kết quả từ 1 tới 16 trên 16

Ðề tài: các đạo hữu,tín hữu cho cảm nghĩ nhé

  1. #1

    Mặc định các đạo hữu,tín hữu cho cảm nghĩ nhé

    có người cho rằng,ky tô giáo là một tôn giáo tôn thờ bạo lực


    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.



    lại có ý kiến bắt bẻ việc ngăn cấm phá thai của ky tô giáo là việc làm sai trái, nhưng họ không chịu suy nghĩ,vì lợi ích cá nhân nhất thời mà họ nhẫn tâm đến vậy.


    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.



    ...

    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  2. #2

    Mặc định

    Nếu Chúa thấy người khuân vác đang bị cái nắng hành hạ và cất nó đi thì thế giới chìm vào bóng đêm à?
    Thiên Chúa là tình yêu,nhưng công bằng !
    Nước Nhật có ngành công nghiệp sex hàng đầu thế giới,đừng than trời vì sóng thần !


    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.




    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  3. #3

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    em thích lối sống cộng đồng gắn kết truyền thống của Do Thái giáo hơn.
    biết lý do vì sao những người Do Thái theo Công Giáo không về lập quốc mà lại làm việc cho các viện khoa học thế giới không? Còn những người Do Thái theo đạo Do Thái thì chẳng làm được gì cho đất nước hiện đại giàu mạnh,họa may được mang tiếng thơm lây từ đồng bào theo Công Giáo mà thôi,nên nhớ những người theo Đạo Do Thái vốn là những người vẫn đang tìm bằng chứng "chúa Ki Tô không sống lại" đấy nhé.
    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    Albert Einstein gia đình theo đạo công giáo

    nhưng albert Einstein lại tìm hỉu phật giáo , và quan tâm tới phật giáo nhìu hơn :whistling:
    ông nói Phật Giáo là khoa học nhất chứ gì? nhưng bạn không biết ông là người trong câu chuyện này à?

    Một anh sinh viên rất giỏi đang đi trên một con thuyền,thấy một lão già đang cầm tràng hạt,anh ta chế nhạo,và khi lão già đưa cái danh thiếp thì anh ta mới ngớ người ra,đó là vị bác học mà bạn nói đó
    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  5. #5

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    mình không hỉu gì cả

    mình cũng không chế nhạo ai cả

    bạn cũng đang chế nhạo phán xét những người do thái theo đạo do thái đó thôi
    mình phê phán hành động tìm bằng xác chúa giê su đó khiến những khoa học bác học theo Công Giáo không thèm về giúp nước mình.
    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  6. #6

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    trong danh sách có 1 đống người

    và cũng không liệt kê ai theo tôn giáo nào

    cho nên , không phải tất cả người Do Thái theo đạo Do thái chẳng làm gì cho đất nước

    đừng nên đánh đồng như vậy
    sự thật là thế,ngày nay israel chỉ sống nhờ vào nguồn trợ lực từ Mỹ từ kinh tế tới quân sự
    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    bằng chứng đâu nhỉ ?
    bằng chứng là Đạo Do Thái ngày nay vẫn đang tìm xác Chúa Ki Tô.
    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    họ không có rảnh đâu

    người Do Thái đang sống , cầu nguyện , bảo vệ đất nước .

    đừng có suy bụng mình nghĩ bụng người ta nữa
    sự thật bạn không biết vì không chịu tìm hiểu,mới đây có tin đồn từ israel là thấy một bộ xương người mang tên jesu được mai táng cách thành jerusalem không xa...
    bạn cần biết họ chính là những người đóng đinh Chúa và tự nguyền rủa rằng :
    máu của nó sẽ đổ lên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi !
    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  9. #9

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    http://en.wikipedia.org/wiki/Nahmanides

    Vô cùng quan trọng về Chúa Trời Do Thái và chúa Trời Catholic.

    Danh từ riêng ramban là những chữ ghép lại của nhà thông thái kinh luật Do Thái nhất thế kỷ XIII .

    Tên thật là Moses ben Nachman , rồi người ta thêm rabbi ( thầy giáo sỉ Do Thái ).

    Ông nổi danh hất Âu Châu thời bấy giờ về sự thông tuệ tất cả những kinh điển Do Thái và Catholic .

    Thuờ trẻ ông học về Y Khoa , dư giờ ông nghiên cứu về kinh Luật Do Thái…
    Sau cùng ông chuyển hẳn về sự nghiên cứu về đạo Do Thái.

    Ông là một người mà Công giáo thời bấy giờ xem là kẻ Đệ nhất Tử thù ….vì sự thông tuệ của ông về đạo Do Thái và Catholic.

    Ông là người Do Thái sanh tại Gerona , Tây ban Nha ( Spain ) ( 1194-1270 ) .


    Vì thông tuệ nhất thế kỷ XIII , nên vua xứ Aragon thường xuyên vấn kế ông về kinh tế và luật pháp.

    Ảnh hưởng của ông lan tràn khắp Âu Châu . Nên giới tu sỉ Tây ban Nha bắt đầu nhắm vào ông bằng mọi giá là ông phải chết cho bằng được .

    Ông lập ra nhiều trường học dạy về tôn giáo Do Thái. Ảnh hưởng của ông càng lúc càng lớn vì nhiều đệ tử của ông tách rời khỏi Tây ban Nha và lập ra nhiều trường học khắp nơi .

    Ông quan niệm muốn nghiên cứu tôn giáo nào đi chăng nữa cũng bắt đầu bằng trí tuệ đầu óc của con người trần thế.
    Càng dùng trí tuệ càng nhiều thì càng gần Thượng đế hơn bao giờ hết.

    Ông viết nhiều bài giáo luận nổi danh mà ngày nay các vị giào sỉ rabbi khắp nơi trên thế giới dùng làm bài giảng đạo cuối tuần trong giảng đường Synagogue Do Thái .

    Lúc đó tại Tây ban Nha , nhánh đạo cuồng tín Công Giáo là dòng tu Dominic tại Tây ban Nha rất hung dử . HỌ không ngần ngại giết người nếu nói trái ý đạo Jesus of Nazareth mà họ gọi là kẻ báng bổ Chúa Trời .


    Họ muốn có cuộc đối chất về đạo đời với rabbi Moses ben Nachman tại công đường hoàng gia. Họ bắt buộc vua James xứ Aragon là khi Nachman thua thì bị treo cổ vì tội phỉ báng chúa Jesus.

    Trước đó tại Aranda de Duero , họ đã từng treo cổ một thầy tu rabbi đạo Do Thái vì tội phỉ báng Chúa Trời Jesus.

    Biết ác ý của nhóm đạo Công giáo cuồng tín nầy , nhưng vua James xứ Aragon cực chẳng đã ra lệnh chọn một ngày tốt , tại sân triều với sự tham dự công chúng.

    Vì nếu không có công chúng tham dự thì nhóm nầy sẽ đỗ tội lên Nahmanides những điều mà không có nói.

    Nghĩa là vua muốn công chúng xứ Aragon làm chứng sự tranh luận tôn giáo mà kết cuộc là có người bị treo cổ hành hình như kỳ trước tại Aranda vậy.

    Trong sân triều rất rộng , công chúng đứng đầy sân .

    Hàng chục giám mục , bề trên đạo Catholic với khí thế hùng hổ như muốn ăn tươi nuốt sống một người gầy gò tên là Nachman vậy .

    Vây quanh hàng chục giáo sỉ cuồng tín Dominic với cây thập giá cầm kế bên như cây gậy sắt , sẳn sàng đập vào đầu người đối thoại- một nhà thông tuệ ramban đang ngồi với chiếc ghế thô sơ.

    Họ , nhóm cuồng tín đạo Dominic nầy muốn dùng thế đông áp đảo nhà thông tuệ nhất thế kỷ XIII về đạo Do Thái và đạo Catholic.

    NHóm Dominic cho rằng trong kinh Do Thái Talmud khẳng định là Chúa Cứu Thế đã xuất hiện. và khi Chúa Jesus xuất thế , Ngài là thần thánh vừa là người trần thế…Ngài đã chết trên cây thánh giá để chuộc tất cả mọi tội lỗi của tất cả nhân loại trên trái đất nầy.

    Khi Chúa Jesus xuất hiện để làm việc Chúa Cứu Thế thì đạo Do Thái đã xong nhiệm vụ và không còn lý do gì để tồn tại nữa trên thế gian nầy và hết giá trị của nó rồi .

    Khi đạo Do Thái xuyên qua chánh kinh Talmud là hết nhiệm vụ thì tất cả người Do Thái phải được dẩn dắt bởi một đức tin chân chánh duy nhất….

    Đức tin duy nhất ấy là niềm tin vào Chúa Jesus Christ.

    Nhà thông tuệ Nahmanides thận trọng bẽ lại những lý lẽ mà nhóm cuồng tín Dominic dẩn chứng ra.

    Ông cho rằng đạo Catholic là phi lô gic ( không có luận lý ).

    Jesus không thể là Chúa Cứu Thế bởi vì Jesus không mang lại hoà bình cho thế gian .
    Không thể dẩn lời trong kinh Talmud mà nói thêm được.

    Trong kinh Talmud có nói đến Chúa Cứu Thế là do nhà tiên tri Isaiah nói là : “ Dân tộc này sau khi có chú Cứu Thế thì dân tộc nầy sẽ không được dùng kiếm để chống lại dân tộc khác. Khi Chúa Cứu Thế xuất hiện thì họ sẽ không còn chiến tranh với dân tộc nào nữa “

    Đế chế La mã đã đi vào suy thoái , rổng ruột sau khi chấp nhận đạo Catholic.

    Cái chết của Jesus là do bị tội hình lớn nhất của luật La Mã , là do nhóm môn đệ của Jesus làm cho đế quyền La mã nghi ngờ là có cuộc cách mạng nổi loạn chống chính quyền La mã .

    Lúc đó Do Thái vẩn có quyền xử những phạm nhân theo luật của Do Thái mà chính quyền La mã tại rome dành cho .

    Chánh quyền Do Thái tại xứ Judea không có quyền xử những người mang tội phản loạn chống chánh quyền La Mã…

    Chúng tôi không báo và không chỉ chọt Jesus cho chính quyền La mã….mà chính môn đệ của Jesus làm ra .

    Lúc đó chính quyền chúng tôi rất ổn định , pháp luật rỏ ràng trên vùng đất tự trị Judea .

    Mọi dân Do Thái trong vùng đất nầy đều tuân thủ luật lệ của vua Herod và đồng thời cũng phải tuân luật La mã của vùng đất Palestine vậy .

    Chúng tôi không có luật hành hình tội nhân bằng đóng đinh trên thập giá…mà đó là luật hành hình của La mã dành cho những tội hình nặng nhất để làm gương cho công chúng mà họ cai trị.

    Cuộc tranh luận kéo dài đến 4 ngày với 8 người cuồng tín đạo Dominic xoay hỏi.

    Sau cùng họ chịu thua vì công chúng luôn vổ tay tán thưởng những lập luận có logic ( có luận lý ) của nhà thông tuệ Nahmanides nói ra.

    Trong ngày chót , Nahmanides nhận xét rằng người Do Thái và người Catholic bị chia rẽ bởi vấn đề thần thánh hoá của Jesus of Nazareth .

    Trong đạo Do Thái không có chổ cho niềm tin vào Chúa Cứu Thế như một vị thần . Không một con người trần tục nào được gọi là vị thần trong suốt nghìn năm kinh Do Thái ghi ra .

    Chỉ có Chúa Trời mới là một vị thần thiêng liêng .

    Tại sao Thượng đế lại sáng tạo một người mẹ trần tục một đứa trẻ…mà sau nầy đứa trẻ lớn lên…chỉ để bị phản bội bởi anh em đồng đạo của đứa trẻ ấy ? rồi đứa trẻ ấy bị hành quyết một cách vô cùng tàn nhẩn , rồi đề đứa trẻ ấy sống lại rồi đưa đứa trẻ ấy trở lại nhà một lần nữa ?

    Đạo Do Thái sẽ không bị tuyệt diệt và bị dẩn dắt bởi đạo Catholic vì kinh Torah vẩn còn giá trị đạo đức , bởi vì thế giới nầy vẩn còn tiếp tục sống còn.
    Nhân loại vẩn cần sự dẩn dắt của Chúa Trời.

    Không thề đứa trẻ ấy mang tên Jesus of Nazareth mà không còn Chúa Trời.

    Chúa Trời không thể tạo đứa bé mà sau nầy người ta gọi là Chúa Cứu Thế và rồi không còn vinh danh Chúa Trời nữa .

    Chúa Trời vẩn còn mãi mãi vì Ngài mong vậy .

    Jesus of Nazareth không phải Chúa Trời .
    Chúa Trời không phải là Jesus of Nazareth vậy

    Lúc đó toàn thề công chúng đều hoan hô vang dậy . Một chân lý đúng đắng mà họ chưa từng nghe như vậy.

    Trong đám tu sỉ cuồng tín Dominic có một kẻ xỉu vì quá tức giận sự nói thẳng của nhà thông tuệ Nahmanides .

    Vua James cũng hoan hô và Ngài thưởng tiền vàng cho Nahmanides.
    Thua trong cuộc đấu lý nầy , đám tu sỉ cuồng tín Dominic bèn quay sang Giáo Hoàng yêu cầu Giáo Hoàng can thiệp và hảy bắt tên báng bổ đạo Catholic để hành hình .

    Biết trước sự tiểu nhân lưu manh của nhóm đạo cuồng tín Dominic nầy , nên nhà Vua cho phép Nahmanides theo thuyền của chính phủ mà về lại xứ Jerusalem.

    Khi lệnh của Giáo Hoàng John VII ra lệnh gọi Nahmanides sang giáo triều để hỏi vài điều thì Vua James xứ Aragon trả lời là Nahmandies vừa rời khỏi xứ rồi .

    Nghĩa lả Giáo Hoàng John VII sẽ bắt và thiêu sống nhà thông tuệ Nahmanides nầy.
    bài viết vu khống quá lố bịch,bạn hỏi một người Do Thái theo đạo Do thái rằng cha ông của bạn có đóng đinh Chúa không? xem họ có chấp nhận không.Tự nhiên đổ lỗi cho La Mã.
    Quan Phi La Tô đã không chịu đóng đinh Chúa,nhưng sợ dân chúng nổi loạn,nên ông đã rửa tay tuyên bố ông vô can trong chuyện này,thế rồi đám lính La Mã gốc Do Thái đóng đinh Chúa !
    rồi còn nói là người Ý cuồng tín ngăn cấm Do Thái,thế thì những nhà thờ đạo Do Thái tồn tại giữa những người Ý mãi đến tận ngày nay thì sao? Vì nếu có sự ngăn cấm thì phải hoạt động lén lút thôi chứ không dám công khai như thế đâu.
    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi sa đại hiệp Xem Bài Gởi
    có người cho rằng,ky tô giáo là một tôn giáo tôn thờ bạo lực


    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.



    lại có ý kiến bắt bẻ việc ngăn cấm phá thai của ky tô giáo là việc làm sai trái, nhưng họ không chịu suy nghĩ,vì lợi ích cá nhân nhất thời mà họ nhẫn tâm đến vậy.


    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.



    ...

    Mình nghĩ hoặc do ngộ nhận, hoặc cố chấp mà thôi :worried:
    Ngã vào tội là người, nán lại trong tội là quỷ (ngạn ngữ Đức)

  11. #11

    Mặc định

    Mình cũng nghĩ như bạn. Nhưng cũng phải nghĩ thêm rằng có những người luôn muốn triệt tiêu tôn giáo và nói riêng là CG, vì sao thì suy nghĩ 1 chút các bạn sẽ hiểu, mình nghĩ vậy.

  12. #12

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    http://en.wikipedia.org/wiki/Nahmanides

    Vô cùng quan trọng về Chúa Trời Do Thái và chúa Trời Catholic.

    Danh từ riêng ramban là những chữ ghép lại của nhà thông thái kinh luật Do Thái nhất thế kỷ XIII .

    Tên thật là Moses ben Nachman , rồi người ta thêm rabbi ( thầy giáo sỉ Do Thái ).

    Ông nổi danh hất Âu Châu thời bấy giờ về sự thông tuệ tất cả những kinh điển Do Thái và Catholic .

    Thuờ trẻ ông học về Y Khoa , dư giờ ông nghiên cứu về kinh Luật Do Thái…
    Sau cùng ông chuyển hẳn về sự nghiên cứu về đạo Do Thái.

    Ông là một người mà Công giáo thời bấy giờ xem là kẻ Đệ nhất Tử thù ….vì sự thông tuệ của ông về đạo Do Thái và Catholic.

    Ông là người Do Thái sanh tại Gerona , Tây ban Nha ( Spain ) ( 1194-1270 ) .


    Vì thông tuệ nhất thế kỷ XIII , nên vua xứ Aragon thường xuyên vấn kế ông về kinh tế và luật pháp.

    Ảnh hưởng của ông lan tràn khắp Âu Châu . Nên giới tu sỉ Tây ban Nha bắt đầu nhắm vào ông bằng mọi giá là ông phải chết cho bằng được .

    Ông lập ra nhiều trường học dạy về tôn giáo Do Thái. Ảnh hưởng của ông càng lúc càng lớn vì nhiều đệ tử của ông tách rời khỏi Tây ban Nha và lập ra nhiều trường học khắp nơi .

    Ông quan niệm muốn nghiên cứu tôn giáo nào đi chăng nữa cũng bắt đầu bằng trí tuệ đầu óc của con người trần thế.
    Càng dùng trí tuệ càng nhiều thì càng gần Thượng đế hơn bao giờ hết.

    Ông viết nhiều bài giáo luận nổi danh mà ngày nay các vị giào sỉ rabbi khắp nơi trên thế giới dùng làm bài giảng đạo cuối tuần trong giảng đường Synagogue Do Thái .

    Lúc đó tại Tây ban Nha , nhánh đạo cuồng tín Công Giáo là dòng tu Dominic tại Tây ban Nha rất hung dử . HỌ không ngần ngại giết người nếu nói trái ý đạo Jesus of Nazareth mà họ gọi là kẻ báng bổ Chúa Trời .


    Hàng chục giám mục , bề trên đạo Catholic với khí thế hùng hổ như muốn ăn tươi nuốt sống một người gầy gò tên là Nachman vậy .

    Vây quanh hàng chục giáo sỉ cuồng tín Dominic với cây thập giá cầm kế bên như cây gậy sắt , sẳn sàng đập vào đầu người đối thoại- một nhà thông tuệ ramban đang ngồi với chiếc ghế thô sơ.

    Họ , nhóm cuồng tín đạo Dominic nầy muốn dùng thế đông áp đảo nhà thông tuệ nhất thế kỷ XIII về đạo Do Thái và đạo Catholic.

    Trong đám tu sỉ cuồng tín Dominic có một kẻ xỉu vì quá tức giận sự nói thẳng của nhà thông tuệ Nahmanides .

    Vua James cũng hoan hô và Ngài thưởng tiền vàng cho Nahmanides.
    Thua trong cuộc đấu lý nầy , đám tu sỉ cuồng tín Dominic bèn quay sang Giáo Hoàng yêu cầu Giáo Hoàng can thiệp và hảy bắt tên báng bổ đạo Catholic để hành hình .

    Biết trước sự tiểu nhân lưu manh của nhóm đạo cuồng tín Dominic nầy , nên nhà Vua cho phép Nahmanides theo thuyền của chính phủ mà về lại xứ Jerusalem.
    Này bạn, sao bạn lại nói dòng Đaminh như thế? Mời bạn xem tiểu sử cha thánh Đaminh nhé!
    http://www.google.com.vn/url?sa=t&rc...aQloZfsADUAvsQ
    http://www.google.com.vn/url?sa=t&rc...VIjycaWvLVtAqQ
    Tiểu Sử Thánh Đa Minh
    Đa Minh sinh ngày 24-06-1170 tại Caleruega, Gp Osma, Tây Ban Nha
    Thân phụ là bá tước Felix Guzman, thân mẫu là chân phước Gioanna Aza
    177 : Trọ học với cậu, linh mục Gumiel
    1184 : Sinh viên đại học Palencia,
    biến cố bán sách giúp dân thành trong nạn đói
    được coi là kinh nghiệm "giác ngộ" của Đaminh
    Gia nhập Kinh Sĩ Đoàn Osma,
    thụ phong linh mục năm 1194
    Năm 1203 Thuyết phục chủ quán Abigeois,
    Chúa Thánh Thần gợi lên trong Đa Minh
    "HỨNG KHỞI NỀN TẢNG"
    để lập Dòng trong tương lai :
    Cần có một tập thể những người nhiệt tình,
    hiểu và sống Tin Mừng, sẵn sàng ra đi và đối thoại
    Cùng giám mục Diego, Cha Đaminh cổ động :
    Tự nguyện sống nghèo, ra đi như người loan báo Tin Vui
    Cha thành lập năm 1206 nữ đan viện đầu tiên tại Prouille.
    Năm 1215, tại Toulouse hai tu sĩ tiên khởi Thomas và Seila,
    khấn trong tay cha Đaminh
    Theo ý Đức Innocente III
    Cha Đaminh và anh em chọn Tu Luật thánh Augustinô.
    Dòng Anh Em Thuyết Giáo
    được châu phê ngày 22-12-1216
    "Thiên Chúa ... đã gợi hứng cho chúng con chọn sống khó nghèo
    và tận hiến truyền giảng Lời Chúa, loan báo Danh Chúa Giêsu Kitô
    cho khắp hoàn cầu"
    Ngày 15 tháng 8 năm 1217, Cha Đaminh phái 16 anh em tiên khởi
    đến các thành phố lớn để :
    "Học tập, rao giảng và lập tu viện"
    Lời loan báo phải là hoa trái
    của điều đã học biết và chín mùi trong lời nguyện.
    Chỉ trong bốn năm, đến khi cha Đaminh qua đời
    Dòng đã có : 20 tu viện, với 300 tu sĩ
    Trong hai tổng hội 1220 và 1221,
    Cha Đaminh đã xác định
    những nét chính trong tổ chức Dòng:
    Nối kết hai nếp sống CHIÊM NIỆM và HOẠT ĐỘNG.
    Về với Cha trên trời ngày 06-08-1221,
    Gia sản cha để cho anh em :
    "Hãy sống bác ái, khiêm tốn, và khó nghèo tự nguyện"
    Ngài xin được chôn dưới chân anh em
    ừ nay trước nhan Chúa, Nhờ sự hỗ trợ của Đức Maria,
    Cha sẽ luôn chuyển cầu cho anh em :
    "Hăng say giảng thuyết, chuyên cần cầu nguyện,
    và luôn được bình an đích thực"
    Dòng Đa Minh luôn coi Đức Maria là Đấng Bảo Trợ
    Và đặc biệt hăng say truyền bá KINH MÂN CÔI

    CHÂN DUNG CHA ĐAMINH
    theo nữ chân phước CECILIA
    "Cha Đaminh tầm thước, thân hình mảnh mai,
    mắt đẹp và hơi sạm nắng, râu tóc mầu nâu nhạt.
    Đôi mắt Cha tuyệt đẹp.
    Từ vầng trán Cha như toát ra một ánh sáng rực rỡ,
    khiến ai nấy đều quý mến và kính trọng.
    Lúc nào Cha cũng rạng rỡ nụ cười tươi vui,
    trừ khi cảm thông với người sầu khổ.
    Đôi tay dài và đẹp, giọng nói vừa vang vừa truyền cảm.
    Đầu Cha không sói,
    bao giờ tóc Cha cũng đầy đặn và điểm vài sợi bạc"
    (Hồi ký do chị Angélique ghi)

    http://www.google.com.vn/url?sa=t&rc...ixBR71j89ApSqw
    Lm. Đào Quang Chính, OP

    Ngày nay, các linh mục đều là những nhà giảng thuyết, nhưng cách đây hơn 800 năm, chỉ các bậc giám mục trở lên mới có quyền giảng! Nói như vậy để chúng ta hiểu tại sao dòng Đa Minh được gọi là dòng giảng thuyết, và đặc sủng của dòng Đa Minh quả là một cuộc cách mạng to lớn vào thời đó.
    Đa Minh sinh năm 1170 tại Caleruega, thuộc dòng tộc Guzman, nên được gọi là Đa Minh Guzman. Guzman là một dòng tộc vị vọng tại Tây ban nha vào thời trung cổ. Thân phụ ngài là ông Felix, một kiếm sĩ "tuyệt vời và dịu dàng." Bà cố là Joanna d'Aza, xuất thân từ gia đình cao quý. Bà cố đạo đức và được đức giáo hoàng Leo XII tuyên phong chân phước. Bên cạnh Đa Minh, bà cố còn có một người con nữa cũng là chân phước dòng Đa Minh: Mannes. Thực là gia đình đạo hạnh: một thánh, hai chân phước. Cũng nên biết rằng, người anh lớn của Đa Minh, linh mục triều, suốt đời làm việc trong nhà thương giúp đỡ người nghèo

    Nhiều dấu lạ xẩy ra khi Đa Minh chào đời. Theo thánh Jordan Saxony, vị ký lục về cuộc đời Đa Minh kể lại, thì khi đang mang thai, bà cố mơ thấy mình cho chào đời một con chó ngậm bó đuốc đang cháy sáng và mang lửa đến khắp thế giới. Rồi trong ngày thánh nhân rửa tội, mẹ đỡ đầu trông thấy trên trán chú bé một ngôi sao sáng, chiếu tỏa chung quanh. Do đó tại sao ngày nay khi tạc tượng thánh Đa Minh, người ta cũng tạc luôn tượng con chó đang ngậm đuốc sáng nằm dưới chân, còn trên trán ngài thì có ngôi sao sáng.

    Cuộc đời thánh nhân lúc còn nhỏ cũng bình thường như chúng ta. Năm lên bẩy, ngài được gửi đến ở với cậu là linh mục đang coi xứ gần Caleruega. Năm 14 tuổi, chú từ giã gia đình và bố mẹ để lên học tại Palencia, là trường học nổi tiếng nhất tại Tây ban nha lúc bấy giờ. Ngay từ hồi nhỏ, chú đã biết dung hòa việc học hành với đời cầu nguyện và các bổn phận tông đồ. Có những lần chú đã bán các sách học để gíup đỡ người nghèo. Sách vở lúc chưa có nhà in, là những phẩm vật rất quý giá, nhưng người nghèo với chú còn quý giá hơn. Cũng đã hai lần chú muốn bán mình để có tiền chuộc những người bị bắt làm nô lệ. Phải chăng đó là dấu hiệu cho thấy chú sẽ dung hòa đời sống chiêm niệm và hoạt động trong tương lai?

    Hết trung học, chú xin đi tu và có lẽ được truyền chức vào năm 1194. Sau đó, cha Đa Minh xin làm kinh sĩ tại nhà thờ chính tòa Osma. Kinh sĩ có bổn phận chuyên lo đọc kinh thay cho toàn giáo phận, nhất là thay cho các linh mục hoạt động. Hội kinh sĩ theo tinh thần tu luật của thánh Augustine, sống đời ẩn thân. Với lòng đạo đức và khôn ngoan, cha Đa Minh trở nên rường cột cho hội. Vì vậy, chỉ 2 năm sau, cha được chỉ định làm bề trên hội kinh sĩ. Đây là một vinh dự lớn lao cho 1 linh mục trẻ. Kinh sĩ Đa minh thường mang trên tay sách phúc âm theo thánh Matthêu, các thư của thánh Phaolô và sách các giáo phụ.

    CHUẨN BỊ LẬP DÒNG

    Vào năm 1213, đức cha địa phận và Đa Minh được ủy thác sứ mạng thu xếp cuộc hôn nhân của hoàng tử xứ Marches và công chúa Đan mạch. Trên đường đi Đan mạch, hai ngài phải băng qua miền nam nước Pháp. Có lẽ cuộc du hành này đã thay đổi cuộc đời Đa Minh. Tại Toulouse, trong một quán trọ, ngài đã nhận ra rằng, người chủ quán trọ là một người bỏ Công giáo theo nhóm Albigensê. Cũng nên biết từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, nhóm Albigensê đã rất thành công trong việc thuyết phục người khác theo họ. Vào thời đại mà giáo hội miền nam nước Pháp bị tục hóa, khi các giám mục xa cách dân chúng, ăn mặc sang trọng, đi trên xe tứ mã, sống đời xa hoa, thì triết lý của Albigensê, dựa theo tinh thần lạc giáo Manikêu, quả là hấp dẫn với một số người. Gọi họ là Albigensê vì nhóm này khởi nguồn từ một thành phố miền nam Pháp tên là Albi. Họ chủ trương nơi con người có hai thái cực: tốt do Chúa tạo nên, xấu do Satan chiếm đoạt. Để loại trừ Satan, con người cần diệt dục, không nên lấy vợ, lấy chồng, không ăn thịt, cá và chỉ ăn rau cỏ. Cuộc sống càng đơn sơ, càng trở về với thiên nhiên càng tốt. Trong khi các giám mục địa phương, linh mục Cistercien ăn mặc sang trọng, thì giáo sĩ nhóm Albigensê ăn vận đơn sơ, đi chân không, mặc quần áo đơn giản. Do đó, họ có một bề ngoài gần gũi với đức khó nghèo của Thánh Kinh hơn. Điều quan trọng hơn cả là về tín lý họ chối bỏ 3 ngôi Thiên Chúa. Miền nam Pháp, Ý và Tây ban nha bị ảnh hưởng rất mạnh của nhóm này.

    Đa Minh để cả đêm nói truyện với người lạc giáo. Ngài nhận thấy ông chủ quán là người có lòng thành nhưng bị nghe tuyên truyền sai lạc. Đến sáng, sau khi cầu nguyện hồi lâu thì bỗng dưng người chủ quán đổi lòng. Ông xin trở lại Công giáo. Việc trở lại này đã trở thành động lực lớn thúc đẩy Đa Minh lập dòng tu chuyên lo truyền giáo. Truyền thống kể lại rằng chính tại nhà này, Đa Minh đã cầu nguyện bằng phương cách sắp xếp những ý tưởng Thánh Kinh thành một chuỗi giúp cho ngay cả người đơn sơ cũng có thể lãnh hội được. Đây là bước khởi nguồn của tràng hạt Mân Côi sau này.

    Chuyến đi của đức giám mục và của Đa Minh thành công tốt đẹp. Hai vị trở về báo Tin Mừng cho nhà vua và chuẩn bị hôn lễ. Nhà vua lại cử đức giám mục và Đa Minh lên đường đón công chúa cho hoàng tử của mình, nhưng lần du hành thứ hai này mang nhiều nét buồn. Hai vị đến hoàng cung đúng lúc nghe tin công chúa mới lìa đời. Sau đó hai vị cùng sang Roma thăm giáo đô. Cũng nên biết, giám mục địa phận Osma, đức cha Diego, là một nhân vật đạo đức và đặc biệt. Ngài đã làm trưởng hội kinh sĩ tiền nhiệm của Đa Minh. Nhận thấy có nhiều người lạc giáo, khi triều kiến đức giáo hoàng, ngài xin từ nhiệm giám mục để có thêm thời giờ chuyên lo truyền giáo. Tấm gương sáng càng khiến Đa Minh hăng hái hơn thi hành ước mộng. Tuy nhiên, đức giáo hoàng Innocent III không đồng ý. Ngược lại ngài ủy thác hai vị sang miền Languedoc, hợp lực cùng với các tu sĩ Cistercien chống lại nhóm Albigensê. Đức cha Diego, ngay khi nhận nhiệm vụ mới, ra lệnh cho các tu sĩ Cistercien phải sống đời khó nghèo. Kết quả trông thấy thực rõ rệt. Số người xin trở lại Công giáo tăng lên rất nhanh. Riêng Đa Minh thì còn dành nhiều thời giờ để tranh luận với nhóm lạc giáo. Không cãi nổi với nền thần học chắc chắn, sự thông thái và lý luận sâu sắc của Đa Minh, những người lạc giáo đe dọa giết ngài. Không sợ, Đa Minh tiếp tục rao giảng Tin Mừng cách can đảm. Ngài chọn Prouille làm trụ sở chính rồi từ đó đi đến các miền Fanjeaux, Montpellier, Servian, Beziers, và Carcassonne. Chính tại Prouille vào năm 1206 mà thánh nhân đã lập hội dòng nữ Đa Minh đầu tiên. Ngài biết có nhiều phụ nữ nhiệt thành nhưng vì lầm lạc đã theo nhóm Albi. Họ cần được nâng đỡ. Sau khi trở lại, các phụ nữ này đã xây nhà dòng và chuyên giáo dục các trẻ Công giáo. Đây là cơ sở đầu tiên của dòng nhì Đa Minh trên thế giới.

    Năm 1208 đáng được coi là năm "bản lề" của Đa Minh. Vào ngày 15 tháng 1, cha Pierre de Castelnau, vị tông tòa dòng Cistercien bị ám sát chết. Thánh Simon de Montfort quyết định mở cuộc thánh chiến chống lại nhóm Albigensê. Riêng Đa Minh thì thương xót những người lạc giáo hơn là ghét bỏ họ. Ngài cũng quyết định mở cuộc thánh chiến nhưng không trên mặt trận võ khí mà trên mặt trận truyền giáo. Chính ngài đã gặp thánh Simon và hai người trở thành bạn thân đến mãn đời.

    PHỔ BIẾN KINH MÂN CÔI

    Trận thánh chiến rất thành công cho quân đội Công giáo. Các sử gia nói rằng nơi những trận chiến này kinh Mân côi được đọc lần đầu tiên, kinh Mân côi trở thành khí giới thiêng liêng bảo vệ đạo.

    Cuộc đời và sự thánh thiện của thánh nhân nổi bật đến độ ba giáo phận xin ngài làm giám mục: năm 1212, địa phận Bezier; rồi địa phận St. Lizier, cuối cùng vào năm 1215 là địa phận Navarre. Nhưng Đa Minh tuyệt đối xin từ chối những vinh dự trên. Tấm gương của đức giám mục địa phận Osma là Diego vẫn còn in đậm trong tâm trí. Ngài nói nếu bị ép làm giám mục, ngài sẽ trốn đi ngay dù trong đêm tối!

    Tuy nhiên, không phải lúc nào Đa Minh cũng rao giảng thành công đâu. Vào những năm 1213 và 1214 lịch sử ghi lại ngài truyền giáo tại miền Carcassonne, nhưng rất ít người trở lại và ngược lại bị nhiều chống đối.

    DÒNG TU MỚI

    Đến năm 1214 ngài trở về Toulouse, Pháp quốc. Tại nơi đây ngài thực hành quyết định thành lập dòng tu chuyên lo giảng thuyết. Nổi tiếng đạo đức và khôn ngoan nên nhiều thanh niên ngưỡng mộ tìm đến với ngài. Sau khi đức cha Toulouse cho phép, Đa Minh tập họp những môn đệ đó thành một cộng đoàn. Đến năm 1215, ngài chính thức theo giáo luật thành lập nhà dòng trong giáo phận Toulouse với mục đích truyền bá đức tin và luân lý chân chính. Cũng trong năm này ông Pierre Seilan, một người giầu có miền Toulouse, đi theo thánh Đa Minh. Pierre dâng tặng cho thánh nhân nhiều sở hữu. Nhờ vậy ngày 25 tháng 4 năm 1215, tu viện đầu tiên của dòng được thành lập.

    Thoạt đầu, dòng chỉ mang tính cách là "dòng địa phận". Đa Minh mong muốn dòng mới sẽ đi truyền bá Tin Mừng khắp thế giới. May mắn thay, vào tháng 11 năm 1215, công đồng chung tại Roma được triệu tập nhằm mục đích "sửa chữa những đồi phong bại tục, dẹp tan lạc giáo và củng cố đức tin chân chính." Điều khoản giáo luật số X của công đồng còn khiển trách cách mạnh mẽ một số giám mục đã quên lãng bổn phận rao giảng, và khuyến khích việc ủy thác cho một số vị có khả năng rao giảng lời Chúa. Những lời tuyên bố đó đúng với tôn chỉ dòng Đa Minh. Tuy nhiên, nên lưu ý rằng, khi công đồng đề nghị "một số vị có khả năng" không có nghĩa là nói đến các linh mục, hoặc cụ thể hơn, các linh mục dòng Đa Minh, một dòng tu còn non trẻ.

    Trong khi chân trời mới mở rộng cho Đa Minh, thì một biến cố khác không vui xẩy ra: Công đồng chung cấm việc lập thêm dòng tu mới! Không nản lòng, Đa Minh triệu tập các anh em, thông báo quyết định của đại công đồng. Các tu sĩ Đa minh, cùng đồng ý là, thay vì dùng tu luật mới, thì sẽ theo tu luật thánh Augustino. Cho đến nay, tu luật thánh Augustinô vẫn là tu luật nền tảng của dòng, và các tu sĩ Đa Minh vẫn phải học tu luật thánh Augustinô trước khi học hiến pháp dòng. Tháng 8 năm 1216, Đa Minh xin phép gặp đức giáo hoàng, và ngày 22 tháng 12 cùng năm, đức giáo hoàng chính thức chuẩn y dòng tu có tên hiệu "Dòng giảng thuyết". Cũng nên nhắc nơi đây câu truyện rất thú vị. Một hôm, đức giáo hoàng trong giấc mơ, thấy đền thờ Latêranô bị nghiêng, thì có hai thanh niên bước đến kề vai nâng đỡ. Buổi sáng cùng ngày, ngài có hẹn gặp hai tu sĩ tên là Đa Minh và Phanxicô. Nhớ lại giấc mơ, nhìn lại khuôn mặt, ngài biết ngay rằng đây là dấu hiệu mà Chúa báo trước cho ngài: hai tu sĩ trẻ này sẽ là người nâng đỡ giáo hội. Vào thế kỷ 13, đền thờ Lateranô chính là biểu tượng của giáo hội như đền thờ thánh Phêrô thời nay. Trong thời gian ngắn ở tại Roma, đức giáo hoàng cũng nhờ thánh Đa Minh đi giúp tái lập truyền thống nghiêm ngặt nơi các nhà dòng nữ. Đa Minh đã làm cho đức giáo hoàng rất hài lòng trong việc giúp thăng tiến đời sống tinh thần tại các nhà dòng này.

    ĐẶC SỦNG CỦA DÒNG

    Đến ngày 15 tháng 8 năm 1217, Đa Minh trở về Prouille thông báo Tin Mừng cho các anh em. Ngay sau đó, Đa Minh đưa ra một quyết định được coi là táo bạo: Ngài sai 17 môn đệ đi truyền giáo toàn miền Âu châu và nhất là giảng thuyết tại các trường đại học. Tuy có một số người phản đối, cho rằng các tu sĩ còn quá non trẻ, nhưng thời gian đã cho thấy quyết định của Đa Minh hoàn toàn đúng. Thứ nhất, ngài tin tưởng các môn đệ của mình; thứ hai Chúa Thánh linh đã không ngừng làm việc nơi 17 tu sĩ Đa Minh đầu tiên, đến nỗi chỉ một năm sau, vào ngày 3 tháng 12 năm 1218, đức giáo hoàng Honorio III viết tông thư giới thiệu dòng cho toàn thể các giám mục, viện phụ, bề trên tu viện, xin các vị nâng đỡ và cùng làm việc chung với anh em trong dòng. Truyền giáo nơi các trường đại học trở thành một đặc sủng của dòng. Đa Minh muốn các tu sĩ có một trình độ cao về học vấn. Có lẽ hướng đi đó do kết quả thánh nhân thâu thập được khi làm việc tại trường đại học Palencia. Cho đến nay, đây vẫn là một trong những đặc điểm của dòng. Trong thời ban sơ, đa số tu viện đều được thành lập chung quanh trường đại học, vừa để dễ làm việc mục vụ, vừa để dễ cho các anh em đi học. Các trường đại học Paris (Pháp quốc) và Bologna (Tây ban nha) đã là những nơi "thử lửa" đầu tiên của dòng.

    Tại Roma, đức giáo hòang Honoriô, thích thú trước những thành công của anh em thuyết giáo, dành tu viện Santa Sabina cho dòng Đa Minh chịu trách nhiệm. Ngày nay Santa Sabina là nhà Mẹ của toàn dòng. Đến năm 1218, trong văn thư ngày 2 tháng 12, đức giáo hoàng còn ủy thác đền thờ Saint Sixtus dưới quyền cai quản của dòng và dành cho Đa Minh chức nghiêm sư thánh điện, tức là nhà thần học của đức giáo hoàng. Dòng Đa Minh giữ chức vụ này cho đến ngày nay.

    Vẫn ôm giấc mộng truyền giáo, Đa Minh không muốn vì công việc điều hành mà quên mộng ước. Cuối năm 1218, ngài chỉ định cha Reginal de Orleans làm tổng đại diện, còn mình thì cùng với nhiều anh em đi sang các thành phố khác. Các tu viện đầu tiên của dòng được thành lập tại Bologna, Prouille, Toulouse, Fanjeaux, sau đó tới Lyons, Segovia, Limoges, Barcelona và nhiều thành phố bên Ý... Tháng 2 năm 1219, đan viện nữ Đa minh, tức là dòng nhì được thành lập tại Madrid, Tây ban nha. Cũng trong năm đó, đức giáo hoàng Honoriô đã ban cho ngài tước hiệu "Bề trên tổng quyền" hoặc bề trên cả (Master General), là danh xưng mà các vị thừa kế giữ cho đến nay. Qua năm 1219, nhân đại hội dòng lần đầu ở Bologna, Đa Minh từ chức bề trên tổng quyền để có nhiều thời giờ đi truyền giáo. Đương nhiên, đơn xin bị từ chối. Tuy nhiên, không gì có thể cản trở Đa Minh truyền giáo. Cùng với các anh em dòng, ngài mở nhiều mặt trận: lịch sử ghi lại, qua phép lạ và lời giảng dậy, Ngài đã chinh phục hơn 100,000 người trở lại cùng Chúa. Theo cha Lacordaire thì tại Lombardy, Đa Minh đã thành lập hội "Đạo Binh Chúa Giêsu" (Militia of Jesus Christ), tức là huynh đoàn Đa Minh hoặc dòng ba Đa Minh bây giờ. Trước những thành công liên tục, vào năm 1221, ngài một lần nữa phải triệu tập công đồng chung toàn dòng lần thứ 2 tại Bologna. Sau đó ngài đi thăm đức hồng y Ugolino, một ân nhân của dòng. Trên đường trở về lại Bologna, Đa Minh bị bệnh, và sau ba tuần chịu đựng cách can đảm, thánh nhân qua đời giữa các anh em. Ngay sau khi qua đời, nhiều người đã đến cầu khấn cùng ngài. Mười ba năm sau, đức giáo hoàng Gregorio, vào ngày 13 tháng 7 năm 1234 tuyên dương ngài lên bậc hiển thánh.

    LINH ĐẠO CỦA THÁNH ĐA MINH

    "Contemplare, contemplata aliis tradere". Bên cạnh việc truyền giáo qua giảng thuyết, Đa Minh nổi tiếng vì linh đạo đặc biệt của ngài. Linh đạo này là "hãy chiêm niệm và mang kết quả của sự chiêm niệm đó đến cho tha nhân". Như chúng ta đã biết, dòng Đa Minh là một hội dòng "pha", nghĩa là vừa hoạt động, vừa chiêm niệm. Trước đó, các linh mục triều hướng nhiều về hoạt động; còn linh mục dòng khổ tu thì theo tiến trình: "học tập - cầu nguyện - chiêm niệm - (trở về) học tập". Đa Minh đề ra phương cách mới: "học tập - cầu nguyện - giảng thuyết - chiêm niệm - (trở về) giảng thuyết - học tập". Linh đạo này về sau được thánh Thomas khai triển và trở nên nổi tiếng với câu châm ngôn "Contemplare, contemplata aliis tradere." Sống đúng theo câu châm ngôn trên, cuộc đời của thánh Đa Minh được giáo hội ca tụng là ngài chỉ "nói với Chúa, về Chúa và trong Chúa." Làm sao một người có thể làm được như vậy? Chúng ta có thể làm được không? Được. Tất cả những gì Đa Minh thấy trên đường rao giảng đều là phương tiện ca tụng Chúa, để chiêm niệm và chia sẻ sự chiêm niệm đó cho tha nhân. Ở trên chúng ta đã biết, sách Phúc Âm ngài thường mang theo là sách của thánh Matthêu. Như Matthêu thuật lại nhiều chi tiết về cuộc đời của Chúa Giêsu, thì Đa Minh cũng thấy mọi biến cố trong cuộc sống, đều là phương cách giúp chiêm niệm và rao giảng Tin Mừng. Lòng nhiệt thành với việc rao giảng Tin Mừng của Đa Minh mạnh đến nỗi trong tông thư tuyên dương hiển thánh cho ngài, đức giáo hòang Gregory đã tuyên bố rằng không ai ngạc nhiên gì về sự thánh thiện của Đa Minh đáng nêu gương cho mọi người như sự thánh thiện của hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô!

    Lậy Cha thánh Đa Minh, xin cầu cho chúng con.

  13. #13

    Mặc định

    họ ngoài việc khích bác với vu khống ra thì chẳng biết làm gì và nokthinh0k là một người lưỡng giới nam,quê quán ở VĨnh Long,nhà theo đạo Phật,chứ thật ra chẳng có ở mỹ với nhà theo công giáo gì đâu
    Thiên hạ “Chi nghinh nam bắc điểu”
    Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”

  14. #14

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    Nhìn mấy đứa bé trong clip này xem , nhìn cũng rất thông minh và sáng sủa

    SVCZ YouTube Player
    ERROR: If you can see this, then YouTube is down or you don't have Flash installed.
    Người Do Thái đã được Thiên Chúa chọn làm Dân Riêng từ thủa xa xưa mà!
    Jesus Con của Ngài cũng đã xuất thân từ dân tộc Do Thái.
    Chúa Jesus chính là người Do Thái được quan tâm nhiều nhất trong lịch sử nhân loại.
    Do Thái giáo được Thiên Chúa mạc khải Ngài là Thiên Chúa của họ, đã dựng nên họ, luôn đồng hành cùng họ trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Do Thái. Nên dân tộc này đã tin nhận TC, là dân tộc có tôn giáo độc thần, trong khi cùng thời đó thì các dân tộc khác thờ đa thần.
    TC đã loan báo Ngài sẽ cho Con của Ngài xuống trần gian, là Đấng Messia, cứu độ dân tộc DT.
    Đó là thời Cựu Ước.
    Nhưng khi Con của Ngài là Chúa Jesus xuống trần gian, (thời Tân Ước), mặc lấy xác phàm ngoại trừ tội lỗi và đi rao giảng về nước TC thì đa số người DT lại không tin nhận và còn mưu giết Chúa Jesus. Vì đối với đức tin cha truyền con nối của người DT thì Đấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân tộc Israel khỏi tay ngaọi bang, sẽ đem lại cuộc sống ấm no cho 1 vương quốc Israel thịnh vượng, các dân tộc khác sẽ phải quy phục dân tộc DT; chứ Đấng Cứu Thế không phải là ông Jesus khố rách áo ôm, xuất thân nghèo hèn, lang bạt kỳ hồ với bọn ngư phủ dốt nát (các tông đồ), giao du với phường tội lỗi (tông đồ Mattheu, ông Giakeu, bà Maria Madalena, ...), kết bạn với người nghèo (chị em Matta, và quảng đại quần chúng). (Vì Chúa Jesus tự nhận nước của Ngài không thuộc về thế gian này)
    Vậy đấy! nên bây giờ thế giới vẫn còn Do Thái giáo. Những người Do thái vẫn đang ngóng chờ Đấng Mesia, trong khi Ngài đã đến thì họ lại không nhận ra.
    Còn từ sau khi Chúa Jesus chịu Tử Nạn và Phục Sinh thì mới có đạo Công giáo. Sau khi dặn các tông đồ hãy đi rao giảng Tin Mừng khắp thế gian, Thầy sẽ gửi Thánh Thần đến ở với các con, Chúa Jesus về trời, Các tông đồ được tràn đầy Thánh Thần đã ra đi loan báo Tin Mừng: Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, đã chịu Tử Nạn và Phục Sinh để cứu độ nhân loại. Nổi bật trong số các tông đồ có Phaolo, từ 1 người Biệt Phái chuyên lùng bắt các Kito hữu sơ khởi, sau biến cố ngã ngựa trên dường Damas, Phaolo đã dược Chúa "mở mắt" đức tin, ông trở nên tông đồ nhiệt thành, rao giảng hăng say cho dân ngoại được biết Chúa. Cũng phải nói thêm rằng thời gian đầu đã có sự nghi kị giữa các tông đồ với Phaolo, vì làm sao 1 người chuyên lùng bắt các Kito hữu lại quay sang rao giảng về Chúa Jesus Tử Nạn và Phục Sinh hăng say thế? Nhưng với TC thì chẳng có gì là không thể.
    Nay thì đạo CG thủa ban đầu đã chia thành Công Giáo Roma, Chính Thống giáo, Anh giáo, Tin Lành (TL còn chia ra rất nhiều phái nữa).
    Nhưng tất cả đều có chung niềm tin vào Chúa Jesus là Ngôi Hai TC và Ngài đã Tử nạn và Phục Sinh thời quan tổng trấn Philato

    Theo mình nghĩ thì dù theo Do Thái giáo, CG hay TL, Chính Thống giáo hay Anh giáo thì Chúa vẫn luôn ở bên ta, vì Ngài là Cha chúng ta, và chúng ta là con cái Ngài. Vấn đề là các con có yêu thương nhau như anh em cùng Cha không?, có yêu thương như Chúa Jesus đã yêu thương chúng ta không? Tất cả chúng ta hãy sống trọn luật Chúa: mến Chúa yêu người, vậy là ổn rùi, phải không các bạn?
    Last edited by abbachaoi; 18-11-2011 at 08:30 PM.

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    Albert Einstein gia đình theo đạo công giáo

    nhưng albert Einstein lại tìm hỉu phật giáo , và quan tâm tới phật giáo nhìu hơn :whistling:
    Nhưng khi ông chết thì sao?
    20 sự thật về Albert Einstein http://vietbao.vn/The-gioi/20-su-tha.../30174328/159/

    Einstein là một cậu bé chậm phát triển, mắc chứng tự kỷ, từng thi trượt toán, suy nghĩ bằng hình ảnh thay vì bằng lời nói… Đó có phải là một số sự thật về người đàn ông được mệnh danh là thông thái nhất thế giới? Tất cả đã được tiết lộ trong cuốn sách “Einstein: Cuộc đời và Vũ trụ” của Walter Isaacson.
    Einstein là một cậu bé chậm nói?

    Einstein là đứa trẻ chậm biết nói. Thậm chí bố mẹ ông còn phải đưa ông đi khám. “Bố mẹ tôi đã lo sợ đến mức họ phải tham khảo ý kiến của bác sỹ” – Einstein sau này nhớ lại. Thậm chí lúc khoảng hai tuổi, khi ông bắt đầu biết nói một số từ, ông có một tật xấu khiến người hầu trong gia đình gọi ông là “thằng đần”. Bất kỳ khi nào muốn nói điều gì đó, ông sẽ phải tự nói thử trước, bằng cách lẩm bẩm một mình cho đến khi nghe ổn đã. “Mỗi câu anh ấy nói ra, dù đã nói bao nhiêu lần rồi, anh ấy đều tự nhẩm đi nhẩm lại trước.” – Em gái của Einstein nhớ lại. “Anh ấy nói khó khăn đến nỗi mọi người chung quanh đều sợ rằng anh ấy sẽ không bao giờ học được.”

    Ngoài ra Einstein còn có thái độ rất ngỗ ngược với các nhà chức trách. Có lần một thầy hiệu trưởng đã tống cổ ông ra khỏi trường vì ngỗ ngược và chậm hiểu. Nhưng chính những điều đó đã làm nên một Einstein thiên tài. Thái độ bướng bỉnh của ông với các nhà chức trách khiến ông đưa ra những câu hỏi rất thông minh; cũng như việc chậm nói đã làm ông không ngừng tò mò về những điều hết sức bình thường, như không gian và thời gian, những thứ mà người lớn luôn coi là điều dĩ nhiên phải biết. Lên năm tuổi, cha ông đưa cho ông một cái la bàn, và kể từ đó cho đến hết cuộc đời mình ông luôn luôn băn khoăn về đặc điểm của từ trường.

    Einstein mắc chứng tự kỷ?
    Một số nhà nghiên cứu cho rằng thời nhỏ Einstein mắc chứng tự kỷ. Chính Simon Baron-Cohen, giám đốc trung tâm nghiên cứu chứng tự kỷ ở Đại học Cmabridge là một trong số đó. Ông cho rằng chứng tự kỷ liên quan đến “xu hướng hệ thống hoá rất cao và xu hướng đồng cảm đặc biệt kém”. Ông chỉ ra rằng chính xu hướng đó “giải thích cho khả năng đặc biệt giỏi ở những môn như toán học, âm nhạc và hội hoạ của người mắc chứng tự kỷ. Tất cả những lĩnh vực trên đều cần đến khả năng hệ thống hoá cao.”

    Tuy nhiên, từ khi còn nhỏ, Einstein đã kết thân với nhiều bạn, có những mối quan hệ sâu sắc, thích tán gẫu, và giao tiếp tốt bằng lời nói với mọi người cũng như biết đồng cảm với bạn bè hay con người nói chung.

    Einstein thi trượt toán?

    Nhiều người đến nay vẫn đinh ninh rằng khi còn đi học Einstein từng thi trượt môn toán. Nếu tìm kiếm trên Google với từ khoá Einstein failed math, thì có tới hơn 5.000 mục tham khảo. Thậm chí, thông tin trên còn là tiền để tạo nên mục “Tin hay không tin của Ripley” nổi tiếng trên báo.

    Năm 1935, một giáo sỹ Do thái ở Princeton đưa cho ông xem mục của Ripley với dòng chữ “nhà toán học vĩ đại nhất đã trượt môn toán.” Einstein đã cười lớn: “Tôi chưa bao giờ thi trượt môn toán cả. Trước 15 tuổi, tôi đã thành thạo những phép tính vi phân và tích phân.” Ở trường tiểu học, ông luôn đứng đầu lớp và luôn “học vượt quá yêu cầu của trường” đối với môn toán học. Lên 12 tuổi, em gái của ông nhớ lại, “Einstein đã thích giải những vấn đề khó trong môn số học ứng dụng.” Và Einstein đã quyết định tự học hình học và đại số trước. Cha mẹ Einstein đã mua trước sách cho ông để ông có thể học trong dịp nghỉ hè. Không những ông học được những mệnh đề trong những cuốn sách đó mà còn cố gắng tự chứng minh những định lý mới. Thậm chí ông còn tự đưa ra cách chứng minh riêng cho định lý Pitago.

    Einstein nghĩ bằng hình ảnh nhiều hơn là bằng lời nói?

    Đúng như vậy. Các phát minh vĩ đại của ông đều có được nhờ những thí nghiệm tưởng tượng trong đầu ông, chứ không phải là ở trong phòng thí nghiệm. Người ta gọi đó là Gedankenexperiment – thí nghiệm bằng suy nghĩ. Mới 16 tuổi, ông đã cố gắng tưởng tượng trong đầu óc rằng mình sẽ như thế nào nếu đi dọc theo một đường ánh sáng? Nếu đuổi kịp tốc độ của ánh sáng thì liệu sóng ánh sáng có đứng yên so với con người? Nhưng phương trình nổi tiếng của Maxwell mô tả sóng điện từ lại không cho phép điều đó. Einstein biết toán học là ngôn ngữ dùng để diễn tả những điều kỳ diệu của tự nhiên. Vì vậy ông có thể hình dung rõ các phương trình được phản chiếu trong thực tế như thế nào. Và 10 năm sau đó, ông đã nung nấu với thí nghiệm trong đầu mình cho đến ngày đưa ra thuyết tương đối riêng.

    5. Einstein đã sử dụng bức tranh ý nghĩ nào cho thuyết tương đối riêng?

    Cùng với những thứ khác, Einstein đã tưởng tượng sét đánh ở hai đầu của một con tàu đang chuyển động. Một người ở cạnh đường tàu có thể nhìn thấy tia chớp đánh ở hai đầu của đoàn tàu cùng một lúc. Nhưng ai đó ở trên con tàu lại thấy chúng có vẻ như xảy ra ở hai thời điểm khác nhau. Do con tàu đang chuyển động nhanh về phía trước nên ánh chớp đánh ở phía trước con tàu sẽ tiến đến người đó trước khi ánh chớp đánh ở phía sau con tàu. Từ đó, ông nhận ra rằng tính đồng thời liên quan đến trạng thái của con người. Và cũng từ đó ông nảy ra ý tưởng rằng không có cái gọi là thời gian tuyệt đối. Thời gian là tương đối. Vì vậy thuyết tương đối riêng ra đời.

    Thí nghiệm bằng suy nghĩ nào đã đưa Einstein đến với thuyết tương đối chung?

    Ông tưởng tượng một người đàn ông rơi tự do. Để biết người đó nhìn thấy gì, hãy tưởng tượng một người ở trong một buồng thang máy đóng kín đang chạy xuống dưới. Anh ta sẽ bay lơ lửng trong buồng thang máy và bất kỳ thứ gì anh ta lôi ở trong túi ra và đánh rơi cũng trôi nổi tự do cạnh anh ta, giống như anh ta đứng im trong một phòng đóng kín, không trọng lực ở ngoài không gian vậy.

    Mặt khác, hãy tưởng tượng một người phụ nữ ở trong một phòng đóng kín, đang rảo bước vào không gian, không có trọng lực. Cô sẽ có cảm giác bị kéo xuống sàn nhà, thể như cô bị hút bởi trọng lực vậy. Từ sự cân bằng giữa trọng lực và gia tốc, Einstein đã xây dựng nên thuyết tương đối chung.

    7. Có bức tranh ý nghĩ nào miêu tả kết luận của Einstein về thuyết tương đối chung?

    Ông chỉ ra rằng, trọng lực là sự chênh lệch của thời gian và không gian. Nó có thể được miêu tả bằng thí nghiệm tưởng tượng sau. Hãy tượng tượng sẽ ra sao nếu lăn một quả óng bowling lên trên bề mặt hai chiều của một tấm bạt lò xo. Khi chuyển động, nó sẽ làm cong tấm bạt. Sau đó lăn một vài quả bóng bi-a. Chúng chuyển động về phía quả bóng bowling không phải vì quả bóng bowling có một lực hấp dẫn bí ẩn nào đó, mà vì đường cong nó tạo ra trên tấm bạt lò xo. Và giờ hãy tưởng tượng điều này xảy ra ở tấm bạt bốn chiều của không gian và thời gian. Không dễ chút nào. Nhưng đó là điều chúng ta không thể, Einstein có thể.
    Năm 1905 là năm tuyệt vời nhất trong sự nghiệp làm khoa học của Albert Einstein. Tuy chỉ xin được làm chân giám định viên hạng ba ở một văn phòng cấp bằng sáng chế, nhưng chính thời gian đó, ông lại cho ra đời 4 bài báo lật ngược lại những lý thuyết vật lý của nhân loại lúc bấy giờ.

    8. Năm tuyệt vời nhất đối với Einstein?

    Năm 1905, Einstein tốt nghiệp đại học, nhưng ông không làm thế nào để luận văn tiến sỹ của mình được chấp nhận và cũng không xin đi dạy được. Vì vậy ông đã làm việc sáu ngày một tuần tại một văn phòng cấp bằng sáng chế của Thuỵ Sỹ với chức vụ giám định viên hạng ba. Trong suốt thời gian rảnh ở đây, ông đã cho ra đời 4 bài báo lật ngược lại một số lý thuyết vật lý. Bài đầu tiên cho thấy ánh sáng có thể nhận biết như phân tử hoặc sóng. Bài thứ hai chứng minh sự tồn tại của nguyên tử và phân tử. Bài thứ ba là về thuyết tương đối riêng, cho biết không có cái gọi là thời gian hay không gian tuyệt đối. Và bài cuối cùng ông chú ý tới sự cân bằng giữa năng lượng và khối lượng, được biểu thị bằng phương trình nổi tiếng: E=mc2.

    9. Đời sống riêng của Einstein lúc đó ra sao?

    Giúp ông kiểm tra lại các phép toán là một cô gái người Serbia, có khuôn mặt buồn rầu, Mileva Mari. Mari là cô gái duy nhất trong lớp học vật lý của ông ở trường đại học. Họ đã yêu nhau say đắm và có một đứa con gái khi chưa kết hôn. Chính vì vậy, ông đã phải chấp nhận cho con đi làm con nuôi khi chưa nhìn thấy mặt con. Khi đã kết hôn, họ có thêm hai con trai nữa. Nhưng cuối cùng, mối quan hệ của họ lại tan vỡ. Einstein muốn ly dị, và đưa ra đề nghị: Ông biết một trong những công trình xuất bản trên báo năm 1905 sẽ giành được giải Nobel, và nếu Mari đồng ý cho ông ly dị, ông sẽ cho cô tất cả số tiền thưởng đó. Mari suy nghĩ trong một tuần và chấp nhận đề nghị. Nhưng do các học thuyết của Einstein quá cấp tiến nên mãi đến năm 1922 ông mới được trao giải và Mari mới nhận được số tiền cho cuộc ly hôn với chồng.

    10. Mileva Mari có đáng được thưởng với tư cách là một cộng tác?

    Mari đã giúp Einstein trong toán học. Bà đã kiên nhẫn chịu đựng Einstein, nhưng Einstein thậm chí còn phải kiên nhẫn chịu đựng nhiều hơn. Tuy nhiên nếu phân tích kỹ thư từ và tuyên bố của họ sau này thì thấy tất cả các khái niệm đều là của Einstein. Song không thể coi thường khả năng vượt qua hầu hết mọi khó khăn mà một phụ nữ muốn trở thành một nhà vật lý như bà ở thời điểm đó phải đối mặt.

    11. Thuyết tương đối của Einstein được đón nhận như thế nào?

    Đầu tiên giới khoa học đều nghi ngờ về tính đúng đắn của thuyết tương đối rộng. Nhưng trong lần xảy ra hiện tượng nhật thực năm 1919, các nhà khoa học đã đo được ánh sáng phát ra từ những ngôi sao khi đi ngang qua gần mặt trời đã bị trọng lực của mặt trời uốn cong như thế nào. Đến lúc đó thuyết của Einstein mới được công nhận. Lần đầu tiên tờ New York Times giật dòng tít: “Tất cả ánh sáng đều bị uốn cong trên thiên đường/Giới khoa học ít nhiều đều tò mò về kết quả quan sát nhật thực/Thuyết của Einstein đã chiến thắng.” Einstein kể từ đó trở thành một siêu minh tinh trong giới khoa học, thần tượng của nhân loại và một trong những gương mặt nổi tiếng nhất hành tinh. Công chúng đua nhau nghiên cứu học thuyết của ông, đánh giá ông là một thiên tài và phong ông là một vị thánh sống.

    12. Tại sao Einstein phải chờ rất lâu mới nhận được giải Nobel?

    Đầu tiên các bài báo năm 1905 của ông bị đánh giá là thất bại và không được chứng thực. Ông được đề cử cho giải Nobel lần đầu tiên là vào năm 1910. Người đề cử chính là Wilhelm Ostwald, người đoạt giải Nobel hoá học, và đã từ chối nhận Einstein vào làm việc chín năm về trước. Ostwald trích dẫn thuyết tương đối hẹp, nhưng hội đồng trao giải Nobel Thuỵ Điển lại băn khoăn về điều khoản trong di chúc của Alfred Nobel, đó là giải thưởng phải là “phát minh hoặc khám phá quan trọng nhất”. Có vẻ như thuyết tương đối của Einstein không hoàn toàn như vậy.

    Nhưng kết quả quan sát nhật thực tháng 11/1919 đã khẳng định một số phần trong thuyết của Einstein. Và lẽ ra năm 1920 đã trở thành năm của Einstein. Nhưng nó đã bị chính trị can thiệp. Cho đến trước thời điểm này, Einstein không nhận được giải Nobel chỉ là xét về mặt khoa học: công trình của ông chỉ đơn thuần là lý thuyết, nó không phải là “phát hiện” ra định luật gì mới. Sau khi quan sát hiện tượng nhật thực, thì những lý lẽ phản bác lại ông lại nhuốm màu kỳ thị văn hoá và cá nhân, trong đó có cả chủ nghĩa bài Do Thái. Vì vậy giải Nobel 1920 đã rơi vào tay đối thủ của Einstein: Charles-Edouard Guillaume.

    Nhưng đến năm 1921, sự ủng hộ của công chúng đối với Einstein đã lớn mạnh đủ để ông có thể giành giải Nobel. Tuy nhiên, Uỷ ban trao giải Nobel vẫn chưa sẵn sàng. Cuối cùng, phải nhờ đến “phao cứu hộ”, Einstein mới có được giải Nobel. Phao cứu hộ đó chính là Carl Wilhelm Oseen, một nhà vật lý lý thuyết ở trường Đại học Uppsala, người có chân trong Uỷ ban trao giải thưởng Nobel vào năm 1922. Ông đã nhận ra rằng toàn bộ vấn đề thuyết tương đối gây ra rất nhiều tranh cãi, vì vậy tốt hơn là trao cho Einstein một giải khác. Và ông đã tích cực vận động để trao cho Einstein giải “phát hiện định luật hiệu ứng điện quang”. Từng chữ trong tên giải thưởng đã được tính toán rất kỹ. Như vậy, cuối cùng đề cử cho thuyết tương đối đã không được gì. Trên thực tế, giải thưởng cũng không phải là ghi nhận cho thuyết lượng tử ánh sáng của Einstein, mặc dù đó là vấn đề then chốt trong các bài báo năm 1905 của ông. Nó không dành cho bất kỳ thuyết nào hết. Nó là cho “sự phát hiện của một định luật”.

    Einstein là tác giả của giải Nobel năm 1921 “vì sự cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết và đặc biệt là vì phát hiện ra định luật hiệu ứng điện quang.” – Đó là những từ Uỷ ban trao giải dành cho ông. Như vậy Einstein chưa bao giờ giành được giải Nobel về thuyết tương đối hay trọng lực.

    13. Các học thuyết của Einstein chi phối văn hoá như thế nào?

    Trong gần ba thế kỷ, vũ trụ cơ học của Isaac Newton đã hình thành nền móng tâm lý cho Thời đại khai sáng (thời kỳ trong thế kỷ 18 ở châu Âu, khi người ta cho rằng chính lý trí và khoa học (chứ không phải tôn giáo) sẽ làm cho nhân loại tiến bộ) và trật tự xã hội. Và giờ xuất hiện cách nhìn mới về vũ trụ, trong đó thời gian và không gian phụ thuộc vào hệ quy chiếu. Một cách không trực tiếp, thuyết tương đối của Einstein liên quan đến việc hình thành chủ nghĩa tương đối trong đạo đức, nghệ thuật và chính trị. Người ta ít tin vào tính tuyệt đối, không chỉ của thời gian, không gian, mà của cả sự thật và đạo đức. Những người có đầu óc tưởng tượng không theo khuôn phép như Picasso, Joyce, Freud, Stravinsky, Schoenberg bắt đầu bứt phá ra khỏi những quy ước thông thường. Bơm vào sự hoang mang này là quan điểm về vũ trụ, trong đó không gian, thời gian và đặc tính của các phần tử dường như phụ thuộc vào vị trí quan sát.

    14. Einstein có phải là người theo chủ nghĩa tương đối về đạo đức?

    Nhiều người coi Einstein là một người theo chủ nghĩa tương đối. Trong số đó có cả những người muốn bày tỏ thái độ bài Do Thái của họ. Nhưng rõ ràng Einstein không phải là người như vậy. Tất cả những học thuyết của ông, kể cả thuyết tương đối, đều là đi tìm cái tuyệt đối và cái đúng đắn. Trên thực tế, ông đã xem xét đến việc đặt tên công trình của mình là “Thuyết bất biến” thay vì “Thuyết tương đối”, bởi nó dựa vào những điều bất biến và đúng đắn ẩn chứa bên trong. Sở dĩ, Einstein phủ định cơ học cổ điển là vì nó đưa ra giả thuyết là thực tại tồn tại dựa vào nhận thức của chúng ta về nó. Điều này đi ngược với quan điểm của ông, đó là thực tại tồn tại độc lập với khả năng nhận thức của con người.

    Einstein không phải sinh ra để chết trong cay đắng. Nằm trên giường bệnh lúc cuối đời, ông đã soạn bài phát biểu ông định đọc trong ngày quốc khánh của Israel. “Hôm nay tôi nói với các bạn không phải với tư cách là một người Mỹ, hay một người Do Thái, mà với tư các là một con người.”

    15. Dòng máu Do Thái có vai trò gì trong cuộc sống cũng như thành tựu của Einstein?

    Trong cuộc đời Einstein, mối liên hệ của ông với người Do Thái là mối liên hệ thân thiết nhất, mặc dù ông không đi theo những nghi lễ tôn giáo của họ. Nhiều người có thái độ bài Do Thái đã công kích cả ông lẫn thuyết tương đối của ông. Nhưng thái độ đó càng lớn, thì lại càng làm ông xích lại gần với người Do Thái hơn. Chuyến đi đầu tiên của ông tới Mỹ là để quyên tiền cho phong trào phục quốc của người Do Thái. Năm 1933 ông đã trốn Hitler đến Princeton. Gần cuối đời mình, ông còn nhận được lời đề nghị làm tổng thống Israel. Tuy nhiên, ông đã lịch sự từ chối.

    16. Einstein có tin vào Chúa?

    Câu trả là có. Theo Einstein, Chúa linh thiêng và không tồn tại bằng xương bằng thịt. Tuy nhiên ông vẫn tin rằng “bàn tay” của Chúa có ở mọi nơi và được phản ánh trong sự hài hoà giữa những quy luật tự nhiên và vẻ đẹp của vạn vật. Ông thường gọi tên Chúa, ví dụ như ông nói “Chúa trời không chơi trò may rủi”, khi phủ nhận cơ học cổ điển. Niềm tin của Einstein vào điều lớn lao hơn cả chính mình đã tạo ra trong ông sự hoà trộn kỳ lạ giữa sự tự tin và khiêm nhường. Như trong lời tuyên bố nổi tiếng của ông: “Có một linh hồn ẩn chứa trong những quy luật của vũ trụ, một linh hồn cao cả hơn linh hồn của con người, và một khi đối mặt với linh hồn đó, chúng ta, với sức mạnh khiêm tốn, cảm thấy nhỏ bé biết chừng nào. Bằng cách đó, theo đuổi khoa học dẫn tới một cảm giác sùng bái đặc biệt.”
    Khi được hỏi ông có tin vào Chúa không, ông luôn khẳng định là có. Có lần ông đã giải thích rằng: “Chúng ta giống như một đứa trẻ bước vào một thư viện lớn, với đầy sách được viết bằng nhiều thứ tiếng. Đứa trẻ biết phải có ai đó viết ra những cuốn sách này. Nhưng nó không biết là bằng cách nào. Nó không hiểu các ngôn ngữ được viết. Nó chỉ lơ mơ hoài nghi về trật tự sắp xếp các cuốn sách đầy bí ẩn nhưng không biết đó là cái gì. Và với tôi, đấy cũng là thái độ của một người thông thái nhất nhân loại đối với Chúa. Chúng ta nhận thấy vũ trụ được sắp xếp theo một cách rất kỳ diệu và tuân theo những quy luật nhất định, nhưng chỉ lờ mờ hiểu về những quy luật đó mà thôi.”

    17. Lý thuyết của Einstein vẫn được chấp nhận?

    Đúng vậy. Cuộc đời Einstein chứa đựng hầu như toàn bộ khoa học hiện đại, từ vi phân đến vô hạn, từ cái nhỏ nhất có thể tưởng tượng được, như sự phóng các hạt pluton, đến cái lớn lao có thể nhận thức được, như sự mở rộng của vũ trụ. Một thế kỷ sau những phát hiện lớn lao của Einstein, chúng ta vẫn đang sống trong vũ trụ của ông. Các hạt quang điện, vô tuyến, năng lượng hạt nhân, tia laser, du hành vũ trụ, thậm chí cả chất bán dẫn, tất cả đều có dấu chân của ông. Ông đã viết một lá thư gửi tới Tổng thống Mỹ Roosevelt, gợi ý về một dự án chế tạo bom hạt nhân và những lá thư viết về phương trình nổi tiếng của ông, mô tả mối liên hệ giữa năng lượng và khối lượng. Hai học thuyết lớn của ông, mở đường đưa khoa học vào thế kỷ 20, thuyết lượng tử và thuyết tương đối, vẫn là hai trụ cột vững chắc cho vật lý lý thuyết một thế kỷ sau đó.

    18. Einstein không phủ nhận cơ học lượng tử?

    Einstein tin rằng cơ học lượng tử, có những điều chưa rõ ràng và không chắc chắn, không đưa ra được mô tả hoàn chỉnh về vũ trụ. Ông đã dành một nửa cuộc đời làm khoa học của mình để cố tìm ra lỗ hổng trong học thuyết về cơ học lượng tử, và để sắp xếp nó thành một học thuyết hợp nhất. Nhưng ông đã không thành công. Tuy nhiên, cuộc tìm kiếm đơn phương độc mã và ngoan cố của Einstein đã nói lên rất nhiều điều về tính cách cũng như trí tuệ của ông.

    19. Quan điểm chính trị của Einstein là gì?

    Trước khi Hitler lên nắm quyền và buộc ông phải xem xét lại quan điểm chính trị của mình, Einstein là một người theo chủ nghĩa hoà bình. Ông đã yêu cầu chế tạo bom hạt nhân, nhưng sau đó lại trở thành người đứng đầu trong một phong trào tìm cách kiểm soát nó. Ngay khi tìm kiếm một học thuyết hợp nhất về khoa học, ông đã theo đuổi một thế giới theo chế độ liên bang, có thể áp dụng trật tự đối với những nước cạnh tranh nhau.
    Cuối cùng Einstein có phải là người ảo tưởng ?

    Einstein không phải sinh ra để chết trong cay đắng. Nằm trên giường bệnh lúc cuối đời (năm 1955), ông đã soạn bài phát biểu ông định đọc trong ngày quốc khánh của Israel. “Hôm nay tôi nói với các bạn không phải với tư cách là một người Mỹ, hay một người Do Thái, mà với tư các là một con người.” – Đó là những lời mở đầu bài phát biểu. Trong đêm cuối cùng, ông đã đặt bài phát biểu sang một bên, và nhặt lên cuốn sổ đầy những phép tính nguệch ngoạch. Đến phút cuối cùng ông vẫn trăn trở để tìm ra học thuyết hợp nhất chưa có lời kết của mình. Và điều cuối cùng ông viết, ngay trước khi bị cơn đau đớn xâm chiếm, là thêm một dòng biểu tượng và con số mà ông hi vọng có thể đưa ông, và tất cả chúng ta, xích gần thêm một bước nữa tới linh hồn ẩn chứa bên trong quy luật của vũ trụ.
    Nguyên Hạ

    Theo Time

    Việt Báo (Theo_DanTri)

  16. #16
    Lục Đẳng Avatar của kiếp mù lòa
    Gia nhập
    Oct 2010
    Nơi cư ngụ
    hoa quả sơn
    Bài gởi
    21,931

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nothing0k Xem Bài Gởi
    bằng chứng đâu

    ?

    đúng là trình độ internet con nít , chỉ bít xem IP
    đừng đùa nữa hỡi bạn duy mắn ruốc,yêu sa đại hiệp không được đáp nên vào đây phá phách chứ gì
    haiz...........................

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. LUYỆN NGỤC
    By abbachaoi in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 02-08-2016, 12:14 AM
  2. Đối thoại với thương đế
    By Itdepx in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 22
    Bài mới gởi: 27-01-2012, 05:37 PM
  3. Trả lời: 48
    Bài mới gởi: 29-04-2011, 12:15 AM
  4. Cẩm nang cho cuộc sống
    By phúc minh in forum Mật Tông
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 06-04-2011, 06:33 PM
  5. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 01-04-2011, 06:14 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •