thỉnh thoảng cái THÂN HÀNH (Hơi thở), hoặc TÂM HÀNH (cảm thọ lạc, thọ đau khổ), hay các thọ do tiếp xúc các cử động của các bộ phận cơ thể, chúng rủ cái THỨC đi chơi: Nghĩa là tâm KHÔNG, vắng lặng, thỉnh thoảng nhận biết các cảm giác của cơ thể.
    Trong kinh sa môn quả, Đức Phật diễn tả trạng thái này như sau: "
    ví như một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Ðông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, này Ðại vương, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần.
    Tại sơ thiền THỨC chỉ nhận biết được một lúc rồi Diệt do các vọng niệm, các SUY TẦM xen vào, làm cho THẤT NIỆM, nên cái hồ nước NHẤT TÂM- TÂM KHÔNG này bị thủng nhiều chỗ, nước có bao nhiêu chảy đi hết.
    Nhưng tại nhị thiền. THỨC luôn hiện hữu,như một hồ nước tĩnh lặng, không một chỗ chảy ra

  14. #14

    Mặc định TƯ DUY VỀ CÁC TẦNG THIỀN CAO HƠN

    Tại Nhị Thiền, do có hiểu thấu về HỶ, nắm được sự sinh diệt của HỶ, cái THỨC nhận biết được đầy đủ các đặc tính của HỶ. Thấy được tại 2 tầng thiền đầu. HỶ đóng vai trò quan trọng. Nó là Duyên Sinh LẠC, là NHÂN để TINH TẤN hành thiền, vượt qua các chướng ngại do sự lười biếng, tham ăn tham ngủ. Quả vậy, không có mặt của HỶ, hành giả dễ buông xuôi quay về với cuộc sống thế tục.
    Đó là vẻ đẹp của HỶ, ngoài vẻ đẹp ra, thì HỶ cũng có SỰ NGUY HẠI, nó cũng tạo nên sự dính mắc vi tế, hành giả muốn tiến thêm một bước nữa thì phải nhận ra cái vi tế này, nhận thức được SỰ NGUY HẠI CỦA HỶ, để sự XẢ LY HỶ sảy ra.

    Khi tiến trình này được sảy ra. TÂM KHÔNG lại được update, ở đây là KHÔNG có HỶ THỌ. Trạng thái NHẤT TÂM càng thêm vi tế so với NHỊ THIỀN, càng trở nên tịch tĩnh vắng lặng. Trong cái định tĩnh ấy Tuệ giác phát như trăm hoa đua nở trong hồ nước đầy:

    “Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần.”

    Tuệ giác ở đây là gì: về KHỔ, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, Tuệ về THÂN KIẾN, Nhìn thấu Về sự sắp xếp các bộ phận trong cơ thể, nhìn vào cái THÂN này không còn là một cái gì đó nhất định, mà nó chỉ là sự kết hợp của các cơ quan, bộ phận bên trong cũng như bên ngoài.

    Tuệ về ĐỊNH GIÁC CHI, TUỆ GIÁC CHI, XẢ GIÁC CHI
    Tiếp tục xự xả ly, Tinh tấn, tắt dần các yếu tố tạo nên THÂN KIẾN, NGÃ KIẾN Hành giả tiến thêm bước nữa, xả ly mọi các cảm thọ LẠC, KHỔ, HỶ ƯU. Chứng và trú vào thiền thứ tư.
    Tại đây các tuệ giác về THÂN KIẾN đi đến các bước nhảy vọt đạt đến thấu triệt về SẮC.

    Nhận rõ được TỨ ĐẠI trong cái thân này, nhìn thấy được sự tương sinh, tương diệt, quá trình sinh rồi diệt, diệt rồi sinh của ĐẤT NƯỚC GIÓ LỬA tạo nên cái thân này.

    TUỆ về các GIỚI, thấy được sự sai khác GIỚI của TỨ ĐẠI trong cái thân, phân biệt được chúng về các giới khác nhau. ĐỊA GIỚI, THỦY GIỚI, HỎA GIỚI, PHONG GIỚI, KHÔNG GIỚI.
    Với KHÔNG GIỚI, nhận THỨC được NỘI KHÔNG cũng như NGOẠI KHÔNG là tương liên, không giới hạn. THỨC nương theo KHÔNG GIỚI, trải rộng ra VÔ BIÊN, VÔ HẠN. Nhận thức được HƯ KHÔNG LÀ VÔ BIÊN – KHÔNG VÔ BIÊN XỨ.

    Tương tự KHÔNG GIỚI, thấy được sự tương liên của THỨC, THỨC của TA nhận biết được ở kiếp này, tương liên với các THỨC sẵn có, THỨC giới cũng trải rộng ra vô biên vô hạn. THỨC VÔ BIÊN XỨ.
    Qua đó thấy được 5 UẨN tạo ra cái TA này tất cả đều thay đổi, sinh diệt theo quy luật của tự nhiên, không có cái nào là cố định, trường tồn, không có cái gì thực sự là CỦA TA- VÔ SỞ HỮU XỨ

    Lại nữa. Khi nghiên cứu về TƯỞNG XỨ, nhận thấy được TƯỞNG NÀY là nó, mà không phải là nó.
    Tưởng này từ khi SINH ra đã có, vẫn luôn hiện hữu, các ký ức mỗi ngày được tiếp thu thêm, ngoài ra các ký ức của kiếp trước cũng có mặt trong cái TƯỞNG XỨ Này. Nó là thật có ở đấy, mà cũng không phải thật của TA, có quy luật SINH – DIỆT, Thay đổi của nó. Hành giả chứng và trú PHI TƯỞNG – PHI PHI TƯỞNG XỨ.

    SẮC THỌ HÀNH TƯỞNG, THẬM TRÍ CẢ THỨC đều do các Duyên mà Sinh, Duyên mà Diệt, Duyên mà tăng trưởng, Duyên mà biến hoại. Hành giả trở nên không bám chấp dính mắc vào chúng nữa. Sự xả Ly sảy ra. Các Nhân tạo nên chúng được rút đi, chúng bắt đầu lụi tàn.
    Hành giả TẮT CÁC CẢM THỌ, TẮT CÁC TƯỞNG (SẮC VÀ HÀNH ĐÃ TẮT TỪ TRƯỚC) Hành giả tiến điến trạng thái DIỆT THỌ TƯỞNG ĐỊNH.

    Tại đây chỉ còn cái THỨC sáng suốt nhận biết.
    Trước đây, cái THỨC bị các SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH lừa dối sinh ra nhận thức sai lầm, nhận biết sai lầm, không đúng bản chất của tự nhiên.
    Nay cái THỨC như được lột xác, nhận nhức được thế giới quan theo đúng bản chất của nó, không còn là cái THỨC trước kia nữa, đạt đến các tuệ giác xuất thế gian. Đạt đến trạng thái KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •