Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 36

Ðề tài: KINH PHÁP HOA

  1. #1

    Mặc định KINH PHÁP HOA

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)

    Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch
    CUỐN 1
    Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận Tam bảotừ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinhĐại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.
    Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:
    Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh củatuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảotrong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởikinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trìPháp Hoa vãng sinh Đâu Suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy Bồ tát Văn Thù, vị Pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Quan Âm, vị Đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.


    KINH PHÁP HOA
    Phẩm 1: Mở đầu
    Tôi nghe như vầy. Một thời đức Thế Tôn ở trong đỉnh Linh sơn, thuộc thành Vương Xá, cùng chúng đại Tỷ kheo mười hai ngàn vị, toàn là những bậc A La Hán mà sự sơ hở đã được tận diệt, sự phiền não không còn tái sanh, đã đạt được sự ích lợi của bản thân, đã dứt hết sự ràng buộc vào hiện hữu, tâm trí tự tại giải thoát. Tên các vị ấy là tôn giả Kiều Trần Như, tôn giảĐại Ca Diếp, tôn giả Tần Loa Ca Diếp, tôn giảGià Da Ca Diếp, tôn giả Na Đề Ca Diếp, tôn giả Xá Lợi Phất, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Chiên Diên, tôn giả A Nâu Lâu Đà, tôn giả Kiếp Tân Na, tôn giả Kiều Phạm Ba Đề, tôn giả Ly Bà Đa, tôn giả Tất Lăng Già, tôn giả Bạc Câu La, tôn giả Câu Hy La, tôn giả Nan Đà, tôn giả Tôn Đà Ra Nan Đà, tôn giả Phú Lâu Na, tôn giả Tu Bồ Đề, tôn giả A Nan Đà, tôn giả La Hầu La, đại loạinhư vậy, những vị A La Hán mà mọi người đều biết. Lại có hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu họchoàn tất, có Tỷ kheo ni Đại Thắng Sinh Chủcùng với sáu ngàn người tùy thuộc, có thân mẫutôn giả La Hầu La là Tỷ kheo ni Trì Dự cùng với những người tùy thuộc, đều đến tụ tập.
    Chúng đại Bồ tát có tám mươi ngàn, toàn là những vị không thoái chuyển đối với tuệ giác vô thượng, được các pháp tổng trì, được các tài hùng biện mà trong đó có sự biện thuyết hoan hỷ, biện thuyết về pháp không thoái chuyển; đã phụng sự vô lượng trăm ngàn chư Phật, vun trồng các gốc rễ công đức ở nơi chư Phật ấây, và thường được chư Phật ấy tán dương; sửa mình bằng đức tính từ bi, khéo nhập vào tuệ giác Phật đà, thông suốt tuệ giác vĩ đại, đạt đến bờ bến bên kia; danh tiếng vang khắp vô lượng quốc độ, hoá độ vô số trăm ngàn chúng sanh. Tên các vị ấy là Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, Bồ tát Quan Thế Âm, Bồ tát Đại Thế Chí, Bồ tát Thường Tinh Tấn, Bồ tát Bất Hưu Tức, Bồ tát Bảo Chưởng, Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Dũng Thí, Bồ tát Bảo Nguyệt, Bồ tát Nguyệt Quang, Bồ tát Mãn Nguyệt, Bồ tát Đại Lực, Bồ tátVô Lượng Lực, Bồ tát Việt Tam Giới, Bồ tát Hiền Hộ, Bồ tát Di Lạc, Bồ tát Bảo Tích, Bồ tát Đạo Sư, đại loại như vậy, tám mươi ngàn vị đại bồ tát đều đến tụ tập.
    Chư Thiên thì có Đế Thích cùng hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bảo Quang thiên tử, và bốn vị đại thiên vương, cùng mười hai ngàn thiên nhân tùy thuộc; Tự Tại thiên tử và Đại Tự Tại thiên tử cùng ba mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc; Phạn vương chủ thế giới hệ Kham nhẫn, cùng các Phạn vương đại loạiPhạn vương Thi Khí, Phạn vương Quang Minh, và hai mươi ngàn thiên nhân tùy thuộc, đều đến tụ tập. Các bộ khác thì có tám Long vương là Hỷ, Hiền Hỷ, Diêm Hải, Cửu Đầu, Đa Thiệt, Vô Nhiệt Não, Từ Tâm và Hồng Liên Hoa, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Khẩn na la vương là Pháp và Diệu Pháp, Đại Pháp và Trì Pháp, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Càn thát bà vương là Nhạc và Nhạc Âm, Mỹ và Mỹ Âm, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc; có bốn A tu la vương là Tối Thắng, Dục Cẩm, Yến Cư và Hấp Khí, mỗi vị cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc; có bốn Ca lâu la vương là Đại Uy Đức, Đại Thân, Đại Mãn và Như Ý, mỗi vị cùng mấy trăm ngày tùy thuộc, đều đến tụ tập.
    Nhân loại thì có con Hoàng hậu Vi Đề Hy là Hoàng đế A Xà Thế, cùng mấy trăm ngàn tùy thuộc, cũng đến tụ tập.
    Tất cả các chúng trên đây, mỗi chúng đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn, rồi lui lại mà ngồi mỗi chúng một chỗ.
    Vào lúc này, đức Thế Tôn được bốn chúng vây quanh, hiến cúng, cung kính, tôn trọng, tán dương. Ngài nói cho các vị Bồ tát bản kinh Đại thừa tên Nghĩa Vô Lượng, bản kinhdạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Thế Tôn vẫn ngồi xếp bằng ở ngay giữa đại hội mà nhập định. Vị trí của Nghĩa Vô Lượng, thân thể và tâm trí đều không dao động. Ngay khi ấy chư thiên mưa xuống hoa mạn đà, hoa mạn đà lớn, hoa mạn thù, hoa mạn thù lớn, rải trên đức Thế Tôn và cả đại hội. Khắp cõi Phật này chấn động đủ cả sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng là Tỷ kheo và Tỷ kheo ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di; tám bộ là thiên, long, dạ xoa, càn thát bà, a tu la, ca lâu la, khẩn na la, ma hầu la dà, toàn là những người không phải loài người, và các chúng khác mà trong đó có các vị quốc vương và các vị luân vương, hết thảûy các chúng như vậy đều được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, và chuyên chú chiêm ngưỡng đức Thế Tôn. Còn đức Thế Tôn thì từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn thế giới hệ ở về hướng đông, không thế giới hệ nào mà không chiếu soi dưới đến Vô gián ngục trên đến Sắc cứu cánh. Làm cho đại hội ở thế giới hệ này mà thấy hết chúng sinh trong sáu loài của các thế giới hệ ấy; lại thấy chư Phật hiện tại của các thế giới hệ ấy, nghe kinh pháp của chư Phật ấy nói, thấy bốn chúng, những người hành đạo và đắc đạo trong các thế giới hệ ấy; lại thấy các vị bồ tát đi theo đường đi của bồ tát bằng các thứ yếu tố, các cách tin hiểu và các loại hình thức; lại thấy chư Phật nhập diệt, thấy sau đó xá lợi của chư Phật ấy được đem ra xây dựng những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quý báu mà tôn thờ.
    Bấy giờ đức Di Lạc suy nghĩ, hôm nay đức Thế Tôn biểu hiện cảnh tượng thần biến. Vì lý do gì mà có điềm lành như vậy? Đức Thế Tôn đang nhập định, sự thể ngoài sự nghĩ bàn ấy biểu hiện cảnh tượng hiếm có này, ta nên hỏi ai, ai giải đáp được? Đức Di Lạc lại nghĩ, bồ tát Văn Thù, vị thái tử của đức Pháp vương, đã từng thân gần phụng sự vô lượng chư Phật quá khứ, tất đã thấy được cảnh tượng hiếm có này, vậy ta nên hỏi người. Cùng lúc, cả bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, ai cũng nghĩ rằng, cảnh tượng thần biến biểu hiện bởi ánh sáng của đức Thế Tôn như vầy, nên đem hỏi ai? Đức Di Lạc muốn giải quyết nghi ngờ của mình, lại xét tâm trí của cả đại hội, nên hỏi bồ tátVăn Thù, vì lý do nào mà có điềm lành _ có cảnh tượng thần biến là đức Thế Tôn phóng ánh sáng lớn chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, làm cho đại hội ở đây mà thấy hết mọi sự huy hoàng của các cõi Phật ấy? Đức Di Lạc muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên hỏi bồ tát Văn Thù bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Văn Thù đại sĩ,
    vì lý do nào
    mà đức Thế Tôn,
    vị thầy dẫn đạo,
    từ nơi lông trắng
    giữa hai đầu mày,
    phóng ánh sáng lớn
    chiếu soi khắp cả?
    (2) Chư thiên mưa xuống
    bao nhiêu hoa quí
    mạn đà mạn thù,
    và thổi làn gió
    hơi thơm đàn hương,
    đẹp lòng đại hội.
    (3) Vì vậy mặt đất
    cả quốc độ này
    rực rỡ huy hoàng,
    và cả quốc độ
    đều chấn động lên
    đủ hết sáu cách.
    Làm cho bốn chúng
    hoan hỷ tất cả,
    cơ thể tâm trí
    đều thấy thích thú,
    cảm nhận sự thể
    chưa bao giờ có.
    (4) Chỉ một ánh sáng
    phóng từ lông trắng
    giữa hai đầu mày
    chiếu soi hướng đông,
    mà khiến một vạn
    tám ngàn quốc độ
    đều như màu sắc
    ánh từ vàng ròng.
    (5) Trong các quốc độ
    được chiếu như vậy,
    từ Vô gián ngục
    đến Sắc cứu cánh,
    hết thảy chúng sinh
    thuộc cả sáu loài
    sinh từ loài này
    chết đến loài khác,
    (6) hành vi lành dữ,
    kết quả tốt xấu,
    ở quốc độ này
    mà thấy rõ cả.
    (7) Lại thấy chư Phật,
    chúa của thánh hiền,
    tuyên thuyết kinh pháp
    tinh túy bậc nhất,
    bằng tiếng trong thanh
    xuất lời hòa nhã
    mà dạy bồ tát
    vô số ức vạn.
    (8) Bằng tiếng Phạn thiên
    thâm thúy kỳ diệu
    khiến người thích nghe,
    chư Phật ở nơi
    quốc độ của mình
    diễn giảng chánh pháp,
    vận dụng vô số
    yếu tố, ví dụ,
    soi sáng chánh pháp
    thức tỉnh chúng sinh:
    (9) Ai bị khổ não,
    chán già bịnh chết,
    thì nói cho họ
    về pháp niết bàn,
    để họ diệt tận
    biên cương khổ não.
    (10) Ai có phước đức
    từng hiến cúng Phật,
    chí cầu đạt được
    chân lý cao hơn,
    thì nói cho họ
    về pháp duyên giác.
    (11) Còn các con Phật
    làm mọi hạnh nguyện
    để cầu thành tựu
    tuệ giác vô thượng,
    thì nói cho họ
    tuệ giác trong suốt.
    *
    (12) Văn Thù đại sĩ,
    tôi ở nơi đây
    mà thấy và nghe
    đến như thế đó,
    có ngàn ức việc.
    Việc nhiều như vậy
    nay tôi chỉ kể
    một cách vắn tắt.
    (13) Tôi thấy bồ tát
    như cát sông Hằng,
    của trong tất cả
    thế giới hệ ấy,
    đem mọi yếu tố
    cầu tuệ giác Phật.
    (14) Có người thực hành
    hạnh nguyện bố thí:
    bạc, vàng, san hô,
    chân châu, ma ni,
    xa cừ, mã não,
    kim cương, của quí,
    tôi tớ, xe thuyền,
    vật để cỡi, chở,
    (15) xe liễn, xe dư
    trang hoàng vàng ngọc,
    cũng rất hoan hỷ
    mà đem hiến cho,
    rồi hồi hướng cả
    về nơi trí Phật,
    (16) nguyện được xe Phật
    cỗ xe bậc nhất
    trong cả ba cõi,
    được Phật tán dương.
    (17) Hoặc có bồ tát
    cho xe quí báu
    kéo bởi bốn ngựa,
    lại có lan can
    mui trần hoa mỹ
    mái riềm trang hoàng.
    (18) Lại thấy bồ tát
    cho thân cho thịt
    cho tay cho chân
    cho cả vợ con,
    quyết chí đạt đến
    tuệ giác vô thượng.
    (19) Lại thấy bồ tát
    cho đầu cho mắt
    cho cả thân thể _
    cho mà vui thích,
    để cầu thành tựu
    tuệ giác Phật đà.
    (20) Văn Thù đại sĩ,
    tôi thấy vua chúa
    đi đến chỗ Phật
    hỏi pháp vô thượng,
    rồi từ bỏ liền
    đất nước thịnh vượng,
    bỏ cả cung điện
    đình thần hậu phi,
    (21) cạo sạch râu tóc
    mà mặc pháp y.
    (22) Hoặc thấy bồ tát
    mà làm tỷ kheo,
    chỉ ở một mình
    nơi chỗ thanh vắng,
    vui vẻ thích thú
    đọc tụng kinh điển.
    (23) Lại thấy bồ tát
    dũng mãnh tinh tiến,
    vào chốn núi sâu
    suy nghĩ trí Phật.
    (24) Lại thấy bồ tát
    tách rời dục vọng,
    thường xuyên trú ở
    những chỗ trống vắng,
    tu sâu thuyền định
    được năm thần thông.
    (25) Lại thấy bồ tát
    chân đứng vững vàng
    tư tưởng tập trung
    hai tay chắp lại,
    đem cả ngàn vạn
    bài văn chỉnh cú
    hoan hỷ ca tụng
    các đấng Pháp vương.
    (26) Lại thấy bồ tát
    trí sâu, nhớ chắc
    có thể thưa hỏi
    chánh pháp nơi Phật,
    nghe rồi tiếp nhận
    ghi nhớ đủ cả.
    (27) Lại thấy con Phật
    đủ cả định tuệ,
    áp dụng vô số
    mọi sự ví dụ,
    diễn giảng chánh pháp
    cho các chúng khác;
    (28) lại vui thuyết pháp
    giáo hóa bồ tát,
    chiến thắng ma vương
    và binh đội nó,
    rồi gióng lớn lên
    tiếng trống chánh pháp.
    (29) Lại thấy bồ tát
    vắng bặt im lặng,
    trời rồng cung kính
    không lấy làm mừng.
    (30) Lại thấy bồ tát
    ở trong núi rừng
    mà phóng ánh sáng
    cứu khổ địa ngục,
    thức tỉnh cho họ
    hướng vào trí Phật.
    *
    (31) Lại thấy con Phật
    chưa từng ngủ nghỉ,
    kinh hành trong rừng
    siêng cầu trí Phật.
    (32) Lại thấy có vị
    giới pháp đầy đủ,
    uy nghi vẹn toàn,
    sạch sẽ trong suốt
    in như ngọc quí
    để cầu trí Phật.
    (33) Lại thấy con Phật
    trụ vào sức nhẫn,
    bao kẻ thượng mạn
    mắng nhiếc đánh đập
    vẫn nhẫn được cả
    để cầu trí Phật.
    (34) Lại thấy bồ tát
    từ bỏ trò chơi,
    bỏ luôn những kẻ
    thân thuộc ngu dốt,
    chỉ biết thân gần
    những người thánh trí,
    (35) chuyên nhất tâm ý
    trừ bỏ loạn động,
    trú ở núi rừng
    tập trung tư tưởng,
    trải qua ức vạn
    những năm như vậy
    để cầu thành tựu
    tuệ giác Phật đà.
    (36) Hoặc thấy bồ tát
    cỗ bàn quí trọng,
    thức uống, đồ ăn,
    các loại dược phẩm,
    đều đem hiến cúng
    Phật bảo Tăng bảo.
    (37) Y phục danh tiếng
    và thượng hảo hạng,
    giá trị ngàn vạn
    hoặc đến vô giá,
    đều đem hiến cúng
    Phật bảo Tăng bảûo.
    (38) Nhà cửa quí báu
    bằng gỗ đàn hương,
    trong đó đồ nằm
    rất tốt và đẹp,
    nhà và đồ ấy
    nhiều đến vạn ức,
    đều đem hiến cúng
    Phật bảûo Tăng bảo.
    (39) Vườn rừng quang đãng,
    trong đó đủ cả
    hoa trái tốt nhiều,
    suối chảy ao tắm,
    đều đem hiến cúng
    Phật bảo Tăng bảo.
    (40) Đồng đẳng như vậy,
    họ đem hiến cúng
    đủ hết những thứ
    rất là tinh tế,
    mà lòng hoan lạc
    không biết nhàm chán,
    chí quyết đạt đến
    tuệ giác vô thượng.
    (41) Hoặc có bồ tát
    bằng nhiều minh chứng,
    nói về nguyên lý
    tuyệt đối vắng lặng,
    huấn dụ vô số
    các loại chúng sinh.
    (42) Hoặc thấy bồ tát
    xét thấy bản thể
    tất cả vạn hữu
    in như hư không:
    không những khái niệm
    thuộc về nhị biên.
    Lại thấy con Phật
    tâm không vướng mắc,
    đem tuệ mầu này
    cầu tuệ vô thượng.
    *
    (43) Văn Thù đại sĩ,
    có những bồ tát
    Phật nhập diệt rồi
    hiến cúng xá lợi.
    (44) Lại thấy con Phật
    dựng bao chùa tháp
    nhiều bằng Hằng sa
    tô điểm quốc độ.
    (45) Tháp thì tráng lệ,
    làm bằng bảy báu,
    chiều cao có đến
    năm ngàn do tuần,
    chu vi rộng đến
    hai ngàn do tuần.
    (46) Mỗi một chùa tháp
    cờ phan cả ngàn,
    màn được kết ngọc,
    chuông nhỏ hòa reo,
    tám bộ thiên long,
    loài người loài khác,
    thường đem hiến cúng
    hoa hương, kịch nhạc.
    (47) Văn Thù đại sĩ,
    những con Phật ấy
    chính vì hiến cúng
    xá lợi của Phật
    mà cố trang hoàng
    những ngôi chùa tháp,
    nên cả quốc độ
    tự nhiên tráng lệ
    tuyệt diệu tuyệt hảo,
    in như cây chúa
    của trời Đế Thích
    toàn bộ nở hoa.
    *
    (48) Thế Tôn chỉ phóng
    một đường ánh sáng
    mà làm cho tôi
    và cả đại hội
    thấy quốc độ này
    đủ mọi vẻ đẹp.
    (49) Những thần thông lực
    của đức Thế Tôn
    thật là hiếm có:
    chỉ phóng một đường
    ánh sáng rực rỡ
    mà chiếu khắp cả
    vô lượng quốc độ.
    (50) Làm cho chúng tôi
    nhìn cảnh tượng này
    ai cũng cảm được
    sự chưa từng có.
    Phật tử Văn Thù,
    xin hãy giải thích
    cho nỗi nghi ngờ
    của cả đại hội.
    (51) Tất cả bốn chúng
    thích thú trông ngóng,
    nhìn vào nhân giả
    và nhìn vào tôi.
    (52) Ai cũng muốn biết
    tại sao Thế Tôn
    phóng ra ánh sáng
    đến như thế này?
    (53) Phật tử Văn Thù,
    hãy đáp ứng gấp,
    giải tỏa nghi ngờ
    cho họ hoan hỷ:
    vì ích lợi nào
    mà đức Thế Tôn
    phóng ra ánh sáng
    đến như thế này -
    (54) Chánh pháp tinh túy
    mà đức Thế Tôn
    đã chứng ngộ được
    trong khi mới ngồi
    nơi bồ đề tràng,
    ngài muốn tuyên thuyết
    về chánh pháp ấy,
    hay muốn thọ ký?
    (55) Ánh sáng Thế Tôn
    đã làm hiện ra
    cho chúng tôi thấy
    bao nhiêu cõi Phật
    đẹp và sáng lên
    với những ngọc quí,
    lại được thấy cả
    chư vị Phật đà,
    thì đó không phải
    là sự kiện nhỏ.
    (56) Văn Thù đại sĩ,
    nên biết tất cả
    bốn chúng tám bộ
    và các chúng khác,
    nhìn xem nhân giả
    nói cho rhế nào?
    Lúc ấy bồ tát Văn Thù nói với đức Di Lạc, và các vị đại sĩ khác, chư vị thiện nam tử, theo tôi suy xét thì đức Thế Tôn hiện nay muốn nói chánh pháp vĩ đại, đổ mưa chánh pháp vĩ đại, thổi loa chánh pháp vĩ đại, đánh trống chánh pháp vĩ đại, diễn nghĩa chánh pháp vĩ đại. Chư vị thiện nam tử, nơi chư Phật quá khứ, tôi đã từng thấy điềm lành như vậy. Các ngài phóng ra ánh sáng này rồi là nói về chánh pháp vĩ đại. Do đó, chư vị nên biết, đức Thế Tôn hiện nay phóng ra ánh sáng thì cũng sẽ làm như vậy. Muốn làm cho chúng sinh ai cũng nghe biết được cái pháp mà cả thế gian đều khó tin, nên đức Thế Tônbiểu hiện điềm lành như vầy.
    Chư vị thiện nam tửû, như trong quá khứ, lâu đến rất nhiều thời kỳ vô số, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đủ mười đức hiệu: bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giáùc hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Ngài tuyên thuyết chánh pháp một cách phần đầu phần giữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo, nghĩa lý sâu xa, lời tiếng tuyệt diệu, thuần nhất không tạp, đủû hết sắc thái phạn hạnh trắng trong. Ấy là người cầu Thanh văn thì nói mà đáp ứng bằng bốn chân lý, để họ vượt qua sinh, già, bịnh, chết, cứu cánh niết bàn; người cầu Duyên giác thì nói mà đáp ứng bằng mười hai duyên khởi; còn các vị Bồ tát thì nói mà đáp ứng bằng sáu ba la mật, làm cho họ được tuệ giác vô thượng, nghĩa là thành bậc Tuệ giác biết tất cả.
    Kế đó lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, kế đó nữa lại có đức Phật cũng tên Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy có hai mươi ngàn đức Phật đều cùng một tên, tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, và cùng một họ, họ Phả La Đọa. Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết, đức Phật đầu tiên cũng như đức Phật cuối cùng đều cùng một tên Nhật Nguyệt Đăng Minh, cùng đủ mười đức hiệu, và pháp mà các ngài tuyên thuyết cũng phần đầu phầngiữa phần cuối ba phần đều tuyệt hảo. Đức Phật cuối cùng, khi chưa xuất gia, có tám vương tử, thứ nhất tên Hữu Ý, thứ hai tên Thiện Ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bảo Ý, thứ năm tên Tăng Ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý. Cả tám vương tử đều uy đức tự tại, thống lãnh bốn đại lục. Khi nghe phụ hoàng xuất gia, thành tựu tuệ giác vô thượng, thì tám vương tử ấy cùng bỏ ngôi vua mà xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường hành phạn hạnh, và cùng làm pháp sư, vì đã từng gieo trồng các gốc rễ điều lành ở nơi ngàn vạn đức Phật. Bấy giờ đức Phật Nhật NguyệtĐăng Minh cũng đã nói bản kinh Đại thừa tên Nghiã Vô Lượng, bản kinh dạy cho bồ tátvà được Phật giữ gìn. Nói kinh ấy rồi, đức Phật ấy cũng đã ở ngay giữa đại hội mà ngồi xếp bằng, nhập định vị trí của nghiã vô lượng, thân thể và tâm trí đều không dao động. Lúc ấy chư thiên cũng mưa xuống hoa Mạn Đà, hoa Mạn Đà lớn, hoa Mạn Thù, hoa MạnThù lớn, rải trên đức Phật và cả đại hội. Khắp cõi Phật này cũng chấn động đủ hết sáu cách. Trong đại hội, bốn chúng, tám bộ và các chúng khác, hết thảy các chúng như vậy cũng được sự chưa từng có, hoan hỷ, chắp tay, chuyên chú mà chiêm ngưỡng đức Phật. Còn đức Phật thì cũng từ nơi tướng lông trắng giữa hai đầu của hai hàng lông mày phóng ra ánh sáng, chiếu soi mười tám ngàn cõi Phật ở về hướng đông, không cõi Phậtnào mà không chiếu soi khắp cả, y như những cõi Phật mà ngày nay chư vị đang thấy.
    Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết, trong đại hội lúc ấy có hai mươi ức bồ tát ưa thích nghe pháp. Các vị bồ tát này thấy ánh sáng của Phật chiếu khắp các cõi Phật như vậy thìcũng được sự chưa từng có, và cũng muốn biết mục đích của ánh sáng ấy. Bấy giờ có một vị bồ tát tên Diệu Quang, có tám trăm đệ tử. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xuất định, nhân bồ tát Diệu Quang mà nói bản kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinhdạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói đến sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ, không đứng dậy khỏi pháp tòa. Đại hội thính giả lúc ấy cũng ngồi một chỗ, trải qua sáu mươithời kỳ bậc nhỏ mà thân thể và tâm trí đều bất động, nghe đức Phật nói thì cho rằng chỉ bằng thì gian một bữa ăn. Cả đại hội không một ai mà thân thể hay tâm trí sinh nhác sinh mệt. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói kinh Pháp Hoa trong sáu mươi thời kỳ bậc nhỏ rồi, liền ở giữa đại hội các chúng phạn vương, ma vương, sa môn, bà la môn, và chư thiên, nhân loại, tu la, tuyên ngôn rằng giữa đêm hôm nay Như Lai sẽ nhập niết bànhoàn toàn.
    Bấy giờ có bồ tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký cho, bằng cách nói với chư vị Tỷ kheo, rằng vị bồ tát Đức Tạng này sẽ kế tiếp làm Phật, danh hiệuTịnh Thân, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và kháép. Thọ ký rồi, ngay giữa đêm ấy, đức Phật nhập niết bàn hoàn toàn. Sau đó bồ tát Diệu Quang ghi nhớ Pháp Hoa, diễn giảng cho người trọn tám mươi thời kỳ bậc nhỏ. Tám vương tử con đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều tôn thờ bồ tát Diệu Quang làm thầy, bồ tát ấy giáo hóa, làm cho tám vương tử vững chắc đối với tuệ giác vô thượng. Tám vương tử, sau đó, phụng sự rất nhiều ức đức Phật rồi, được thành Phật cả, và vị thành Phật cuối cùng danh hiệu là Nhiên Đăng. Trong tám trăm đệ tử của bồ tát Diệu Quang, có một vị tên là Cầu Danh, đam mê danh lợi, dẫu cũng đọc tụng kinh pháp mà không thông suốt, phần nhiều quên mất, nên mới có cái tên Cầu Danh. Nhưng vị này cũng nhờ sự gieo trồng các gốc rễ điều lành mà được gặp rất nhiều ức đức Phật, hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Di Lạc đại sĩ, đại sĩ nên biết bồ tát Diệu Quang lúc ấy đâu phải ai khác, mà chính là tôi đây, còn bồ tát Cầu Danh thì chính là đại sĩ. Ngày nay thấy điềm lành như vầy so với ngày xưa không khác gì cả, nên tôi nghĩ rằng đức Thế Tônhiện nay sẽ tuyên thuyết về bản kinh Đại thừa tên là Pháp Hoa, bản kinh dạy cho bồ tátvà được Phật giữ gìn.
    Lúc ấy, ở giữa đại hội, bồ tát Văn Thù muốn lập lại ý nghiã đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (57) Tôi nhớ quá khứ
    vô số thời kỳ,
    có đức Phật đà,
    bậc tôn cao nhất,
    danh hiệu ngài là
    Nhật Nguyệt Đăng Minh.
    (58) Đức Phật đà ấy
    tuyên thuyết chánh pháp
    hóa độ vô lượng
    các loại chúng sinh,
    và vô số ức
    các vị Bồ tát,
    làm cho vào được
    tuệ giác Phật đà.
    (59) Có tám vương tử
    con của Phật sinh
    lúc chưa xuất gia,
    thấy Phật xuất gia
    cũng xuất gia theo
    thực hành phạn hạnh.
    (60) Bấy giờ Phật nói
    bản kinh đại thừa
    tên Nghĩa Vô Lượng,
    giảng giảûi rộng rãi
    nghĩa lý vô lượng
    cho cả đại hội.
    (61) Phật tuyên thuyết xong
    bản kinh ấy rồi,
    liền ngồi xếp bằng
    ngay trên pháp tòa,
    nhập định Vị trí
    của nghĩa vô lượng.
    (62) Chư thiên mưa xuống
    hoa mạn đà la,
    và trống chư thiên
    tự kêu vang rền;
    tám bộ thiên long
    dùng hoa trống ấy
    hiến cúng lên bậc
    tôn cao nhất người.
    (63) Toàn cõi Phật này
    đồng thời chấn động.
    Và rồi đức Phật
    phóng ra ánh sáng
    từ nơi lông trắng
    giữa hai đầu mày,
    biểu hiện đủ cả
    cảnh tượng hiếm có.
    *
    (64) Ánh sáng như vậy
    chiếu soi một vạn
    tám ngàn cõi Phật
    ở về hướng đông,
    biểu hiện cho thấy
    tất cả những chỗ
    các loại chúng sinh
    sinh ra chết đi,
    hành động lành dữ,
    hưởng chịu tốt xấu.
    (65) Lại được nhìn thấy
    có những cõi Phật
    toàn thể trang hoàng
    bằng bao vàng ngọc,
    ánh lên màu sắc
    lưu ly pha lê;
    đại hội thấy được
    đến như thế này
    là do ánh sáng
    của Phật chiếu soi.
    (66) Lại thấy tất cả
    tám bộ thiên long
    cùng với nhân loại
    tại mỗi quốc độ
    cùng nhau hiến cúng
    đức Phật của mình.
    (67) Lại thấy chư Phật
    tự thành Phật tuệ,
    thân như núi vàng
    cực kỳ tráng lệ.
    Các ngài ở giữa
    đại hội thánh hiền
    diễn giảng nghĩa ý
    của pháp sâu xa,
    thì trông giống như
    những tượng vàng thật
    hiện trong các khối
    lưu ly trong suốt.
    (68) Trong mỗi cõi Phật,
    thanh văn vô số,
    cũng nhờ ánh sáng
    của Phật chiếu soi
    mà thấy rõ cả
    chúng thanh văn ấy.
    (69) Thấy chư tỷ kheo
    ở trong núi rừng,
    tinh tiến giữ giới
    như giữ ngọc sáng.
    (70) Lại thấy bồ tát
    nỗ lực bố thí
    kiên trì nhẫn nhục,
    số bồ tát ấy
    nhiều như hằng sa
    mà thấy được cả,
    là do ánh sáng
    của Phật chiếu soi.
    (71) Thấy các bồ tát
    tinh tiến nhập định
    một cách sâu xa,
    thân tâm bất động,
    đem thiền định ấy
    cầu trí vô thượng.
    (72) Thấy các bồ tát
    biết rất thấu suốt
    thật tướng vắng lặng
    của tất cả pháp,
    thuyết thật tướng ấy
    nơi quốc độ mình,
    đem báùt nhã này
    cầu thành trí Phật.
    (73) Bấy giờ bốn chúng
    được thấy đức Phật
    Nhật Nguyệt Đăng Minh
    biểu hiện thần lực
    đến như thế ấy,
    lòng họ hoan hỷû
    và cùng hỏi nhau,
    rằng cảnh tượng này
    vì lý do nào
    mà Phật biểu hiện?
    *
    (74) Khi ấy đức Phật,
    đấng mà trời người
    ai cũng tôn thờ,
    vừa mới xuất định,
    tức thì khen ngợi
    bồ tát Diệu Quang:
    (75) Ông là con mắt
    của cả thế gian!
    Ai cũng qui về
    tin tưởng nơi ông!
    Ông kính giữ được
    kho tàng chánh pháp!
    Kho tàng chánh pháp
    mà rồi Như Lai
    sẽ nói hết ra,
    chỉ ông chứng biết!
    (76) Đức Phật khen ngợi
    làm cho bồ tát
    Diệu Quang hoan hỷ,
    rồi nói Pháp Hoa
    suốt hết sáu mươi
    thời kỳ bậc nhỏ.
    (77) Và pháp tối thượng
    tuyệt diệu như vậy
    được Phật tuyên thuyết
    mà không đứng dậy
    rời khỏi pháp tòa,
    pháp sư Diệu Quang
    vẫn tiếp nhận được
    và ghi nhớ cả.
    (78) Đức Phật tuyên thuyết
    về kinh Pháp Hoa
    làm cho các chúng
    hoan hỷ cả rồi,
    liền trong ngày ấy
    ngài bảo các chúng:
    (79) Thật tướng các pháp
    Như Lai đã đem
    nói cho các người.
    Giữa đêm hôm nay
    Như Lai sẽ nhập
    niết bàn hoàn toàn.
    (80) Các người cần phải
    một lòng tinh tiến
    chuyên chú vào pháp
    Như Lai đã nói,
    còn sự phóùng dật
    nên tránh thật xa;
    vì lẽ chư Phật
    rất là khó gặp,
    vạn ức thời kỳ
    mới thấy một lần.
    (81) Đệ tử của Phật
    nghe Phật loan báo
    sắp sửa nhập diệt,
    ai cũng đau buồn
    nghĩ Phật nhập diệt
    sao mà mau chóng.
    (82) Vị chúa thánh triết
    và vua các pháp
    an ủi các chúng:
    sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi
    các người đừng lo.
    (83) Bồ tát Đức Tạng
    tâm trí thấu triệt
    thật tướng thuần khiết,
    sẽ kế Như Lai
    thành đức Phật đà
    danh hiệu Tịnh Thân,
    và cũng hóa độ
    vô lượng các chúng.
    (84) Rồi giữa đêm ấy
    đức Phật nhập diệt
    như củi mà hết
    thì lửa cũng tắt.
    Sau đó xá lợi
    được phân bủa ra
    và xây dựng lên
    vô số bảo tháp.
    (85) Chư vị tỷ kheo
    và tỷ kheo ni
    số lượng nhiều đến
    như cát sông Hằng,
    lại càng nỗ lực
    tinh tiến hơn lên
    để cầu đạt được
    tuệ giác vô thượng.
    *
    (86) Phần ngài Diệu Quang,
    pháp sư bồ tát,
    kính giữ kho tàng
    chánh pháp của Phật,
    trải qua tám mươi
    thời kỳ bậc nhỏ
    tuyên thuyết rộng rãi
    Diệu Pháp Liên Hoa.
    (87) Còn tám vương tử
    thì nhờ bồ tát
    Diệu Quang khai hóa,
    tất cả đều được
    vững chắc đối với
    tuệ giác vô thượng,
    nên sau gặp được
    vô số Phật đà.
    (88) Các vị phụng sự
    chư Phật như vậy,
    cùng nhau đi theo
    con đường vĩ đại,
    nên kế tiếp nhau
    được thành Phật cả,
    và theo thứ tự
    thọ ký cho nhau.
    (89) Đức Phật cuối cùng,
    vị trời nhất trời,
    danh hiệu ngài là
    Nhiên Đăng Như Lai,
    bậc thầy dẫn đạo
    các vị hiền triết,
    độ cho giải thoát
    vô số các chúng.
    (90) Pháp sư Diệu Quang
    có một đệ tử
    tính thường biếng nhác
    đam mê danh lợi,
    (91) cầu hồ danh lợi
    một cách không chán,
    nên hay giao du
    với nhà dòng dõi,
    bỏ bê kinh pháp
    đã được tụng tập,
    nên hay quên mất
    chứ không thông suốt.
    (92) Vì lý do ấy
    có tên Cầu Danh.
    (93) Nhưng cũng thực hành
    đủ các pháp lành,
    gặp được vô số
    chư vị Phật đà,
    phụng sự hiến cúng
    Phật đà như vậy
    và cũng đi theo
    con đường vĩ đại,
    hoàn thiện sáu pháp
    đến bờ bên kia,
    nên nay lại gặp
    Sư tử họ Thích.
    (94) Thì gian sau ngài,
    sẽ kế làm Phật
    với danh hiệu là
    Di Lạc từ tôn,
    cứu độ rộng rãi
    các loại chúng sinh
    mà số lượng ấy
    không thể tính kể.
    *
    (95) Sau khi đức Phật
    Nhật Nguyệt Đăng Minh
    nhập niết bàn rồi,
    người hay biếng nhác
    chính là đại sĩ,
    còn vị pháp sư
    bồ tát Diệu Quang
    là bản thân tôi.
    (96) Chính tôi xưa kia
    Ở nơi đức Phật
    Nhật Nguyệt Đăng Minh
    đã từng thấy được
    điềm lành ánh sáng
    như tôi vừa nói.
    (97) Vì vậy tôi biết
    Thế Tôn ngày nay
    chủ ý muốn nói
    về kinh Pháp Hoa.
    (98) Cảnh tượng hiện nay
    giống điềm lành cũ,
    và là phương tiện
    của chư Thế Tôn:
    Thế Tôn ngày nay
    phóng ánh sáng lớn
    là để hổ trợ
    phát hiện thật tướng.
    (99) Chư vị nên biết
    chủ ý như vậy,
    và hãy chắp tay
    nhất tâm mà chờ.
    Thế Tôn sẽ đổ
    nước mưa chánh pháp,
    sung túc những người
    cầu tuệ giác Phật.
    (100) Tất cả những người
    cầu ba cỗ xe
    nếu có điều gì
    hoài nghi hối tiếc,
    thì vị Toàn giác
    sẽ giải trừ cho -
    giải trừ sạch hết,
    không còn sót lại

  2. #2

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)

    Phần CHÍNH VĂN – Thích Trí Quang dịch

    Phẩm 2:
    Phương tiện
    Khi ấy đức Thế Tôn thung dung xuất định, nói với tôn giả Xá lợi Phất, tuệ giác Như Lai sâu xavô tận, cửa ngõ tuệ giác ấy khó biết khó vào. Hết thảy Thanh văn Duyên giác không thể biết thấu. Vì sao, vì Như Lai đã từng thân gần vô sốchư Phật, thực hành trọn vẹn vô số các pháp đạt đến tuệ giác vô thượng mà chư Phật ấy đã thực hành, dũng mãnh tinh tiến, danh tiếng vang khắp, và thành tựu sự chưa từng có rất là sâu xa, ấy là tùy nghi thuyết pháp, ý hướng khó hiểu. Xá lợi Phất, từ khi trở thành bậc Toàn giác cho đến ngày nay, Như Lai đem mọi thứ yếu tố và mọi sự ví dụ mà diễn rộng các cách lập luận, vận dụng vô số phương tiện ấy dẫn dắt chúng sinh thoát được sự vướng mắc vào điểm này hay điểm khác. Tại sao Như Lai làm được như vậy? Vì Như Lai đã hoàn thành sự thấy biết toàn hảo và sự phương tiện toàn hảo. Xá lợi Phất, sự thấy biết của Như Lai rộng lớn sâu xa: những phẩm chất của sự thấy biết ấy đại loại như bốn tâm vô hạn, bốn trí thông suốt, mười đại năng lực, bốn sự không sợ, bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát, ba pháp tam muội, Như Lai đã đi sâu vào một cách không có giới hạn, nên thành tựu sự chưa từng có nói trên. Do đó, Xá lợi Phất, Như Lai phân tích và khéo nói các pháp, lời chữ hòa nhã, đẹp lòng mọi người. Lấy cốt yếu mà nói, thì sự chưa từng có có tính cách vô lượng vô biên, Như Lai đã thành tựu đầy đủ.
    Xá lợi Phất, thôi, không nên nói nữa, vì sự chưa từng có, và khó hiểu bậc nhất ấy, mà Như Lai đã thành tựu, là chỉ Như Lai với chư vị Như Lai mới cứu xét cùng tận và tuyên thuyết khéo léo về thật tướng các pháp. Thật tướng ấy là biểu hiện như vậy, đặc tính như vậy, bản thể như vậy,năng lực như vậy, động tác như vậy, nhân tố như vậy, duyên tố như vậy, kết quả như vậy, hình thành như vậy, toàn bộ như vậy.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Vô lượng những bậc
    anh hùng trong đời,
    chư thiên nhân loại
    hết thảy chúng sinh,
    không ai hiểu thấu
    đối vớùi Như Lai.
    (2) Mười đại năng lực
    bốn sự không sợ
    tám sự giải thoát
    ba pháp tam muội
    cùng với bao nhiêu
    phẩm chất Phật đà
    mà Như Lai có,
    thì không một ai
    có thể biết được
    một cách tận cùøng.
    (3) Vốn từ vô số
    chư Phật Như Lai
    Như Lai trọn vẹn
    thực hành các pháp
    tuệ giác vô thượng,
    là pháp cực kỳ
    sâu xa tinh túy
    khó mà thấy biết.
    (4) Trải qua vô lượng
    vạn ức thời kỳ,
    thực hành trọn vẹn
    các pháp ấy rồi,
    Như Lai đến ngồi
    nơi bồ đề tràng,
    được đại thành quả
    biết rõ tất cả.
    (5) Đại thành quả này
    biết rõ những nghĩa
    biểu hiện như vậy
    đặc tính như vậy...
    chỉ có Như Lai
    cùng với mười phương
    chư Như Lai khác
    mới biết như vậy.
    (6) Và pháp như vậy
    không thể phô bày,
    khái niệm ngôn ngữ
    bặt dấu ở đây.
    (7) Hết thảy chúng sinh
    không ai hiểu nổi,
    trừ chư bồ tát
    đức tin vững chắc.
    (8) Những con Phật khác
    dẫu từng hiến cúng
    chư Phật Như Lai,
    phiền não đã hết,
    đã đến trạng thái
    thân này là thân
    sống chết cuối cùng,
    các vị như vậy
    năng lực của họ
    cũng vẫn bất kham.
    (9) Giả sử tràn đầy
    thế giới loài người
    ai nấy đều như
    Xá lợi Phất cả,
    cùng tận tư duy
    chung nhau suy lường,
    cũng không lường được
    tuệ giác Như Lai.
    (10) Nếu thật đầy khắp
    mười phương quốc độ
    ai nấy đều như
    Xá lợi Phất cả,
    hoặc như các vị
    đại đệ tử khác
    cũng đầy khắp cả
    mười phương quốc độ,
    (11) cùng tận tư duy
    chung nhau suy lường,
    vẫn không biết được
    tuệ giác Như Lai.
    (12) Các vị Duyên giác
    trí tuệ lanh lợi
    phiền não không còn,
    thân họ cũng là
    cái thân cuối cùng;
    các vị như vậy
    cũng đầy mười phương
    như một rừng tre,
    (13) cùng nhau một lòng,
    trải qua vô lượng
    vạn ức thời kỳ,
    suy nghĩ cho thấu
    tuệ giác chân thật
    mà Như Lai có,
    cũng vẫn không thể
    biết được ít phần.
    (14) Các vị bồ tát
    mới phát tâm chí,
    phụng sự vô số
    chư Phật Như Lai,
    thấu triệt pháp nghĩa
    lại khéo thuyết pháp;
    (15) các vị như vậy
    như lúa như tre,
    tràn đầy khắp cả
    mười phương quốc độ,
    (16) kết hợp vận dụng
    trí tuệ tinh tế,
    trải qua thời kỳ
    nhiều bằng hằng sa,
    chung sức tư duy
    chung nhau ước lượng,
    cũng không biết được
    tuệ giác Như Lai.
    (17) Các vị bồ tát
    đã không thoái chuyển,
    số lượng nhiều bằng
    cát của sông Hằng,
    cùng nhau tìm xét
    cũng không biết được.
    (18) Này Xá lợi Phất,
    cái pháp cực kỳ
    sâu xa, tinh túy,
    không còn sai sót,
    ngoài tầm nghĩ bàn,
    Như Lai đã biết
    một cách đầy đủ.
    Và chỉ Như Lai
    mới biết pháp ấy,
    cũng như chư vị
    Như Lai mười phương
    mới biết như vậy.
    (19) Này Xá lợi Phất,
    tôn giả nên biết
    lời Như Lai nói
    không có mâu thuẫn.
    Đối với cái pháp
    của Như Lai nói,
    các người phải có
    đức tin lớn lao.
    Bởi vì nguyên tắc
    của chư Như Lai
    sau thì gian dài
    phải nói sự thật.
    (20) Cho nên ngày nay
    Như Lai tuyên cáo
    với chư Thanh văn
    và chư Duyên giác,
    những người đã được
    Như Lai làm cho
    thoát khổ thắt buộc
    đạt được niết bàn,
    (21) rằng đó chỉ là
    Như Lai vận dụng
    năng lực phương tiện
    thiết ba cỗ xe,
    để ai vướng mắc
    bất cứ chỗ nào
    Như Lai cũng dắt
    cho được thoát ra.
    Lúc ấy trong đại hội có một ngàn hai trăm vị A la hán đã hết phiền não, thuộc chúng Thanh văn, đại loại như tôn giả Kiềàu trần Như, cùng tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, những người tâm chí thanh văn duyên giác, đều nghĩ như vầy, tại sao hôm nay đức Thế Tôn ân cần tán dương sự phương tiện, bằng cách nói rằng pháp Như Lai được cực kỳ sâu xa tinh túy và khó hiểu, rằng Như Lai nói gì ý hướng cũng khó biết, rằng hết thảy thanh văn duyên giác không thể đạt đến? Đức Thế Tôn nói về sự giải thoát đồng nhất thì chúng ta cũng thành tựu sự ấy, đạt đến niết bàn. Nhưng hôm nay thì chúng takhông biết sự ấy về đâu.
    Tôn giảû Xá lợi Phất biết nỗi hoài nghi trong lòng bốn chúng và chính mình cũng chưa thấu triệt, nên thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, vì yếu tố chính và yếu tố phụ nào mà đức Thế Tôn ân cần tán dương sự phương tiện bậc nhất của ngài là pháp sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Hồi nào đến giờ con chưa hề nghe đức Thế Tôn nói như vậy. Hiện giờ bốn chúng đều nghi ngại. Con thỉnh cầu đức Thế Tôn giải thích vấn đề này cho chúng con: vì lý do nào mà ngài ân cần tán dương sự phương tiện của ngài là sâu xa, tinh túy và khó hiểu? Tôn giả Xá lợi Phất muốn lặp lại ý nghĩa đã hỏi, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (22) Mặt trời tuệ giác,
    bậc đại thánh triết,
    lâu rồi mới nói
    điều đặc biệt này.
    Là ngài tự nói
    bao nhiêu phẩm chất
    mà Như Lai có,
    đại loại như là
    mười đại năng lực
    bốn sự không sợ
    ba pháp tam muội
    bốn thiền bốn định
    tám sự giải thoát,
    toàn là những pháp
    trên sự tư duy
    ngoài tầm thảo luận.
    (23) Ngài tự nói đến
    pháp mà ngài biết
    trong khi ngài ngồi
    nơi Bồ đề tràng,
    chứ không một ai
    có thể hỏi thấu.
    Ngài lại tự nói
    ý ngài khó biết,
    điều này cũng không
    một ai hỏi được.
    (24) Không ai hỏi được,
    chỉ ngài tự nói,
    tán dương con đường
    mà ngài đã đi,
    tán dương tuệ giác
    cực kỳ tinh túy
    mà như chư Phật,
    ngài đã đạt được.
    (25) Các vị La Hán
    đã hết phiền não,
    cùng với những vị
    cầu được Niết bàn,
    hôm nay cùng sa
    vào lưới ngờ vực:
    Thế Tôn vì gì
    tự nói như vậy?
    (26) Những vị cầu được
    tuệ giác duyên giác,
    các vị tỷ kheo
    và tỷ kheo ni,
    cùng với tất cả
    tám bộ thiên long,
    ai cũng bối rối
    mà nhìn lẫn nhau
    và nhìn lên ngài,
    một bậc hoàn hảo
    cả hai phương diện
    phước đức tuệ giác.
    (27) Bạch đức Thế Tôn,
    việc này thế nào?
    xin ngài giải thích
    cho chúng con rõ.
    (28) Trong chúng Thanh văn,
    Thế Tôn nói con
    là bậc thứ nhất,
    nhưng nay chính con
    tự mình đối với
    tuệ giác của mình
    cũng sinh nghi hoặc:
    không rõ tuệ ấy
    đã là cứu cánh
    hay phải tới nữa?
    (29) Bao nhiêu con Phật
    sinh từ miệng Phật
    nay đang chắp tay
    ngước nhìn chờ đợi,
    ước mong Thế Tôn
    xuất ra âm thanh
    cực kỳ tuyệt diệu,
    kịp thời nói cho
    về pháp của ngài
    đúng như pháp ấy.
    (30) Tám bộ thiên long
    số bằng hằng sa,
    chư vị Bồ tát
    cầu tuệ giác Phật
    số lượng đại khái
    cũng có tám vạn.
    (31) Lại còn xuất từ
    vạn ức các nước,
    các vị luân vương
    cùng nhau đến đây,
    ai cũng chắp tay
    đem lòng cung kính
    mong muốn được nghe
    con đường hoàn hảo.
    Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, thôi thôi, không nên nói. Nói vấn đề này thì cả thế gian, trong đó có chư thiên và nhân loại, sẽ kinh sợ ngờ vực. Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn dạy cho vấn đề này, vấn đề này xin đức Thế Tôn dạy cho. Vì đại hội này nhiều đến trăm ngàn, vạn ức, vô số, có nhiều người từng gặp chư Phật, các căn lanh lợi, trí tuệ sáng tỏ, nghe đức Thế Tôn dạy thì có thể kính tin. Tôn giả Xá Lợi Phất muốn lặp lại ý nghiã đã thưa, nên nói lời chỉnh cú sau đây:
    (32) Bạch đức Vô Thượng,
    vị vua các pháp!
    xin ngài dạy cho
    không cần e ngại.
    Đại hội các chúng
    vô số như vầy,
    tất có những người
    có thể kính tin.
    Đức Thế Tôn lại ngăn tôn giả Xá Lợi Phất, rằng nếu Như Lai nói vấn đề này thì cả thế gian, trong đó có chư thiên, nhân loại và tu la, sẽ cùng kinh sợ, ngờ vực, những vị tỷ kheo tăng thượng mạn sẽ rơi xuống hố lớn. Đức Thế Tôn lặp lại ý ngài bằng lời chỉnh cú sau đây:
    (33) Thôi thôi, đừng hỏi!
    Pháp của Như Lai
    tinh túy, khó biết.
    Những kẻ thượng mạn
    nghe nói pháp ấy
    tất không kính tin.
    Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa, bạch đức Thế Tôn, xin đức Thế Tôn dạy cho vấn đề này, vấn đề này xin đức Thế Tôn dạy cho. Nay trong đại hội này, những người như con, và trăm ngàn vạn ức người, đời đời đã từng tiếp nhận sự giáo hóa của đức Thế Tôn; những người như vậy chắc chắn có thể kính tin, ổn định lâu dài và lợi ích lớn lao. Tôn giả Xá Lợi Phất lặp lại ý mình bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (34) Thưa đấng Vô Thượng,
    phước trí toàn hảo!
    xin ngài dạy cho
    cái pháp bậc nhất.
    Con là con trưởng
    của đức Thế Tôn,
    con thỉnh cầu ngài
    dạy cho chúng con.
    Trong đại hội này
    có vô số người
    có thể kính tin
    về pháp ngài dạy.
    (35) Đời đời liên tiếp,
    Thế Tôn đã từng
    giáo hóa tiếp độ
    những người như vầy.
    Nay họ chắp tay
    đồng nhất tâm nguyện
    muốn nghe và nhận
    lời Thế Tôn nói.
    (36) Những người như con
    một ngàn hai trăm,
    cùng với các vị
    cầu tuệ giác Phật,
    xin đức Thế Tôn
    vì những người này
    rủ lòng thương xót
    mà giảng giải cho.
    Những người này đây
    nghe được pháp này
    thì lòng sinh ra
    hoan hỷ cùng cực.
    Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, tôn giả đã thiết tha thỉnh cầu đến lần thứ ba, nên Như Lai không thể không nói. Vậy tôn giả hãy lắng nghe, hãy khéo nghĩ và khéo nhớ! Như Lai sẽ phân tích giảng giải cho tôn giả. Khi đức Thế Tôn dạy như vậy, trong đại hội có đến năm ngàn tỷ kheo và tỷ kheo ni, ưu bà tắc và ưu bà di, tức thì đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, đảnh lễ đức Thế Tôn mà lui ra. Những người này gốc rễ tội lỗi về tăng thượng mạn thật là sâu nặng, chưa được tự cho đã được, chưa chứng tự cho đã chứng, lầm lẫn đến thế nên họ không ở lại. Đức Thế Tôn cũng yên lặng mà không ngăn cản. Ngài bảo tôn giả Xá lợi Phất, đaị hội này của Như Lai nay không còn trấu lép, mà chỉ toàn là hạt chắc. Xá lợi Phất, tăng thượng mạn như những người kia thì lui ra cũng tốt. Bây giờ tôn giả hãy nghe cho khéo, Như Lai sẽ giảng giải cho tôn giả. Tôn giả Xá lợi Phấtthưa, dạ, bạch đức Thế Tôn; chúng con ước nguyện và thích thú muốn nghe.
    Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, cái pháp tinh túy này Như Lai thỉnh thoảng mới nói, như hoa ưu đàm thỉnh thoảng mới xuất hiện một lần. Xá lợi Phất, chư vị hãy tin lời Như Lai nói không trống rỗng, dối trá. Xá lợi Phất, Như Lai tùy nghi thuyết pháp, ý hướng khó hiểu. Tại sao, vì Như Lai hoạt dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà diễn đạt về pháp. Pháp ấy không phải tư duy phân tích mà lĩnh hội được. Pháp ấy chỉ có chư Phật Như Lai mới chứng biết.
    Sự thể là chư Phật Như Lai chỉ vì lý do duy nhất và trọng đại mà xuất hiện thế gian. Xá lợi Phất, lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian là gì? Là chư Phật Như Lai muốn làm cho chúng sinh khai mở sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian, muốn chỉ thị cho chúng sinh sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian, muốn làm cho chúng sinh tỉnh ngộ sự thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian, muốn làm cho chúng sinh nhập vào con đường thấy biết của Phật được trong sáng nên xuất hiện thế gian. Xá lợi Phất, như thế đó là lý do duy nhất và trọng đại mà chư Phật Như Lai xuất hiện thế gian. Và Xá lợi Phất, như thế đó tức là chư Phật Như Lai chỉ giáo hóa bồ tát, nghĩa là làm gì cũng thường vì một việc, ấy là đem sự thấy biết của Phật mà chỉ thị cho chúng sinh tỉnh ngộ.
    Xá lợi Phấát, Như Lai chỉ đem cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà mà thuyết pháp cho chúng sinh, không có cỗ xe nào khác dầu là cỗ xe thứ hai hay là cỗ xe thứ ba. Xá lợi Phất, pháp của chư Phật mười phương cũng là như vậy. Xá lợi Phất, chư Phật quá khứđã vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinhnghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh đều được tuệ giác biết tất cả. Chư Phật vị lai sẽ xuất hiện thế gian cũng vận dụng vô số phương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh cũng đều được tuệ giácbiết tất cả. Hiện tại, trong vô lượng cõi Phật khắp cả mười phương, chư Phật đang làm lợi ích và yên vui rất nhiều cho chúng sinh, chư Phật như vậy cũng vận dụng vô sốphương tiện, trong đó gồm có các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, mà thuyết pháp cho chúng sinh, pháp ấy toàn là của cỗ xe Phật đà duy nhất, nên chúng sinh nghe pháp nơi chư Phật ấy thì cứu cánh cũng đều được tuệ giác biết tất cả. Xá lợi Phất, chư Phật ba đời trong mười phương làm như vậy là đồng nghĩa với việc chỉ giáo hóa bồ tát: muốn đem sự thấy biết của Phật khai mở cho chúng sinh, muốn đem sự thấy biết của Phật chỉ thị cho chúng sinh, muốn đem sự thấy biết của Phật thức tỉnh cho chúng sinh, muốn dẫn chúng sinh nhập vào con đường thấy biết của Phật. Xá lợi Phất, nay Như Lai cũng làm như vậy. Như Lai biết rõ những thị hiếu và vướng mắc của các loại chúng sinh; tùy bản tính của họ, Như Lai vận dụng các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ, nghĩa là vận dụng năng lực phương tiện, mà thuyết pháp. Xá lợi Phất, Như Lai làm như vậy toàn là để cho họ cùng được tuệ giác biết tất cả của cỗ xe Phật đà duy nhất.
    Xá lợi Phất, như vậy là trong mười phương quốc độ, cỗ xe thứ hai còn không có, huống chi có cỗ xe thứ ba. Nhưng, Xá lợi Phất, chư Phật Như Lai xuất hiện trong thời kỳ dữ dộithì đó là thời kỳ đủ cả năm thứ vẩn đục: thời kỳ vẩn đục, tâm lý vẩn đục, con người vẩn đục, kiến thức vẩn đục, mạng sống vẩn đục. Khi thời kỳ vẩn đục loạn lên, thì chúng sinhdơ bẩn dày nặng, keo lẫn, tham lam, ganh ghét, hoàn thành đủ thứ bất thiện, nên chư Phật Như Lai phải vận dụng năng lực phương tiện: chính nơi cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà mà giả thiết ra, nói có ba cỗ xe. Do đó, Xá lợi Phất, nếu là đệ tử của Như Lai, tự gọi là La hán, là Duyên giác, mà không nghe không biết đến việc Như Lai chỉ giáo hóa bồ tát như trên, thì những người ấy không phải đệ tử của Như Lai: không phải La hán, không phải Duyên giác. Những vị tỷ kheo và tỷ kheo ni như vậy tự cho đã thành La hán, thân mình là thân cuối cùng, mình cứu cánh niết bàn, rồi không còn có chí mong cầu tuệ giáùc vô thượng, thì tôn giả nên biết họ toàn là người tăng thượng mạn. Vì lẽ nếu có vị nào thật được thành La hán mà không tin pháp này thì vô lý, trừ ra sau khi Như Lai đã nhập diệt, trước mặt họ không có Như Lai nữa - Sau khi Như Lai nhập diệt, kinh Pháp Hoa này có ai tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, lý giải ý nghĩa..., người ấy thật khó có. Nếu gặp đức Phật khác thì đối với kinh này họ nhận thứcđược ngay.

  3. #3

    Mặc định

    Nói tóm, Xá lợi Phất, chư vị hãy nhất tâm mà tin tưởng, lý giải, tiếp nhận và ghi nhớ lời của Như Lai nói. Lời của chư Phật Như Lai nói thì không trống rỗng, dối trá, nói rằng không có cỗ xe nào khác mà chỉ có cỗ xe duy nhất là cỗ xe Phật đà.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (37) Chư vị tỷ kheo
    và tỷ kheo ni
    mà có thượng mạn,
    cùng ưu bà tắc
    và ưu bà di
    mà lòng không tin,
    bốn chúng như vậy
    số có năm ngàn.
    (38) Họ không tự thấy
    mình đã khinh suất.
    Họ thiếu giới hạnh,
    che giấu tỳ vết.
    Hạng trí nhỏ ấy
    đã lui hết rồi.
    (39) Trong đại hội này
    họ là cặn bã.
    Họ lui là vì
    uy thần Như Lai.
    Họ là những kẻ
    thiếu cả phước đức,
    không kham tiếp nhận
    diệu pháp như vầy.
    (40) Trong đại hội này
    nay hết trấu lép,
    còn lại chỉ có
    toàn là hạt chắc.
    (41) Này Xá lợi Phất,
    hãy nghe cho khéo
    về pháp Như Lai
    đã thành tựu được,
    và về phương tiện
    Như Lai hoạt dụng
    để nói pháp ấy
    cho các chúng sinh.
    *
    (42) Quan niệm, đạo hạnh,
    thị hiếu, khuynh hướng,
    hành vi lành dữ
    đời trước đã làm,
    tất cả điều này
    của các chúng sinh
    Như Lai nhận thức
    rất là rõ ràng.
    (43) Thế rồi Như Lai
    sử dụng mọi thứ
    yếu tố, ví dụ,
    cùng với lời chữ,
    nghĩa là dùng đến
    năng lực phương tiện,
    làm cho chúng sinh
    hoan hỷ tất cả.
    (44) Cho nên Như Lai
    đã nói tản văn,
    chỉnh cú độc lập,
    việc cũ, đời trước,
    việc hiếm, nguyên do,
    hoặc nói ví dụ,
    chỉnh cú thích ứng,
    cùng với thảo luận.
    (45) Những kẻ ám độn
    chỉ thích pháp nhỏ,
    vướng mắc sinh tử;
    nơi vô số Phật
    họ đã không đi
    theo đường tuyệt diệu.
    Họ bị đau khổ
    dày vò tác loạn.
    Như Lai vì họ
    mà nói niết bàn.
    (46) Như Lai thiết lập
    phương tiện như vậy,
    chủ ý làm cho
    họ được nhập vào
    tuệ giác Phật đà,
    nhưng chưa hề nói
    tất cả các người
    đều sẽ thành Phật.
    (47) Sở dĩ Như Lai
    chưa nói như vậy
    là vì chưa đến
    thì gian đáng nói.
    Nhưng nay là lúc
    Như Lai quyết định
    nói về giáo pháp
    cỗ xe vĩ đại.
    *
    (48) Giáo pháp ở trong
    chín thể loại trên,
    là do Như Lai
    tùy thuận chúng sinh
    mà tuyên thuyết ra,
    nhưng mà bản ý
    là dẫn họ vào
    cỗ xe vĩ đại.
    Vì lý do ấy,
    ngày nay Như Lai
    nói về bản kinh
    Diệu Pháp Liên Hoa.
    (49) Có những con Phật
    tâm trí trong sáng
    tánh tình ôn hòa
    các căn lanh lợi,
    đã từng đi theo
    con đường tuyệt diệu
    ở nơi vô lượng
    chư Phật Như Lai;
    chính vì những người
    con Phật như vậy
    mà nay Như Lai
    nói kinh Pháp Hoa,
    bản kinh thuộc về
    cỗ xe vĩ đại.
    (50) Qua đó Như Lai
    sẽ thọ ký cho
    những con Phật ấy
    trong thì vị lai
    được thành Phật đà _
    Được thành vì họ
    đã đem tâm chí
    cực kỳ sâu xa
    tưởng niệm Phật đà
    nghiêm giữ giới pháp.
    (51) Những con Phật ấy
    nghe được thành Phật
    thì nỗi mừng lớn
    tràn khắp cơ thể.
    Như Lai biết rõ
    tâm chí cùng với
    đạo hạnh của họ,
    nên mới nói cho
    bản kinh thuộc về
    cỗ xe vĩ đại.
    (52) Và là thanh văn
    hay là bồ tát,
    nghe kinh như vậy
    của Như Lai nói,
    thì dẫu chỉ được
    một bài chỉnh cú,
    cũng thành Phật cả,
    không nghi gì được.
    *
    (53) Khắp cả cõi Phật
    trong cả mười phương,
    chỉ có diệu pháp
    cỗ xe duy nhất.
    Cỗ xe thứ hai
    đã không thực có,
    cũng không thực có
    cỗ xe thứ ba,
    trừ ra Như Lai
    phương tiện tuyên thuyết -
    là chỉ thiện dụng
    những danh từ giả
    mà dẫn dắt cho
    các loại chúng sinh.
    (54) Chính vì công bố
    tuệ giác Phật đà,
    cho nên Như Lai
    xuất hiện thế gian.
    Chỉ một việc này
    là việc đích thực,
    còn hai việc khác
    không đích thực đâu.
    Như Lai tuyệt đối
    không muốn sử dụng
    cỗ xe thấp nhỏ
    mà chở chúng sinh.
    (55) Như Lai tự ngồi
    cỗ xe vĩ đại,
    cỗ xe được có
    những pháp như là
    định, tuệ và lực
    trang sức huy hoàng,
    Như Lai sử dụng
    mà chở chúng sinh.
    (56) Như Lai tự chứng
    tuệ giác vô thượng
    là xe vĩ đại
    có tính bình đẳng.
    Nếu đem hóa độ
    bằng xe thấp nhỏ,
    thì dẫu hóa độ
    một người mà thôi,
    Như Lai cũng rơi
    vào sự tham lẫn:
    ấy là một việc
    không chấáp nhận được.
    (57) Mọi người tín ngưỡng
    qui y Như Lai.
    Như Lai không hề
    lừa dối ai cảû,
    không cả tâm ý
    tham lam ganh ghét,
    triệt hết sự xấu
    ở trong các pháp.
    Cho nên khắp trong
    mười phương quốc độ,
    chỉ có Như Lai
    không e sợ gì.
    (58) Với cái thân thể
    tướng hảo trang nghiêm,
    với cái tuệ giác
    soi sáng tất cả,
    và được vô lượng
    chúng sinh tôn trọng,
    Như Lai công bố
    ấn tín thật tướng.
    (59- Này Xá lợi Phất
    60) tôn giả nên biết
    Như Lai vốn lập
    chí nguyện cao rộng
    là muốn làm cho
    hết thảy chúng sinh
    đều như Như Lai
    không khác gì cả.
    Đúng như chí nguyện
    Như Lai đã lập,
    ngày nay Như Lai
    thực hiện đầy đủ,
    cho nên Như Lai
    giáo hóa tất cả,
    làm cho vào được
    tuệ giác Phật đà.
    (61) Nhưng nếu Như Lai
    gặp ai cũng đem
    tuệ giác Phật đà
    mà giáo hóa cho,
    thì kẻ vô trí
    sẽ bị thác loạn,
    mù mờ, lầm lẫn,
    không thể tiếp nhận.
    (62) Như Lai nhận thức
    những kẻ như vậy
    chưa từng sửa sang
    gốc rễ pháp lành,
    dính chắc vào nơi
    năm thứ dục lạc,
    khổ não vì những
    mù quáng, đam mê.
    (63) Chính vì nhân tố
    năm thứ dục lạc
    mà họ sa vào
    ba đường độc dữ.
    Luân hồi khắp cảû
    sáu nẻo sống chết,
    lãnh chịu đủ hết
    khổ sở độc địa.
    Hình hài hèn kém
    có bởi bào thai,
    đời đời liên tiếp
    cứ thêm lên mãi.
    Họ là những kẻ
    mỏng đức thiếu phước,
    và bị đủ thứ
    khổ não bức bách.
    (64) Nên họ lạc vào
    rừng rậm tà kiến,
    chấp có thế này
    chấp không thế khác.
    Căn cứ những thứ
    tà kiến như vậy,
    họ lần đủ cả
    sáu hai tà kiến,
    đắm sâu vào trong
    chủ thuyết hư vọng,
    chấp nhận cứng chắc
    không thể xả bỏ.
    (65) Họ đầy ngã mạn,
    tự cao, dua nịnh,
    quanh co, xảo trá.
    Vạn ức thời kỳ
    họ không nghe được
    danh từ Phật đà,
    chánh pháp Phật đà
    càng không nghe thấy.
    Những người như vậy
    thật khó hóa độ.
    (66) Này Xá lợi Phất,
    vì những người ấy
    cho nên Như Lai
    lập chước phương tiện:
    nói cho họ biết
    con đường diệt khổ,
    chỉ cho họ rõ
    về sự niết bàn.
    Nhưng mà Như Lai
    dẫu nói niết bàn,
    sự niết bàn đó
    chưa thật niết bàn.
    (67) Vì vậy Như Lai
    khai thị nguyên lý:
    các pháp xưa nay
    thường tự vắng lặng.
    Con Phật đi trọn
    đường đi của mình
    thì trong tương lai
    được thành Phật đà,
    như thế mới là
    niết bàn đích thực.
    (68) Như vậy đủ thấy
    do phương tiện lực
    mà Như Lai có,
    Như Lai khai thị
    đủ hết các pháp
    của ba cỗ xe;
    kỳ thật tất cả
    chư Phật Như Lai
    đều chỉ nói đến
    cỗ xe duy nhất.
    (69) Ngày nay đại hội
    hãy bỏ nghi hoặc.
    Lời chư Phật nói
    không khác sự thật:
    chỉ có cỗ xe
    Phật đà duy nhất,
    không hai cỗ xe
    thứ hai thứ ba.
    *
    (70) Vô số thời kỳ
    thuộc thì quá khứ,
    vô lượng chư Phật
    đã nhập niết bàn;
    những loại số mục
    trăm ngàn vạn ức
    không thể đem ra
    mà tính cho được.
    (71) Chư Phật như vậy
    đã dùng đủ thứ
    yếu tố, ví dụ
    của phương tiện lực,
    diễn đạt thật tướng
    tất cả các pháp.
    (72) Nghĩa là các ngài
    cũng nói giáo pháp
    cỗ xe duy nhất,
    giáo hóa chúng sinh
    làm cho vào được
    tuệ giác Phật đà.
    (73) Chư Phật quá khứ,
    những chúa thánh triết,
    biết rõ thị hiếu
    từ trong thâm tâm
    của cả thế gian,
    trong đó bao gồm
    chư thiên, nhân loại
    và bao loài khác,
    cho nên sử dụng
    phương tiện khác nhau
    để giúp phát lộ
    chân lý bậc nhất.
    (74- Ấy là ai gặp
    75) chư Phật quá khứ,
    được nghe thuyết pháp
    và rồi bố thí,
    giữ giới, nhẫn nhục,
    cùng với tinh tiến,
    thiền định, trí tuệ,
    làm đủ các pháp
    của cả hai loại
    phước đức tuệ giác,
    thì những người ấy
    đã thành Phật tuệ.
    (76) Chư Phật quá khứ
    nhập Niết bàn rồi,
    ai có tâm lý
    tốt đẹp mềm dịu,
    thì những người ấy
    đã thành Phật tuệ.
    (77-78) Chư Phật quá khứ
    nhập Niết bàn rồi,
    những ai hiến cúng
    xá lợi các ngài,
    bằng cách xây dựng
    vạn ức chùa tháp,
    lại đem bạc, vàng,
    cùng với pha lê,
    xa cừ, mã não,
    mai khôi, lưu ly,
    trang hoàng quang đãng
    trần thiết tráng lệ,
    thì những người ấy
    đã thành Phật tuệ.
    (79-80) Ai dựng chùa tháp
    bằng đá cẩm thạch,
    bằng những thứ gỗ
    đàn hương, trầm hương,
    cùng với gỗ mật
    và gỗ quý khác;
    ai dựng chùa tháp
    bằng gạch, đất sét;
    hay nơi hoang dã
    đắp nổi gò đất
    tạo thành chùa tháp
    chư Phật quá khứ;
    (81) thậm chí trẻ con
    vui đùa đắp tháp
    mà tưởng tượng rằng
    xây dựng tháp Phật,
    tất cả người này
    đã thành Phật tuệ.
    (82) Ai vì chư Phật
    trong thì quá khứ
    mà tạo hình tượng
    chạm trỗ tướng tốt,
    thì những người ấy
    đã thành Phật tuệ.
    (83) Hoặc tạo tượng Phật
    bằng bảy chất quý,
    bằng các loại đồng
    vàng đỏ và trắng,
    (84) bằng chì, thiết, sắt,
    gỗ với đất sét;
    hoặc dùng các thứ
    keo, sơn, vải bố,
    bồi đắp tô chuốt
    mà làm tượng Phật;
    tất cả người này
    đã thành Phật tuệ.
    (85) Hoặc dùng hội họa
    vẽ ra tượng Phật
    đủ cả các tướng
    trăm phước trang nghiêm,
    tự mình vẽ ra
    hay nói người vẽ,
    thì những người ấy
    đã thành Phật tuệ.
    (86) Đến nỗi trẻ con
    dùng cỏ, cây, bút,
    ngón tay, móng tay,
    vẽ chơi tượng Phật,
    (87) thì những trẻ ấy
    công đức dồn chứa,
    từ bi hoàn hảo,
    đã thành Phật tuệ,
    và chỉ giáo hóa
    chư vị Bồ tát,
    cứu độ vô lượng
    các loại chúng sinh.
    (88) Nếu ai đối với
    chùa tháp, hình tượng,
    tượng ngọc, tượng vẽ
    chư Phật quá khứ,
    mà đem bông hoa
    các loại hương liệu
    tràng phan bảo cái
    cung kính hiến cúng;
    (89-92) nếu ai tấu nhạc,
    đánh trống, thổi còi,
    thổi ốc, ống tiêu,
    ống sáo, đàn cầm,
    đàn hầu, tỳ bà,
    chiên nhỏ, bạt đồng,
    đem hết âm thanh
    nghe hay như vậy
    hiến lên chư Phật
    trong thì quá khứ;
    hoăëc là hoan hỷ
    ca hát, ngâm vịnh,
    tán dương đức tính
    chư Phật quá khứ;
    và làm như vậy
    dầu một tiếng nhỏ;
    tất cả người này
    đã thành Phật tuệ.
    (93) Những ai trong lòng
    tư tưởng xao lãng,
    chỉ được mỗi một
    bông hoa mà thôi,
    và chỉ hiến cúng
    tượng vẽ mà thôi,
    cũng vẫn dần dần
    gặp vô số Phật.
    (94) Ai biết lễ bái,
    hay chỉ chắp tay,
    đến nỗi đưa lên
    chỉ một cánh tay,
    hoặc chỉ hơi khẽ
    cúi đầu mình xuống,
    hiến cúng tượng Phật
    bằng những cách ấy
    cũng đã dần dần
    gặp vô lượng Phật,
    tự thành tựu được
    tuệ giác vô thượng,
    hóa độ rộng rãi
    vô số các chúng,
    và rồi nhập vào
    Niết bàn hoàn toàn
    tựa như củi hết
    thì lửa cũng tắt.
    (95) Những kẻ trong lòng
    tư tưởng xao lãng,
    bước vào chùa tháp
    chư Phật quá khứ,
    chỉ nói một tiếng
    con tôn kính Phật,
    thì những người ấy
    đã thành Phật tuệ.
    (96) Ở nơi chư Phật
    quá khứ như vậy,
    mà lúc các ngài
    đang còn ở đời
    hay lúc các ngài
    nhập Niết bàn rồi,
    những ai nghe danh
    của pháp như vầy,
    thì những người ấy
    đã thành Phật tuệ.
    (97) Chư Phật Như Lai
    trong thì vị lai
    số lượng vô số,
    các ngài cũng dùng
    mọi cách phương tiện
    tuyên thuyết về pháp.
    (98) Các ngài cũng dùng
    vô số phương tiện
    cứu thoát chúng sinh,
    dẫn vào tuệ giác
    không còn sai sót
    của chư Phật đà.
    (99) Những người được nghe
    pháp các ngài thuyết,
    thì không một ai
    không thành Phật đà.
    Bởi vì các ngài
    cũng lập thệ nguyện
    nguyện đem trí Phật
    mà mình hoàn thành
    dìu dắt hết thảy
    các loại chúng sinh
    cũng được hoàn thành
    trí Phật như vậy.
    (100) Chư Phật vị lai
    dẫu cũng sẽ nói
    về các pháp môn
    nhiều đến vạn ức,
    kỳ thật chỉ vì
    cỗ xe duy nhất.
    (101) Chư Phật: các đấng
    phước tuệ hoàn hảo,
    thấy biết các pháp
    thường không cố định,
    giống Phật cũng phát
    từ các yếu tố;
    thấy biết như vậy
    nên chư Phật đà
    tuyên thuyết giáo pháp
    cỗ xe duy nhất.
    (102) Chính vì vốn là
    bản thể an trú,
    bản thể nguyên vị,
    cho nên thật tướng
    của chính thế gian
    cũng vẫn thường trú;
    tại Bồ đề tràng
    các đức Đạo sư
    biết rõ như vậy,
    nên dùng phương tiện
    tuyên thuyết giáo pháp
    cỗ xe duy nhất.
    (103) Chư Phật hiện tại
    ở khắp mười phương,
    toàn là những bậc
    trời người hiến cúng,
    số lượng nhiều như
    cát của sông Hằng.
    Chư Phật như vậy
    xuất hiện thế gian,
    vì muốn làm cho
    chúng sinh yên vui
    nên cũng tuyên thuyết
    về diệu pháp này.
    (104) Chư Phật như vậy
    thấu triệt nguyên lý
    vắng lặng bậc nhất,
    và rồi áp dụng
    năng lực phương tiện,
    phô bày đủ hết
    các loại chánh pháp;
    tuy làm như vậy
    mà thật chỉ vì
    cỗ xe Phật đà.
    (105-106) Tính nết, quan niệm,
    việc làm đời trước,
    thị hiếu, khuynh hướng,
    nổ lực, năng lực,
    các căn lanh chậm,
    chư Phật biết rõ
    tất cả điều này
    của các chúng sinh.
    Thế rồi các ngài
    áp dụng đủ thứ
    yếu tố, ví dụ,
    cùng với lời chữ,
    tùy sự nên nói
    phương tiện mà nói.
    (107) Ngày nay Như Lai
    cũng làm như vậy.
    Để làm yên vui
    cho các chúng sinh,
    Như Lai thiện dụng
    các cách huấn dụ,
    tuyên thuyết biểu thị
    tuệ giác Phật đà.
    (108) Với trí tuệ lực,
    Như Lai nhận thức
    bản tính, thị hiếu
    của các chúng sinh,
    phương tiện thuyết pháp
    làm hoan hỷ cả.
    (109) Này Xá Lợi Phất,
    tôn giả nên biết,
    Như Lai sử dụng
    mắt Phật mà nhìn
    thì thấy chúng sinh
    trong cả sáu đường
    đều quánghèo nàn
    phước đức tuệ giác,
    lạc vào đường hiểm
    của chốn sống chết,
    cái khổ liên tục
    không hề dứt mất.
    (110) Họ dính sâu xa
    vào năm dục lạc,
    như bò đuôi dài
    tự cưng đuôi nó.
    Tham lam đam mê
    tự che phủ lấy,
    làm họ đui mù
    không thấy gì cả:
    không biết tìm Phật
    bậc cực hùng mạnh,
    không biết cầu pháp
    yếu tố dứt khổ.
    (111) Họ đi sâu vào
    chủ thuyết sai lầm,
    sử dụng đau khổ
    mong hết đau khổ.
    Chính vì bao kẻ
    như thế này đây,
    Như Lai động lòng
    thương xót lớn lao.
    (112-113) Trong khi mới ngồi
    nơi Bồ Đề tràng,
    vừa thành tựu được
    tuệ giác vô thượng,
    Như Lai nhìn vào
    Bồ đề đại thọ,
    lại còn kinh hành
    quanh đại thọ ấy,
    ba tuần liên tiếp
    suy nghĩ như vầy:
    Tuệ giác Như Lai
    đã thành tựu được
    thì rất tinh túy
    cao tột bậc nhất;
    còn như các căn
    của bao chúng sinh
    thì quá chậm chạp,
    lại bị cái ngu
    vì ham dục lạc
    làm mù tâm trí,
    những kẻ như vậy
    làm sao hóa độ?
    (114-116) Khi ấy các vị
    Phạn Vương, Đế Thích,
    bốn đại Thiên Vương
    hộ vệ thế gian,
    Đại Tự Tại Thiên,
    cùng các thiên chúng
    tùy thuộc của họ
    nhiều đến ngàn vạn,
    cung kính chắp tay
    đảnh lễ thỉnh cầu
    Như Lai chuyển đẩy
    bánh xe chánh pháp.
    Như Lai tức thì
    suy nghĩ như vầy:
    Nếu chỉ tán dương
    cỗ xe Phật đà,
    những kẻ chìm ngập
    ở trong đau khổ
    không thể tin được
    về pháp như vậy.
    Rồi vì phá hoại
    không tin vào pháp,
    nên rơi vào lại
    trong ba đường dữ.
    Như vậy thà là
    Như Lai không nói,
    mà nên mau chóng
    nhập vào Niết bàn.
    (117) Nhưng rồi Như Lai
    tức thì nhớ đến
    chư Phật Như Lai
    trong thì quá khứ,
    nhớ đến phương tiện
    các ngài thi hành,
    và nghĩ như vầy:
    Tuệ giác vô thượng
    mà nay Như Lai
    đã thực hiện được,
    Như Lai cũng phải
    áp dụng phương tiện
    mà tuyên thuyết ra
    đủ ba cỗ xe.
    (118) Ngay khi Như Lai
    suy nghĩ như vậy,
    chư Phật mười phương
    đều hiện trước mắt,
    dùng tiếng Phạn thiên
    khuyến khích Như Lai,
    nói rằng tốt lắm
    Thích Ca Thế Tôn!
    (119) Ngài là vị thầy
    dẫn đạo bậc nhất!
    Ngài đã hoàn thành
    cái pháp tối thượng,
    thì nên thể theo
    hết thảy chư Phật
    mà cùng dùng đến
    nghệ thuật phương tiện.
    (120) Chư Phật chúng tôi
    cũng hoàn thành được
    cái pháp bậc nhất
    rất tinh túy ấy,
    và vì chúng sinh
    các loại khác nhau
    nên phải phân ra
    nói ba cỗ xe.
    Vì kẻ trí nhỏ
    chỉ thích pháp nhỏ,
    không thể tự tín
    mình sẽ làm Phật.
    (121) Do vậy chúng tôi
    áp dụng phương tiện,
    phân nói các loại
    tuệ giác ba xe,
    và tuy nói cả
    tuệ giác ba xe,
    kỳ thật chỉ dạy
    các vị Bồ tát.
    (122) Này Xá Lợi Phất,
    tôn giả nên biết,
    Như Lai nghe được
    tiếng nói tuyệt diệu
    trong thanh thâm thúy
    của chư Như Lai -
    những bậc sư tử
    của các thánh triết,
    tức thì hoan hỷ
    và thốt lên rằng:
    Tôi xin tôn kính
    chư vị Phật đà!
    (123) Như Lai lại nghĩ:
    Như Lai xuất hiện
    nhằm vào thời kỳ
    dữ dội vẩn đục,
    thì như lời lẽ
    của chư Phật nói,
    Như Lai cũng phải
    thể theo mà làm.
    (124) Như Lai nghĩ rồi
    liền đến Lộc Uyển.
    Thật tướng các pháp
    vốn rất vắng lặng,
    không thể diễn tả
    bằng những lời chữ,
    nhưng mà Như Lai
    áp dụng phương tiện
    nói pháp ấy ra
    cho năm Tỷ kheo.
    (125) Như vậy gọi là
    quay bánh xe pháp,
    thế gian liền có
    danh hiệu Niết bàn,
    lại còn có cả
    danh hiệu La Hán,
    có pháp có Tăng
    danh hiệu khác biệt.
    (126) Từ đó đến nay
    Như Lai ca tụng
    Niết bàn hết hẳn
    cái khổ sống chết.
    Như Lai thường xuyên
    đã nói như vậy.
    (127) Nhưng Xá Lợi Phất,
    tôn giả nên biết,
    Như Lai lại thấy
    có những con Phật
    quyết chí cầu được
    tuệ giác Phật đà.
    Số ấy nhiều đến
    vô lượng vạn ức.
    (128) Ai cũng cung kính
    đến chỗ Như Lai,
    vì các đời trước
    họ đã từng nghe
    pháp mà chư Phật
    phương tiện tuyên thuyết.
    (129) Như Lai lúc ấy
    suy nghĩ như vầy:
    Sở dĩ Như Lai
    xuất hiện thế gian
    là để tuyên thuyết
    tuệ giác Phật đà,
    thì nay chính là
    thì gian tuyên thuyết.
    (130) Này Xá Lợi Phất,
    tôn giả nên biết,
    những kẻ trí nhỏ,
    các căn chậm chạp,
    chấp trước hình thức,
    kiêu căng ngạo mạn,
    thì không thể nào
    tin được pháp này.
    Nhưng mà pháp này
    Bồ tát sẽ nghe.
    (131) Thế nên ngày nay
    Như Lai cảm thấy
    hoan hỷ hết sức,
    chứ không e ngại.
    Ngay giữa đại chúng
    chư vị Bồ tát,
    Như Lai thẳng thắn
    loại bỏ phương tiện,
    chỉ còn nói đến
    tuệ giác vô thượng.
    (132) Chư vị Bồ tát
    nghe được pháp này
    thì lưới ngờ vực
    thoát bỏ được cả,
    mà ngàn hai trăm
    chư vị La hán
    ai nấy cũng sẽ
    được làm Phật đà.
    (133-134) Cho nên y như
    thể thức thuyết pháp
    của chư Phật đà
    trong ba thì gian,
    ngày nay Như Lai
    cũng làm như vậy:
    Tuyên thuyết về pháp
    không có khác nhau.
    (135) Chư Phật xuất thế
    là sự khó có,
    vì lẽ lâu xa
    mới gặp một lần.
    Mà dẫu chư Phật
    đã xuất thế rồi,
    nói về pháp này
    là sự khó có.
    Vô số thời kỳ
    mới nghe pháp này,
    nên sự nghe ấy
    là sự khó có.
    Và rồi những ai
    nghe nổi pháp này,
    thì người như vậy
    là người khó có.
    (136) Như hoa Ưu đàm
    ai cũng ưa thích,
    đến như chư thiên
    cũng thấy hiếm có,
    vì lẽ thỉnh thoảng
    mới trổ một lần.
    (137) Những người nghe nổi
    pháp như thế này,
    nghe rồi hoan hỷ
    ca tụng tán dương,
    thì dẫu đến nỗi
    chỉ pháp một lời,
    cũng đã hiến cúng
    tam thế chư Phật.
    Nên người như vậy
    hết sức khó có,
    khó có hơn cả
    hoa thiêng Ưu đàm.
    (138) Tất cả các chúng
    các người đừng nghi!
    Như Lai là bậc
    vua của các pháp,
    phổ cáo các người
    biết rằng Như Lai
    chỉ đem giáo pháp
    cỗ xe duy nhất
    mà giáo hóa cho
    chư vị Bồ tát.
    Như Lai không có
    đệ tử Thanh văn.
    (139) Này Xá Lợi Phất,
    tất cả các người,
    bất luận Thanh văn
    hay là Bồ tát,
    đều phải biết rằng
    pháp tinh túy này
    chính là bí yếu
    của chư Phật đà.
    (140) Thời kỳ dữ dội
    đầy năm vẩn đục,
    con người chỉ thích
    đắm say dục lạc,
    không bao giờ muốn
    cầu tuệ giác Phật.
    (141) Nên những kẻ ác
    trong tương lai ấy
    dẫu được nghe đến
    cỗ xe duy nhất
    của Như Lai nói,
    cũng ngu và lầm,
    không thể tin tưởng,
    không chịu tiếp nhận
    phá hoại pháp ấy
    và sa đường dữ.
    (142) Chỉ có những ai
    hổ thẹn, trong sạch,
    quyết chí tìm đến
    tuệ giác Phật đà,
    thì cần phải vì
    những người như vậy
    tán dương rộng rãi
    cỗ xe duy nhất.
    (143) Này Xá Lợi Phất,
    chư vị phải biết,
    nguyên tắc chư Phật
    là như thế đó:
    Vận dụng phương tiện
    tùy nghi thuyết pháp.
    Ai không tu học
    không thể hiểu thấu.
    (144) Đến như chư vị
    khi đã biết được
    sự thể tùy nghi
    phương tiện thuyết pháp
    của chư Phật đà,
    bậc thầy thế gian,
    thì đừng còn nữa
    những sự nghi hoặc.
    Tất cả chư vị
    hãy vui mừng lên,
    khi tự biết chắc
    mình sẽ làm Phật.
    ___________
    Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:
    Vạn ức thời kỳ
    không thể nói được
    mới được có lúc
    Phật nói Pháp Hoa.
    Vạn ức thời kỳ
    không thể nói được
    mới được có lúc
    nghe nói Pháp Hoa.
    Chúng con nương nhờ
    Phật Pháp Tăng lực
    mới được trì tụng
    Diệu Pháp Liên Hoa.
    Chúng con nguyện đem
    công đức như vầy
    hiến khắp tất cả
    các loại chúng sinh,
    cầu cho chúng con
    cùng với chúng sinh
    đều được thành tựu
    tuệ giác chư Phật.
    Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được chư Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu Suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy Bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phátPháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Quán Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.







    TrướcSau
    In Trang















  4. #4

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)

    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch

    Cuốn 2
    Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừatên Diệu Pháp Liên Hoa.
    Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:
    Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh củatuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phươngquốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởikinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trìPháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phươngquốc độ.
    _________
    Phẩm 3:
    Ví dụ

    Lúc ấy tôn giả Xá lợi Phất hoan hỷ phấn chấn, tức thì đứng dậy, chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan đức Thế Tôn mà thưa, bạch đức Thế Tôn, ngày nay, từ đức Thế Tôn, con nghe được tiếng nói của pháp này, trong lòng phấn chấn, được sự chưa từng có. Tại sao, vì ngày trước, cũng từ đức Thế Tôn, con nghe pháp này, thấy chư vị Bồ tát tiếp nhận lời ghi làm Phật mà chúng con không được dự vào việc ấy, nên rất cảm thươngcho mình bị loại khỏi sự thấy biết không có giới hạn của đức Thế Tôn. Bạch đức Thế Tôn, con thường ngồi hay đi một mình dưới cây trong rừng, nghĩ rằng chúng con đồng nhập pháp tánh, tại sao đức Thế Tôn cứu độ cho bằng giáo phápcỗ xe thấp nhỏ? Nhưng đó là lỗi tại chúng con, không phải tại đức Thế Tôn. Bởi lẽ nếu chúng con biết mong đợi đức Thế Tôn nói cho về nhân tố thành tựu tuệ giác vô thượng, thì chắc chắnđã được cứu độ bằng giáo pháp cỗ xe vĩ đại. Nhưng chúng con không nhận thức được sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn; mới nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, gặp giáo pháp thấp nhỏ là chúng con tin tưởng, tiếp nhận, tư duy và chứng lấy. Do đó, bạch đức Thế Tôn, hồi nào đến giờ, con thường tự trách suốt ngày suốt đêm. Nhưng ngày nay, từ đức Thế Tôn, con được nghe cái pháp chưa từng có mà trước đây con chưa nghe, nên hết sạch hoài nghi, thân tâm thư thái, hoàn toàn ổn định. Ngày nay con mới biết mình thật con Phật, sinh ra từ sự giáo huấn của Phật, sinh ra từ sự hóa cải của Pháp, hưởng được tài sản về Pháp của Phật. Tôn giả Xá lợi Phất muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Nay nghe tiếng nói
    của pháp như vầy,
    con cảm nhận được
    sự chưa từng có,
    trong lòng phát sinh
    nỗi mừng to lớn,
    vì đã phá hết
    mạng lưới hoài nghi.
    Xưa nay con nhờ
    Thế Tôn giáo hóa,
    ngày nay không mất
    cỗ xe vĩ đại.
    (2) Tiếng nói Thế Tôn
    thật là hiếm có,
    trừ được lo buồn
    cho bao chúng sinh.
    Con là một người
    đã hết phiền não,
    mà nghe tiếng ấy
    cũng hết lo buồn.
    (3) Ở trong hang núi
    hay dưới cây rừng,
    con ngồi trầm tư
    hoặc đi kinh hành,
    lòng thường nghĩ đến
    sự thể sau đây.
    (4) - Sự thể mà con
    rất tự thống trách:
    tại sao chính mình
    tự lừa gạt mình! -
    Rằng cũng toàn là
    đệ tử Thế Tôn,
    cũng đồng nhập được
    pháp tánh thuần khiết,
    vậy mà chúng con
    trong thì vị lai
    không thể tuyên thuyết
    về pháp vô thượng!
    (5) Băm hai tướng quí
    toàn màu hoàng kim,
    mười đại năng lực
    tám sự giải thoát,
    chúng con cùng chung
    pháp tánh đồng nhất,
    vậy mà không được
    những thành quả ấy!
    (6) Cho đến tám mươi
    vẻ đẹp tinh túy,
    cùng với mười tám
    những sự đặc biệt,
    thành quả như vậy
    chúng con mất cả!
    (7) Mỗi khi con đi
    kinh hành một mình,
    hồi tưởng Thế Tôn
    ở giữa các chúng,
    rõ ràng danh ngài
    vang động mười phương,
    ích lợi rộng lớn
    cho bao chúng sinh.
    Hồi tưởng như vậy,
    con nghĩ phận mình
    mất hết thành quả
    cao cả đến thế -
    Thì ra chính con
    đã dối gạt mình!
    (8) Con thường ngày đêm
    nghĩ sự thể này,
    và muốn đem ra
    xin hỏi Thế Tôn
    như thế thật sự
    con mất, không mất?
    (9) Mỗi khi được thấy
    Thế Tôn ca tụng
    chư vị Bồ tát,
    thì cả ngày đêm
    con suy ngẫm mãi
    về sự kiện ấy.
    (10) Nay con được nghe
    tiếng nói Thế Tôn,
    biết ngài tùy nghi
    phương tiện thuyết pháp,
    cuối cùng thuyết thẳng
    về pháp hoàn hảo
    ngoài tầm nghĩ bàn,
    làm cho các chúng
    đều được đến ngồi
    nơi Bồ đề tràng.
    (11) Phần con thì vốn
    vướng mắc tà kiến,
    làm thầy các vị
    Phạn chí ngoại đạo,
    Thế Tôn biết rõ
    tâm tính của con,
    nhổ cho tà kiến
    chỉ cho Niết bàn.
    (12) Con loại trừ hết
    tư tưởng tà kiến,
    nơi nguyên lý Không
    con được chứng lấy,
    bây giờ lòng con
    tự cho là mình
    đã được Niết bàn.
    Nhưng mà ngày nay
    con mới tự biết
    chưa thật Niết bàn.
    (13) Phải đến lúc nào
    con được làm Phật
    có đủ tất cả
    băm hai tướng qúi,
    chư thiên, nhân loại,
    tám bộ long thần
    ai cũng tôn kính,
    bấy giờ mới được
    tự xưng đã chứng
    Niết bàn hoàn toàn.
    (14) Ở giữa đại hội
    các chúng như vầy,
    đức Thế Tôn nói
    con sẽ làm Phật,
    con nghe tiếng pháp
    ngài nói như vậy
    thì sạch hết cả
    hoài nghi hối tiếc.
    (15) Khi con mới nghe
    đức Thế Tôn nói,
    trong lòng cả sợ
    ngờ vực hết sức:
    phải chăng đây là
    ma vương làm Phật
    để gây rối loạn
    tâm trí của con?
    (16) Nhưng rồi Thế Tôn
    thiện dụng các thứ
    yếu tố, ví dụ,
    lời chữ tuyệt hảo,
    làm cho lòng con
    yên như biển cả:
    nghe rồi lòng con
    sạch hết ngờ vực.
    (17) Thế Tôn nói rõ
    vô lượng Phật đà
    đã nhập Niết bàn
    trong thì quá khứ,
    với sự xác lập
    trong cách phương tiện,
    ngài nào cũng nói
    về pháp như vầy.
    (18) Ngài nói Phật đà
    hiện tại vị lai
    số lượng nhiều đến
    không thể tính kể,
    ngài nào cũng dùng
    cách thức phương tiện
    mà tuyên thuyết đến
    pháp như thế này.
    (19) Ngài nhắc nay ngài
    làm như thế nào
    trong sự xuất thế
    và sự xuất gia,
    trong sự thành tựu
    tuệ giác vô thượng,
    trong sự chuyển đẩy
    bánh xe chánh pháp,
    cho thấy chính ngài
    cũng là vận dụng
    cách thức phương tiện
    mà nói pháp này.
    (20) Thế Tôn công bố
    con đường đích thực,
    việc ấy ma vương
    không thể làm được.
    Vì vậy mà con
    biết chắc chắn rằng
    không phải ma vương
    làm ra đức Phật,
    chỉ vì con sa
    vào lưới ngờ vực
    nên bảo đó là
    ma vương làm ra.
    (21) Tiếng nói dịu ngọt
    của đức Thế Tôn
    cực kỳ thâm thúy,
    diễn đạt về pháp
    cực kỳ trong suốt.
    Nghe tiếng nói ấy
    lòng con sinh ra
    vui mừng hết sức,
    vì nó hết hẳn
    ngờ vực hối tiếc,
    đứng vững ở trong
    trí tuệ chắc thật.
    (22) Là con biết chắc
    mình sẽ làm Phật,
    chư thiên nhân loại
    ai cũng tôn kính,
    chuyển đẩy bánh xe
    chánh pháp vô thượng,
    giáo hóa khai thị
    chư vị Bồ tát.
    Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, ngày nay, ở giữa đại hội chư thiên, nhân loại, sa môn, bà la môn, đại loại các chúng như thế này, Như Lai nói rõ cho tôn giả biết, xưa kia, nơi hai vạn ức đức Phật, Như Lai vì tuệ giác vô thượng mà luôn luôn giáo hóacho tôn giả, tôn giả cũng mãi mãi theo học Như Lai. Như Lai đem phương tiện mà dắt dẫn tôn giả, nên đời này tôn giả vẫn được tái sinh trong giáo pháp Như Lai. Xá Lợi Phất, xưa kia Như Lai dạy cho tôn giả phát ra chí nguyện mong cầu tuệ giác Phật đà, vậy màngày nay tôn giả quên hết, tự cho mình đã thực hiện Niết bàn. Ngày nay Như Lai muốn làm cho tôn giả nhớ lại chí nguyện ban đầu, và đường đi của chí nguyện ấy, nên sẽ nói cho chư vị Thanh văn mà tôn giả là người đứng đầu, về bản kinh Đại thừa này, mang tên Pháp Hoa, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn.
    Xá Lợi Phất, trong thì vị lai, tôn giả trải qua thời kỳ nhiều đến vô lượng, phụng sự nhiều ức đức Phật, kính giữ chánh pháp của các ngài, đi hết đường đi của Bồ tát rồi, sẽ được thành Phật với danh hiệu Hoa Quang, đủ mười đức hiệu: Bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua Niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn, bậc Tôn cao nhất đời. Quốc độ của đức Hoa Quangtên là Ly Cấu, bằng phẳng, sạch sẽ, đẹp đẽ, yên vui, sung túc, trời người đông đảo. Đất bằng lưu ly, những đường ngã tám được chạy dây vàng mà phân chia lề đường. Lề đường nào cũng có những hàng cây bằng bảy chất liệu quý báu, hoa trái có luôn.
    Đức Hoa Quang cũng đem giáo pháp của ba cỗ xe mà giáo hóa chúng sinh. Xá Lợi Phất, khi đức Hoa Quang xuất thế dẫu không phải thời kỳ dữ dội, nhưng vì chí nguyện ban đầu nên ngài tuyên thuyết đủ hết giáo pháp của ba cỗ xe. Thời kỳ của đức Hoa Quangtên là Đại Bảo Trang Nghiêm. Tại sao được gọi như vậy? Vì trong quốc độ của đức Hoa Quang lấy chư vị Bồ tát làm châu ngọc lớn nhất. Chư vị Bồ tát ấy vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn, toán số ví dụ không thể xác định, phi trí lực của Phật thì không ai biết hết. Chư vị Bồ tát ấy muốn đi thì hoa ngọc nâng chân. Chư vị Bồ tát ấy không phải mới phát tâm, mà toàn là lâu đời gieo trồng gốc rễ công đức, và tu hành phạn hạnh một cách trong sáng ở nơi chư Phật nhiều đến vô số vạn ức, thường được chư Phật tándương, thường xuyên tu tập tuệ giác chư Phật, có đủ thần thông quảng đại, khéo biết hết thảy cửa ngõ chánh pháp, ngay thẳng chứ không dối trá, trí nhớ rất vững. Bồ tát như vậy đầy cả quốc độ.
    Xá lợi Phất, đức Hoa Quang sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, trừ thì gian làm vương tử, chưa thành Phật đà. Người trong quốc độ của ngài sống lâu tám thời kỳ bậc nhỏ. Đức Hoa Quang, sau mười hai thời kỳ bậc nhỏ, trao cho Bồ tát Kiên Mãn lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, bằng cách bảo chư vị tỷ kheo, rằng vị bồ tát Kiên Mãn này sẽ kế tiếp làm Phật với danh hiệu Hoa túc an hành, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích Ứnghiến cúng, bậc Biết đúng và khắp. Quốc độ của vị này cũng y như đã nói ở trên. Xá lợi Phất, đức Hoa Quang nhập diệt rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại ba mươi hai thời kỳbậc nhỏ, giáo pháp tương tự tồn tại cũng ba mươi hai thời kỳ bậc nhỏ.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (23) Này Xá lợi Phất,
    trong thì vị lai
    tôn giả thành đấng
    Tuệ giác khắp cả,
    danh hiệu của ngài
    tên là Hoa Quang,
    sẽ cứu độ cho
    vô lượng các chúng.
    (24) Tôn giả phụng sự
    vô số Phật đà,
    thực hành đầy đủ
    việc làm bồ tát,
    thành tựu bao nhiêu
    phẩm chất Phật đà,
    trong đó gồm có
    mười đại năng lực,
    thì thực hiện được
    tuệ giác vô thượng.
    (25) Vô số thời kỳ
    qua rồi thì đến
    thời kỳ có tên
    Đại Bảo Trang Nghiêm,
    quốc độ có tên
    Ly Cấu thế giới:
    thế giới trong suốt
    không một vết dơ.
    (26) Đất bằng lưu ly,
    dây vàng chia đường,
    cây bằng bảy báu
    màu sắc xen nhau
    mà lại thường xuyên
    hoa có trái có.
    (27) Chư vị Bồ tát
    của cõi Ly Cấu
    thì có trí nhớ
    luôn luôn vững chắc;
    thần thông quảng đại,
    ba la mật đa,
    các pháp như vậy
    có đủ tất cả;
    khéo học khéo tu
    đường đi Bồ tát
    ở nơi chư Phật
    nhiều đến vô số.
    Bồ tát đại sĩ
    đến như thế này
    được sự giáo hóa
    của đức Hoa Quang.
    (28) Đức Phật Hoa Quang
    khi làm vương tử
    bỏ ngôi quốc chúa
    bỏ cuộc vinh hoa,
    cái thân cuối cùng
    được đem xuất gia
    và thành tựu được
    tuệ giác Phật đà.
    (29) Đức Phật Hoa Quang
    sống đến mười hai
    thời kỳ bậc nhỏ,
    người quốc độ ngài
    sống cũng đến số
    tám thời kỳ ấy.
    (30- Đức Phật Hoa Quang
    31) nhập niết bàn rồi,
    giáo pháp nguyên chất
    tồn tại bâm hai
    thời kỳ bậc nhỏ,
    hóa độ chúng sinh
    một cách rộng rãi.
    Giáo pháp nguyên chất
    kết thúc xong rồi,
    giáo pháp tương tự
    tồn taị cũng đến
    số bâm hai ấy.
    Xá lợi của ngài
    phân bủa rộng ra,
    nhân loại chư thiên
    cùng nhau hiến cúng.
    (32) Việc đức Hoa Quang
    là như thế đó.
    Bậc thánh hoàn hảo
    phước đức tuệ giác
    cực kỳ siêu việt
    tuyệt đối như vậy,
    chính là hậu thân
    của Xá lợi Phất,
    do đó tôn giả
    hãy vui mừng lên!
    Lúc ấy bốn chúng tám bộ và các chúng khác, nghe thấy tôn giả Xá lợi Phất đối trước đức Thế Tôn tiếp nhận lời ghi được thành tuệ giác vô thượng, thì lòng rất hoan hỷ, phấn chấn vô cùng, người nào cũng cởi những tấm vải thượng thặng đang khoác trên mình mà hiến cúng đức Thế Tôn. Đế Thích, Phạn Vương, cùng vô số thiên nhân, cũng đem vải tuyệt diệu của chư thiên, lại đem hoa quí báu của chư thiên, đại loại như hoa mạn đà và hoa mạn đà lớn, tung rãi mà hiến cúng đức Thế Tôn. Vải tuyệt diệu của chư thiênđược tung rải thì tự đứng lại mà xoay chuyển trong không gian. Ở trong không gian còn có trăm ngàn vạn thứ nhạc khí của chư thiên đồng thời hòa tấu, còn có mưa xuống các loại hoa khác nữa cũng của chư thiên. Chư thiên hiến cúng như vậy và thưa, bạch đức Thế Tôn, xưa kia ở Lộc uyển, lần đầu tiên đức Thế Tôn đã chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, ngày nay đức Thế Tôn lại chuyển đẩy bánh xe chánh pháp cực đại và tối thượng. Chư thiên muốn lặp lại ý nghĩa đã thưa, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (33) Xưa đức Thế Tôn
    ở nơi Lộc uyển
    chuyển đẩy bánh xe
    pháp bốn chân lý,
    phân tích trạng thái
    sinh ra diệt đi
    ở nơi tất cả
    năm phần hợp thể.
    (34) Nay đức Thế Tôn
    lại còn chuyển đẩy
    bánh xe chánh pháp
    cực đại tối thượng.
    Chánh pháp như vậy
    cực kỳ sâu xa,
    thế gian ít có
    người nào tin nổi.
    (35) Từ xưa đến nay
    chúng con thường nghe
    Thế Tôn tuyên thuyết
    bao nhiêu chánh pháp,
    nhưng chưa bao giờ
    được nghe chánh pháp
    tối thượng, tinh túy,
    sâu xa như vầy.
    (36- Thế Tôn tuyên thuyết
    37) chánh pháp như vầy,
    tất cả chúng con
    xin kính tùy hỷ.
    Ngài Xá lợi Phất
    bậc đại trí tuệ,
    ngày nay tiếp nhận
    Thế Tôn thọ ký,
    chúng con rồi đây
    cũng được như vậy:
    cũng sẽ chắc chắn
    được làm Phật đà,
    bậc tối vô thượng
    trong cả thế gian.
    (38) Tuệ giác Thế Tôn
    trên tầm nghĩ bàn,
    Thế Tôn tùy nghi
    phương tiện tuyên thuyết.
    Bao nhiêu phước đức
    chúng con có được
    ở trong đời này
    hay trong đời trước,
    cùng với phước đức
    phụng sự Thế Tôn,
    chúng con xoay cả
    về nơi tuệ giác
    của đức Thế Tôn,
    nguyện được tuệ ấy.
    Lúc ấy tôn giả Xá Lợi Phất thưa, bạch đức Thế Tôn, ngày nay con không còn hoài nghihối tiếc gì nữa, khi con đích thân đối trước đức Thế Tôn được tiếp nhận lời ngài thọ kýcho con thành tựu tuệ giác vô thượng. Nhưng một ngàn hai trăm vị tâm trí tự tại giải thoátnày, mà xưa kia khi ở trong địa vị tu học tiếp tục, đức Thế Tôn thường dạy rằng chánh pháp Như Lai có năng lực thoát ly sinh già bịnh chết, cứu cánh Niết bàn; những vị ấy, và những vị tu học tiếp tục hay tu học hoàn tất, ai cũng đem cái việc thoát ly chấp bản ngãvà chấp có không mà cho rằng mình được Niết bàn. Ngày nay, đối trước đức Thế Tôn, các vị nghe đến điều chưa từng nghe, rơi cả vào sự nghi hoăëc. Lành thay đức Thế Tôn, xin ngày giải thích cho cả bốn chúng về nguyên ủy của điều ấy, để cho các vị thoát khỏimọi sự hoài nghi hối tiếc. Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá Lợi Phất, Như Lai đã chẳng mới nói trước đây hay sao, rằng chư Phật Như Lai đem các thứ yếu tố, ví dụ và lời chữ mà phương tiện thuyết pháp, pháp ấy toàn là vì tuệ giác vô thượng, bởi lẽ pháp ấy toàn là để giáo hóa Bồ tát. Nhưng, Xá Lợi Phất, bây giờ Như Lai lấy một sự ví dụ để nói rõ thêm về ý nghiã ấy. Những người có trí thì do sự ví dụ mà được lý giải.
    Xá Lợi Phất, ví như tại một khu dân cư của một thủ phủ, có một đại trưởng giả, tuổi già, lắm của, nhiều nhà đất và tôi tớ. Ngôi nhà của ông rộng lớn nhưng chỉ có một cửa. Nhiều người, một trăm hai trăm cho đến năm trăm, cùng ở trong đó. Nhưng ngôi nhà ấy, lầu gác nhà chính mà cũng đã hư cũ, tường vách lở rã, chân cột hư mục, rường nhà và đòn nóc đã xiêu nghiêng cả. Và đột nhiên bốn phía cùng lúc dậy lửa, đốt cháy nhà cửa.
    Con của đại trưởng giả có đến mười người, hoặc đến ba mươi người, vẫn ở trong ngôi nhà ấy. Đại trưởng giả thấy lửa dữ bốn phiá dậy lên thì hết sức kinh sợ, nghĩ rằng dầu ta có thể do nơi cái cửa của ngôi nhà đang cháy này mà thoát ra một cách an toàn, nhưng các con ta thì ở trong nhà lửa như vầy mà vẫn ham chơi giỡn, không hay không biết, không kinh không sợ. Hơi lửa đã xáp đến nơi mình, nóng rát như cắt mà lòng vẫn không chán không lo, không có ý gì thoát chạy. Đại trưởng giả lại nghĩ, thân mình và cánh tay của ta rất mạnh, ta có thể dùng vạt áo hoặc ghế đẳng, gom các con lại ôm mà chạy ra. Nhưng đại trưởng giả lại nghĩ, ngôi nhà như vầy chỉ có một cửa, cửa ấy lại nhỏ hẹp. Các con nhỏ dại, chưa biết gì hết, lại lưu luyến đam mê chỗ chúng đang chơi, nên có thể có đứa rơi xuống mà bị lửa đốt cháy. Vậy ta nên nói cho các con biết sự thể khủng khiếp, rằng ngôi nhà đã cháy, phải thoát cho mau, đừng để lửa đốt cháy mất. Nghĩ rồi, đại trưởng giả nói hết cho các con nghe những điều mình nghĩ, và dục các con cấp tốc chạy ra. Nhưng, người cha thương xót và khéo bảo, mà những đứa con của ông vẫn ham chơi giỡn, không tin không sợ, không có lòng nào muốn ra, cũng không biết lửa là gì, nhà ra sao, cháy mất là thế nào, chỉ biết chạy qua chạy lại, giỡn cười và nhìn cha mà thôi.
    Đại trưởng giả thấy vậy nghĩ rằng, ngôi nhà này đang bị lửa dữ đốt cháy, ta với con ta không thoát gấp thì chắc chắn bị đốt. Ta phải lập chước phương tiện để làm cho các con khỏi bị tai họa. Là cha nên đại trưởng giả biết trước đây tâm lý các con mỗi đứa có một sở thích. Những đồ chơi quý, đẹp và lạ, ý chúng chắc chắn rất ham. Ông bảo, cha có những đồ chơi mà các con rất thích. Những đồ ấy hiếm có, khó được, các con không lấy thì sau tất hối tiếc. Những đồ ấy là các cỗ xe dê, các cỗ xe hươu và các cỗ xe bò, hiện cha để cả ở ngoài cửa, các con có thể ra lấy mà chơi. Hãy chạy ra khỏi ngôi nhà lửa này tức khắc, các con muốn chơi thứ nào cha cũng cho cả. Các con nghe cha nói đến đồ chơi vừa quý vừa đẹp thì trúng ý của chúng, nên đứa nào cũng đâm ra hăng hái, xô nhau, đẩy nhau, đua nhau mà chạy, giành nhau mà thoát khỏi nhà lửa.
    Khi đại trưởng giả thấy các con ra được an toàn, ngồi cả nơi chỗ đất trống ở giữa ngã tư, không còn gì phải e ngại nữa, thì lòng ông khoan khoái, vui mừng rộn rã. Bấy giờ các con ông cùng thưa, đồ chơi cha hứa, xe dê xe hươu xe bò ở đâu, xin cha cho liền đi. Xá Lợi Phất, khi ấy đại trưởng giả cấp cho các con mỗi đứa một cỗ xe lớn như nhau. Cỗ xe ấy cao mà lại rộng, trang hoàng bằng các thứ ngọc. Lan can bao quanh, chuông nhỏ treo bốn phía. Phần trên thì mui trần được căng riềm màn, và hai thứ này cũng được trang trí bằng những thứ ngọc kỳ lạ, màu sắc xen nhau. Những đường dây kết ngọc thì mắc như đan với nhau, kết thắt dải hoa mà treo rủ xuống. Lại phủ bằng lụa trắng có tua với chỉ xâu hạt ngọc, và đặt những đệm gối màu hồng. Cỗ xe được kéo bằng con bò trắng, da dẻ đầy đặn, sạch sẽ, thân hình đã lớn lại đẹp, gân sức rất mạnh, bước đi bằng phẳng ngay ngắn, và đi mau như gió. Cỗ xe còn có nhiều kẻ thị tùng để hầu hạ và chăm sóc. Đại trưởng giả tài sản giàu có vô lượng, mọi thứ kho tàng đều tràn đầy, nên ông nghĩ, với tài sản ấy, ta không nên cho các con những cỗ xe xấu nhỏ. Những đứa bé này toàn là con ta, ta thương đồng đều. Những cỗ xe lớn làm bằng bảy chất liệu quý báu như trên, ta có vô số. Ta nên đồng đều mà cho các con, không nên đối xử sai biệt. Tài sản của ta chu cấp cả nước còn không thiếu, huống chi các con. Bấy giờ các con của đại trưởng giảcùng ngồi những cỗ xe lớn, được sự chưa từng có, ngoài lòng mong ước.
    Xá Lợi Phất, tôn giả nghĩ thế nào, đại trưởng lão đồng đều cấp cho các con những cỗ xe lớn quý báu như vậy, có dối trá không? Tôn giả Xá lợi Phất thưa, không, bạch đức Thế Tôn. Đại trưởng giả ấy chỉ cốt làm cho các con ông thoát được hỏa hoạn, toàn vẹn tính mạng, nên không phải dối trá. Tính mạng toàn vẹn là kể như đã được đồ chơi đẹp và thích rồi, huống chi đây chỉ là chước phương tiện của ông cứu các con ông thoát khỏinhà lửa. Bạch đức Thế Tôn, đại trưởng giả ấy đến nỗi không cho một cỗ xe nhỏ nhất, cũng không phải là dối trá, vì ông vốn nghĩ ta lập chước phương tiện để làm cho các con thoát ra. Vì nghĩ như vậy nên ông đâu có dối trá. Huống chi ông còn biết mình giàu có vô lượng, muốn lợi cho các con nên đồng đều cấp cho những cỗ xe lớn.
    Đức Thế Tôn bảo tôn giả Xá lợi Phất, tốt lắm, đúng như lời tôn giả nói. Xá lợi Phất, Như Lai cũng như đại trưởng giả ấy. Như Lai là từ phụ của cả thế gian. Như Lai không còn một cách hoàn toàn những sự kinh khủng, suy biến, lo buồn, những sự đen tối che phủ của vô minh. Như Lai thành tựu một cách đầy đủ sự thấy biết không có giới hạn mà nội dung gồm có đại năng lực và sự không sợ, có sức mạnh đại thần thông và sức mạnh đại tuệ giác, có phương tiện toàn hảo và trí tuệ toàn hảo, lòng hiền từ bao la và lòng thương xót bao la thì vĩnh viễn không còn biết chán biết mệt. Rồi vì thường xuyên tìm kiếmnhững việc tốt lành mà làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, nên Như Lai sinh vào nhà lửa ba cõi vừa lửa vừa mục để cứu vớt chúng sinh vượt qua lửa dữ của sinh già bịnh chết, của lo buồn đau khổ, của ba độc tố vô minh, dục vọng và hận thù, giáo hóa cho họ đạt được tuệ giác vô thượng.
    Như Lai thấy chúng sinh bị nung nấu thiêu đốt bởi sinh già bịnh chết, bởi lo buồn đau khổ. Lại vì năm thứ dục lạc, vì tiền tài danh lợi mà chịu đủ khổ sở. Ham hố đeo đuổi những thứ ấy nên hiện tại đã chịu đau khổ đủ cách, mai sau còn bị sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh. Giả sử sinh lên chư thiên hay sinh trong nhân loại thì bần cùng khốn khổ, khổ vì ân ái mà biệt ly, khổ vì thù ghét mà chạm mặt. Cùng loại như vậy còn có bao nhiêu đau khổ khác nữa, chúng sinh chìm ngập trong đó mà vẫn vui thích, chơi giỡn, không hay không biết, không kinh không sợ, không hề phát chán, không mong thoát ly. Trong nhà lửa ba cõi, chúng sinh bôn ba qua lại, gặp phải khổ lớn mà không cho là tai họa. Xá lợi Phất, Như Lai thấy như vậy nên nghĩ rằng Như Lai là từ phụ của chúng sinh, Như Lai phải cứu vớt khổ nạn cho họ, cho họ vô lượng vô biên cái vui của tuệ giác Phật đà để họ được vui chơi trong đó.
    Nhưng mà, Xá lợi Phất, Như Lai nghĩ tiếp, nếu Như Lai chỉ dùng sức mạnh thần thông và sức mạnh tuệ giác, bỏ cách nói phương tiện, chỉ tán dương thẳng cho chúng sinh nghe về sự thấy biết của Phật đà mà nội dung gồm đủ các phẩm chất đại loại như mười đại năng lực và bốn sự không sợ, thì chúng sinh không thể nhờ vậy mà được giải thoát. Vì sao, vì chúng sinh chưa khỏi sinh già bịnh chết, lo buồn đau khổ; họ đang bị nung đốt trong nhà lửa ba cõi thì còn làm sao lĩnh hội được tuệ giác Phật đà. Xá lợi Phất, như đạitrưởng giả có sức mạnh của thân hình và cánh tay mà không dùng được, chỉ dùng được phương tiện thiết tha khuyên bảo, cứu các con thoát khỏi cái họa nhà lửa, rồi sau đó cho mỗi đứa một cỗ xe lớn quý báu. Như Lai cũng vậy, dẫu có mười đại năng lực và bốn sự không sợ mà không dùng được, dùng được chỉ có phương tiện của tuệ giác: ở trong nhà lửa ba cõi, vì cứu thoát chúng sinh nên nói cho họ về ba cỗ xe là cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Duyên giác và cỗ xe Phật đà, khuyến cáo rằng các người đừng ham ở trong nhà lửa ba cõi, đừng ham năm thứ hình sắc, âm thanh, hơi hướng, mùi vị và tiếp xúc, loại thô xấu tồi tệ. Tham thì ái, và như vậy là bị thiêu đốt. Các người hãy cấp tốc thoát khỏi ba cõi thì sẽ được ba cỗ xe: cỗ xe Thanh văn, cỗ xe Duyên giác và cỗ xe Phật đà. Như Lai bảo đảmviệc ấy, không dối gạt chút nào. Các người hãy nỗ lực mà tinh tiến. Như Lai thiện dụng phương tiện như vậy mà dẫn dụ chúng sinh tiến lên, lại bảo, các người phải biết ba cỗ xe này toàn là những giáo pháp được các vị thánh trí tán tụng, tự tại chứ không lệ thuộc, không nương tựa cầu hồ. Ngồi ba cỗ xe này thì vui thú với bao phẩm chất thuần khiết đại loại như năm căn bản, năm năng lực, bảy thành phần tuệ giác, tám thành phần đường chánh, bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát, ba pháp tam muội, thể hiện vô lượng yên vui.
    Xá lợi Phất, nếu người nào bản thân có khả năng tuệ giác, theo Phật nghe pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng ước muốn cấp tốc thoát ra ba cõi nên cầu tựNiết bàn, đó là theo cỗ xe Thanh văn, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe dê mà chạy khỏi nhà lửa. Nếu người nào theo Phật nghe pháp mà tin tưởngtiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu tuệ giác tự nhiên, thích đơn độc, khéo vắng lặng, biết sâu nguyên lý duyên khởi của các pháp, đó là theo cỗ xe Duyên giác, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe hươu mà khỏi nhà lửa. Nếu người nào theo Phật nghe pháp mà tin tưởng tiếp nhận, thiết tha tinh tiến, nhưng cầu tuệ giác hoàn toàn là tuệ giác Phật đà, tuệ giác tự nhiên, tuệ giác không thầy, nói tóm là cầu sự thấy biết của Phật đà mà nội dung có đủ các phẩm chất như mười đại năng lực, bốn sự không sợ, và cầu như vậy là vì thương tưởng, muốn đem lại yên vui cho vô số chúng sinh, ích lợi cho tất cả chư thiên nhân loại, cứu độ cho hết thảy đều được giải thoát, đó là theo cỗ xe vĩ đại, Bồ tát cầu xe vĩ đại ấy nên gọi là người vĩ đại, như những người con nào của đại trưởng giả vì được cỗ xe bò mà chạy khỏi nhà lửa.
    Xá Lợi Phất, như đại trưởng giả thấy các con thoát khỏi nhà lửa một cách an toàn, đến chỗ không còn sợ hãi rồi, tự biết tài sản vô lượng nên, một cách đồng đều, chỉ đem những cỗ xe lớn mà cho các con. Như Lai cũng vậy. Là Từ ï phụ của chúng sinh, nên Như Lai thấy vô số con số ức ngàn chúng sinh do cái cửa giáo pháp của Như Lai mà thoát khỏi cái khổ, cái chỗ nguy hiểm khủng khiếp là ba cõi, được Niết bàn yên vui rồi, liền nghĩ, Như Lai có tuệ giác vô giới hạn là kho tàng đầy các phẩm chất Phật đà mà đại loại như mười đại năng lực, bốn sự không sợ; các loại chúng sinh vừa nói đều là con của Như Lai, Như Lai phải đồng đều đem cỗ xe vĩ đại mà cho họ. Như Lai không để cho có ai chỉ được Niết bàn riêng biệt; người nào Như Lai cũng đem Niết bàn của Như Laimà làm cho họ Niết bàn. Các loại chúng sinh đã thoát khỏi ba cõi như trên, người nào Như Lai cũng cho chính những yếu tố vui thú của Như Lai là đại loại như bốn thiền, bốn định, tám sự giải thoát... Yếu tố như vậy toàn một sắc thái và một phẩm chất, ấy là được chư vị thánh trí ca tụng và có năng lực phát sinh cái vui trong suốt, tinh túy và bậc nhất.

  5. #5

    Mặc định

    Xá Lợi Phất, như đại trưởng giả ban đầu đem cả ba loại xe mà dẫn dụ các con, nhưng sau đó chỉ cho những cỗ xe cao lớn, những cỗ xe trang hoàng bảo vật và an toàn bậc nhất. Cho như vậy mà đại trưởng giả không có cái lỗi dối trá. Như Lai cũng vậy, không dối trá gì cả trong cái việc ban đầu nói ba cỗ xe để dẫn dụ chúng sinh, nhưng sau đó chỉ đem cỗ xe Vĩ đại mà đưa họ đến Niết bàn hoàn toàn. Như Lai làm như vậy vì Như Lai có tuệ giác vô giới hạn là kho tàng đầy các phẩm chất Phật đà mà đại loại như mười đại năng lực và bốn sự không sợ, có thể ban cho hết thảy chúng sinh bằng giáo pháp cỗ xe Vĩ đại - Có điều không phải ai cũng có khả năng tiếp nhận được cả.
    Xá Lợi Phất, với nguyên ủy đã nói trên đây, chư vị phải hiểu Như Lai do phương tiện lực nên chỉ có một loại xe Phật đà mà nói ra ba loại xe khác nhau.
    Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (39-42) Như đại trưởng giả
    có ngôi nhà lớn.
    Ngôi nhà đã cũ
    mà lại hư rã.
    Ngay cái nhà chính
    đã cao lại nguy:
    Cột với chân cột
    thì đã mục gãy.
    Rường và đòn nóc
    đều xiêu nghiêng cả.
    Nền nhà thềm nhà
    sụp lở hư hỏng.
    Tường vách đổ nát
    vôi hồ đổ rơi.
    Mái lợp thủng lỗ
    rơi đổ loạn xạ.
    Đòn tay xà ngang
    trật khớp sẩy ra.
    Đây đó khắp nơi
    bị chận bị lấp,
    quanh co gồ ghề,
    tràn trề dơ bẩn.
    Đang ở trong đó
    có năm trăm người.
    Vậy mà trong đó
    có những chim dữ:
    cú mèo, chim kiêu,
    chim cắt, chim thứu,
    cùng với quạ, khách,
    tu hú, bồ câu...
    (43) Lại còn các loại
    bò sát thú dữ:
    hổ mang, rắn độc,
    rắn phúc, bò cạp,
    rít với du diên,
    cọp vách, sâu chiếu;
    chồn dứu, chồn cầy,
    chuột nhắt, loại chuột.
    (44) Sâu bọ độc dữ
    dọc ngang chen nhau.
    Phân với nước tiểu
    hôi thối cùng cực,
    đủ thứ dơ bẩn
    chảy ra lan tràn,
    bọ hung, sâu giòi
    tập trung trên đó.
    Cáo, sói, dã can
    nhai gặm dẫm đạp,
    cắn xé thây chết
    xương thịt bừa bãi.
    (45-46) Do đó bầy chó
    đua nhau vồ chụp.
    Chúng đói cuồng cuồng
    xục xạo tìm ăn,
    tranh giành móc kéo,
    gừ cắn rống tru.
    Ngôi nhà kinh khủng
    đến như thế đó.
    (47-48) Khắp mọi nơi chỗ
    đều có yêu quái,
    ác quỷ dạ xoa
    chuyên ăn thịt người.
    Bò sát độc điạ
    chim muông hung hãn
    sinh sản ấp nuôi
    đều cố cất giữ,
    vẫn bị dạ xoa
    giành nhau bắt ăn.
    (49) Ăn no nê rồi
    bản chất hung dữ
    lại càng hăng lên,
    những tiếng của chúng
    đánh nhau giành nhau
    thật là rùng rợn.
    (50) Lại còn lũ quỷ
    tên Cưu bàn trà,
    ngồi xoạc đất bằng
    ngồi xổm đất cục,
    có khi cách đất
    một vài thước ngắn
    lướt qua rảo lại
    nghênh ngang đùa giỡn.
    (51) Chúng túm chân chó
    vật cho thất thanh,
    lấy chân chắn cổ
    khủng bố mà chơi.
    (52) Lại có những quỷ
    thân hình cao lớn
    trần truồng đen ốm
    thường ở nhà này,
    phát tiếng dữ lớn
    thét gào tìm ăn.
    (53) Lại có những quỷ
    cổ nhỏ như kim,
    lại có những quỷ
    đầu như đầu bò,
    giành nhau tìm ăn
    thịt người thịt chó,
    đầu tóc bù rối
    tàn bạo hung dữ,
    đói khát thúc bách
    vừa gào vừa chạy.
    (54) Dạ xoa, quỷ đói,
    chim muông độc dữ,
    đói khát hành hạ
    loạn chạy bốn phía,
    rình rập lén dòm
    qua các cửa sổ.
    (55) Ngôi nhà nguy hiểm
    khủng khiếp vô cùng,
    mà lại cũ kỹ
    mục nát như vậy,
    là nơi thuộc về
    một đại trưởng giả.
    (56) Ông mới đi ra
    chưa được bao lâu,
    sau đó ngôi nhà
    bỗng nhiên dậy lửa,
    bốn phiá cùng lúc
    lửa ngọn bùng lên.
    (57) Đòn nóc, rường nhà,
    đòn tay, trụ cột,
    tách nổ vang động
    gãy ngã sa rớt,
    cả tường với vách
    đổ nhào xuống hết.
    Những loại quỷ quái
    hét lên kêu gào.
    (58) Những thứ chim dữ
    loại như cắt, thứu,
    những thứ quỷ dữ
    loại như Bàn trà,
    kinh hãi bàng hoàng
    không tự thoát được.
    Thú dữ trùng độc
    chui núp hang lỗ.
    (59) Quỷ Tỳ xá xà
    cũng kẹt trong đó,
    vì mỏng phước đức
    nên bị lửa cháy
    chúng càng tàn bạo
    sát hại lẫn nhau,
    giành nhau ăn thịt
    uống máu lẫn nhau.
    (60) Loại như dã can
    đã chết trước cả,
    những thứ dữ lớn
    giành nhau ăn nuốt,
    những gì còn lại
    thì bị đốt cháy,
    khói hôi ngùn ngụt
    phủ nghẹt bốn mặt.
    (61) Rít với du diên,
    các loại rắn độc,
    bị lửa nung đốt
    giành tuôn khỏi huyệt,
    thì quỷ Bàn trà
    bắt lấy mà ăn.
    Còn các quỷ đói
    lửa cháy trên đầu,
    đói khát nóng rát
    kinh hoàng sảng chạy.
    (62) Ngôi nhà đang bị
    ở trong tình trạng
    cực kỳ khủng khiếp,
    độc hại, hỏa hoạn,
    lắm nạn như vậy,
    thì lúc bấy giờ
    vị đại trưởng giả
    đứng ở ngoài cửa.
    (63) Ông nghe người nói
    rằng các con ông
    vì ham vui chơi
    đã vào nhà ấy,
    nhỏ dại ngu ngơ
    chỉ biết đùa giỡn.
    (64) Ông nghe biết thế
    trong lòng kinh sợ,
    cấp tốc vào lại
    trong ngôi nhà lửa,
    tìm cách cứu con
    cho khỏi chết cháy.
    (65) Ông nói cho chúng
    biết mọi tai họa:
    quỷ dữ, trùng độc,
    cùng với lửa lớn,
    khổ nạn như vậy
    nối nhau không ngừng.
    (66) Rắn độc, hổ mang,
    cùng với rắn phúc,
    lại còn những quỷ
    Dạ xoa, Bàn trà,
    dã can, chồn cáo,
    và các loài chó,
    chim cắt, chim thứu,
    cú mèo, chim kiêu,
    những thứ cùng loại
    với giống sâu chiếu,
    tất cả đều đang
    đói khát nóng rát,
    khiến chúng thành ra
    cùng cực đáng sợ.
    (67) Ngôi nhà dẫy đầy
    tai họa như vậy,
    huống chi còn bị
    lửa dữ đang đốt.
    (68) Các con ngu ngơ
    dẫu nghe cha nói,
    vẫn cứ say sưa
    chơi giỡn không ngừng.
    (69) Trưởng giả lúc ấy
    nghĩ như thế này:
    Các con như vậy
    làm ta càng lo.
    Ngôi nhà bây giờ
    có gì vui đâu,
    vậy mà các con
    vẫn mê chơi giỡn,
    không chịu nghe lời
    của ta nói cho,
    và chúng sắp sửa
    bị lửa đốt cháy.
    (70) Ông liền nghĩ ngay
    một chước phương tiện.
    (71) Ông bảo: Các con,
    cha có đủ thứ
    đồ chơi quý báu,
    là những cỗ xe
    vừa đẹp vừa tốt
    trang trí vàng ngọc:
    xe dê, xe hươu
    xe bò to lớn.
    (72) Những cỗ xe ấy
    hiện ở ngoài cửa.
    Tất cả các con
    hãy chạy ra gấp!
    Cha vì các con
    mà đã làm ra
    những cỗ xe ấy.
    Tùy ý các con
    ưa thích thứ nào
    ra lấy mà chơi.
    (73) Các con nghe nói
    những xe như vậy,
    tức thì đua nhau
    chạy mau mà ra,
    đến nơi đất trống
    hết mọi khổ nạn.
    (74) Trưởng giả thấy con
    thoát khỏi nhà lửa
    đến chỗ ngã tư,
    thì ông ngồi trên
    chỗ ngồi sư tử,
    mà tự mừng rằng
    bây giờ lòng ta
    đã vui thích rồi!
    (75) Những đứa con này
    sinh dưỡng rất khó,
    nhỏ dại ngu ngơ
    mà vào nhà hiểm,
    nơi đầy thú vật
    quỷ quái đáng sợ.
    (76) Lửa lớn ngọn dữ
    bốn phía bùng lên,
    mà các con ta
    vẫn ham chơi giỡn.
    Nay đã cứu được
    cho chúng thoát nạn,
    nên trong giờ này
    lòng ta vui thỏa.
    (77) Các con biết cha
    đã ngồi yên rồi,
    cùng nhau bước đến
    mà thưa với cha,
    xin cho chúng con
    ba thứ xe quý.
    (78) Như cha đã hứa
    các con thoát ra
    thì cho ba xe
    tùy theo ý muốn,
    nay đã đến lúc,
    xin cha cấp cho.
    (79) Trưởng giả giàu lớn
    kho tàng quá nhiều
    bạc, vàng, lưu ly,
    xa cừ, mã não...
    (80) Ông đem của ấy
    làm những xe lớn,
    trang trí huy hoàng:
    lan can bao quanh,
    chuông treo bốn phía,
    dây vàng đan nhau,
    mạng lưới kết ngọc
    trương phủ trên xe.
    (81) Những dải hoa đẹp
    kết hoa vàng thật,
    chỗ nào cũng được
    treo mắc rủ xuống.
    Đủ thứ lụa là
    đầy các màu sắc,
    trang trí xen vào
    khắp cả quanh xe.
    (82) Lụa dày bông tơ
    đem ra làm nệm.
    Và vải bạch điệp
    loại thượng hảo hạng,
    giá đáng cả ngàn
    cả ức tiền bạc,
    tươi trắng sạch sẽ,
    đem phủ lên trên.
    (83) Những con bò trắng
    mập mạnh nhiều sức
    thân hình lớn đẹp,
    kéo những xe ấy.
    Cỗ xe còn có
    nhiều người thị tùng
    để lo công việc
    phục dịch hộ vệ.
    (84) Trưởng giả đem những
    cỗ xe báu ấy
    đồng đều mà cấp
    cho các con ông.
    Bấy giờ con ông
    vui mừng rộn rã,
    ngồi xe báu này
    dạo cả bốn phương,
    vui chơi thích thú
    tự tại vô ngại.
    (85) Này Xá Lợi Phất,
    Như Lai cũng vậy:
    là bậc cực tôn
    trong các bậc thánh,
    là từ bi phụ
    của cả thế gian.
    Hết thảy chúng sinh
    toàn con Như Lai,
    đắm sâu thú vui
    thế giới ba cõi
    mà không hề có
    tâm thức sáng suốt.
    (86) Ba cõi không yên
    in như nhà lửa,
    khổ não tràn đầy
    thật đáng khiếp sợ:
    Sinh già bịnh chết
    cùng với lo buồn,
    những ngọn lửa ấy
    thường xuyên bùng lên.
    (87) Như Lai đã rời
    nhà lửa ba cõi,
    vắng bặt ở yên
    rừng thanh nội tĩnh.
    Nhưng ba cõi này
    toàn thuộc Như Lai,
    chúng sinh trong đó
    con Như Lai cả.
    (88) Ba cõi như vậy
    tai họa quá nhiều,
    và chỉ Như Lai
    mới cứu giúp được.
    Nhưng dẫu Như Lai
    nói cho đủ hết,
    mà chúng sinh ấy
    vẫn không tin nhận.
    Như vậy là vì
    chúng sinh tham trước
    sâu nặng quá lắm
    vào những dục lạc.
    (89) Do đó Như Lai
    phải dùng phương tiện:
    thuyết cho chúng sinh
    cả ba cỗ xe,
    chỉ cho chúng sinh
    biết khổ ba cõi,
    và dạy cho họ
    phương cách thoát ra.
    (90) Các loại chúng sinh
    con của Như Lai
    có người đạt được
    tuệ tâm quyết định,
    đủ ba minh trí
    với sáu thần thông;
    có người đạt đến
    tuệ giác Duyên giác;
    có người thành bậc
    Bồ tát bất thoái.
    (91) Này Xá Lợi Phất,
    Như Lai đưa ra
    ví dụ như vầy
    là để nói cho
    tất cả các người
    về cỗ xe Phật.
    Các người tin nhận
    lời Như Lai nói,
    thì ai cũng sẽ
    được thành Phật đà.
    (92) Cỗ xe Phật ấy
    đẹp sạch bậc nhất,
    cả thế gian này
    không gì hơn nữa.
    Xe ấy Như Lai
    đẹp dạ chấp thuận,
    hết thảy chúng sinh
    đều nên hiến cúng
    ca tụng tán dương
    một lòng kính lạy.
    (93) Xe ấy đủ hết
    vô số ức ngàn
    các đại năng lực
    các sự giải thoát
    các thiền các định
    cùng với tuệ giác,
    bao phẩm chất khác
    của chư Phật đà.
    (94-95) Được xe như vậy
    chúng sinh các con
    suốt cả ngày đêm,
    suốt hết cho đến
    vô số thời kỳ,
    thường được dạo chơi;
    cùng chư Bồ tát
    và chư Thanh văn
    ngồi trên cỗ xe
    quý báu như vậy
    mà đi thẳng đến
    nơi Bồ đề tràng.
    (96) Vì lý do ấy,
    tìm kỹ mười phương
    không thấy còn có
    cỗ xe nào khác,
    trừ ra Như Lai
    phương tiện thiết lập.
    (97) Này Xá Lợi Phất,
    tất cả các người
    toàn con Như Lai,
    Như Lai là cha.
    Đã lắm thời kỳ
    các người bị đốt
    vì bao đau khổ,
    Như Lai giải cứu
    làm cho các người
    thoát ra ba cõi.
    (98) Như Lai trước đây
    dầu nói các người
    đã được Niết bàn,
    nhưng mà thật ra
    chỉ hết sống chết
    chưa thật Niết bàn.
    Cho nên mọi việc
    ngày nay phải làm
    là chỉ hướng vào
    tuệ giác Phật đà.
    (99) Vị Bồ tát nào
    trong đại hội này
    cũng có khả năng
    chuyên chú lắng nghe
    về pháp thật ấy
    của Như Lai dạy,
    rằng dẫu Như Lai
    áp dụng phương tiện,
    nhưng người được dạy
    toàn là Bồ tát.
    (100) Những ai trí nhỏ
    đắm sâu ái dục,
    Như Lai vì họ
    nói chân lý khổ;
    họ mừng vì được
    sự chưa từng có,
    khi họ biết rõ
    khổ ấy thật khổ,
    không thể làm cho
    khác đi vui lên.
    (101) Nếu có người nào
    không biết nhân khổ,
    vướng sâu nhân ấy
    tạm thoát không nổi,
    Như Lai vì họ
    phương tiện giải thích,
    cho họ tỉnh ngộ
    ý thức trọn vẹn
    nguyên nhân đau khổ
    gốc ở ái dục.
    (102) Ái dục diệt trừ,
    không còn chỗ dựa
    thì khổ tận diệt,
    như vậy gọi là
    chân lý diệt khổ.
    Vì chân lý ấy
    mà tu chân lý
    về đường diệt khổ,
    thoát khổ ràng buộc
    là được giải thoát.
    (103) Nhưng được giải thoát
    đối với cái gì?
    Thì chỉ là vì
    thoát ly hư ảo
    mà được gọi là
    giải thoát mà thôi,
    kỳ thật chưa được
    giải thoát hoàn toàn.
    (104) Như Lai nói rằng
    những người như vậy
    chưa thật Niết bàn,
    vì những người ấy
    thoát mà chưa được
    tuệ giác vô thượng.
    Ý của Như Lai
    là như thế đó:
    Không muốn đưa đến
    Niết bàn như vậy.
    Như Lai là vua
    của tất cả pháp,
    tự tại tuyên bố
    đối với mọi sự;
    và muốn đem lại
    yên vui hoàn toàn
    cho bao chúng sinh,
    cho nên Như Lai
    đã xuất hiện ra
    trong thế gian này.
    (105) Này Xá Lợi Phất,
    ấn tín về pháp
    của Như Lai đây,
    Như Lai vì muốn
    ích lợi cho đời
    nên công bố ra.
    Chư vị cần phải
    truyền bá khắp nơi,
    mặc dầu đến đâu
    chư vị cũng vẫn
    không được tuyên truyền
    một cách bừa bãi.
    (106) Ai nghe pháp này
    tùy hỷ, kính nhận,
    thì biết người ấy
    là bậc bất thoái.
    (107) Nếu ai tin được
    pháp của Pháp Hoa,
    thì biết người ấy
    từng gặp chư Phật
    trong thì quá khứ,
    cung kính phụng sự
    và cũng từng nghe
    về pháp như vầy.
    (108) Những ai tin nổi
    về pháp như vầy
    do tôn giả nói,
    thì những người ấy
    thấy được Như Lai
    thấy được tôn giả
    thấy tỷ kheo Tăng
    và Bồ tát chúng.
    (109) Bản kinh Pháp Hoa
    như thế này đây
    là nói cho người
    trí tuệ sâu xa,
    còn người biết cạn
    mà nghe kinh này
    thì tất bối rối
    không thể lý giải.
    Trí lực các vị
    Thanh văn Duyên giác
    mà còn bất cập
    đối với kinh này.
    (110) Ngay như tôn giả
    đối với kinh này
    còn nhờ đức tin
    mới bước vào được,
    huống chư Thanh văn
    khác ngoài tôn giả.
    Chư Thanh văn ấy
    vì tin vào lời
    của Như Lai nói
    mà theo kinh này,
    không phải trí họ
    có thể tự theo.
    (111) Nên Xá Lợi Phất,
    đối với những kẻ
    kiêu căng biếng nhác
    chấp trước bản ngã
    thì đừng nói cho
    về bản kinh này.
    Những kẻ phàm phu
    trí thức nông nổi,
    dính cứng vào trong
    năm thứ dục lạc,
    dâãu nghe kinh này
    cũng không hiểu được,
    thì cũng đừng nói
    cho họ kinh này.
    (112) Những ai phỉ báng
    không tin kinh này,
    làm cho tuyệt mất
    giống Phật trong đời,
    những ai nhăn mặt
    hoài nghi kinh này,
    thì bao tội báo
    của những kẻ ấy,
    tôn giả hãy nghe
    Như Lai nói đến.
    (113) Như Lai tồn tại
    hay nhập diệt rồi,
    những ai phỉ báng
    kinh Pháp Hoa này,
    nghe thấy có người
    đọc tụng sao chép
    kính giữ Pháp Hoa
    mà khinh và ghét
    mà lòng oán hận,
    thì tội báo họ
    tôn giả hãy nghe
    Như Lai nói đến.
    (114) Những người như vậy
    sau khi chết rồi
    sa vào Vô gián
    trọn một thời kỳ.
    Sau thời kỳ ấy
    lại sa tiếp tục,
    triển chuyển cho đến
    vô số thời kỳ.
    (115) Ra khỏi địa ngục
    thì làm súc sinh:
    làm chó, dã can,
    mình mẩy ốm gầy
    đen đủi ghẻ lác
    ai cũng hành hạ.
    (116) Và vì mọi người
    ai cũng gớm ghiếc,
    nên thường đói khát
    xương thịt khô khan.
    (117) Sống với khốn khổ
    chết vì ngói đá:
    làm mất giống Phật
    nên chịu tội ấy.
    (118) Nếu làm lạc đà
    hoặc làm giống lừa,
    thì thường chở nặng
    lại bị đánh đập,
    chỉ nghĩ cỏ nước
    không biết gì hơn:
    phỉ báng kinh này
    nên bị tội ấy.
    (119) Nếu làm dã can
    lẩn vào làng xóm,
    mình mẩy ghẻ lác
    lại mất một mắt,
    bị những trẻ con
    đánh đập quăng ném,
    chịu đủ đau đớn
    có khi đến chết.
    (120-121) Chết các thân trên
    thì làm mãn xà,
    mình lớn mà dài
    năm trăm do tuần,
    điếc, chậm, không chân,
    uốn bò bằng bụng,
    bị những sâu kiến
    xúm lại rỉa ăn,
    khốn khổ ngày đêm
    không khi nào ngừng:
    phỉ báng kinh này
    nên bị tội ấy.
    (122) Hết làm súc sinh
    nếu may làm người
    thì các giác quan
    u mê đần độn,
    thân lùn tướng xấu
    tay cong chân quẹo
    mắt đui tai điếc
    mình cong lưng gù.
    (123) Nói ra điều gì
    người cũng không tin;
    hơi miệng hôi thối
    quỷ quái phụ nhập.
    (124) Bần cùng, hèn hạ,
    bị người sai khiến;
    bịnh tật gầy ốm,
    không nơi nương tựa.
    (125) Làm thân với người
    người không đếm xỉa.
    Biết được điều gì
    cũng liền quên mất.
    (126) Nếu học làm thuốc
    trị bịnh đúng phép,
    mà người thêm bịnh
    có khi đến chết.
    Nếu mình bị bịnh
    không ai cứu chữa,
    tuy dùng thuốc hay
    bịnh càng thêm dữ.
    (127) Người khác phản loạn,
    cướp giật trộm cắp,
    những tội như vậy
    mình bị họa lây.
    (128) Tội nhân như vậy
    trong thì gian dài
    không thấy được Phật -
    vua của thánh triết
    tuyên thuyết chánh pháp
    giáo hóa cho người.
    (129) Tội nhân như vậy
    thường sinh những chỗ
    đủ thứ tai nạn,
    điên cuồng điếc lác
    tâm trí thác loạn,
    trong thì gian dài
    không hề nghe được
    chánh pháp Như Lai.
    (130) Hằng sa thời kỳ,
    sinh ra là đã
    điếc lác câm ngọng
    giác quan không đủ.
    (131) Họ ở địa ngục
    như dạo vườn hoa,
    ở chỗ dữ khác
    như ở nhà mình,
    lạc đà và lừa
    và heo với chó
    những loài như vậy
    là chỗ họ sinh:
    phỉ báng kinh này
    nên bị tội ấy.
    (132) Nếu được làm người
    thì tự trang sức
    bằng điếc với mù
    bằng câm với ngọng
    bằng nghèo với hèn
    bằng bao suy biến.
    (133) Lại tự trang phục
    bằng các thứ bịnh
    đại loại như là
    thủng nước, khô nóng,
    lở lói, phong hủi,
    và ung thư da.
    Thân họ thường xuyên
    là chỗ hôi thối,
    tập hợp biết bao
    những thứ dơ bẩn.
    (134) Nắm cứng bản ngã
    bồi thêm sân hận,
    dục tình hừng hực
    chẳng kể cầm thú:
    phỉ báng kinh này
    bị tội như vậy.
    (135) Này Xá Lợi Phất,
    tội báo những kẻ
    phỉ báng không tin
    kinh Pháp Hoa này,
    nói hết thời kỳ
    cũng không hết được.
    (136) Như Lai vì vậy
    cố răn chư vị
    đừng nói Pháp Hoa
    cho kẻ vô trí.
    (137) Những ai có được
    các căn lanh lợi,
    trí tuệ thông minh
    nghe nhiều nhớ mạnh,
    quyết tâm cầu được
    tuệ giác Phật đà,
    những người như vậy
    mới được nói cho
    (138) Nếu ai từng gặp
    ức ngàn đức Phật,
    trồng các gốc lành,
    tâm nguyện sâu vững,
    những người như vậy
    mới được nói cho.
    (139) Nếu ai tinh tiến
    thường làm từ tâm,
    không tiếc thân mạng,
    mới được nói cho.
    (140) Ai biết kính nhau
    không có ẩn ý,
    xa kẻ phàm phu
    riêng ở núi chằm,
    những người như vậy
    mới được nói cho.
    (141) Này Xá Lợi Phất,
    nếu thấy có ai
    biết tránh bạn xấu
    biết thân bạn đạo,
    những người như vậy
    mới được nói cho.
    (142) Nếu thấy con Phật
    giữ giới trong sạch
    như ngọc trong suốt,
    cầu kinh Đại thừa,
    những người như vậy
    mới được nói cho.
    (143) Ai không giận dữ,
    ngay thẳng, ôn hòa,
    thương xót tất cả,
    trọng kính chư Phật,
    những người như vậy
    mới được nói cho.
    (144) Nếu có con Phật
    ở giữa công chúng
    đem tâm trong sáng
    dùng những yếu tố,
    ví dụ, lời chữ,
    thuyết pháp thông suốt,
    những người như vậy
    mới được nói cho.
    (145) Nếu có tỷ kheo
    vì được toàn giác,
    cầu pháp bốn phương
    chắp tay kính nhận;
    (146) chỉ thích kính nhận
    kinh điển Đại thừa,
    chứ không tiếp nhận
    kinh điển nào khác
    dầu chỉ một bài
    chỉnh cú mà thôi,
    những người như vậy
    mới được nói cho.
    (147) Như người thiết tha

    tìm cầu cho được
    xá lợi của Phật,
    những người tìm cầu
    Pháp Hoa cũng vậy,
    được rồi kính nhận;
    (148) người ấy không cầu
    kinh sách nào khác,
    càng không nghĩ đến
    sách vở ngoại đạo,
    những người như vậy
    mới được nói cho.
    (149) Này Xá Lợi Phất,
    Như Lai nói đến
    sắc thái những người
    cầu tuệ giác Phật,
    nói hết thời kỳ
    cũng không hết được.
    Và những người ấy
    mới tin hiểu được;
    chư vị nên nói
    cho họ được nghe
    về kinh Đại thừa
    Diệu Pháp Liên Hoa.

  6. #6

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch

    Phẩm 4:Tin hiểu
    Lúc ấy Tu Bồ Đề, vị tôn giả lấy tuệ giác làm sinh mạng, cùng các tôn giả Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp và Mục Kiền Liên, từ nơi đức Thế Tôn nghe được điều chưa từng có, là nghe đức Thế Tôntrao cho tôn giả Xá Lợi Phất lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, thì thấy thật là hiếm có, nênhoan hỷ, phấn chấn, tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa pháp y, trần vai phải, đầu gối bên phải quỳ xuống chấm đất, chuyên nhất tâm trí mà chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, rồi cúi mình, cung kính thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con ở vào địa vị đứng đầu chư Tăng, tuổi cũng già cả, ai cũng tự cho đã được Niết bàn, không kham làm gì được nữa, không thể bước tới mà cầu tuệ giác vô thượng. Trước đây, mỗi khi đức Thế Tôn thuyết pháp lâu, thì chúng con lúc ấy cũng ngồi tại chỗ nghe pháp, nhưng cơ thể mệt mỏi, chỉ nghĩ nhớ về không, không sắctướng và không ưa thích. Còn đối với pháp Bồ tát, như thần thông du hóa mà làm sạch thế giớilàm nên chúng sinh, thì chúng con không có ý gì thích thú. Như vậy là vì đức Thế Tôn đã làm cho chúng con thoát ba cõi, chứng Niết bàn, thêm nữa tuổi chúng con đã già cả, nên đối với tuệ giác vô thượng mà đức Thế Tôn dạy cho Bồ tát, chúng con không có một ý niệm ham thích. Ngày nay, đối trước đức Thế Tôn, chúng con được nghe ngài trao cho Thanh văn lời ghi thành tựutuệ giác vô thượng thì lòng quá hoan hỷ, được sự chưa từng có. Chúng con không ngờ ngày nay bỗng nhiên nghe được điều hiếm có ấy. Chúng con tự mừng một cách sâu xa vì được ích lợi vĩ đại, vô số ngọc báu chúng con không cầu mà tự được cả.
    Bạch đức Thế Tôn, bây giờ chúng con thích thúmà trình bày một sự ví dụ để thưa rõ ý nghiã như vậy. Ví như có người tuổi đã nhỏ dại mà lại bỏ cha trốn đến xứ khác, ở lâu mười năm, hai mươi năm, cho đến năm mươi năm. Khi tuổi lớn rồi, lại thêm nghèo khốn, người ấy bôn ba khắp nơi để kiếm cơm áo, lần hồi đến nhằm đô thành cha ở. Còn người cha thì từ trước đến giờ tìm con mà không được, nên dừng lại mà ở tại đô thành ấy. Ông rất giàu có. Tài sản và bảo vật, đại loại như bạc vàng, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê và chân châu thì vô số. Mọi kho tàng đều tràn đầy. Có lắm phụ tá, môn lại và tôi tớ. Voi ngựa, xe cộ và bò dê thì vô số kể. Lợi tức thu chi khắp cả các nước. Thương khách rất đông đảo.
    Người con nghèo khốn đi qua các vùng dân cư, hết xứ lớn đến xứ nhỏ, và rồi đến nhằm đô thành cha ở. Người cha vẫn thường nhớ con. Xa con hơn năm mươi năm mà ông chưa bao giờ nói việc ấy với ai, chỉ nghĩ riêng mà buồn tiếc. Ông lo già cả, nhiều của, vàng bạc kho tàng tràn đầy mà không có con cháu, một mai chết đi thì của ấy tiêu tan vì không có người để giao phó. Lo nghĩ như vậy nên ông thường tha thiết nhớ con. Ông nghĩ nếu gặp con để giao của thì hết lo hết nghĩ, vui thích biết mấy.
    Bạch đức Thế Tôn, người con nghèo khốn làm thuê làm mướn, lần hồi đến nhằm lâu đài người cha, đứng lại bên cửa, xa thấy người cha ngồi trên ngai sư tử mà ghế đẩu nâng chân cũng trang hoàng vàng ngọc. Bà la môn, sát lợi và cư sĩ thì kính cẩn bao quanh. Thân ông trang sức bằng chuỗi ngọc chân châu giá trị ngàn vạn tiền vàng. Môn lại và tôi tớ thì cầm quạt lông trắng đứng hầu hai bên. Trên đầu thì che trướng đính ngọc và treo rủ xuống là những dải phan kết hoa. Dưới đất thì được rưới nước thơm và rải những thứ hoa danh tiếng. Bảo vật thì la liệt và đang được thu chi. Đủ thứ hoa mỹ và đặc biệt tôn nghiêm như vậy. Người con nghèo khốn thấy người cha tư thế lớn lao đến thế thì sợ hãi, hối tiếc đến nhằm chỗ này. Nghĩ thầm đây là vua hoặc ngang với vua, không phải chỗ mình làm mướn kiếm ăn. Chẳng bằng đi đến xóm nghèo, có chỗ bán sức, cơm áo dễ kiếm hơn. Ta đứng mãi ở đây thì có thể bị cưỡng bách làm việc. Nghĩ vậy nên bỏ chạy thật mau. Người cha, vị trưởng giả giàu có ấy, ngồi trên ngai sư tử nhưng thấy con thì nhận biết được liền, lòng rất vui mừng, nghĩ rằng bảo vật kho tàng của ta nay đã có người để giao phó rồi. Ta nhớ mãi đứa con này, không làm sao gặp được mà nay nó bỗng nhiên tự đến, rất hợp nguyện ước của ta. Ta già rồi mà vẫn ham con tiếc của! Tức thì sai phái viên cấp tốc chạy theo dẫn về. Phái viên chạy mau đến bắt. Người con nghèo khốn kinh hãi, lớn tiếng kêu oan, tôi đâu có xúc phạm gì đến các người, tại sao các người bắt tôi? Phái viên bắt càng gấp, kéo bừa dẫn về. Người con nghèo khốn tự nghĩ vô tội mà bị bắt như bắt tù thì chắc phải chết. Càng nghĩ càng sợ nên ngất đi mà ngã xuống đất. Người cha từ xa thấy vậy thì bảo phái viên, ta không cần người này nữa; đừng dẫn người này về theo cách cưỡng bách như thế. Hãy lấy nước lạnh rưới mặt cho người này tỉnh lại, nhưng đừng nói gì với người này nữa. Người cha bảo như vậy vì biết con mình ý chí thấp hèn. Ông tự biết chính sự cao sang của mình làm cho con mình khiếp sợ. Biết đích là con trai của mình, nhưng người cha áp dụng phương tiện, không nói với ai rằng người này là con tôi. Ông bảo phái viên nói với con mình, rằng ta thả anh, anh đi đâu tùy ý. Người con nghèo khốn mừng như được sự chưa từng có, từ đất đứng dậy, đi đến xóm nghèo để kiếm cơm áo.
    Trưởng giả muốn dẫn dụ con mình nên lập chước phương tiện. Ông kín đáo sai hai phái viên hình sắc tiều tụy, không oai phong gì, dặn rằng các người đi tìm người nghèo khốn vừa rồi, từ từ nói rằng ở đây ta có việc thuê làm, trả giá gấp đôi. Người ấy chịu thì các người dẫn về cho làm. Người ấy có hỏi muốn thuê làm gì, thì các ngươi bảo thuê quét dọn dơ bẩn, và chúng tôi cùng làm với anh. Hai phái viên tức khắc đi tìm người con nghèo khốn. Tìm được nói rõ mọi việc. Người con nghèo khốn hỏi biết giá thuê, rồi đi liền đến lâu đài người cha mà quét dọn dơ bẩn với hai người kia.
    Người cha thấy con như vậy thì vừa thương xót vừa quái lạ. Ngày khác, từ trong cửa sổ, ông xa thấy thân con gầy ốm tiều tụy, phân đất bụi bặm làm bẩn cả người. Tức khắc ông cởi chuỗi ngọc, cởi áo mềm mịn thượng hạng và bao nhiêu đồ trang sức khác, thay vào, ông mặc chiếc áo thô rách cáu bẩn, lại làm cho bụi đất lấm lem cả người, rồi tay phải cầm dụng cụ quét dọn dơ bẩn, bộ dáng có vẻ ghê sợ đồ dơ, đến bảo những người làm thuê: Các người hãy làm cho siêng, đừng nhác đừng nghỉ. Với cách phương tiện ấy ông mới gần được con ông. Sau đó lại bảo: Chàng trai này, hãy làm luôn ở đây, đừng đi đâu nữa. Ta sẽ trả thêm tiền thuê cho anh. Cần gì về thau chậu, gạo bún, muối giấm, thì đừng có e ngại. Có người sai vặt vừa già vừa xấu kia, cần thì ta cấp cho. Anh hãy yên tâm. Ta như cha anh, anh đừng lo nghĩ gì cả. Ta đối xử như vậy là vì ta già cả mà anh trai trẻ, vời lại anh làm việc thường không dối không nhác, không tức giận không oán than. Ta không thấy anh có những tính xấu ấy như các người làm thuê khác. Từ nay về sau anh như con trai của ta sinh ra. Trưởng giả tức thì đặt cho cái tên gọi là con. Người con nghèo khốn, dẫu mừng vì sự đãi ngộ ấy, vẫn tự xưng như cũ, rằng mình là người ngoài, người làm thuê hèn hạ. Do vậy mà trong hai mươi năm trời, vẫn chỉ được bảo quét dọn dơ bẩn. Qua thì gian này rồi lòng mới tin nhau, và người con nghèo khốn ra vào trong lâu đài một cách không e ngại gì nữa. Nhưng chỗ ở thì vẫn thích ở chỗ cũ.
    Bạch đức Thế Tôn, bấy giờ trưởng giả bị bịnh, tự biết gần mất, mới bảo người con nghèo khốn, ta có lắm vàng ngọc, kho tàng tràn đầy. Trong đó ø nhiều ít và đáng thu đáng chi thế nào, con phải biết cho rõ. Ý cha như vậy, con phải thể theo. Nay thì cha với con không khác gì cả. Con phải chú ý, đừng để thất thoát. Người con nghèo khốn, khi ấy, tức thì vâng lời, lãnh nhận và biết rõ mọi thứ, từ vàng ngọc cho đến kho tàng. Nhưng không có ý gì mong lấy cho đủ một bữa ăn, và chỗ ở vẫn ở chỗ cũ, tâm lý thấp kém vẫn chưa bỏ được. Phải qua ít lâu nữa, cha biết con tâm trí đã thênh thang, chí lớn đã thành đạt, đã biết tự khinh bỉ tâm lý ngày trước của mình, nên lúc sắp chết, ông gọi con và triệu tậphọ hàng, quốc vương, đại thần, sát lợi, cư sĩ. Mọi người tập họp cả rồi, ông tự tuyên bố, rằng xin các vị biết cho, người này là con trai của tôi, do tôi sinh ra. Trước đây, tại đô thành cũ, con tôi đã bỏ tôi mà trốn chạy, lưu lạc khổ sở hơn năm mươi năm. Con tôi vốn tên như vậy, tôi tên như vậy. Ngày xưa, tại đô thành ấy tôi lo lắng tìm kiếm mà không được, ngày nay, tại đô thành này bỗng nhiên tôi gặp được con tôi. Nó thật con tôi, tôi thật cha nó. Ngày nay, hết thảy tài sản bảo vật của tôi đều là của con tôi, và trước đây thu chi thế nào, con tôi đã biết rõ cả. Bạch đức Thế Tôn, khi người con nghèo khốn nghe lời ấy của người cha trưởng giả thì cùng cực vui mừng, được sự chưa từng có, nghĩ rằng mình vốn không có lòng nào mong cầu, vậy mà ngày nay kho báu tự đến.
    Bạch đức Thế Tôn, người cha, vị trưởng giả giàu có ấy là đức Thế Tôn. Chúng con chỉ như chư Phật, nhưng đức Thế Tôn vẫn thường gọi chúng con là con Phật. Bạch đức Thế Tôn, chúng con vì ba sự đau khổ mà chịu bao nhiêu nóng rát phiền bực trong chốn sống chết, đời này vẫn ngu và lầm, không biết nhận thức gì hết nên ưa thích giáo phápthấp nhỏ. Đức Thế Tôn phải bảo chúng con vận dụng tư duy tu mà quét dọn cho sạch hý luận dơ bẩn đối với các pháp. Trong huấn dụ ấy, chúng con nổ lực tinh tiến, đạt đượcNiết bàn như cái giá một ngày làm thuê. Đạt được như vậy mà lòng chúng con rất mừng, tự cho đầy đủ, và tự bảo, ở trong giáo pháp của đức Thế Tôn, chúng con nhờ nổ lực tinh tiến mà đã nhận được rất nhiều. Nhưng đức Thế Tôn biết tâm lý chúng con vốn đắm say dục lạc thô tệ, bị khổ vì thế mà thành ra ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, nên tạm thời buông thả, bỏ đó mà chưa phán bảo rằng các người cũng có phần nhận được kho tàng tuệ giáccủa Như Lai, măëc dầu đức Thế Tôn đã khéo léo nói cho chúng con biết về kho tàng tuệ giác ấy. Chúng con, từ đức Thế Tôn, nhận được Niết bàn chỉ như cái giá làm thuê một ngày mà lại cho là đã được lớn lao, còn đối với cỗ xe vĩ đại thì chúng con không có chí nguyện gì mong cầu. Chúng con cũng dựa vào tuệ giác của đức Thế Tôn mà diễn giảng tuệ giác ấy cho chư vị Bồ tát, nhưng tự mình thì không có chí mong ước. Như vậy là vì đức Thế Tôn biết tâm lý chúng con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ nên áp dụng phương tiệnmà thuyết pháp theo tâm lý chúng con, và chúng con không hề biết mình là thật con Phật. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế Tôn không tiếc lẩn gì về tuệ giác của ngài; chỉ vì chúng con tuy xưa nay vẫn là thật con Phật mà lại ưa thích thấp nhỏ, nếu biết ưa thích vĩ đại thì ngài đã dạy cho giáo pháp vĩ đại. Ngày nay, qua kinh Pháp Hoa này, đức Thế Tôn tuyên bố chỉ có cỗ xe Phật đà duy nhất, như vậy ngày trước, trước mặt chư vị Bồ tát, ngài chê Thanh văn chúng con ưa thích giáo pháp thấp nhỏ là, sự thật, ngài chỉ muốn đem giáo pháp vĩ đại mà giáo hóa chúng con. Do vậy nên chúng con nói chúng con vốn không có tâm nguyện gì mong cầu mà ngày nay kho báu vĩ đại của đấng Pháp vương tự đến với chúng con: con Phật đáng nhận được gì thì chúng con đã nhận được cả.
    Lúc ấy tôn giả Đại Ca Diếp muốn lặp lại ý nghiã đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Nay chúng con nghe
    tiếng nói Thế Tôn,
    lòng mừng rộn rã
    được chưa từng có.
    (2) Đức Thế Tôn nói
    chư vị Thanh văn
    sẽ được làm Phật
    như vậy có nghĩa
    đống ngọc tối thượng
    của đức Thế Tôn,
    chúng con không cầu
    mà tự nhận được.
    (3) Như đứa bé trai
    nhỏ dại ngu ngơ,
    bỏ cha trốn đi
    đến xứ xa lạ.
    (4) Lang thang các xứ
    hơn năm mươi năm.
    Người cha lo nhớ
    tìm kiếm khắp nơi.
    (5) Tìm kiếm quá mệt
    dừng một đô thành,
    tạo lập lâu đài
    vui với ngũ dục.
    (6- Ông rất giàu sang
    8) có lắm bạc vàng
    xa cừ mã não
    chân châu lưu ly,
    voi ngựa dê bò,
    xe liễn xe dư
    và xe thuyền khác;
    có lắm ruộng đất
    lắm người phục dịch
    và nhiều môn lại.
    Lợi tức thu chi
    khắp cả các nước,
    thương khách buôn bán
    ở đâu cũng có.
    Có vạn ức người
    kính trọng hướng về.
    Thường được vua chúa
    quí mến quan tâm,
    quan quyền thân hào
    ai cũng tôn trọng.
    Vì nhiều duyên cớ
    đông người qua lại.
    (9- Giàu sang đến thế
    10) thế lực lại lớn,
    nhưng mà tuổi già
    nên càng nhớ con,
    ngày đêm lo nghĩ.
    Rằng chết sắp đến,
    con dại bỏ ta
    hơn năm mươi năm,
    kho tàng bảo vật
    rồi làm sao đây.
    (11) Người con nghèo khốn
    vì kiếm cơm áo
    từ xứ nhỏ này
    đến xứ nhỏ khác,
    từ xứ lớn khác
    đến xứ lớn này.
    (12) Chỗ thì cũng có,
    chỗ không có gì,
    đói khát gầy ốm
    mình sinh ghẻ chốc.
    (13) Lần hồi đi đến
    nhằm ngay đô thành
    của người cha ở,
    làm thuê làm mướn
    và rồi đến nhằm
    lâu đài người cha.
    (14) Trưởng giả lúc ấy
    ngồi ở trong cửa,
    chăng trướng báu lớn
    ngồi ngai sư tử.
    Tùy thuộc bao quanh
    lắm kẻ phục dịch.
    (15) Lại có những người
    kế toán vàng ngọc,
    thu chi tiền của,
    ghi chép giấy tờ.
    (16) Người nghèo thấy cha
    sang cả tôn nghiêm
    thì cho là vua
    hoặc ngang với vua,
    sợ và tự quái
    đến chi chốn này!
    (17) Lại nghĩ nếu ta
    đứng mãi ở đây,
    có thể bị ép
    bắt buộc làm việc.
    Nghĩ suy như thế
    người nghèo bỏ chạy
    để hỏi xóm nghèo
    mà đến làm thuê.
    (18) Trưởng giả lúc ấy
    ngồi ngai sư tử,
    xa thấy con mình
    biết mà không nói,
    sai ngay phái viên
    đuổi bắt đem về.
    (19) Người nghèo kêu hoảng
    ngất xỉu xuống đất,
    vì nghĩ người này
    bắt mình chắc giết.
    Vị gì cơm áo
    đến nhằm chỗ này!
    (20) Trưởng giả biết con
    u mê hèn kém,
    chắc chắn không tin
    ta nói là cha.
    (21) Ông liền phương tiện
    đổi sai vài người
    chột mắt, lùn xấu,
    không chút oai phong,
    rằng hãy tìm bảo
    muốn thuê mướn nó,
    (22) quét dọn dơ bẩn
    trả giá gấp đôi.
    (23) Người nghèo nghe nói
    vui vẻ đi theo
    đến dọn dơ bẩn
    làm sạch phòng nhà.
    (24) Nhìn qua cửa sổ
    trưởng giả thường xuyên
    quan sát con mình,
    nghĩ rằng con mình
    ngu muội thấp kém
    thích làm việc hèn.
    (25) Do đó trưởng giả
    đổi mặc áo dơ
    cầm đồ dọn bẩn
    đi đến chỗ con,
    phương tiện gần gũi
    bảo hãy siêng làm.
    (26) Ta thêm tiền công
    cho dầu xoa chân
    ăn uống đầy đủ
    đệm chiếu dày ấm.
    (27) Trưởng giả la mắng
    anh làm cho siêng,
    lại dịu dàng bảo
    anh như con ta.
    (28) Trưởng giả khéo léo,
    lần hồi sai bảo
    ra vào lâu đài.
    Sau hai mươi năm,
    bảo nắm mọi việc
    trong lâu đài ấy.
    (29) Ông chỉ cho biết
    tất cả vàng ngọc,
    tài sản thu chi
    cũng cho biết cả.
    (30) Được đãi như vậy
    nhưng người nghèo khốn
    vẫn ở ngoài cửa
    nương náu chòi tranh,
    tự nghĩ mình nghèo
    đâu có của đó.
    (31- Thêm ít lâu nữa
    33) trưởng giả biết con
    tâm chí dần dần
    đã lớn rộng ra.
    Muốn giao tài sản,
    ông họp họ hàng
    quốc vương đại thần
    sát lợi cư sĩ.
    Trước những người ấy
    ông nói người này
    là con trai tôi,
    bỏ tôi mà trốn
    đi đến xứ khác
    đến năm mươi năm.
    Từ khi gặp lại
    cho đến ngày nay
    cũng đã trải qua
    hai mươi năm nữa.
    Xưa nơi thành ấy
    mất người con này,
    tôi tìm khắp nơi
    mới đến ở đây.
    (34) Ngày nay tất cả
    tài sản tôi có,
    kể cả lâu đài
    và bao gia nhân
    đều giao con tôi
    mặc ý sử dụng.
    (35) Người nghèo khi ấy
    tự nghĩ xưa kia
    mình quá nghèo khốn
    tâm chí thấp hèn,
    nay từ nơi cha
    cả được vàng ngọc
    được luôn lâu đài
    được hết tài sản,
    nên rất vui mừng
    như chưa từng có.
    *
    (36) Thế Tôn cũng vậy.
    Biết rõ chúng con
    chí thích thấp nhỏ,
    nên ngài chưa hề
    tuyên bố chúng con
    cũng được làm Phật,
    chỉ nói chúng con
    đạt được một ít
    thành quả thuần khiết
    và thành những vị
    đệ tử Thanh văn
    trong cỗ xe nhỏ.
    (37) Thế Tôn sắc bảo
    chúng con giảng nói
    đường lối tối thượng,
    đường lối mà ai
    tu tập trọn vẹn
    đều sẽ thành Phật.
    (38) Vâng lời Thế Tôn
    chúng con cũng đã
    vận dụng những thứ
    yếu tố ví dụ
    cùng bao lời chữ
    mà giảng nói về
    đường lối tối thượng
    cho đại bồ tát.
    (39) Những con Phật ấy
    từ nơi chúng con
    nghe đường lối này,
    ngày đêm tư duy
    nỗ lực tu tập,
    bấy giờ Thế Tôn
    cùng với chư Phật
    liền thọ ký cho,
    rằng trong vị lai
    sẽ được làm Phật.
    (40) Do vậy chúng con
    từng nghĩ lầm rằng
    kho tàng bí yếu
    của Phật Thế Tôn
    chỉ có bồ tát
    mới được nói cho,
    chúng con không được
    nói cho pháp ấy.
    Ngày nay chúng con
    tự biết in như
    kẻ nghèo khốn kia
    dầu được gần cha
    và biết bảo vật
    mà không mong lấy;
    (41) chúng con giảng nói
    kho báu chánh pháp
    của Phật Thế Tôn,
    mà tự chúng con
    không chí muốn có
    thì cũng như vậy.
    (42) Chúng con mới được
    niết bàn nội tại
    mà lại tự cho
    đã là đầy đủ,
    chỉ biết sự ấy
    không biết gì hơn.
    Chúng con nếu được
    nghe nói những việc
    làm sạch thế giới
    làm nên chúng sinh
    thì không cảm thấy
    thích thú chút nào.
    (43) Tại sao như vậy,
    bởi vì toàn thể
    các pháp đều không:
    không sinh không diệt
    không lớn không nhỏ
    đã không phiền não
    cũng không khử trừ,
    tư duy như vậy
    cho nên chúng con
    không còn thích gì.
    (44) Với tuệ giác Phật
    chúng con trường kỳ
    không ham không mê
    không chí ưa thích,
    trong khi đối với
    niết bàn của mình
    thì lại tự cho
    đã là cứu cánh.
    (45) Chúng con trường kỳ
    tu tập về Không,
    thoát được cái họa
    khổ não ba cõi,
    làm cho thân này
    thành thân cuối cùng,
    và thực hiện được
    niết bàn chưa toàn;
    thế là đối với
    giáo huấn Thế Tôn
    chúng con tự cho
    đã thực hiện được
    một cách chắc chắn,
    và cho thế là
    đã báo đáp được
    hồng ân Thế Tôn.
    (46) Cho dẫu chúng con
    nói pháp bồ tát
    cho các con Phật
    để họ cầu được
    tuệ giác Phật đà,
    nhưng chính chúng con
    đối với pháp ấy
    không thích bao giờ.
    (47) Đức Đại đạo sư
    bỏ qua chúng con
    chính vì xét thấy
    tâm lý như vậy.
    Và chưa bao giờ
    ngài khuyên chúng con
    tinh tiến bước tới
    bằng cách nói rõ
    bước tới thì có
    ích lợi chân thật.
    (48) Như trưởûng giảû giàu
    biết con chí kém
    nên dùng phương tiện
    khắc phục lòng con,
    rồi sau mới giao
    tất cả tài sản.
    (49) Thế Tôn cũng vậy,
    làm việc hiếm có:
    biết rằng chúng con
    chí thích thấp nhỏ
    nên đức Thế Tôn
    dùng phương tiện lực
    trước hết thuần hóa
    tâm trí chúng con,
    sau đó mới dạy
    tuệ giác vĩ đại.
    *
    (50) Ngày nay chúng con
    được chưa từng được,
    vốn không hy vọng
    nay tự được cả,
    như người nghèo khốn
    được bao của báu.
    (51) Bạch đức Thế Tôn,
    ngày nay chúng con
    mới được tuệ giác
    và được thành quả:
    được mắt trong suốt
    thấy pháp thuần khiết.
    Chúng con trường kỳ
    nghiêm trì tịnh giới,
    ngày nay bắt đầu
    nhận được thành quả.
    (52) Ở trong giáo pháp
    của đức Pháp vương,
    chúng con lâu ngày
    thực hành phạn hạnh,
    ngày nay nhận được
    thành quả vĩ đại
    đã rất thuần khiết
    lại không gì hơn.
    (53) Chúng con ngày nay
    mới thật Thanh văn:
    đem cái tiếng nói
    của tuệ giác Phật
    mà phát lộ ra
    cho mọi người nghe.
    (54) Chúng con ngày nay
    cũng thật La hán:
    khắp trong thế gian
    bao gồm tất cả
    chư thiên nhân loại
    ma vương phạn thiên,
    chúng con ứng thọ
    cho họ hiến cúng.
    *
    (55) Hồng ân Thế Tôn
    thật là cao cả:
    ngài đã vận dụng
    mọi cách hiếm có
    thương xót giáo hóa
    ích lợi chúng con.
    Nên dẫu trải qua
    vô số thời kỳ,
    ai mà trả được
    hồng ân như vậy.
    (56) Tay chân phục dịch
    đầu đỉnh lễ kính,
    cúng hiến tất cả
    cũng không trả được.
    Đội bằng đỉnh đầu
    vác với hai vai,
    hằng sa thời kỳ
    tôn kính hết lòng;
    (57-lại hiến cỗ bàn
    58) cực kỳ mỹ vị,
    hay dâng vải quí
    nhiều đến vô lượng,
    đồ nằm thuốc thang
    cúng hiến đủ cả;
    đem gỗ đàn hương
    và những vàng ngọc
    mà dựng bảo tháp
    và cất tự viện,
    rồi dùng vải quí
    mà trải mặt đất;
    với những cách ấy
    hiến cúng Thế Tôn
    hằng sa thời kỳ
    cũng không trả được.
    (59) Thế Tôn là bậc
    cực kỳ hiếm có,
    lại có đủ cả
    vô lượng vô biên
    đại thần thông lực
    ngoài tầm nghĩ bàn;
    ngài không sai sót
    lại không xao động,
    làm một vị vua
    thống lãnh các pháp,
    vậy mà có thể
    vì kẻ thấp kém,
    ngài nhẫn chịu được
    mọi sự thấp kém.
    (60) Đối với bao kẻ
    phàm phu cố chấp,
    ngài vẫn tùy nghi
    mà thuyết pháp cho,
    bởi vì đối với
    tất cả các pháp
    Thế Tôn đã được
    sự rất tự tại.
    (61) Thế Tôn biết hết
    thị hiếu, sở thích,
    chí hướng, năng lực
    của các chúng sinh,
    tùy sức của họ
    kham nhiệm được gì
    thì dùng vô lượng
    những sự ví dụ
    mà thuyết cho họ
    giáo pháp phong phú.
    (62) Lại tùy căn lành
    mà chúng sinh có
    từ các đời trước,
    và biết rất rõ
    ai đã thuần hóa
    ai chưa thuần hóa;
    xét đủ mọi mặt
    biết rành tất cả,
    rồi chính ở nơi
    cỗ xe duy nhất,
    Thế Tôn tuỳ nghi
    nói ba cỗ xe.
    _________
    Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:
    Vạn ức thời kỳ
    không thể nói được
    mới được có lúc
    Phật nói Pháp Hoa.
    Vạn ức thời kỳ
    không thể nói được
    mới được có lúc
    nghe nói Pháp Hoa.
    Chúng con nương nhờ
    Phật Pháp Tăng lực
    mới được trì tụng
    Diệu Pháp Liên Hoa.
    Chúng con nguyện đem
    công đức như vầy
    hiến khắp tất cả
    các loaị chúng sinh,
    cầu cho chúng con
    cùng với chúng sinh
    đều được thành tựu
    tuệ giác chư Phật.
    Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãõng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phátPháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ

  7. #7

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch

    Cuốn ba
    Ngưỡng bạch Phật, Pháp, Tăng vô tận Tam Bảotừ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinhĐại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa.
    Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:
    Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh củatuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy Pháp bảotrong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởikinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trìPháp Hoa vãng sinh Đâu Suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy Bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy Bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    __________________
    Phẩm 5:
    Cây Cỏ

    Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả Đại Ca Diếp, và các vị đại đệ tử của ngài, rằng tốt lắm Đại Ca Diếp, tôn giả đã nói rất khéo về công đức thật của Như Lai. Thật đúng như lời tôn giả đã nói. Đại Ca Diếp, Như Lai còn có vô biên công đứcmà các vị nói đến vạn ức thời kỳ cũng không thể hết được.
    Đại Ca Diếp, tôn giả nên biết, Như Lai là vua của các pháp, nói ra điều nào cũng không trống rỗng. Đối với các pháp, Như Lai đem phương tiện của tuệ giác Như Lai mà tuyên thuyết, và pháp được tuyên thuyết toàn là để đạt đến địa vị tuệ giáchoàn toàn. Như Lai xét biết ý nghiã của các pháp, biết đạo hạnh của chúng sinh, biết một cách thông suốt, vô ngại, và bằng sự xét biết tường tận như vậy mà Như Lai khai thị cho chúng sinh về tuệ giác hoàn toàn.
    Đại Ca Diếp, ví như toàn cõi đại thiên thế giới, núi đồi hang rãnh và ruộng đất mọc lên cây cối và cỏ thuốc, với bao nhiêu là chủng loại mà tên gọi và màu sắc không giống với nhau. Nhưng mây dày nổi lên và dăng bủa khắp cả đại thiên thế giới ấy, mưa xuống một cách đồng thời và đồng đều, thì nước mưa thấm khắp tất cả. Tất cả cây cối và cỏ thuốc, rễ nhỏ thân nhỏ nhánh nhỏ lá nhỏ, rễ vừa thân vừa nhánh vừa lá vừa, rễ lớn thân lớn nhánh lớn lá lớn, cây cối thì tùy chủng loại lớn nhỏ và cỏ thuốc thì tùy tính chất tốt vừa kém mà hấp thụ đủ cả. Một loại mây đổ mưa xuống, xứng hết với các mầm, nên thứ nào cũng được sinh ra, lớn lên, trổ hoa, ra trái và kết hạt. Cùng một đất mọc lên, một mưa thấm xuống, nhưng các cây cối và cỏ thuốc vẫn cókhác nhau.
    Đại Ca Diếp, Như Lai cũng vậy. Như Lai xuất hiện thế gian in như mây lớn nổi lên. Rồi in như mây bủa khắp đại thiên thế giới, Như Lai xuất ra âm thanh rất lớn, vang khắp thế giới chúng sinh, trong đó có chư thiên, nhân loại và tu la, phổ cáo tất cả các chúng, rằng Như Lai là bậc đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua Niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Ai chưa vượt đến bờ bến Như Lai làm cho vượt đến, ai chưa cởi mở ràng buộcNhư Lai làm cho cởi mở, ai chưa yên ổn Như Lai làm cho yên ổn, ai chưa Niết bàn Như Lai làm cho Niết bàn. Đời này đời sau, Như Lai biết đúng như sự thật. Như Lai là người biết tất cả, người thấy tất cả, người biết đường, người mở đường, người chỉ đường. Tất cả các chúng hãy nên đến Như Lai, đến để nghe pháp. Bấy giờ vô số vạn ức chủng loại chúng sinh đều đến chỗ Như Lai mà nghe pháp. Như Lai lúc ấy xét chúng sinh này các căn lanh chậm thế nào, siêng nhác ra sao, rồi tùy năng lực của họ mà thuyết pháp đủ cách, làm cho ai cũng hoan hỷ, thích thú vì được lợi lành. Họ nghe pháp rồi thì đời này yên vui, đời sau sinh chỗ hiền lành, đem đạo lý mà hưởng thụ hạnh phúc, và được nghe pháp thêm nữa. Nghe rồi thoát được mọi sự trở ngại, đối với pháp được nghe thì năng lực làm được, nên dần dần vào được tuệ giác Như Lai. Sự thể ví như mây lớn đổ mưa xuống tất cả cây cối và cỏ thuốc, xứng các mầm nên thứ nào cũng thấm nhuần mà sinh trưởng được cả. Như Lai thuyết pháp cũng vậy. Pháp ấy chỉ có màu sắc và mùi vị đồng nhất, là màu sắc mùi vị giải thoát, tách rời và hủy diệt dục vọng, cứu cánh đạt đến tuệ giác Biết tất cả. Lại nữa, sự thể cũng như cây cối và cỏ thuốc không thứ nào tự biết chủng loại lớn nhỏ và tính chất tốt vừa kém, chúng sinh nào nghe pháp của Như Lai mà ghi nhớ, đọc tụng và thực hành như lời được nghe, thì thành quả họ đạt được họ không thể tự biết. Chỉ có Như Lai thấy biết chủng loại và tính chất của những chúng sinh ấy nhớ việc gì nghĩ việc gì tu việc gì, nhớ thế nào nghĩ thế nào tu thế nào, đem pháp gì mà nhớ đem pháp gì mà nghĩ đem pháp gì mà tu, bằng pháp nào thì được pháp nào và ở vị trí nào, chỉ có Như Lai thấy biết đúng như sự thật, thấy biết thấu suốt, vô ngại.
    Như Lai biết về pháp có màu sắc mùi vị đồng nhất là màu sắc mùi vị giải thoát, tách rời và hủy diệt dục vọng, cứu cánh Niết bàn theo như bản thể thường tự vắng lặng, kết cục quy về nơi Không. Biết về pháp ấy rồi, Như Lai quán sát tâm tính và thị hiếu của chúng sinh mà tế nhị nâng đỡ cho họ, nên không đột ngột nói ngay cho họ về tuệ giác Biết tất cả. Đại Ca Diếp, chư vị thật hiếm có, biết được Như Lai tùy nghi thuyết pháp, tin được nhận được. Như Lai tán dương như vậy, vì sự tùy nghi thuyết pháp của chư Phật Như Lai thì khó hiểu khó biết.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lăëp lại ý nghiã đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Là vị Pháp vương
    phá hủy ba cõi,
    Như Lai xuất hiện
    trong thế gian này,
    tùy theo thị hiếu
    của các chúng sinh
    mà thuyết pháp cho
    bằng đủ mọi cách.
    (2) Như Lai cao trọng,
    tuệ giác sâu xa,
    từ lâu yên lặng
    không ham vội vã
    nói về cái pháp
    bí yếu như vầy.
    (3) Vì người có trí
    nghe thì tin hiểu,
    không trí đột nhiên
    nghe thì ngờ vực,
    và như thế thì
    lầm lạc lâu dài.
    (4) Vì vậy Ca Diếp,
    Như Lai tùy theo
    năng lực chúng sinh
    mới nói cho họ,
    bằng cách vận dụng
    mọi thứ yếu tố,
    làm họ đạt được
    thấy biết của Phật.
    *
    (5) Ca Diếp nên biết
    ví như mây lớn
    nổi trong không gian,
    bủa khắp tất cả.
    (6) Mây tuệ giác ấy
    chứa nước thấm mát,
    điện chớp sáng lóa
    sấm nổ vang xa,
    làm cho vạn vật
    thức tỉnh vui đẹp.
    (7) Mặt trời bị khuất
    mặt đất mát mẻ,
    mây bủa thấp xuống
    như với nắm được,
    và mưa đồng đều
    khắp nơi cùng đổ.
    (8- Trút nước vô số
    11) mặt đất thấm cả.
    Núi đồi hang rãnh
    sâu mấy mà có
    cây cối, cỏ thuốc,
    các cây lớn nhỏ,
    các giống lúa má,
    và mía với nho,
    trận mưa thấm cho
    đầy đủ hết thảy.
    Đất khô thấm đều,
    thuốc, cây cùng tốt.
    (12) Mây lớn đổ xuống
    nước mưa một vị,
    các loại cỏ cây
    tùy phần thấm nhuần.
    (13) Tất cả cỏ cây
    tốt vừa kém gì
    cũng xứng lớn nhỏ
    mà được sinh trưởûng.
    (14) Rễ thân nhánh lá
    hoa trái màu sắc,
    một mưa khắp hết
    nên tươi tốt cả.
    (15) Đúng như tính chất
    tốt vừa và kém,
    xứng với chủng loại
    lớn cũng như nhỏ,
    thấm nhuần là một
    cùng tốt tươi riêng.
    *
    (16) Như Lai cũng vậy,
    xuất hiện thế gian
    là như mây lớn
    bủa khắp hết thảy.
    Sau khi xuất hiện,
    Như Lai tuyên thuyết
    chân lý các pháp
    cho bao chúng sinh.
    (17) Như Lai đại giác
    tuyên cáo các chúng
    chư thiên nhân loại
    mà nói như vầy:
    Ta là Như Lai
    phước tuệ cao cả,
    xuất hiện thế gian
    in như mây lớn.
    (18) Ta mưa thấm hết
    chúng sinh khô cằn,
    làm cho hết khổ
    được vui yên ổn
    là vui thế gian
    và vui niết bàn.
    (19) Chư thiên, nhân loại,
    hãy nghe Như Lai!
    hãy nên đến đây
    ngắm đức Vô thượng!
    Như Lai là đấng
    tôn cao nhất đời,
    tất cả thế gian
    không ai sánh bằng,
    muốn làm chúng sinh
    được yên vui cả
    cho nên xuất hiện
    trong thế giới này.
    (20) Chính vì vô số
    các loại chúng sinh,
    Như Lai tuyên thuyết
    về pháp cam lộ
    tinh khiết trong suốt,
    chỉ một mùi vị
    ấy là mùi vị
    giải thoát niết bàn.
    (21) Chỉ dùng âm thanh
    nhiệm mầu duy nhất,
    Như Lai diễn đạt
    về pháp như vậy,
    thường tạo yếu tố
    bước tới đại thừa.
    Nhìn khắp chúng sinh
    coi rất bình đẳng,
    cho nên Như Lai
    không có tâm lý
    phân chia riêng rẽ
    người này kẻ kia,
    kẻ đáng thương mến
    người nên ghét bỏ.
    (22) Như Lai cũng không
    có ý tham lam
    hay hạn chế gì,
    chỉ thường thuyết pháp
    cho các chúng sinh
    một cách bình đẳng,
    như vì một người
    thuyết pháp thế nào
    thì vì nhiều người
    thuyết pháp cũng vậy.
    (23) Cho nên Như Lai
    thường xuyên thuyết pháp,
    bận rộn độc nhất
    với sự vụ ấy.
    Dầu khi đi lại
    hay lúc đứng ngồi,
    Như Lai thuyết pháp
    không hề chán mệt.
    (24) Tựa như nước mưa
    thấm nhuần khắp cả,
    Như Lai sung mãn
    niềm vui cho đời,
    bất kể sang hèn,
    cao thượng thấp kém,
    giữ hay không giữ
    giới luật trong suốt.
    (25-Uy nghi hoàn hảo
    26) hay không hoàn hảûo,
    kiến thức chính xác
    hay là sai lầm,
    các căn lanh lợi
    hay là chậm chạp,
    đối với tất cả
    những người như vậy,
    Như Lai đồng đều
    mưa xuống mưa pháp
    mà không bao giờ
    biếng nhác mỏi mệt.
    *
    (27-Hết thảy chúng sinh
    28) nghe pháp Như Lai
    đều theo sức mình
    mà tiếp nhận được,
    và được ở vào
    những vị trí này:
    Ở trong trời người
    được ngôi Luân vương,
    Phạn vương, Đế thích,
    là cỏ thuốc kém.
    (29-Thấu pháp thuần khiết
    30) được sự niết bàn,
    được sáu thần thông
    và ba minh trí,
    nghĩa là những vị
    được tuệ Thanh văn;
    riêng ở núi rừng
    thường hành thiền định
    được tuệ Duyên giác,
    là cỏ thuốc vừa.
    (31) Cầu chỗ Như Lai,
    biết sẽ làm Phật,
    tinh tiến kiên định,
    là cỏ thuốc tốt.
    (32) Những người con Phật
    chuyên tâm hạnh Phật,
    thường hành từ bi
    tự biết làm Phật,
    quyết định, không nghi,
    đó là cây nhỏ.
    (33) Vận dụng năng lực
    thần thông quảng đại,
    chuyển đẩy bánh xe
    không còn thoái chuyển,
    cứu độ vô số
    ức ngàn chúng sinh,
    Bồ tát như vậy
    gọi là cây lớn.
    (34) Như Lai thuyết pháp
    một cách bình đẳng
    y như nước mưa
    chỉ một mùi vị,
    chúng sinh tùy tính
    tiếp nhận không đồng
    in như cây cỏ
    hấp thụ khác cả.
    *
    (35) Như Lai giả thiết
    ví dụ như vầy
    là để phương tiện
    khai thị cho biết:
    bao nhiêu lời chữ
    đều để tuyên thuyết
    về pháp đồng nhất,
    và với trí Phật
    chỉ như giọt nước
    xuất từ biển cả.
    (36) Như Lai mưa xuống
    nước mưa chánh pháp
    tràn đầy cho cả
    chúng sinh thế gian.
    Đối với chánh pháp
    một mùi vị ấy,
    họ tùy sức họ
    mà tu hành theo.
    (37) Sự thể in như
    các thứ cỏ thuốc
    cùng các cây cối
    tùy loại lớn nhỏ,
    nhưng cùng thấm nhuần
    nước mưa một vị
    và cùng lớn dần
    hoa quả tốt tươi.
    (38) Chánh pháp Như Lai
    thường đem một vị
    làm cho chúng sinh
    tiếp nhận đủ hết,
    và tu tập dần
    mà được đạo quả:
    (39) Thanh văn, Duyên giác
    ở chốn núi rừng
    bằng thân cuối cùng
    nghe pháp được đạo,
    đó là cỏ thuốc
    cùng được lớn lên.
    (40) Còn chư Bồ tát
    trí tuệ vững chắc,
    thấu triệt ba cõi,
    cầu xe tối thượng,
    đó là cây nhỏ
    cùng được lớn lên.
    (41) Lại có Bồ tát
    ở trong thiền định
    được sức thần thông,
    nghe đạo lý Không
    của tất cả pháp
    lòng rất hoan hỷ,
    phóng ra vô số
    ánh sáng mầu nhiệm,
    hóa độ vô số
    các loại chúng sinh,
    đó là cây lớn
    cùng được lớn lên.
    (42) Như vậy Ca Diếp,
    Như Lai thuyết pháp
    in như mây lớn
    đổ mưa một vị
    thấm khắp hoa người
    kết trái hạt cả.
    *
    (43) Ca Diếp nên biết,
    đem các yếu tố
    và mọi ví dụ
    để mà chỉ dạy
    tuệ giác Phật đà
    cho cảû chúng sinh,
    đó là phương tiện
    của Như Lai đây
    và của tất cả
    chư vị Phật đà.
    (44) Như Lai nay nói
    sự rất thật này:
    chư vị Thanh văn
    chưa thật niết bàn;
    tất cả chư vị
    toàn là đi theo
    đường đi bồ tát,
    cho nên chư vị
    tu học dần dần
    sẽ thành Phật đà.

  8. #8

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch

    Phẩm 6:Thọ ký

    Nói những lời chỉnh cú trên đây rồi, đức Thế Tôntuyên cáo với toàn thể đại hội các chúng: Đại đệ tử của Như Lai là tôn giả Đại Ca Diếp đây, trong thì vị lai, sẽ được phụng sự ba trăm vạn ức chư Phật Như Lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, tuyên thuyết rộng rãi vô số chánh phápvĩ đại của các ngài, rồi thân cuối cùng thành đức Phật đà danh hiệu Quang Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ tên Quang Đức, thời kỳtên Đại trang nghiêm. Quang Minh Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳbậc nhỏ. Quốc độ huy hoàng, không có những thứ dơ và xấu như ngói sỏi gai góc và đại tiểu tiện lợi. Quốc độ ấy lại bằng thẳng, không có cao thấp, hầm hố gò đống. Đất bằng lưu ly, cây ngọc thành hàng, dây hoàng kim phân chia lề đường. Rải các hoa quí, đâu cũng sạch sẽ. Trong quốc độ ấy chúng bồ tát vô số ngàn ức, chúng thanh văn cũng vô lượng như vậy. Không có việc ma; vua ma và dân ma tuy có, nhưng toàn là những kẻ hộ trì Phật pháp. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩađã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Này chư tỷ kheo,
    Như Lai sử dụng
    con mắt Phật đà
    nhìn thấy tôn giả
    Đại Ca Diếp đây
    trong thì vị lai
    vô số thời kỳ
    sẽ thành Phật đà.
    (2) Vị lai tôn giả
    phụng sự hiến cúng
    ba trăm vạn ức
    chư Phật Như Lai,
    vì tuệ giác Phật
    mà tu phạn hạnh.
    (3) Sau khi phụng sự
    chư Phật Như Lai
    phước tuệ tối thượng
    biết khắp tất cả,
    thì thân cuối cùng
    được thành đức Phật.
    (4- Quốc độ sạch sẽ,
    6) lưu ly làm đất.
    Có lắm cây ngọc
    hàng lối bên đường.
    Dây vàng chia đường
    ai thấy cũng thích.
    Cây phát hương thơm,
    rải xuống hoa quí
    đủ loại đẹp lạ,
    sử dụng trang hoàng.
    Đất ấy bằng thẳng,
    không có hố đồi.
    (7) Chúng chư bồ tát
    thì hết tính toán,
    tâm trí thuần hóa
    được đại thần lực,
    kính giữ kinh pháp
    đại thừa của Phật.
    (8) Chúng chư thanh văn
    toàn thân cuối cùng,
    không còn phiền não,
    làm con Pháp vương,
    số lượng các ngài
    cũng khó tính toán,
    dùng mắt chư thiên
    đếm cũng không nổi.
    (9) Quang Minh Như Lai
    sống lâu mười hai
    thời kỳ bậc nhỏ,
    giáo pháp nguyên chất
    tồn tại hai mươi
    thời kỳ bậc nhỏ,
    giáo pháp tương tự
    tồn tại cũng vậy.
    Quang Minh Như Lai
    việc ngài như thế.
    Bấy giờ tôn giả Mục kiền Liên, tôn giả Tu bồ Đề và tôn giả Ca chiên Diên, đều chấn độngcả người, chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mắt không rời ngài một thoáng, và đồng thanh thưa ngài bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (10) Bạch đức Thế Tôn
    bậc đại hùng lực!
    thưa đấng Pháp vương
    dòng họ Thích Ca!
    xin ngài thương xót
    hết thảy chúng con,
    ban cho chúng con
    tiếng nói của Phật.
    (11) Thế Tôn nếu biết
    thâm tâm chúng con,
    trao cho chúng con
    lời ghi làm Phật,
    thì như rưới nước
    cam lộ mát ngọt
    làm cho chúng con
    hết nóng được mát.
    (12) Y như những kẻ
    đến từ nước đói,
    bỗng gặp cỗ bàn
    của đức vua lớn,
    nhưng còn nghi sợ
    chưa dám dùng liền,
    nếu được vua bảo
    mới dám ăn dùng.
    (13) Chúng con cũng vậy,
    thường nghĩ nhược điểm
    của pháp thấp nhỏ,
    không biết làm sao
    sẽ được tuệ giác
    vô thượng của Phật.
    (14) Dẫu chúng con nghe
    Thế Tôn đã nói
    chúng con rồi ra
    sẽ làm Phật cả,
    nhưng còn lo sợ
    chưa dám dùng ngay.
    (15) Nếu được đội ơn
    Thế Tôn thọ ký,
    chúng con mới được
    yên vui hoàn toàn.
    (16) Bạch đức Thế Tôn,
    đấng đại hùng lực
    thường muốn yên vui
    cho cả thế giới!
    xin ngài ban cho
    lời ghi làm Phật,
    như kẻ đang đói
    cần bảo dùng đi!
    Đức Thế Tôn biết lòng mong ước của các vị đại đệ tử, nên bảo chư vị tỷ kheo, vị tôn giả Tu bồ Đề này trong thì vị lai, phụng sự nhiều lần trăm triệu chư Phật Như Lai, hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương, thường tu phạn hạnh, đi trọn đường đi bồ tát, và thân cuối cùng được thành Phật đà, danh hiệu là Danh Tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Hữu bảo, quốc độ của ngài tên là Bảo sinh. Quốc độ ấy bằng thẳng, đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, không có núi đồi, hầm hố, cát sỏi, gai góc, tiện lợidơ bẩn. Hoa quí phủ đất, đâu cũng sạch sẽ. Người quốc độ ấy đều ở đài ngọc và lầu ngọc. Đệ tử của đức Danh Tướng Như Lai thuộc chúng thanh văn thì vô lượng vô biên, toán số ví dụ không thể xác định; thuộc chúng bồ tát thì nhiều lần trăm triệu. Danh Tướng Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Danh Tướng Như Lai thường đứng trong không gian mà thuyết pháp cho các chúng, hóa độvô lượng bồ tát và thanh văn. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (17) Này chư tỷ kheo,
    nay bảo chư vị
    hãy cùng nhất tâm
    nghe Như Lai nói.
    Vị đại đệ tử
    Tu bồ Đề này
    sẽ thành Phật đà
    hiệu là Danh Tướng.
    (18) Sau khi phụng sự
    vô số chư Phật,
    đi theo đường hướng
    chư Phật đã đi,
    dần dần hoàn chỉnh
    tuệ giác vĩ đại;
    (19) thì thân cuối cùng
    đủ bâm hai tướng,
    trang nghiêm tráng lệ
    tựa như núi ngọc.
    (20) Quốc độ của đức
    Danh Tướng Như Lai
    đẹp sạch bậc nhất
    ai thấy cũng thích.
    Ngài ở trong không
    của quốc độ ấy
    thuyết pháp hóa độ
    vô lượng các chúng.
    (21) Trong giáo pháp ngài
    có nhiều bồ tát,
    toàn là những bậc
    các căn lanh lợi,
    chuyển đẩy bánh xe
    pháp không thoái chuyển.
    Quốc độ của ngài
    thường lấy các vị
    bồ tát như vậy
    làm sự trang hoàng.
    (22) Chúng chư thanh văn
    không thể tính toán,
    được ba minh trí
    và sáu thần thông,
    đặt mình vững vàng
    trong tám giải thoát,
    vị nào cũng có
    uy đức rất lớn.
    (23) Danh Tướng Như Lai
    thuyết pháp thì hiện
    vô lượng thần biến
    siêu việt nghĩ bàn,
    chư thiên nhân loại
    nhiều bằng hằng sa
    đều chắp tay lại
    nghe nhận lời ngài.
    (24) Ngài sống mười hai
    thời kỳ bậc nhỏ,
    giáo pháp nguyên chất
    tồn tại hai mươi
    thời kỳ bậc nhỏ,
    giáo pháp tương tự
    cũng được tồn tại
    với thì gian ấy.
    Đức Thế Tôn lại bảo chư vị tỷ kheo, Như Lai bây giờ lại tuyên cáo với chư vị, vị tôn giảCa chiên Diên này, trong thì vị lai, đem những cúng phẩm mà hiến cúng, phụng sự tám ngàn ức chư Phật Như Lai, cung kính, tôn trọng. Sau khi các ngài nhập diệt, đối với ngài nào tôn giả Ca chiên Diên cũng xây dựng bảo tháp cao một ngàn do tuần, và chu vi năm trăm do tuần, toàn đem bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi, bảy chất liệu quí báu như vậy hợp lại tạo thành. Lại hiến cúng các bảo tháp ấy bằng các loạihoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù và tràng phan. Sau đó tôn giả Ca chiên Diên còn phụng sự hai vạn ức chư Phật Như Lai nữa, cũng với sự hiến cúng như trên. Phụng sựchư Phật Như Lai, đi trọn đường đi bồ tát rồi, tôn giả Ca chiên Diên sẽ thành đức Phật đà với danh hiệu là Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độ của ngài bằng thẳng và đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, dây hoàng kim phân chia lề đường, hoa đẹp phủ đất, khắp nơi sạch sẽ, ai nhìn cũng thích. Không có bốn đường dữ là địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và tu la, mà lại có nhiều chư thiên và nhân loại. Còn thanh vănchúng và bồ tát chúng thì vô số vạn ức, trang hoàng cho quốc độ ấy. Diêm Phù Na ĐềKim Quang Như Lai sống lâu mười hai thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian hai mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tự cũng tồn tại hai mươi thời kỳ bậc nhỏ. Đức Thế Tôn lặp lại ý nghĩa đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (25) Chư vị tỷ kheo,
    nhất tâm mà nghe!
    Như Lai lại nói
    lời không sai lầm.
    (26) Đại Ca chiên Diên
    sẽ đem bao nhiêu
    cúng phẩm tốt đẹp
    hiến cúng chư Phật.
    Chư Phật nhập diệt,
    dựng tháp bảy báu
    và đem hoa hương
    hiến cúng xá lợi.
    (27-Nên thân cuối cùng
    28) được tuệ giáùc Phật,
    trở thành một đấng
    Biết đúng và khắp,
    với một quốc độ
    cực kỳ sạch sẽ,
    hóa độ vô số
    vạn ức chúng sinh,
    lại được mười phương
    ai cũng hiến cúng.
    Ánh sáng của ngài
    không ai hơn được
    nên được danh hiệu
    Diêm Phù Kim Quang.
    (29) Bồ tát thanh văn
    đã cắt buộc ràng
    vào cõi sống chết
    thì nhiều vô số,
    làm cho trang nghiêm
    quốc độ của ngài.
    Đức Thế Tôn lại bảo đại hội các chúng, bây giờ Như Lai lại tuyên cáo với chư vị, vị tôn giả Mục Kiền Liên này, trong thì vị lai, đem những cúng phẩm mà hiến cúng tám ngàn chư Phật Như Lai, cung kính, tôn trọng. Sau khi các ngài nhập diệt, đối với ngài nào tôn giả Mục Kiền Liên cũng xây dựng bảo tháp cao đến một ngàn do tuần và chu vi rộng đến năm trăm do tuần, toàn đem bảy chất liệu qúy báu hợp lại tạo thành. Lại đem các loạihoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù và tràng phan mà hiến cúng bảo tháp ấy. Sau đó tôn giả phụng sự hai trăm vạn ức chư Phật Như Lai nữa, cũng với sự hiến cúng như trên, rồi thành đức Phật đà với danh hiệu Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Thời kỳ của ngài tên là Hỷ Mãn, quốc độ của ngài tên là Ý Lạc. Quốc độấy bằng thẳng và đất là pha lê, cây ngọc tráng lệ, rải hoa ngọc chân châu, đâu cũng sạch sẽ, ai thấy cũng thích. Rất nhiều chư thiên và nhân loại. Bồ tát và Thanh văn thì vô lượngvô số. Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai sống lâu hai mươi bốn thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp nguyên chất tồn tại thế gian bốn mươi thời kỳ bậc nhỏ, giáo pháp tương tựcũng tồn tại bốn mươi thời kỳ bậc nhỏ. Đức Thế tôn lập lại ý nghiã đã nói bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (30) Đệ tử Như Lai
    Đại Mục Kiền Liên
    bỏ thân này rồi
    được gặp tám ngàn
    hai trăm vạn ức
    chư Phật Như Lai.
    (31) Để được thực hiện
    tuệ giác Phật đà,
    tôn giả tôn kính
    phụng sự các ngài,
    nơi chỗ các ngài
    thường tu phạn hạnh.
    (32-33) Vô lượng thời kỳ
    tôn giả kính giữ
    tất cả giáo pháp
    của chư Phật ấy.
    Và khi các ngài
    nhập Niết bàn rồi
    tôn giả xây dựng
    những tháp bảy báu,
    lại dựng trụ vàng
    tiêu biểu lâu dài,
    rồi đem hoa hương
    và tấu nhạc khí
    cung kính hiến cúng
    những tháp Phật ấy.
    (34) Dần dần hoàn bị
    đường đi Bồ tát,
    tại cõi Ý Lạc
    thành Phật với hiệu
    Đa Ma La Bạt
    Đàn Hương Như Lai.
    (35) Đức Như Lai ấy
    sống lâu hăm bốn
    thời kỳ bậc nhỏ,
    thường xuyên tuyên thuyết
    giáo pháp Phật đà
    cho cả trời người.
    (36) Đệ tử Thanh văn
    vô số vô lượng
    nhiều bằng hằng sa,
    đủ ba minh trí
    và sáu thần thông
    uy đức rất lớn.
    (37) Đệ tử Bồ tát
    vô lượng vô biên,
    trí nhớ cứng chắc
    tinh tiến thường trực,
    đối với trí Phật
    không ai thoái chuyển.
    (38) Phật nhập diệt rồi
    giáo pháp nguyên chất
    tồn tại bốn chục
    thời kỳ bậc nhỏ,
    giáo pháp tương tự
    tồn tại cũng vậy.
    Đệ tử Như Lai
    uy đức toàn vẹn
    số có năm trăm,
    sẽ được thọ ký
    trong thì vị lai
    đều thành Phật đà.
    Và sự tương quan
    từ thời xa xưa,
    liên hệ Như Lai
    cùng với chư vị,
    Như Lai sắp nói,
    chư vị khéo nghe!

  9. #9

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch
    Phẩm 7:
    Tương Quan Xa Xưa
    Đức Thế Tôn bảo chư vị Tỷ kheo, trong thì quá khứ, cách nay cực nhiều thời kỳ vô số, bấy giờ có đức Phật danh hiệu Đại Thông Trí Thắng, bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người, bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời. Quốc độ của ngài tên là Hảo thành, thời kỳ của ngài tên là Đại tướng. Chư vị tỷ kheo, ngài nhập diệt cách nay cực kỳ lâu xa. Ví như đất của cả đại thiên thế giới này, giả thiết có người mài ra làm mực, rồi đi qua hết một ngàn quốc độ ở về hướng đông mới chấm một chấm chỉ lớn bằng hạt bụi nhỏ, lại đi qua hết một ngàn quốc độ nữa mới chấm một chấm nữa.Triển chuyển như vậy, chấm hết số mực đã mài hết số đất của cả đại thiên thế giới, thì ý chư vị nghĩ thế nào, bao nhiêu quốc độ mà người ấy đi qua, giáo sư toán học hay học trò của họ có thể tìm thấy giới hạn để biết được số lượng hay không? Không, bạch đức Thế Tôn. Chư vị tỷ kheo, lại giả thiết rằng bao nhiêu quốc độ mà người ấy đi qua, chấm hay không chấm, đều đem nghiền ra làm bụi, mỗi hạt bụi giả thiết là một thời kỳ, thì đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhập diệt đến nay còn lâu hơn số ấy đến cực nhiều thời kỳ vô số. Vậy mà Như Lai đem sức mạnh sự thấy biết của Phật nhìn lại sự nhập diệtlâu xa ấy thì thấy như thể mới xảy ra ngày hôm nay. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Như Lai nhớ lại
    trong thì quá khứ
    vô lượng vô biên
    thời kỳ vô số,
    có đức Phật đà
    bậc đủ phước tuệ,
    danh hiệu ngài là
    Đại Thông Trí Thắng.
    (2) Ví như có người
    tận lực mài hết
    đất cõi đại thiên
    thành ra mực cả,
    rồi đi qua hết
    một ngàn quốc độ
    mới chấm một chấm
    lớn bằng hạt bụi.
    (3- Chấm lần cho đến
    5) hết sạch mực ấy.
    Rồi bao quốc độ
    người ấy đi qua
    chấm hay không chấm
    đều nghiền thành bụi,
    mỗi một hạt bụi
    là một thời kỳ.
    Nhưng mà so sánh
    với sốá bụi ấy,
    số thời kỳ này
    lại còn nhiều hơn.
    (6- Trí Thắng Phật đà
    7) nhập diệt đến nay
    thời kỳ vô lượng
    đến như thế ấy.
    Vậy mà Như Lai
    đem trí vô ngại
    biết đức Phật ấy
    trước khi thành đạo
    đến lúc nhập diệt,
    biết cả đệ tử
    thanh văn bồ tát,
    thấy ngài nhập diệt
    rõ như sự ấy
    mới xảy hôm nay.
    Chư vị tỷ kheo,
    nên biết tuệ giác
    của Phật Như Lai
    trong suốt, tinh túy,
    không còn sai sót
    không bị ngăn chặn,
    thấu suốt thời kỳ
    vô biên vô lượng.
    Đức Thế Tôn lại bảo, chư vị tỷ kheo, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà sống lâu cực nhiều trăm triệu thời kỳ. Khi ngài ngồi nơi bồ đề tràng, phá tan quân đội ma vương rồi, sắp được tuệ giác vô thượng của chư Phật, nhưng các pháp của tuệ giác chư Phật ấy vẫn chưa hiện ra như ở trước mắt. Như vậy hết một cho đến mười thời kỳ bậc nhỏ, ngài ngồi xếp bằng, thân thể và tâm trí đều không dao động, nhưng các pháp của tuệ giácchư Phật vẫn chưa hiện ra. Bấy giờ chư thiên Đao lợi sắp trước cho ngài, ở dưới cây bồ đề, một tòa sư tử cao đến một do tuần. Ngài sẽ thực hiện tuệ giác vô thượng của chư Phật ở trên tòa sư tử ấy. Khi ngài mới ngồi trên tòa sư tử thì Phạn vương rưới xuống hoa của chư thiên, khắp diện tích một trăm do tuần. Gió thơm thỉnh thoảng lướt đến thổi hoa héo đi, và Phạn vương rưới thay hoa mới. Liên tục như vậy, suốt mười thời kỳ bậc nhỏ, Phạn vương hiến cúng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, và từ đó cho đến lúc ngài nhập diệt, vẫn thường xuyên rưới hoa hiến cúng như thế. Còn bốn vị Thiên vương thì thường xuyên đánh trống chư thiên, và chư thiên khác thì tấu các nhạc khí khác của chư thiên, hiến cúng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà trọn mười thời kỳ bậc nhỏ, và từ đó liên tục cho đến khi ngài nhập diệt, y như việc rưới hoa. Chư vị tỷ kheo, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà qua mười thời kỳ bậc nhỏ rồi các pháp của tuệ giác chư Phật mới hiện ra như ởû trước mắt, và ngài hoàn thành tuệ giác vô thượng ấy.
    *
    Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, khi chưa xuất gia, đã có mười sáu vương tử mà người đứng đầu tên là Trí Tích. Những vương tử này ai cũng có đủ thứ đồ thưởng ngoạn quí và lạ, nhưng nghe thân phụ hoàn thành tuệ giác vô thượng thì cùng bỏ hết những thứù mình quí, đi đến chỗ ngài. Các bà mẹ khóc, đi theo mà tiễn. Vị luân vương tổ phụ của họ thì có một trăm đại thần và trăm ngàn vạn ức dân chúng bao quanh, cũng theo mà đến bồ đề tràng. Ai cũng muốn đến gần đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà mà hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Khi đến, ai cũng đem đầu mặt lạy ngang chân ngài, đi vòng quanh ngài, rồi chuyên chú chắp tay mà chiêm ngưỡng, và nói những lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
    (8- Thế Tôn uy đức
    9) vô cùng cao cả,
    vì muốn hóa độ
    các loại chúng sinh,
    nên ngài trải qua
    vô số thời kỳ
    mới được trở thành
    một đức Phật đà,
    bao nhiêu đại nguyện
    đều trọn vẹn cả:
    lành thay là đấng
    Cát tường tối thượng!
    (10) Thế Tôn là bậc
    cực kỳ hiếm có,
    một lần ngồi xuống
    mà đã trải qua
    hết cả mười lần
    thời kỳ bậc nhỏ,
    thân thể tay chân
    lặng yên bất động,
    tâm trí thanh tịnh
    chưa từng xao lãng,
    tuyệt đối vắng bặt
    cực kỳ thuần khiết.
    (11) Chúng con ngày nay
    thấy đức Thế Tôn
    yên ổn hoàn thành
    tuệ giác chư Phật,
    là chúng con được
    lợi ích tốt lành,
    cho nên khen mừng
    lòng rất hoan hỷ.
    (12) Các loại chúng sinh
    thường xuyên khổ não,
    quá ư mù mờ
    không thầy dắt dẫn,
    không hề biết được
    con đường hết khổ,
    cũng không tự biết
    mong cầu giải thoát.
    (13) Trong các loài dữ
    thì tăng lên mãi
    còn trên chư thiên
    ngày càng giảm bớt,
    từ chỗã tối tăm
    vào chỗ tối tăm,
    lâu xa mãi hoài
    không nghe danh Phật.
    (14) Ngày nay Thế Tôn
    đạt được tuệ giác
    tối thượng, yên ổn,
    không còn sai sót,
    chúng con cùng với
    chư thiên nhân loại
    vì được ích lợi
    siêu việt lớn lao
    cho nên cùng nhau
    cúi đầu kính lạy,
    tánh mạng quay về
    nơi đấng Vô thượng.
    Mười sáu vương tử lúc ấy nói những lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phậtđà rồi, khuyến thỉnh ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp.
    Ai cũng nói rằng đức Thế Tôn thuyết pháp thì đem lại rất nhiều yên ổn; xin ngài thương xót và ích lợi cho chư thiên, nhân loại. Các vương tử lại nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (15) Thưa đấng Thế hùng
    đấng Không ai bằng,
    tự trang hoàng mình
    bằng trăm phước đức!
    Ngài đã thực hiện
    tuệ giác vô thượng,
    xin nói cho đời
    về tuệ giác ấy.
    (16) Xin cứu chúng con
    và bao chúng sinh!
    Xin phô bày ra
    tuệ giác của ngài,
    làm cho chúng con
    cùng thực hiện được.
    Chúng con nếu được
    trở thành Phật đà
    thì các chúng sinh
    cũng được như vậy.
    (17) Thế Tôn biết rõ
    tất cả quan niệm,
    đường lối, trí tuệ,
    thị hiếu, phước đức,
    hành vi đời trước...
    của bao chúng sinh.
    Ngài đã thấy biết
    tỏ rõ tất cả,
    xin hãy chuyển đẩy
    pháp luân tối thượng!
    Khi ấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà yên lặng hứa nhận lời thỉnh cầu ấy.
    Đức Thế Tôn lại bảo, chư vị tỷ kheo, khi đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà hoàn thànhtuệ giác vô thựơng thì khắp mười khu vức, mỗi khu vức có năm trăm vạn ức cõi Phậtđều chấn động đủ hết sáu cách. Những chỗ tối tăm giữa các cõi Phật ấy, ánh sáng sáng nhất của mặt trời mặt trăng không thể soi đến, khi ấy cũng rất sáng tỏ. Chúng sinh trong những chỗ ấy cùng được thấy nhau, và cùng thốt lên: sao lại có chúng sinh khác xuất hiện ở đây! Trong các cõi Phật nói trên, cung điện chư thiên, từ dưới lên đến Phạn thiên, cũng chấn động đủ cả sáu cách, và được chiếu soi bằng ánh sáng vĩ đại, sáng tỏa khắp cả và sáng hơn ánh sáng của chư thiên ấy. Bao nhiêu cung điện Phạn thiên khắp trong năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức chính đông đều sáng lên rực rỡ, gấp đôi ngày thường. Các vị Phạn vương đều nghĩ rằng, cung điện chúng ta hôm nay sáng lên một cách trước đây chưa bao giờ có; vì lý do nào mà có cảnh tượng này? Các vị Phạn vương liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy. Trong chúng Phạn vương này có Đại phạn vương tên là Cứu nhất Thế, nói với cả chúng lời chỉnh cú sau đây.
    (18- Cung điện chúng ta
    20) sáng hơn trước đây;
    vì lý do gì?
    hãy cùng tìm hiểu:
    một vị thiên nhân
    phước lớn mới sinh?
    hay một đức Phật
    xuất hiện thế gian,
    mà ánh sáng này
    chiếu rực khắp cả?
    Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi Phật khu vức chính đông, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức chính tây, lần theo ánh sáng mà tìm, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tửdưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh cầungài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đi quanh ngàøi hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Cây này cao đến mười do tuần. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương xót mà ích lợicho chúng con, bằng các rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
    (21) Thế Tôn hiếm có
    rất khó gặp được !
    Ngài đủ vô lượng
    phẩm chất siêu việt,
    và có năng lực
    cứu hộ tất cả.
    Là thầy cao cả
    của cả trời người,
    ngài thường thương tưởng
    toàn thể thế gian,
    mười phương chúng sinh
    đều nhờ ích lợi.
    (22) Tất cả chúng con
    đến đây từ những
    quốc độ nhiều đến
    năm trăm vạn ức,
    và cùng rời bỏ
    cái vui thiền định
    để được đến đây
    hiến cúng Thế Tôn.
    (23) Nhờ phước chúng con
    làm từ đời trước
    nên được cung điện
    tráng lệ như vầy,
    hôm nay chúng con
    tôn kính hiến lên,
    xin đức Thế Tôn
    từ bi nạp thọ.
    Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp: xin ngài giải thoát chúng sinh, xin ngài mở đường niết bàn. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.
    (24- Bạch đức Thế hùng
    25) đủ cả phước tuệ!
    xin ngài diễn giảng
    chánh pháp tối thượng,
    xin đem sức mạnh
    của đại từ bi
    cứu độ chúng sinh
    đang bị khổ não.
    Khi ấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà yên lặng hứa nhận lời thỉnh cầu ấy.
    Chư vị tỷ kheo, các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức đông nam, ai cũng tự thấy cung điện của mình sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờcó, nên hoan hỷ, phấn chấn, thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy. Trong chúng Phạn vương này có vị Đại phạn vương tên là Đại Bi, nói vớùi cả chúng lời chỉnh cú sau đây.
    (26) Vì lý do nào
    mà có cảnh tượng
    cung điện chúng ta
    sáng hơn trước đây?
    (27-Một vị thiên nhân
    28) phước lớn mới sinh?
    hay một đức Phật
    xuất hiện thế gian?
    (29) Trước đây chưa thấy
    cảnh tượng như vầy,
    nên hãy cùng nhau
    nhất tâm mà tìm.
    (30) Hãy cùng đi qua
    vạn ức quốc độ,
    lần theo ánh sáng
    mà tìm xuất xứ.
    Nhiều phần chắc chắn
    đây là Phật đà
    xuất hiện cứu độ
    chúng sinh đau khổ.
    Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi Phật khu vức đông nam, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức tây bắc, lần theo ánh sáng mà tìm, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
    (31) Vị chúa thánh triết,
    vị vua chư thiên,
    tiếng như tiếng chim
    ca lăng tần dà!
    Vị thầy thương tưởng
    hết thảy chúng sinh!
    Hôm nay chúng con
    xin cùng kính lạy.
    (32-Chư Phật Thế Tôn
    33) rất là hiếm có,
    thì gian lâu xa
    mới hiện một lần.
    Đã qua một trăm
    tám chục thời kỳ,
    cõi này trống rỗng
    không có Phật nào;
    ba nẻo đường dữ
    thì tràn đầy cả,
    còn chúng chư thiên
    ngày càng giảm bớt.
    (34) Ngày nay ngài đã
    xuất hiện ra đây!
    Ngài là mắt sáng
    cho các chúng sinh,
    là nơi thế gian
    cùng đến nương tựa,
    là người cứu vớt
    che chở hết thảy,
    là từ bi phụ
    của cả chúng sinh,
    là người xót thương
    ích lợi tất cả!
    Tất cả chúng con
    nhờ phước đời trước,
    ngày nay mới được
    gặp ngài xuất hiện!
    Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương tưởng tất cả, chuyển đẩy bánh xe chánh pháp mà hóa độ chúng sinh. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.
    (35) Bạch đức Cao cả!
    xin ngài chuyển đẩy
    bánh xe chánh pháp,
    xin ngài phát lộ
    thật tướng siêu việt
    của tất cả pháp,
    cứu độ hết thảy
    chúng sinh đau khổ,
    cho họ cùng được
    niềm vui lớn lao!
    (36) Xin cho chúng sinh
    được nghe pháp ấy,
    để được tuệ giác
    hoặc sinh chư thiên,
    để bớt nẻo dữ
    và thêm người lành.
    Khi ấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà yên lặng hứa nhận lời thỉnh cầu ấy.
    Chư vị tỷ kheo, các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức chính nam, ai cũng tự thấy cung điện của mình sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờcó, nên hoan hỷ, phấn chấn, thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy, rằng vì lý do nào mà cung điện chúng ta có ánh sáng rực rỡ như vầy? Trong chúng Phạn vương này có vị Đại phạn vương tên là Diệu Pháp, nói với cả chúng lời chỉnh cú sau đây.
    (37) Cung điện chúng ta
    sáng quá rực rỡ,
    tất có lý do,
    cần nên tìm hiểu.
    (38) Qua rồi hàng trăm
    hàng ngàn thời kỳ,
    mà chưa hề thấy
    cảnh tượng như vầy.
    Một vị thiên nhân
    phước lớn mới sinh?
    hay một đức Phật
    xuất hiện thế gian?
    Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi Phật khu vức chính nam, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức chính bắc, lần theo ánh sáng mà tìm, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tửdưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương tử đang thỉnh cầungài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
    (39) Thật là hiếm có
    được thấy Thế Tôn,
    đấng đã hủy diệt
    mọi sự phiền nàõo!
    Qua hết một trăm
    ba mươi thời kỳ,
    nay mới một lần
    lại được thấy Phật.
    (40) Biết bao chúng sinh
    đã quá khao khát,
    xin đổ mưa pháp
    cho sung mãn cả!
    Lâu rồi chúng con
    chưa được nhìn thấy
    đấng có tuệ giác
    không có giới hạn;
    như hoa ưu đàm,
    ngày nay mới thấy!
    (41) Bao nhiêu cung điện
    của chúng con đây
    nhờ ánh sáng ngài
    mà càng tráng lệ,
    xin ngài thương xót
    nhận cho chúng con.
    Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp để làm cho toàn thể thế gian bao gồm chư thiên, ma vương, phạn vương, sa môn, bà la môn, ai cũng được yên ổn, được giải thoát. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.
    (42) Đấng tôn cao nhất
    chư thiên nhân loaị,
    xin chuyển bánh xe
    chánh pháp vô thượng!
    xin gióng lớn lên
    trống pháp vĩ đại!
    xin thổi vang lên
    loa pháp to lớn!
    (43) Xin đổ khắp xuống
    mưa pháp cao cả,
    quảng độ vô lượng
    các loại chúng sinh!
    Cùng nhau kính lạy,
    chúng con thỉnh cầu
    Thế Tôn nói lên
    tiếng nói sâu xa.
    Khi ấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà yên lặng hứa nhận lời thỉnh cầu ấy.
    Chư vị tỷ kheo, khu vức tây nam cho đến khu vức thiên để cũng đều như vậy. Và đến các vị Phạn vương ở năm trăm vạn ức cõi Phật thuộc khu vức thiên đỉnh, ai cũng tự thấy cung điện của mình đang ở sáng rực lên một cách trước đây chưa bao giờ có, nên hoan hỷ, phấn chấn, thấy rất hy hữu, liền đến suy luận với nhau về sự thể ấy, rằng vì lý do nào mà cung điện chúng ta có ánh sáng rực rỡ như vầy? Trong chúng Phạn vương ấy có vị Đại phạn vương tên là Thi Khí, nói với cả chúng lời chỉnh cú sau đây.
    (44) Vì sao hôm nay
    cung điện chúng ta
    sáng lên lộng lẫy
    huy hoàng khác thường?
    (45) Cảnh tượng như vầy
    chưa hề thấy nghe.
    (46) Một vị thiên nhân
    phước lớn mới sinh?
    hay một đức Phật
    xuất hiện thế gian?
    Bấy giờ các vị Phạn vương của năm trăm vạn ức cõi Phật khu vức thiên đỉnh, với cung điện theo mình, với túi vải đựng đầy hoa chư thiên, cùng nhau đi về khu vức thiên để, lần theo ánh sáng mà tìm, thấy đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ngồi trên tòa sư tử dưới cây bồ đề trong bồ đề tràng, có tám bộ và các chúng khác thuộc loài người và không phải loài người, tôn kính bao quanh. Lại thấy mười sáu vị vương tửû đang thỉnh cầu ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Các vị Phạn vương tức thì đem đầu mặt lạy ngang chân đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, đi quanh ngài hàng trăm hàng ngàn vòng, rồi đem hoa chư thiên mà tung rải trên ngài. Hoa ấy như núi Tu di. Các vị Phạn vương cũng dùng hoa ấy mà hiến cúng cây bồ đề của ngài. Hiến hoa rồi, các vị Phạn vương ai cũng đem cung điện của mình dâng lên đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, xin ngài thương xót mà ích lợi cho chúng con, bằng cách rủ lòng chấp nhận và sử dụng cung điện chúng con hiến cúng. Đối trước ngài, các vị Phạn vương nhất tâm, đồng thanh, đem lời chỉnh cú sau đây mà ca tụng.
    (47) Lành thay khi được
    thấy đấng Toàn giác,
    Thánh triết, Cứu đời,
    đấng có năng lực
    giải cứu chúng sinh
    trong ngục ba cõi!
    (48) Là Thầy trời người
    thấy biết khắp cả,
    ngài rất thương xót
    bao loại chúng sinh!
    Và ngài khai mởû
    cửa ngỏ bất tử,
    làm cho hết thảy
    vượt đến bến bờ!
    (49) Vô số thời kỳ
    đã không có Phật!
    Ngài chưa xuất hiện,
    mười phương tối tăm:
    (50) Ba nẻo đường dữ
    mãi hoài thêm lên,
    chủng loại tu la
    cũng được phồn thịnh;
    (51) còn chúng chư thiên
    thì bị giảm bớt,
    chết thì phần nhiều
    rơi vào đường dữ,
    vì đã không được
    nghe Pháp với Phật,
    thường thường hành động
    những việc bất thiện.
    (52) Sắc đẹp, sức khỏe,
    cùng với trí tuệ,
    tất cả thứ này
    giảûm sút đồng đều.
    Vì hành động ác
    mà mất hạnh phúc,
    lại mất đến cả
    ý thức hạnh phúc.
    (53) Vướng mắc khuôn phép
    chủ thuyết tà ngụy,
    nên không biết được
    qui tắc tốt lành,
    không được tiếp nhận
    ân Phật giáo hóa,
    thường bị rơi vào
    các nẻo đường dữ.
    (54) Nhưng nay thì ngài,
    con mắt của đời,
    đã xuất hiện ra
    sau thì gian dài!
    Nhưng nay thì ngài,
    vì thương chúng sinh,
    đã xuất hiện ra
    giữa thế gian này!
    (55) Ngài đã siêu việt,
    đạt được tuệ giác
    chính xác hoàn hảo:
    chúng con rất mừng!
    Và bao chúng sinh
    ai cũng hoan hỷ
    và tán dương ngài
    là bậc hiếm có!
    (56) Bao nhiêu cung điện
    của chúng con đây
    nhờ ánh sáng ngài
    mà càng tráng lệ,
    chúng con phụng hiến
    lên đấng Thế Tôn,
    xin ngài thương tưởng
    mà nạp thọ cho.
    (57) Chúng con nguyện đem
    công đức như vầy
    hiến khắp tất cả
    các loại chúng sinh,
    cầu cho chúng con
    cùng với chúng sinh
    đều được thành tựu
    tuệ giác chư Phật.
    Các vị Phạn vương đem lời chỉnh cú ca tụng đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà rồi, vị nào cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chuyển đẩy bánh xe chánh pháp, đem lại rất nhiều sự yên ổn và rất nhiều sự giải thoát. Các vị lại nhất tâm đồng thanh mà nói lời chỉnh cú này.
    (58) Kính xin Thế Tôn
    chuyển bánh xe pháp!
    Xin ngài gióng lên
    trống pháp bất tử!
    Xin ngài giải cứu
    chúng sinh đau khổ,
    và mở chỉ ra
    đường hướng niết bàn!
    (59) Xin ngài nhận lời
    chúng con thỉnh cầu,
    sử dụng âm thanh
    cực kỳ mầu nhiệm,
    thương xót chúng con
    và bao chúng sinh,
    nói ra cái pháp
    mà ngài trải qua
    vô số thời kỳ
    mới tập hợp được!
    *

  10. #10

    Mặc định

    *
    Lúc bấy giờ đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhận lời thỉnh cầu của các vị Phạn vương ở khắp mười phương, và của mười sáu vị vương tử, tức thì chuyển đẩy bánh xe chánh pháp bốn chân lý, bằng cách ba lần chuyển đẩy với mười hai phương thức, mà sa môn, bà la môn, hoặc chư thiên, ma vương, phạn vương, hay bất cứ ai còn ở trong phạm vithế gian, đều không thể chuyển đẩy. Rằng đây là khổ... đây là khổ tập hợp... đây là khổ tiêu diệt... đây là con đường đạt đến khổ tiêu diệt... Bốn chân lý như vậy lại được nói rộng ra thành mười hai duyên khởi: vô minh sinh thì hành sinh, hành sinh thì thức sinh, thức sinh thì danh sắc sinh, danh sắc sinh thì lục nhập sinh, lục nhập sinh thì xúc sinh, xúc sinh thì thọ sinh, thọ sinh thì ái sinh, ái sinh thì thủ sinh, thủ sinh thì hữu sinh, hữu sinh thì sinh sinh, sinh sinh thì già chết lo buồn khổ não sinh; vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già chết lo buồn khổ não diệt.
    Khi đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà ở giữa đại hội các chúng, trong đó có chư thiên và nhân loại, tuyên thuyết chánh pháp trên đây thì có vạn ức lần trăm triệu người, vì không tham đắm các pháp, nên đối với mọi sự sơ hở tâm được giải thoát; bốn thiền, bốn định, ba minh trí, sáu thần thông và tám giải thoát, những pháp sâu xa tinh túy như vậy họ có đủ cả. Rồi lần thứ hai, lần thứ ba và lần thứ tư, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà tuyên thuyết chánh pháp trên đây thì có hằng sa trăm triệu chúng sinh cũng vì không tham đắm các pháp mà đối với mọi sự sơ hở tâm được giải thoát. Từ đó về sau, riêng chúng thanh văn cũng đã vô lượng vô biên, không thể mô tả hay tính toán.
    *
    Phần mười sáu vị vương tử thì cùng nhau đem cái tuổi đồng niên mà xuất gia làm sa di, các căn lanh lợi, trí tuệ thấu suốt, vì lẽ ai cũng đã từng phụng sự trăm ngàn vạn ức chư Phật Như Lai, thực hành phạn hạnh một cách trong sáng mà cầu tuệ giác vô thượng. Tất cả mười sáu vị ấy cùng thưa đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, rằng bạch đức Thế Tôn, vô số trăm ngàn vạn ức chư vị thanh văn đại đức như thế này đã thành thục cả rồi, kính xin đức Thế Tôn nói cho chúng con về pháp của tuệ giác vô thượng. Chúng con nghe được pháp ấy thì ai cũng cùng nhau tu học. Bạch đức Thế Tôn, tâm chí của chúng con là nguyện được sự thấy biết của Phật. Tâm chí như vậy, đức Thế Tôn tự biết cho chúng con. Lúc ấy tám vạn ức người trong số đi theo vị luân vương tổ phụ, thấy mười sáu vịvương tử xuất gia thì cũng cầu xin xuất gia. Vị luân vương ấy cũng chấp thuận tức khắc.
    Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nhận lời thỉnh cầu của mười sáu vị sa di, nên qua hai vạn thời kỳ rồi, ở giữa đại hội bốn chúng, nói về bản kinh đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Ngài nói kinh ấy rồi, mười sáu vị sa di vì tuệ giác vô thượng mà cùng tiếp nhận, ghi nhớ và đọc tụng một cách thông suốt sắc sảo. Trong khi ngài nói kinh ấy thì mười sáu vị sa di bồ tát, và chúng bồ tát, tin tưởng tiếp nhận được cả. Trong chúng thanh văn cũng có vị tin hiểu. Nhưng người khác, số lượng đến ngàn vạn ức, đều sinh ra nghi hoặc.
    Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà nói kinh Pháp Hoa suốt tám ngàn thời kỳ mà không lúc nào ngưng bỏ. Nói rồi, ngài vào tịnh thất, đặt mình vào sự thiền định đến tám vạn bốn ngàn thời kỳ. Bấy giờ mười sáu vị Sa di Bồ tát biết ngài vào tịnh thất mà vắng lặng thiền định, nên vị nào cũng lên pháp tòa, và cũng trong thời gian tám vạn bốn ngàn thời kỳ ấy vị nào cũng giảng giải một cách phong phú cho cả bốn chúng về kinh Pháp Hoa. Vị nào cũng hóa độ chúng sinh nhiều bằng trăm triệu hằng sa, trình bày, thuyết phục, khuyến khích, tán thưởng, làm cho ai cũng phát tâm tuệ giác vô thượng. Tám vạn bốn ngàn thời kỳ qua rồi, đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà xuất định, bước đến pháp tòa, thung dungmà ngồi, tuyên cáo với cả đại hội các chúng: Mười sáu vị Sa di Bồ tát này thật là hiếm có, các căn lanh lợi, trí tuệ thấu suốt, và vị nào cũng đã phụng sự hàng ức chư Phật Như Lai. Nơi chư Phật Như Lai ấy, các vị thường xuyên thực hành phạn hạnh, nhận được tuệ giác Phật đà, lại dạy cho chúng sinh vào được tuệ giác ấy. Các người hãy luôn luôn thân gần mà phụng sự mười sáu vị ấy. Vì lẽ bất cứ Thanh văn, Duyên giác hay Bồ tát, người nào tin tưởng được kinh pháp do mười sáu vị Sa di Bồ tát này tuyên thuyết, tiếp nhận và ghi nhớ mà không bác bỏ, thì những người ấy ai cũng sẽ được tuệ giácPhật đà là tuệ giác vô thượng.
    Khi ấy đức Thế Tôn bảo chư vị Tỷ kheo, mười sáu vị Sa di Bồ tát thường vui thích nói kinh Pháp Hoa. Những số chúng sinh nhiều bằng trăm triệu hằng sa mỗi vị giáo hóa thì đời đời sinh ra ở đâu cũng chung với mỗi vị, theo mỗi vị mà nghe pháp thêm nữa, và nghe thì tin hiểu được cả. Do vậy mà số chúng sinh ấy gặp được bốn vạn ức chư Phật Như Lai, và việc ấy đến nay vẫn chưa chấm dứt.
    Chư vị Tỷ kheo, nay Như Lai nói để chư vị biết, mười sáu vị Sa di Bồ tát, đệ tử của đức Đại Thông Trí Thắng Phật đà, hiện nay cùng thành tựu tuệ giác vô thượng và đang thuyết pháp giáo hóa ở khắp cả mười phương quốc độ. Vị nào cũng có vô số trăm ngàn vạn ức Bồ tát và Thanh văn làm người tùy thuộc. Hai vị thành Phật ở chính đông là A Súc Như Lai tại quốc độ Hoan Hỷ và Tu Di Đảnh Như Lai. Hai vị thành Phật ở đông nam là Sư Tử Âm Như Lai và Sư Tử Tướng Như Lai. Hai vị thành Phật ở chính nam là Hư Không Trú Như Lai và Thường Diệt Như Lai. Hai vị thành Phật ở tây nam là Đế TướngNhư Lai và Phạn Tướng Như Lai. Hai vị thành Phật ở chính tây là A Di Đà Như Lai và Độ Nhất Thế Thế Gian Khổ Não Như Lai. Hai vị thành Phật ở tây bắc là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông Như Lai và Tu Di Tướng Như Lai. Hai vị thành Phật ở chính bắc là Vân Tự Tại Như Lai và Vân Tự Tại Vương Như Lai. Một vị thành Phật ở đông bắc là Hoại Nhất Thế Thế Gian Bố Úy Như Lai. Còn vị thứ mười sáu là ta, Thích Ca Mâu Ni Như Lai, thành tựu tuệ giác vô thượng ở quốc độ Kham nhẫn này.
    Chư vị Tỷ kheo, như trên đã nói, khi chúng ta làm Sa di Bồ tát thì nào cũng giáo hóachúng sinh nhiều bằng trăm triệu hằng sa. Những số chúng sinh này vì tuệ giác vô thượng mà vẫn theo nghe pháp với chúng ta. Trong các số chúng sinh ấy, cho đến ngày nay có những người vẫn còn ở vị trí Thanh văn, thì chúng ta vẫn thường giáo hóa cho những người này bằng pháp của tuệ giác vô thượng. Những người này vẫn phải được đưa lần vào tuệ giác Phật đà bằng pháp ấy, vì tuệ giác Phật đà thì thật khó tin khó hiểu.
    Những người này, mà thuộc về số hằng sa chúng sinh phần Như Lai giáo hóa từ lúc Như Lai còn làm Sa di Bồ tát, thì chính là chư vị, và chư vị đệ tử Thanh văn trong thì vị lai sau khi Như Lai nhập diệt. Chư vị đệ tử Thanh văn sau khi Như Lai nhập diệt cũng có những người không nghe kinh này, không hay không biết gì về đường đi của Bồ tát, và đối với thành quả của mình thì phát sinh ý tưởng nhập được Niết bàn. Như Lai bấy giờ làm đức Phật giáo chủ ở quốc độ khác, thay đổi danh hiệu khác; những người tuy phát sinh ý tưởng nhập được Niết bàn như vậy, nhưng ở quốc độ khác mà Như Lai đang làm đức Phật giáo chủ thì họ lại cầu tuệ giác Phật đà, được nghe kinh này và biết rằng chỉ Niết bàn bằng cỗ xe Phật đà chứ không bằng cỗ xe nào khác, ngoại trừ Như Lai phương tiện thuyết pháp.
    Chư vị Tỷ kheo, bất cứ ở quốc độ nào, khi Như Lai tự biết thì giờ nhập diệt sắp đến, chư Tăng lại thanh tịnh, sự tin hiểu cũng vững chắc, ai cũng thấu triệt về Không, vào sâu tư duy tu, thì Như Lai chiêu tập chúng Bồ tát và chúng Thanh văn mà nói cho kinh Pháp Hoa này, minh xác rằng thế gian không có cỗ xe thứ hai và cỗ xe thứ ba đưa đến Niết bàn, mà chỉ có cỗ xe Phật đà duy nhất đưa đến Niết bàn mà thôi.
    Chư vị Tỷ kheo, nên biết Như Lai đủ mọi phương tiện, lại đi sâu vào bản tính chúng sinh, biết chí nguyện của chúng sinh ưa thích giáo pháp thấp nhỏ là vì vốn đã đắm sâu vào trong năm thứ dục lạc; vì những người như vậy mà Như Lai nói đến niết bàn, và họ nghe thì tin hiểu được. Sự thể ví như con đường hiểm ác dài đến năm trăm do tuần, nằm trong chốn hoang vắng và ghê rợn. Một đoàn nhiều người muốn vượt qua con đường ấy để đến chỗ vàng ngọc. Có một vị hướng dẫn rất thông minh, lại biết rõ con đường hiểm ácnày chỗ nào thông chỗ nào nghẽn. Vị ấy dẫn đoàn người vượt qua con đường này. Nhưng đoàn người nửa đường đổ nhác, muốn lui, thưa với vị hướng dẫn, rằng chúng tôiquá mệt mà lại ghê sợ, không còn đi tới được nữa. Đường trước còn xa, chúng tôi muốn lui về. Vị hướng dẫn có lắm chước phương tiện, nghĩ rằng đoàn người này thật đáng thương, sao lại bỏ vàng ngọc to lớn mà muốn trở về. Nghĩ rồi, vị ấy sử dụng phương tiệnlực, ngay nơi đoạn giữa của con đường hiểm ác, chỗ đã qua ba trăm do tuần, biến hóamột thành quách to lớn, và bảo họ, các người đừng sợ, đừng về. Thành quách to lớn kia các người có thể vào nghỉ, và muốn gì tùy ý: muốn ở luôn trong ấy thì yên ổn thích thú, muốn đi tới để đến chỗ vàng ngọc thì cũng đi được. Đoàn người mỏi mệt, lúc đó, lòng rất vui mừng, khen là sự thể chưa từng có, rằng chúng ta bây giờ thoát khỏi con đườnghiểm ác và được an toàn rồi. Rồi cả đoàn bước tới mà vào trong thành biến hóa, sinh ra ý tưởng đã vượt qua, ý tưởng đã an toàn. Nhưng vị hướng dẫn, khi biết đoàn người nghỉ ngơi hết mệt, tức thì diệt mất cái thành biến hóa đi, bảo đoàn người hãy nên đi tới: chỗ vàng ngọc đã gần đây. Cái thành to lớn vừa rồi chỉ do ta hóa ra cho các người dừng nghỉ mà thôi.
    Chư vị tỷ kheo, Như Lai cũng vậy. Như Lai làm đại đạo sư cho chư vị. Như Lai biết rõ đường dữ sống chết phiền não là con đường đầy hiểm nạn mà lại xa dài, ai cũng phải rời bỏ, phải vượt qua. Nhưng nếu chư vị chỉ nghe cỗ xe Phật đà duy nhất thì sẽ không thích gặp Như Lai, không muốn thân gần, vì nghĩ rằng tuệ giác Phật đà quá dài quá xa, siêng khó lâu lắm mới được thành đạt. Như Lai biết rõ tâm lý khiếp nhược hèn kém ấy nên dùng phương tiện lực, nói ra niết bàn của thanh văn và duyên giác để cho chư vị dừng nghỉ giữa đường. Khi chư vị đã đứng ở vị trí của thanh văn và duyên giác rồi, Như Lailiền nói cho chư vị biết việc làm của chư vị chưa được hoàn tất. Nhưng vị trí của chư vị đang đứng thì đã gần đến tuệ giác Phật đà. Chư vị hãy suy xét về niết bàn mà chư vị thực hiện: niết bàn ấy không thật đâu. Niết bàn ấy chỉ do phương tiện lực của Như Lai, nơi cỗ xe Phật đà duy nhất mà phân ra nói có ba cỗ xe, tựa như vị hướng dẫn hóa ra thành quách to lớn cho đoàn người dừng nghỉ. Dừng nghỉ rồi thì nói cho họ biết chỗ vàng ngọc gần đây, còn thành biến hóa này không thật, chỉ do ta biến hóa ra mà thôi.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (60) Đại Thông Trí Thắng,
    đức Phật đà ấy
    qua mười thời kỳ
    ngồi bồ đề tràng
    mà pháp chư Phật
    vẫn chưa hiện ra,
    chưa được thành tựu
    tuệ giác chư Phật.
    (61) Chư thiên, long vương,
    cùng các bộ chúng
    thường rưới thiên hoa
    để hiến cúng ngài.
    (62) Chư thiên lại đánh
    trống của chư thiên
    và hòa tấu lên
    các nhạc khí khác.
    Gió thơm lướt đến
    thổi mất hoa héo,
    chư thiên rưới thay
    hoa mới và tốt.
    (63) Hết mười thời kỳ,
    Trí Thắng Phật đà
    mới được thành tựu
    tuệ giác chư Phật.
    Chư thiên nhân loại
    lòng rất vui mừng.
    *
    (64) Mười sáu vương tử
    cùng vớùi tùy thuộc
    cả ngàn vạn ức
    cùng đến chỗ Phật.
    (65) Họ đem đầu mặt
    lạy ngang chân ngài,
    thỉnh cầu chuyển đẩy
    bánh xe chánh pháp,
    rằng bậc Sư tử
    của các thánh triết,
    xin ngài đổ xuống
    nước mưa chánh pháp
    sung túc chúng con
    cùng với tất cả!
    (66) Thế Tôn là bậc
    cực kỳ khó gặp,
    sau thì gian dài
    ngài mới xuất hiện;
    và muốn thức tỉnh
    các loại chúng sinh,
    ngài làm chấn động
    tất cả quốc độ.
    (67) Trong các quốc độ
    ở hướng chính đông
    số lượng có đến
    năm trăm vạn ức,
    cung điện Phạn vương
    sáng lên lộng lẫy,
    điều mà từ xưa
    họ chưa từng thấy.
    (68) Các vị Phạn vương
    thấy cảnh tượng ấy,
    lần theo ánh sáng
    tìm đến chỗ ngài,
    cùng rải thiên hoa
    tôn kính hiến cúng,
    lại còn hiến dâng
    cung điện của mình.
    (69) Rồi thỉnh cầu ngài
    chuyển đẩy pháp luân,
    lấy lời chỉnh cú
    mà ca tụng ngài.
    Và ngài biết rõ
    thì gian chưa đến,
    nên nhận lời họ
    mà ngồi yên lặng.
    (70) Ở ba hướng khác
    cùng với bốn góc
    và trên với dưới
    cũng đều như vậy:
    (71) Cũng rải thiên hoa
    cũng hiến cung điện
    và thỉnh cầu ngài
    chuyển đẩy pháp luân.
    (72) Rằng thưa Thế Tôn,
    đấng Rất khó gặp,
    xin ngài đem lòng
    từ bi cao cả
    mà mở cho rộng
    cửa ngõ bất tử,
    bằng cách chuyển đẩy
    pháp luân tối thượng!
    (73) Trí Thắng Phật đà
    tuệ giác vô lượng,
    nhận lời thỉnh cầu
    của các vị ấy,
    tuyên thuyết cho họ
    những pháp phong phú,
    là bốn chân lý
    mười hai duyên khởi.
    (74) Ngài nói vô minh
    cho đến già chết,
    toàn là do sinh,
    tai họa như vậy
    các người phải biết.
    (75) Khi thuyết pháp này
    có vạn ức lần
    trăm triệu người nghe,
    hủy diệt cùng tận
    biên cương khổ não
    mà thành La hán.
    (76) Thuyết lần thứ hai,
    ngàn vạn hằng sa
    các loại chúng sinh
    đối với các pháp
    không còn tham đắm,
    cũng thành La hán.
    (77) Từ đó về sau
    những người đắc đạo
    số đến vô số,
    vạn ức thời kỳ
    tính cũng không biết
    giới hạn số ấy.
    *
    (78) Mười sáu vương tử
    lúc ấy xuất gia
    cùng làm sa di,
    và rồi cùng nhau
    thỉnh cầu đức Phật
    Đại Thông Trí Thắng,
    rằng xin Thế Tôn
    thuyết pháp đại thừa,
    (79) để cho chúng con
    cùng với tùy thuộc
    đều sẽ thành tựu
    tuệ giác Phật đà,
    ước nguyện cùng được
    y như Thế Tôn
    đấng có mắt tuệ
    trong sáng bậc nhất!
    (80-Biết rõ tâm lý
    81) các vương tử trẻ,
    lại biết đạo hạnh
    đời trước của họ,
    ngài dùng vô số
    yếu tố, ví dụ,
    mà nói sáu pháp
    ba la mật đa,
    cùng với những sự
    thần thông diệu dụng,
    phân tích giảng giải
    về pháp chân thật _
    nghĩa là giảng giải
    đường đi bồ tát,
    (82) bằng cách nói về
    Diệu pháp Liên hoa,
    với những bài kệ
    nhiều bằng hằng sa.
    *
    (83) Trí Thắng Phật đà
    nói kinh ấy rồi,
    vào trong tịnh thất
    mà nhập thiền định,
    một lòng mà ngồi
    ngồi nơi một chỗ
    ngồi tám vạn tư
    thời kỳ bậc nhỏ.
    (84) Bấy giờ mười sáu
    sa di bồ tát
    biết đức Trí Thắng
    chưa xuất thiền định,
    nên cùng diễn giảng
    tuệ giác vô thượng
    cho vô số ức
    các loại chúng sinh.
    (85) Mỗi vị sa di
    ngồi một pháp tòa,
    và cùng diễn giảng
    về kinh Pháp Hoa,
    góp sức vào việc
    đem pháp giáo hóa,
    trong suốt thì gian
    ngài nhập thiền định.
    (86) Cả mười sáu vị
    mỗi vị hóa độ
    chúng sinh nhiều bằng
    trăm triệu hằng sa.
    (87) Trí Thắng Phật đà
    nhập niết bàn rồi,
    những người nghe pháp
    mười sáu vị này,
    tại các cõi Phật
    thường sinh với thầy.
    (88) Mười sáu vị ấy
    đã đi trọn vẹn
    đường đi của Phật,
    hiện ở mười phương
    cùng thành các đấng
    Tuệ giác chính xác.
    (89) Những người nghe pháp
    vào lúc bấy giờ,
    nay ở tại chỗ
    các đức Phật ấy;
    trong đó có người
    còn là thanh văn,
    vẫn được dạy lần
    bằng tuệ giác Phật.
    *
    (90) Như Lai là một
    trong số mười sáu,
    xa xưa đã từng
    dạy bảo chư vị.
    Nên nay Như Lai
    vận dụng phương tiện
    dẫn dắt chư vị
    đến mau Phật tuệ.
    (91) Do sự tương quan
    xa xưa như trên,
    Như Lai ngày nay
    tuyên thuyết Pháp Hoa,
    làm cho chư vị
    nhập vào Phật tuệ.
    Chư vị thận trọng,
    đừng có kinh hãi!
    (92) Ví như con đường
    rất là hiểm ác
    trong chốn hoang vu,
    có lắm thú độc,
    không cả cỏ nước,
    ai cũng khiếp sợ.
    (93) Một đoàn nhiều người
    vô số ngàn vạn
    muốn vượt đường ấy,
    con đường hiểm ác
    mà lại xa đến
    năm trăm do tuần.
    (94) Một vị hướng dẫn
    có trí, nhớ kỹ,
    sáng suốt, quả quyết;
    trong đường hiểm ác,
    vị ấy hướng dẫn
    đoàn người vượt qua.
    (95) Giữa đường mới qua
    ba trăm do tuần
    thì họ mệt nhọc,
    thưa vị hướng dẫn
    chúng tôi kiệt lực
    ngang đây muốn về.
    (96) Vị hướng dẫn nghĩ
    họ thật đáng thương:
    tại sao lại muốn
    trở lui mà về,
    mất phần lấy được
    vàng ngọc rất quí.
    (97) Vị ấy liền nghĩ
    một cách phương tiện:
    ông dùng sức thần
    hoá thành quách lớn,
    trang trí đủ hết
    nhà cửa tráng lệ,
    (98) vườn rừng bao quanh,
    sông đào, ao tắm,
    cửa chồng, lầu cao,
    nam nữ đông đầy.
    (99) Hóa như vậy rồi
    an ủi đoàn người
    đừng sợ gì cả,
    các người hãy vào
    trong thành quách này
    tùy ý vui thích.
    (100) Đoàn người vào thành
    lòng rất vui vẻ,
    ai cũng sinh ra
    ý tưởng yên ổn,
    lại còn tự cho
    đã được vượt qua.
    (101) Vị hướng dẫn biết
    họ nghỉ khoẻ rồi,
    tập hợp mà bảo
    tất cả các người
    hãy nên đi tới,
    còn đây chỉ là
    cái thành do ta
    hóa ra mà thôi.
    (102) Thấy các người mệt
    giữa đường muốn lui,
    nên ta phương tiện
    hóa ra thành này.
    Các người bây giờ
    hãy siêng đi tới,
    để cùng được đến
    chỗ vàng ngọc lớn.
    *
    (103) Như Lai cũng vậy
    làm đại đạo sư,
    thấy người cầu đạo
    nửa đường nhác bỏ,
    không thể vượt qua
    một cách hoàn toàn
    con đường hiểm ác
    sống chết phiền não.
    (104) Do đó Như Lai
    thiện dụng phương tiện:
    nói ra niết bàn
    cho họ dừng nghỉ,
    bằng cách tuyên bố
    chư vị hết khổ,
    những việc phải làm
    đã làm hoàn tất.
    (105) Như Lai khi biết
    chư vị đã đến
    niết bàn như vậy
    và thành La hán,
    thì họp chư vị
    nói pháp chân thật.
    (106) Nên chư Như Lai
    đem sự phương tiện
    nói ba cỗ xe,
    mà thật chỉ có
    cỗ xe Phật đà
    cỗ xe duy nhất,
    còn hai cỗ xe
    thanh văn duyên giác
    nói ra chỉ để
    làm chỗ dừng nghỉ.
    (107) Như Lai ngày nay
    nói sự thật này
    cho chư vị biết:
    cái chư vị được
    không phải đã là
    niết bàn hoàn toàn.
    Để đạt cho được
    tuệ giác hoàn toàn
    của bậc Toàn giác,
    chư vị cần phải
    nổi lên tột độ
    sự đại tinh tiến!
    (108) Khi nào chư vị
    đạt được tuệ giác
    của bậc Toàn giác,
    nội dung gồm hết
    phẩm chất Phật đà
    đại loại như là
    mười đại năng lực,
    lại có đủ cả
    ba mươi hai tướng
    bậc đại trượng phu,
    bấy giờ mới thật
    niết bàn hoàn toàn.
    (109) Nói tóm đây là
    sự khéo giáo hóa
    của chư Phật đà,
    bậc Đại đạo sư:
    nói ra niết bàn
    để cho dừng nghỉ;
    khi biết dừng nghỉ
    đã hết mệt rồi
    thì dắt bước tới
    tuệ giác Phật đà.
    _______
    Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:
    Vạn ức thời kỳ
    không thể nói được
    mới được có lúc
    Phật nói Pháp Hoa.
    Vạn ức thời kỳ
    không thể nói được
    mới được có lúc
    nghe nói Pháp Hoa.
    Chúng con nương nhờ
    Phật Pháp Tăng lực
    mới được trì tụng
    Diệu pháp Liên hoa.
    Chúng con nguyện đem
    công đức như vầy
    hiến khắp tất cả
    các loại chúng sinh,
    cầu cho chúng con
    cùng với chúng sinh
    đều được thành tựu
    tuệ giác chư Phật.
    Kính lạy kinh Diệu pháp Liên hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phátPháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

  11. #11

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch

    Cuốn 4

    Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừatên Diệu Pháp Liên Hoa.
    Mở đầu kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:
    Kính lạy kinh Diệu pháp Liên hoa, bản kinh củatuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phươngquốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởikinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trìPháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.


    __________
    Phẩm 8:
    Năm trăm đệ tử tiếp nhận thọ ký

    Lúc ấy tôn giả Phú lâu Na, từ nơi đức Thế Tôn, được nghe sự tùy nghi thuyết pháp của tuệ giácvà phương tiện, nghe trao cho chư vị đại đệ tửlời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng, nghe sự tương quan từ bao đời trước, nghe thần lực đại tự tại của đức Thế Tôn, nên được sự chưa từng có, tâm trí trong sáng, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, bước đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, rồi đứng lui một khoảng, chiêm ngưỡng dung nhan của ngài mà mắt không tạm thời rời ra, trong lòng nghĩ rằng đức Thế Tôn rất kỳ lạ, việc ngài làm thật hiếm có. Ngài thích ứng với bao nhiêu thành phần của thế gian, sử dụng tuệ giác và phương tiện mà thuyết pháp cho họ, kéo họ ra khỏi mọi chỗ tham đắm vướng mắc. Đối với đức tính của đức Thế Tôn, lời nói chúng ta không thể nói hết. Chỉ có đức Thế Tôn mới biết ước nguyện căn bản trong tâm lý sâu xa của chúng ta.
    Vào lúc ấy đức Thế Tôn bảo, chư vị tỷ kheo, chư vị thấy tôn giả Phú lâu Na đây không? Như Lai thường ca tụng tôn giả là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, lại thường tán dương công đức của tôn giả tinh tiếnduy trì và góp sức tuyên dương đối với chánh pháp của Như Lai: có năng lực ở trong bốn chúng mà trình bày, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng cho họ, giải thíchphong phú chánh pháp của Như Lai mà ích lợi lớn lao cho những người đồng hành phạn hạnh. Ngoại trừ Như Lai, không ai cùng tận được sự biện thuyết của tôn giả. Chư vị đừng nói tôn giả Phú lâu Na chỉ có năng lực duy trì và tuyên dương chánh pháp của Như Lai mà thôi. Nơi chín mươi ức chư Phật quá khứ, tôn giả cũng đã duy trì và tuyên dươngchánh pháp của các ngài. Trong những người thuyết pháp của các ngài, tôn giả cũng đứng bậc nhất. Tôn giả rõ ràng thấu suốt về Không mà chư Phật ấy nói, được bốn trí thông suốt, thường xuyên thuyết pháp một cách xác tín, trong sạch, không còn nghi hoặc. Tôn giả có đủ thần lực bồ tát, và sống lâu bao nhiêu thì thực hành phạn hạnh bấy nhiêu. Người của mọi thời kỳ chư Phật ấy ai cũng nói vị này thật là thanh văn, và tôn giảcũng đem phương tiện như vậy mà ích lợi vô số trăm ngàn chúng sinh. Tôn giả lại giáo hóa vô lượng vô số chúng sinh, làm cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng. Nói tóm, vì mục đích tịnh hóa quốc độ mà tôn giả thường làm việc Phật làm là giáo hóa chúng sinh. Chư vị tỷ kheo, trong thời kỳ bảy đức Phật, tôn giả Phú lâu Na cũng là người đứng bậc nhất trong những người thuyết pháp. Thời kỳ chư Phật đương lai trong Hiền kiếp này, tôn giả cũng vẫn là người bậc nhất trong những người thuyết pháp, cũng vẫn duy trì và tuyên dương chánh pháp của chư Phật ấy. Thời kỳ vị lai sau đó nữa, tôn giả cũng duy trìvà tuyên dương chánh pháp của vô lượng vô biên chư Phật, cũng giáo hóa ích lợi vô sốchúng sinh cho họ đứng trong tuệ giác vô thượng, cũng vì mục đích tịnh hóa quốc độ màthường xuyên tinh tiến giáo hóa chúng sinh.
    Khi hoàn bị dần dần về đường đi như vậy của bồ tát, qua vô lượng thời kỳ vô số rồi, tôn giả Phú lâu Na sẽ ở chính nơi quốc độ này mà thành tựu tuệ giác vô thượng, danh hiệulà Pháp Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Pháp Minh Như Lai lấy những đại thiên thế giớinhiều bằng cát sông Hằng mà làm một cõi Phật của mình, đất là bảy chất liệu quí báu, bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò, khe suối, ngòi lạch, hang hóc. Lầu đài bằng bảy chất liệu quí báu thì tràn đầy cõi Phật ấy. Cung điện chư thiên thì ở gần trong không gian, nên người với trời giao tiếp, hai bên thấy nhau được cả. Cõi Phật ấy không có đường dữ, nữ nhân cũng không. Mọi người đều sinh ra bằng sự biến hóa, không có dâm dục. Ai cũng có thần thông quảng đại, thân phát ánh sáng, bay đi tự tại, trí nhớ vững chắc, tinh tiến, trí tuệ. Thân người nào cũng màu hoàng kim, tự trang hoàng bằng ba mươi hai tướng tốt. Cả cõi Phật ấy ai cũng thường ăn bằng hai sự ăn: ăn bằng cái vui chánh pháp và ăn bằng cái vui thiền định. Có chúng chư bồ tát nhiều đến hàng ức trăm triệu, đều được thần thông quảng đại và bốn trí thông suốt, khéo léo giáo hóa các loạichúngsinh. Còn chúng chư thanh văn thì toán số không thể xác định, vị nào cũng trọn vẹn sáu thần thông, ba minh trí và tám giải thoát. Cõi Phật của đức Pháp Minh Như Laisẽ có vô lượng thành quả trang nghiêm như vậy. Thời kỳ của ngài tên là Bảo Minh, cõi Phật của ngài tên là Thiện tịnh, và ngài sống lâu đến vô lượng thời kỳ vô số, giáo pháptồn tại cũng cực kỳ lâu dài. Ngài nhập diệt rồi, những ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu được xây dựng lên khắp cả cõi Phật.
    Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Chư vị tỷ kheo,
    hãy nghe cho kỹ:
    con Phật hoàn thành
    đường đi của mình
    với những phương tiện
    đã khéo học tập,
    cho nên khó thể
    nghĩ bàn về họ.
    (2) Thấu hiểu chúng sinh
    thích giáo pháp nhỏ
    và rất e sợ
    tuệ giác vĩ đại,
    nên các vị ấy
    chính là bồ tát
    mà làm thanh văn
    hay làm duyên giác.
    (3) Áp dụng vô số
    cách thức phương tiện,
    các vị giáo hóa
    đủ loại chúng sinh,
    trong khi tự xưng
    mình là thanh văn
    cách biệt xa vời
    tuệ giác của Phật.
    (4) Các vị hóa độ
    vô lượng các chúng,
    làm cho ai nấy
    đều được thành thục:
    dẫu ai lúc đầu
    ưa thích thấp nhỏ
    và hơi biếng nhác,
    nhưng rồi các vị
    dần dần làm cho
    sẽ thành Phật cả.
    (5) Ở trong cất chứa
    phẩm chất bồ tát
    bề ngoài hiện ra
    hình dáng thanh văn,
    các vị tỏ ra
    ít sự ham muốn
    chán sự sống chết,
    nhưng thật các vị
    tựï làm trong sạch
    cõi Phật của mình.
    (6) Lại còn tỏ ra
    có tham sân si,
    tỏ ra thích nghi
    hình thức tà kiến.
    (7) Đệ tử Như Lai
    làm đến như vậy
    để mà phương tiện
    hóa độ chúng sinh.
    Như Lai nói hết
    những sự biểu hiện
    giáo hóa như vậy,
    chúng sinh nghe đến
    tất có những người
    hoài nghi lầm lẫn.
    (8-Ngày nay tôn giả
    9) Phú lâu Na đây,
    nơi ngàn ức Phật
    trong thì quá khứ
    đã siêng thực hiện
    đường đi của mình:
    tuyên dương duy trì
    chánh pháp chư Phật
    để cầu đạt được
    tuệ giác vô thượng.
    Nên tôn giả đã
    ở nơi chư Phật
    làm người đứng đầu
    trong hàng đệ tử
    về sự đa văn
    cùng với trí tuệ,
    thuyết pháp một cách
    không có e sợ,
    có thể làm cho
    các chúng hoan hỷ.
    Tôn giả chưa từng
    chán nản mỏi mệt
    trong sự hổ trợ
    việc làm của Phật.
    (10) Tôn giả vượt đến
    thần thông rộng lớn,
    lại có đủ cả
    bốn trí thông suốt,
    biết rõ mọi người
    trình độ lanh chậm,
    rồi thường tuyên thuyết
    về pháp trong sáng.
    (11) Phô bày thích thú
    nghĩa của pháp ấy,
    giáo hóa chúng sinh
    nhiều ngàn vạn ức
    cho họ ngồi vào
    cỗ xe vĩ đại,
    và bằng cách ấy
    mà tôn giả này
    tự làm trong sạch
    cõi Phật của mình.
    (12) Trong thì vị lai
    tôn giả lại còn
    phụng sự vô số
    chư Phật Như Lai,
    duy trì tuyên dương
    chánh pháp các ngài,
    cũng để tịnh hóa
    cõi Phật của mình.
    (13) Thường xuyên vận dụng
    các cách phương tiện,
    tôn giả thuyết pháp
    không sợ gì cả,
    hóa độ các chúng
    không thể tính kể
    cho họ thành đạt
    tuệ giác hoàn toàn.
    (14) Phụng sự chư Phật
    bằng cách kính giữ
    kho tàng chánh pháp
    quí báu bậc nhất,
    sau đó tôn giả
    được thành Phật đà
    với danh hiệu là
    Pháp Minh Như Lai.
    (15-Cõi Phật của ngài
    16) tên là Thiện tịnh
    do bảy chất quí
    kết hợp mà thành.
    Thời kỳ của ngài
    tên là Bảo minh.
    Chúng chư bồ tát
    rất là đông nhiều,
    số lượng đạt đến
    vô số vạn ức,
    toàn đã đạt được
    thần thông quảng đại,
    uy đức năng lực
    hoàn bị đầy đủ,
    những vị như vậy
    đầy cõi của ngài.
    (17) Chúng chư thanh văn
    cũng là vô lượng,
    đủ ba minh trí
    và tám giải thoát,
    lại còn có được
    bốn trí thông suốt,
    những vị như vậy
    lấy làm Tăng bảo.
    (18) Toàn cõi Thiện tịnh
    tất cả mọi người
    đã đoạn trừ hết
    những cách dâm dục,
    thuần nhất như nhau
    sinh bằng biến hóa,
    ba mươi hai tướng
    trang hoàng thân thể.
    (19) Vui đẹp về pháp
    vui đẹp về định,
    người Thiện tịnh ăn
    bằng hai sự ấy,
    không còn tưởng đến
    những cách ăn khác.
    Cõi Phật như vậy
    không có nữ nhân,
    các nẽo đường dữ
    cũng không còn có.
    (20) Vị đại tỷ kheo
    Phú lâu Na này,
    mọi phẩm chất Phật
    thành mãn cả rồi
    sẽ được cõi Phật
    trong sạch như vậy.
    Nơi đó rất nhiều
    chư vị hiền thánh
    và vô lượng việc
    cùng loại như thế,
    nay đây Như Lai
    chỉ nói sơ lược.
    Lúc ấy một ngàn hai trăm vị La hán, những bậc tâm đã tự tại, đều nghĩ rằng chúng ta rất hoan hỷ, được sự chưa từng có. Nếu chúng ta được đức Thế Tôn thọ ký cho như các vị đại đệ tử của ngài thì thật thích thú. Đức Thế Tôn biết rõ ý nghĩ trong lòng của chư vị ấy nên bảo tôn giả Đại ca Diếp, một ngàn hai trăm vị La hán này, Như Lai nay tuần tự trao cho họ lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng.
    Đại ca Diếp, trong chúng La hán này, đại đệ tử của Như Lai là tỷ kheo Kiều trần Như sẽ phụng sự sáu vạn hai ngàn ức chư Phật, sau đó thành Phật với danh hiệu Phổ Minh Như Lai, đủ mười đức hiệu. Năm trăm vị trong số một ngàn hai trăm vị La hán, đại loạinhư các tôn giả Tần loa ca Diếp, Già da ca Diếp, Na đề ca Diếp, Ca lưu đà Di, Ưu đà Di, A nâu lâu Đà, Ly bà Đa, Kiếp tân Na, Bạc câu La, Châu Đà, Sa già Đà, đều sẽ được tuệ giác vô thượng và cùng một danh hiệu Phổ Minh Như Lai.
    Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (21-Vị đại tỷ kheo
    22) Kiều trần Như này
    sẽ gặp vô lượng
    chư Phật Như Lai,
    trải qua thời kỳ
    nhiều đến vô số
    mới thành một bậc
    Biết khắp và đúng.
    (23) Thường xuyên phóng ra
    ánh sáng rất lớn,
    đầy đủ hết thảy
    các thần thông lực,
    danh tiếng vang động
    khắp cả mười phương,
    hết thảy chúng sinh
    ai cũng tôn kính,
    và thường tuyên thuyết
    tuệ giác vô thượng,
    vì vậy mà được
    danh hiệu Phổ Minh.
    (24-Quốc độ trong sạch,
    25) bồ tát dũng mãnh,
    ai cũng lên ngự
    lầu đài đẹp đẽ,
    bay dạo khắp cả
    mười phương quốc độ,
    đem những cúng phẩm
    giá trị tối thượng
    cung kính hiến lên
    chư Phật Như Lai.
    (26) Hiến cúng thế rồi
    lòng rất hoan hỷ,
    giây lát về lại
    quốc độ của mình:
    thần lực họ có
    đến như thế ấy.
    (27) Phổ Minh Như Lai
    sống lâu đến số
    sáu vạn thời kỳ,
    giáo pháp nguyên chất
    tồn tại gấp đôi
    thì gian sống lâu.
    (28) Giáo pháp tương tự
    lại tồn tại đến
    gấp đôi thì gian
    giáo pháp nguyên chất.
    Và khi giáo pháp
    ẩn mất không còn
    thì cả trời người
    đều rất lo buồn.
    *
    (29) Còn năm trăm vị
    tỷ kheo khác nữa
    đều sẽ tuần tự
    mà thành Phật đà,
    và cùng danh hiệu
    Phổ Minh Như Lai.
    (30) Chư Phật như vậy
    triển chuyển tuần tự
    thọ ký cho nhau,
    rằng khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    vị này kế vị
    làm Phật giáo chủ,
    giáo hóa thế gian
    y như Như Lai
    giáo hóa hiện giờ.
    (31-Đến như quốc độ
    32) đẹp sạch ra sao,
    năng lực thần thông
    quảng đại thế nào,
    thanh văn bồ tát
    nhiều đến bao nhiêu,
    giáo pháp nguyên chất
    giáo pháp tương tự
    cùng với đời sống
    nhiều ít thế nào,
    hết thảy đều như
    ở trên đã nói.
    (33) Này Đại ca Diếp,
    tôn giả đã biết
    về năm trăm vị
    Tâm tự tại rồi,
    còn các vị khác
    trong chúng thanh văn
    tất cả cũng được
    thọ ký như vậy.
    Vị nào vắng mặt
    trong đại hội này,
    tôn giả truyền đạt
    cho vị ấy biết.

  12. #12

    Mặc định

    Năm trăm vị La hán đối trước đức Thế Tôn được thọ ký rồi, hoan hỷ, phấn chấn, tức thì đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài, hối lỗi, tự trách, bằng cách thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con thường có ý nghĩ tự cho đã được niết bàn cuối cùng. Ngày nay mới biết ý nghĩ ấy thật như một kẻ vô trí. Tại sao, vì chúng con phải được tuệ giác của Phật, vậy mà tự cho tuệ giác nhỏ mọn đã là đầy đủ.
    Bạch đức Thế Tôn, ví như có kẻ đến nhà bạn thân, say rượu nằm ngủ. Bấy giờ người bạn sắp đi việc công, nên đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của người ấy. Cho như vậy rồi đi. Người ấy ngủ say, không hay biết gì cả. Tỉnh dậy thì lang thang đến xứ khác. Vì cơm áo mà ra sức làm lụng rất cực nhọc. Và kiếm được chút ít thì tự cho đã đủ. Về sau người bạn thân gặp lại, thấy mà phải kêu lên, quái lạ cho một kẻ nam nhi, sao lại vì cơm áo mà đến nông nỗi này! Trước đây, tôi muốn làm cho anh yên vui sung sướng, mặc ý hưởng thụ năm thứ dục lạc, nên ngày tháng năm ấy, tôi đã đem viên ngọc vô giá buộc vào áo trong của anh. Nay đang còn kia. Sao anh không biết, để phải khó nhọc, lo lắng kiếm cách mới sống. Anh thật khờ dại. Bây giờ anh hãy đem viên ngọc ấy đổi lấy những thứ cần dùng, thì luôn luôn vừa ý, không còn thiếu thốn gì nữa.
    Đức Thế Tôn cũng vậy. Khi ngài làm bồ tát, đã giáo hóa chúng con phát ra chí nguyệnmong cầu tuệ giác của bậc Toàn giác, nhưng chúng con quên ngay, không hay biết gì hết. Được đạo quả La hán là tự cho đã niết bàn, như kẻ kiếm sống cực nhọc nên chỉ được chút ít mà tự cho đã đủ. Trong khi đó chí nguyện về tuệ giác của bậc Toàn giácvẫn còn y nguyên, không mất đi đâu cả. Ngày nay đức Thế Tôn thức tỉnh chúng con, bằng cách dạy rằng, chư vị tỷ kheo, cái mà chư vị được chưa phải niết bàn cuối cùng. Như Lai từ xưa đã dạy cho chư vị gieo trồng gốc rễ điều lành của Phật; chỉ vì phương tiện nên Như Lai nói cái chư vị được là niết bàn, vậy mà chư vị lại cho là thật được niết bàn. Bạch đức Thế Tôn, ngày nay chúng con mới biết mình thật là bồ tát, được nhận lời ghi về tuệ giác vô thượng. Do vậy mà chúng con cùng cực hoan hỷ, được sự chưa từng có.
    Tôn giả Kiều trần Như, và các vị đồng đẳng, lặp lại ý nghĩa đã thưa bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (34) Chúng con nghe được
    âm thanh tối thượng
    của đức Thế Tôn
    an ủi thọ ký,
    lòng rất vui mừng
    được chưa từng có.
    Chúng con chí thành
    kính lạy Thế Tôn,
    một bậc Tuệ giác
    không có giới hạn!
    (35) Ngày nay chúng con
    đối trước Thế Tôn
    xin tự sám hối
    lầm lỗi ngày xưa.
    Vàng ngọc Thế Tôn
    thật là vô lượng,
    chúng con chỉ được
    ít phần niết bàn,
    mà đã in như
    một kẻ vô trí
    tự cho mình được
    đầy đủ cả rồi.
    (36) Như kẻ nghèo nàn
    đến nhà bạn thân.
    Bạn giàu có lớn
    đãi đủ cỗ bàn;
    (37) đem ngọc vô giá
    buộc vào áo trong,
    yên lặng biếu cho
    để đó mà đi,
    trong khi người nghèo
    say ngủ không biết.
    (38) Người nghèo thức dậy
    lang thang xứ khác,
    tìm kiếm cơm áo
    để tự nuôi mình.
    Kiếm sống như vậy
    rất là cực nhọc.
    (39) Và được chút ít
    đã hài lòng rồi,
    không còn ước nguyện
    ưa thích gì nữa.
    Không biết áo trong
    có ngọc vô giá.
    (40) Người bạn cho ngọc
    sau gặp người nghèo,
    trách mắng nghiêm khắc
    rồi chỉ cho anh
    viên ngọc vô giá
    đã buộc áo trong.
    (41) Người nghèo được ngọc
    lòng rất vui thích.
    Viên ngọc làm anh
    giàu có của cải,
    năm thứ dục lạc
    mặc sức thụ hưởng.
    (42) Chúng con cũng vậy.
    Thế Tôn từ xưa
    đã từng thương tưởng
    giáo hóa chỉ dạy,
    gieo vào chúng con
    chí nguyện tối thượng.
    (43) Chúng con vô trí
    không hay không biết;
    chỉ mới đạt được
    ít phần niết bàn,
    đã tự thỏa mãn
    không cầu gì nữa.
    (44) Ngày nay Thế Tôn
    thức tỉnh chúng con:
    cái chúng con được
    chưa thật niết bàn;
    đạt được tuệ giác
    vô thượng của Phật,
    bấy giờ mới là
    niết bàn chân thật.
    (45) Ngày nay chúng con
    từ đức Thế Tôn
    nghe sự huy hoàng
    ngài thọ ký cho,
    nghe sẽ tuần tự
    thọ ký cho nhau,
    thì cả thân tâm
    tràn đầy hoan hỉ.








  13. #13

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch

    Phẩm 9:
    Thọ ký cho các vị tu học tiếp tục

    và tu học hoàn tất
    Lúc ấy các tôn giả A nan Đà và La hầu La đều nghĩ, chúng ta tự xét nếu được đức Thế Tôntrao cho lời ghi thành tựu tuệ giác vô thượng thì thích thú biết bao. Các tôn giả ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước đức Thế Tôn, đầu mặt lạy ngang chân ngài và cùng thưa, bạch đức Thế Tôn, trong việc thọ ký chúng con cũng đáng có phần, chỉ có đức Thế Tôn là đấng chúng con nương tựa. Chúng con được thế giới này, kể cả chư thiên, nhân loại và tu la, ai cũng biết đến. Họ biết A nan Đà con đây thường làm thị giả của đức Thế Tôn, coi giữ kho tàng chánh pháp của ngài; còn La hầu La con đây là con trai của đức Thế Tôn khi ngài chưa xuất gia. Nếu đức Thế Tôn trao cho chúng con lời ghi thành tựu tuệ giácvô thượng, thì ước nguyện của chúng con đã đạt mà ước vọng của các chúng cũng thỏa. Bấy giờ hai ngàn vị đệ tử thanh văn của đức Thế Tônmà sự tu học đang tiếp tục hay đã hoàn tất, cũng đều đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, vai bên phải trần pháp y, cùng đến trước đức Thế Tôn, chuyên chú mà chắp tay chiêm ngưỡng, cùng biểu lộ sự ước nguyện như ước nguyện của các tôn giả A nan Đà và La hầu La, rồi đứng cách một khoảng.
    Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả A nan Đà, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự sáu mươi hai ức chư Phật, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, sau đó thực hiện tuệ giác vô thượng, giáo hóa bồ tát nhiều bằng nhiều ức hằng sa, làm cho thành thục tuệ giác vô thượng.Quốc độ tên là Ngọn cờ siêu việt thường dựng cao lên, toàn cõi trong sạch, đất bằng lưu ly. Thời kỳ tên là Âm thanh tinh túy vang dội khắp cả. Sơn hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Laisống lâu vô số thời kỳ vô số, giả sử có ai tính kể trong ngàn vạn ức thời kỳ vô số cũng không biết được. Giáo pháp nguyên chất tồn tại thế giới gấp đôi thì gian sống lâu, giáo pháp tương tự tồn tạithế giới gấp đôi giáo pháp nguyên chất. A nan Đà, Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Laiđược nhiều ức hằng sa chư Phật ở khắp mười phương cùng nhau ca tụng tán dương thành quảcủa ngài.
    Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Như Lai ngày nay
    nói giữa chư Tăng,
    rằng A nan Đà
    người giữ chánh pháp,
    tương lai phụng sự
    chư vị Phật đà,
    rồi thành một bậc
    Biết đúng và khắp.
    (2) Bậc ấy tên là
    Sơn Hải Tuệ Vương.
    Quốc độ trong sạch
    và có tên là
    Ngọn cờ Siêu việt
    thường dựng cao lên.
    (3) Ngài giáo hóa cho
    chư vị bồ tát
    số lượng nhiều bằng
    cát của sông Hằng.
    Uy đức ngài có
    vô cùng lớn lao,
    danh tiếng vang động
    khắp cả mười phương.
    (4) Vì thương chúng sinh,
    ngài sống vô lượng.
    Giáo pháp nguyên chất
    gấp đôi sống lâu,
    giáo pháp tương tự
    gấp đôi nguyên chất.
    (5) Hằng hà sa số
    vô lượng chúng sinh
    ở trong giáo pháp
    của đức Phật ấy
    gieo trồng nhân tố
    tuệ giác Phật đà.
    Bấy giờ trong đại hội, bồ tát mới phát tâm có tám ngàn vị cùng nghĩ rằng, đến như chư vị đại bồ tát mà chúng ta cũng không nghe thấy được thọ ký như vầy, vì nguyên nhân nào mà chư vị thanh văn lại được phán quyết như vậy? Đức Thế Tôn biết ý nghĩ ấy của các vị bồ tát mới phát tâm nên bảo, chư thiện nam tử, Như Lai cùng với tôn giả A nan Đà, và các vị đồng hàng với tôn giả ấy, đã từng ở nơi đức Không Vương Như Lai, đồng thờiphát ra tâm chí mong cầu tuệ giác vô thượng. Nhưng tôn giả A nan Đà thường thích đa văn, còn Như Lai thường siêng tinh tiến, nên Như Lai thành tựu tuệ giác vô thượng màtôn giả A nan Đà coi giữ kho tàng chánh pháp của Như Lai. Tôn giả ấy cũng coi giữ kho tàng chánh pháp của chư Phật vị lai, giáo hóa tác thành chư vị bồ tát. Bản nguyện tôn giảấy là như vậy nên được thọ ký như trên.
    Tôn giả A nan Đà đối diện đức Thế Tôn, đích thân nghe được lời ghi nhận của ngài trao cho, nghe được sự huy hoàng của quốc độ tương lai của mình, thì ước nguyện thỏa mãn, lòng rất hoan hỷ, được sự chưa từng có, tức khắc nhớ được kho tàng chánh phápcủa nhiều ức chư Phật quá khứ, thông suốt vô ngại như thể hiện tại mới nghe, lại nhớ được cả bản nguyện của mình. Tôn giả thưa đức Thế Tôn với lời chỉnh cú sau đây.
    (6) Thế Tôn quả thực
    cực kỳ hiếm có:
    làm con nhớ lại
    kho tàng chánh pháp
    của vô số Phật
    thuộc thì quá khứ,
    tựa như mới nghe
    trong ngày hôm nay.
    (7) Nay con không còn
    nghi hoặc gì nữa;
    đứng vững ở trong
    tuệ giác Phật đà,
    phương tiện mà làm
    một vị thị giả
    để được coi giữ
    chánh pháp chư Phật.
    Khi ấy đức Thế Tôn bảo tôn giả La hầu La, trong thì vị lai, tôn giả sẽ được thành Phật với danh hiệu Đạp Thất Bảo Hoa Như Lai, đủ mười đức hiệu. Tôn giả sẽ phụng sự chư Phật bằng số vi trần của mười thế giới và, y như đời này, tôn giả thường làm trưởng tử của các ngài. Sự huy hoàng của quốc độ, số lượng thời kỳ của sự sống lâu, đệ tử được giáo hóa, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả điều này của đức Đạp Thất Bảo HoaNhư Lai đều giống như của đức Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, không khác gì cả. Tôn giả cũng sẽ làm trưởng tử của ngài, và qua thì gian ấy rồi sẽ được tuệ giác vô thượng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (8) Thì gian Như Lai
    còn làm thái tử
    thì La Hầu La
    là vị trưởng tử,
    Như Lai thành Phật
    thì La Hầu La
    tiếp nhận chánh pháp
    mà làm pháp tử.
    (9) Trong thì vị lai
    tôn giả gặp được
    vô số ức Phật,
    cũng làm trưởng tử
    chuyên tâm mà cầu
    tuệ giác Phật đà.
    (10) Hạnh nguyện kín đáo
    của La Hầu La,
    chỉ có Như Lai
    mới thấu hiểu được,
    thị hiện mà làm
    trưởng tử Như Lai
    là để khải thị
    cho bao chúng sinh.
    (11) La Hầu La đây
    có vô số lượng
    vạn ức công đức
    không thể tính kể.
    Tôn giả sống trong
    chánh pháp Như Lai
    để cầu đạt được
    tuệ giác vô thượng.
    Đức Thế Tôn lại thấy hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất tâm ý của họ mềm dịu, vắng lặng, trong suốt, chuyên chú nhìn ngài, nên ngài bảo tôn giả A nan Đà, tôn giả thấy hai ngàn vị còn học và học xong này chăng? Con thấy, bạch đức Thế Tôn. A nan Đà, các vị này sẽ phụng sự chư Phật nhiều bằng vi trần của năm chục thế giới, cung kính, tôn trọng, coi giữ kho tàng chánh pháp của các ngài, và cuối cùng thì đồng thời thành Phật ở khắp mười phương quốc độ, với danh hiệu đồng nhất là Bảo Tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu. Lại cùng sống lâu một thời kỳ. Sự tráng lệ của quốc độ, chúng thanh vănvà chúng bồ tát, giáo pháp nguyên chất và tương tự, tất cả cũng đồng đẳng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (12) Hai ngàn thanh văn
    trước Như Lai đây,
    Như Lai phán quyết
    vị lai thành Phật.
    (13) Chư Phật Như Lai
    mà các vị ấy
    sẽ được phụng sự
    thì như vi trần
    mà Như Lai đã
    so sánh ở trên.
    Các vị coi giữ
    kho tàng chánh pháp
    của chư Phật ấy,
    và rồi cuối cùng
    được thành một bậc
    Biết đúng và khắp.
    (14) Tại các quốc độ
    khắp cả mười phương,
    tất cả các vị
    đồng một danh hiệu,
    đồng thời cùng ngồi
    nơi bồ đề tràng,
    để cùng thành tựu
    tuệ giác vôthượng.
    (15-Danh hiệu Bảo Tướng,
    16) quốc độ, đệ tử,
    giáo pháp nguyên chất,
    giáo pháp tương tự,
    tất cả điều này
    đồng đẳng không khác.
    Lại cũng đồng đẳng
    sử dụng thần lực
    giáo hóa cứu độ
    mười phương chúng sinh,
    danh tiếng vang dội
    lan tràn khắp cả,
    và rồi dần dần
    cùng lúc nhập diệt.
    Bấy giờ hai ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất nghe đức Thế Tôn thọ ký cho như vậy, ai cũng hoan hỷ, phấn chấn, cùng nói lời chỉnh cú sau đây.
    (17-Thưa đức Thế Tôn,
    18) Ánh sáng đèn tuệ!
    Chúng con nghe được
    tiếng ngài thọ ký,
    tâm thức chúng con
    tràn ngập hoan hỷ,
    y như được rưới
    với nước cam lộ.

  14. #14

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch


    Phẩm 10:
    Người diễn giảng Pháp Hoa
    Khi ấy đức Thế Tôn qua bồ tát Dược Vương mà nói với tám vạn đại sĩ, Dược Vương, đại sĩ hãy nhìn, đại hội này có vô lượng tám bộ, bốn chúng, những người cầu tuệ giác Thanh văn, cầu tuệ giác Duyên giác hay cầu tuệ giác Phật đà. Các chúng như thế này hiện ở trước Như Lai mà nghe kinh Pháp Hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ có được một ý niệm tùy hỷ mà thôi, Như Laicũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng. Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, nếu có người nào nghe kinh Pháp Hoa, thì dẫu chỉ nghe được một bài chỉnh cú, một câu đủ nghĩa, hay đến nỗi chỉ chỉ có được một ý niệmtùy hỷ mà thôi, Như Lai cũng thọ ký cho tất cả sẽ được tuệ giác vô thượng.
    Nếu có người nào đối với kinh Pháp Hoa, dẫu chỉ một bài chỉnh cú mà thôi, mà biết tiếp nhậnghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng nói cho người, hay sao chép ấn hành...; hoặc đối với cuốn kinh Pháp Hoa mà thôi mà biết kính và nhìn như kính và nhìn Như Lai, hiến cúng bằng các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan, vải lụa bao bọc, kịch nhạc, hay đến nỗi chỉ chắp tay tôn kính, thì Dược Vương, hãy coi những người này như đã phụng sự mười vạn ức chư Phật và thành tựuđại nguyện nơi chỗ các ngài, nguyện thương chúng sinh mà sinh trong loài người này. Dược Vương, nếu ai hỏi người nào vị lai làm Phật, thì nên nói cho họ biết những người này vị lai quyết định làm Phật. Tại sao, vì nếu thiện nam hay thiện nữ nào đối với kinh Pháp Hoa, dầu chỉ một câu đủ nghĩa mà thôi, mà biết tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành...., biết hiến cúng cuốn kinh ấy bằng các loại hoa cho đến chắp taytôn kính, thì người này tất cả thế gian nên chiêm ngưỡng tôn thờ, nên đem đồ hiến cúng Như Laimà hiến cúng. Hãy coi người này như là vị đại bồ tát đang hoàn thành tuệ giác vô thượng, vì thương chúng sinh, nguyện sinh trong loài ngườinày mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Người tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành chỉ một câu kinh Pháp Hoa, hay chỉ hiến cúng cuốn kinh ấy mà đã như vậy, huống chi người tiếp nhận ghi nhớ cho đến sao chép ấn hành được cả bộ kinh ấy và hiến cúng đủ cả. Dược Vương, hãy coi người này như là người tự bỏ cái chỗ kết quả hành vi trong sạch của mình để, sau khi Như Lai nhập diệt, vì thương chúng sinh mà sinh trong thời kỳ dữ dội, diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Lại nữa, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữtrên đây nếu có thể kín đáo nói cho một người về kinh Pháp Hoa, thì dầu chỉ nói được một câu đủ nghĩa mà thôi, cũng nên coi người ấy là sứ giả của Như Lai, được Như Lai phái đến để làm công việc của Như Lai. Kín đáo nói kinh Pháp Hoa cho một người và chỉ nói được một câu mà còn như vậy, huống chi có thể công khai ở giữa công chúng mà nói cho mọi người một cách rộng rãi về kinh ấy.
    Dược Vương, nếu có kẻ độc ác đem tâm độc ác, suốt một thời kỳ đối diện xúc phạmNhư Lai mãi, tội của kẻ ấy vẫn nhẹ. Nếu có kẻ đem một lời độc ác mà thôi mà phỉ bángngười đọc xét văn nghĩa hay tụng được thuộc lòng kinh Pháp Hoa, thì không kể người đọc tụng ấy tại gia hay xuất gia, tội của kẻ này mới rất nặng. Dược Vương, ai đọc xét văn nghĩa hay tụng được thuộc lòng kinh Pháp Hoa thì nên coi người ấy đem trang phục của Như Lai mà trang sức cho mình. Người ấy được Như Lai đem vai mang vác. Người ấy đến đâu thì nên hướng theo mà thi lễ, nên chuyên chú chắp tay mà cung kính hiến cúng tôn trọng tán dương, nên đem các loại hoa, vòng hoa, các hương liệu, lọng dù, tràng phan, y phục, cỗ bàn, diễn tấu kịch nhạc, nói tóm, nên đem đồ hiến cúng thượng hạng trong loài người mà hiến cúng; nên đem ngọc của chư thiên mà tung rải, cả đống ngọc thượng hạng của chư thiên cũng nên đem ra mà phụng hiến. Tại sao, vì người ấyhoan hỷ diễn giảng Pháp Hoa thì nghe trong chốc lát cũng mau được trọn vẹn tuệ giácvô thượng.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây:
    (1) Muốn đặt mình vào
    đường đi của Phật
    để được thành đạt
    tuệ giác tự nhiên
    thì phải thường xuyên
    nỗ lực hiến cúng
    những người tiếp nhận
    kính giữ Pháp Hoa.
    (2) Những ai ước muốn
    mau chóng đạt được
    tuệ Biết tất cả
    thì phải tiếp nhận
    ghi nhớ Pháp Hoa,
    và nên hiến cúng
    những người tiếp nhận
    kính giữ kinh ấy.
    (3) Người nào có thể
    tiếp nhận kính giữ
    kinh Pháp Hoa này,
    thì hãy nên coi
    người ấy chính là
    Như Lai phái đến,
    vì thương chúng sinh
    mà giảng kinh này.
    (4) Người nào có thể
    tiếp nhận kính giữ
    kinh Pháp Hoa này,
    thì hãy coi là
    người tự rời bỏ
    quốc độ trong sạch,
    vì thương chúng sinh
    mà sinh ở đây.
    (5) Thì hãy nên coi
    người ấy là người
    đã được tự tại
    chỗ họ muốn sinh,
    có thể sinh trong
    thời kỳ dữ dội
    mà nói rộng rãi
    Pháp Hoa tối thượng.
    (6) Nên đem hoa hương
    cùng với y phục
    của hàng chư thiên,
    lại đem cả đống
    ngọc đẹp thượng hạng
    cũng của chư thiên,
    mà hiến cho người
    diễn giảng Pháp Hoa.
    (7) Sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    trong thời dữ dội
    người nào có thể
    tiếp nhận kính giữ
    kinh Pháp Hoa này,
    thì ai cũng nên
    chắp tay kính lạy,
    in như tôn kính
    đối với Như Lai.
    (8) Cỗ bàn thượng hạng
    vật thực cam mỹ
    y phục đủ loại
    đều đem hiến cúng
    con Phật như vậy,
    và mong chốc lát
    được nghe người ấy
    diễn giảng Pháp Hoa.
    (9) Thời dữ sau này
    ai có năng lực
    tiếp nhận kính giữ
    kinh Pháp Hoa này,
    người ấy là người
    Như Lai phái đến
    trong loài người này
    làm việc Như Lai.
    (10) Suốt một thời kỳ
    thường mang ác ý
    xúc phạm Như Lai
    thì tội vô lượng.
    (11) Nhưng có người nào
    đọc xét văn nghĩa
    tụng được thuộc lòng
    kính giữ Pháp Hoa,
    mà trong chốc lát
    đem lời độc ác
    đổ vào người ấy,
    thì tội kẻ này
    hơn cả kẻ ác
    xúc phạm Như Lai.
    (12) Có người cầu mong
    tuệ giác Phật đà,
    cho nên trải qua
    trọn một thời kỳ,
    đứng trước Như Lai
    chắp tay tán dương
    bằng vô số lượng
    bài văn chỉnh cú.
    (13) Tán dương như vậy
    được phước vô cùng,
    nhưng ai tán thưởng
    người giữ Pháp Hoa,
    thì phước họ được
    hơn cả người kia.
    (14-Trải qua thời kỳ
    15) đến tám mươi ức,
    đem cả sắc thanh
    hương vị và xúc
    loại quí trọng nhất,
    hiến cúng cho người
    kính giữ Pháp Hoa,
    và hiến cúng rồi
    được nghe chốc lát
    người ấy diễn giảng
    kinh Pháp Hoa này,
    thì nên tự mừng
    rằng mình nhận được
    ích lợi lớn lao.
    Dược Vương đại sĩ,
    ngày nay Như Lai
    tuyên cáo rõ ràng
    để chư vị biết:
    bao nhiêu kinh pháp
    Như Lai tuyên thuyết,
    trong kinh pháp ấy
    Pháp Hoa hơn cả.
    Khi ấy đức Thế Tôn lại bảo Dược Vương đại sĩ, bao nhiêu kinh pháp của Như Lai tuyên thuyết, đã tuyên thuyết đang tuyên thuyết và sẽ tuyên thuyết, có đến hàng vạn hàng ức. Nhưng trong tất cả kinh pháp ấy, kinh Pháp Hoa này rất khó tin khó hiểu. Dược Vương, kinh này là kho tàng bí yếu của chư Phật, không thể bủa ra mà trao cho người một cách bừa bãi. Kinh này chư Phật giữ gìn, từ trước đến nay Như Lai chưa hề nói đến một cách minh bạch. Như Lai đang còn mà kinh này vẫn bị nhiều kẻ oán ghét,
    huống chi sau khi Như Lai nhập diệt. Cho nên Dược Vương, đại sĩ nên biết, sau khi Như Lai nhập diệt, đối với kinh Pháp Hoa, ai có năng lực sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, tôn kính hiến cúng, giảng nói cho người..., thì người ấy được Như Lai đem pháp y mà che phủ, lại được chư Phật hiện tại ở các quốc độ khác cùng giữ gìn cho, nên người ấy có được sức mạnh của đức tin vĩ đại, sức mạnh của chí nguyện, và sức mạnh của các gốc rễ pháp lành. Nên biết người ấy cư ngụcùng tăng xá với Như Lai, được Như Lai đưa tay xoa đầu.
    Dược Vương, bất cứ chỗ nào có diễn giảng, có đọc tụng, có sao chép đối với kinh Pháp Hoa, có đặt để cuốn kinh ấy, thì những chỗ như vậy nên xây dựng ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu rất cao, rộng và đẹp, mà không cần tôn trí xá lợi vào trong ngôi tháp ấy, vì trong ngôi tháp ấy đã có toàn thân của Như Lai. Ngôi tháp ấy nên đem các loại hoa, vòng hoa, hương liệu, lọng dù, tràng phan, kịch nhạc và thi ca mà hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dương. Ai thấy ngôi tháp ấy mà biết lễ bái hiến cúng, thì người này phải được coi là đến gần tuệ giác vô thượng.
    Dược Vương, nhiều người, tại gia có xuất gia có, đi theo đường đi của bồ tát mà không được thấy nghe, đọc tụng, sao chép, ghi nhớ và hiến cúng kinh Pháp Hoa, thì nên biết những người ấy chưa khéo đi theo đường đi của bồ tát. Nếu được thấy nghe cho đếnhiến cúng kinh này mới là khéo đi theo đường đi của bồ tát. Những người cầu tuệ giácPhật đà mà thấy nghe kinh Pháp Hoa, thấy nghe rồi tin tưởng, lý giải, tiếp nhận, ghi nhớ, thì nên biết những người ấy đã được đến gần tuệ giác vô thượng. Dược Vương, ví nhưcó người đang khát, cần nước, nên ở chỗ cao nguyên đào đất mà tìm. Đào mà còn thấy đất khô thì biết nước còn xa. Ra công liên tục, dần dần thấy đất ướt rồi thấy đất bùn, thì lòng họ biết chắc đã gần đến nước. Bồ tát cũng vậy, chưa nghe, chưa hiểu, chưa được tu tập Pháp Hoa, thì nên biết người này còn cách xa tuệ giác vô thượng; nếu nghe, hiểu, tư duy và tu tập được Pháp Hoa, thì nên biết chắc chắn đã đến gần tuệ giác vô thượng. Tại sao, vì tuệ giác vô thượng của hết thảy bồ tát tìm cầu đều ở trong Pháp Hoa. Pháp Hoa mở cửa phương tiện mà chỉ tính chân thật. Kho tàng Pháp Hoa sâu, chắc, kín và xa, không ai thấu được. Như Lai ngày nay vì giáo hóa tác thành cho các vị bồ tát mới mở ra, chỉ cho. Dược Vương, nếu bồ tát nghe Pháp Hoa mà kinh sợ ngờ vực, thì nên biết đó là bồ tát mới phát tâm chí; còn thanh văn nghe Pháp Hoa mà kinh sợ ngờ vực, thì nên biết đó là kẻ tăng thượng mạn.
    Dược Vương, sau khi Như Lai nhập diệt, thiện nam hay thiện nữ nào muốn diễn giảng Pháp Hoa cho bốn chúng, thì phải làm sao mới nên diễn giảng? Dược Vương, thiện namhay thiện nữ ấy phải vào nhà của Như Lai, mặc áo của Như Lai và ngồi chỗ của Như Lai; phải như vậy mới nên diễn giảng Pháp Hoa cho bốn chúng một cách phong phú. Nhà của Như Lai là lòng đại từ bi đối với hết thảy chúng sinh. Áo của Như Lai là đức tính ôn hòa nhẫn nhục. Chỗ của Như Lai là nguyên lý Không của tất cả các pháp. Đặt mình vững vàng vào trong ba pháp như vậy, sau đó mới đem sự không biếng nhác mà diễn giảng một cách phong phú về Pháp Hoa cho chư vị bồ tát và tất cả bốn chúng. Dược Vương, Như Lai dẫu ở thế giới khác, vẫn phái những vị biến hóa tập hợp thính chúngcho người ấy, lại phái bốn chúng biến hóa đến nghe người ấy diễn giảng Pháp Hoa. Bốn chúng biến hóa này nghe Pháp Hoa của người ấy diễn giảng thì tin nhận, thích ứng, chứ không chống nghịch. Người ấy ở chỗ trống vắng, thì Như Lai phái đông đảo tám bộ đến nghe người ấy diễn giảng Pháp Hoa. Như Lai tuy ở thế giới khác mà thường thường làm cho người ấy được thấy thân Như Lai. Đối với Pháp Hoa, người ấy quên mất câu nào đoạn nào, thì Như Lai nói cho nhớ lại hoàn hảo.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (16) Hãy bỏ biếng nhác
    mà nghe Pháp Hoa.
    Pháp Hoa khó có
    cơ hội được nghe,
    nghe mà tin nhận
    cũng là khó có.
    (17-Như khát cần nước,
    18) đào đất cao nguyên.
    Đào thấy đất khô
    biết nước còn xa.
    (19) Đào tiếp thấy được
    đất ướt rồi bùn,
    thì biết chắc chắn
    nước đã gần đến.
    (20) Dược Vương đại sĩ,
    ví dụ như vậy
    để biết những người
    không nghe Pháp Hoa
    thì còn cách xa
    tuệ giác Phật đà.
    (21) Người nào nghe được
    kinh sâu xa này
    _ bản kinh xác quyết
    cho các thanh văn,
    bản kinh chúa tể
    của các kinh pháp _
    nghe rồi tư duy
    một cách chắc chắn;
    (22) đại sĩ nên biết
    người như thế này
    đã được đến gần
    tuệ giác Phật đà.
    (23) Người nào chí nguyện
    diễn giảng Pháp Hoa,
    người ấy cần phải
    vào nhà Như Lai
    mặc áo Như Lai
    ngồi chỗ Như Lai,
    thì giữa công chúng
    không sợ gì nữa,
    phân tích rộng rãi
    cho họ kinh này.
    (24) Nhà của Như Lai
    là đại từ bi,
    áo của Như Lai
    là đức nhẫn nhục,
    chỗ của Như Lai
    là các pháp Không.
    Hãy đặt mình vào
    trong ba pháp ấy
    mà nói Pháp Hoa
    cho cả mọi người.
    (25) Khi nói Pháp Hoa,
    nếu có những kẻ
    độc miệng mắng nhiếc
    dao chém gậy đánh
    ngói ném đá liệng,
    thì người ấy nên
    nghĩ đến Như Lai
    và cần nhẫn nhịn.
    (26) Như Lai ở tại
    vạn ức quốc độ,
    biểu hiện cái thân
    trong suốt cứng chắc,
    trải qua vô số
    vạn ức thời kỳ,
    tuyên thuyết chánh pháp
    cho các chúng sinh.
    (27-Tại quốc độ này,
    28) sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    ai có năng lực
    diễn giảng Pháp Hoa,
    thì Như Lai phái
    bốn chúng biến hóa
    là các tỷ kheo
    và tỷ kheo ni
    cùng với nam nữ
    đức tin trong sáng,
    cùng đến hiến cúng
    người diễn giảng ấy,
    lại còn hướng dẫn
    bao nhiêu người khác
    đến nghe Pháp Hoa.
    (29) Kẻ nào muốn hại
    người giảng Pháp Hoa,
    sử dụng dao gậy
    cùng với ngói đá,
    thì Như Lai phái
    những vị biến hóa
    làm người hộ vệ
    hộ vệ người ấy.
    (30) Người ấy một mình
    ở chỗ trống vắng
    không có tiếng người,
    đọc xét văn nghĩa
    tụng được thuộc lòng
    về kinh Pháp Hoa,
    (31) Như Lai bấy giờ
    hiện thân trong sáng;
    người ấy nếu quên
    câu nào đoạn nào,
    Như Lai nói cho
    được thông suốt cả.
    (32) Người ấy đủ hết
    ba pháp nói trên,
    thì giảng Pháp Hoa
    cho cả bốn chúng,
    hay ở chỗ vắng
    đọc tụng Pháp Hoa,
    đều được nhìn thấy
    thân thể Như Lai.
    (33) Và khi người ấy
    ở chỗ trống vắng,
    thì Như Lai phái
    chư thiên long vương
    cùng với dạ xoa
    và các bộ khác
    đến với người ấy
    làm người nghe pháp.
    (34) Người ấy thích thú
    diễn giảng Pháp Hoa,
    phân tích rành rẽ
    không có vướng mắc,
    là vì thường được
    chư Phật giữ gìn,
    cho nên làm cho
    các chúng hoan hỷ.
    (35) Những ai gần gũi
    pháp sư như vậy
    thì chóng trở thành
    những vị bồ tát,
    tùy thuận mà học
    pháp sư như vậy
    thì sẽ gặp được
    hằng sa Phật đà.

  15. #15

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch


    Phẩm 11:
    Bảo tháp xuất hiện
    Vào lúc bấy giờ, trước đức Thế Tôn, một ngôi bảo tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao năm trăm do tuần, chu vi hai trăm năm chục do tuần, từ đất vọt lên, đứng trong không gian. Bảo thápđược trang hoàng bằng đủ thứ bảo vật. Có năm ngàn lan can và hàng ngàn hàng vạn khám thất. Trang hoàng bằng vô số cờ phan, và mắc rũ xuống là những vòng hoa ngọc. Chuông nhỏ quí báu thì có cả vạn ức, cũng được treo lên. Mọi phía bảo tháp đều phát ra hơi thơm đàn hương, tỏa khắp thế giới này. Bảo cái có mắc phan phướn thì do bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, chân châu và mai khôi, bảy chất liệu quí báu như vậy kết hợp tạo thành, và cao đến cung trời Tứ thiên vương. Chư thiên của tầng trời Đao lợi thì rưới hoa mạn đà của chư thiên mà hiến cúng bảo tháp. Tám bộ và ngàn ức chúng khác cũng hiến cúng, cung kính, tôn trọng và tán dươngbảo tháp bằng các loại hoa, hương liệu, vòng hoa, cờ phan, lọng dù và kịch nhạc.
    Từ trong bảo tháp xuất ra âm thanh rất lớn, tán dương rằng tốt lắm, thưa đức Thích Ca Thế Tôn, ngài có thể tuyên thuyết cho đại hội các chúng như thế này về kinh Pháp Hoa của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Thật đúng như vậy, thưa đức Thích Ca Thế Tôn; những điều ngài tuyên thuyết toàn là chân thật.
    Bấy giờ bốn chúng đã thấy bảo tháp vĩ đại đứng trong không gian, lại nghe âm thanh xuất ra từ bảo tháp ấy, thì ai cũng được sự vui đẹp về chánh pháp, và ngạc nhiên thấy là sự chưa từng có, nên cùng đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, cung kính chắp tay mà đứng mãi với một tư thế ấy. Lúc này có vị đại sĩ danh hiệu là Đại lạc Thuyết, biết sự hoài nghi của chư thiên, nhân loại, tu la, và bao chúng khác trong thế giới này, nên thưa đức Thích Ca Thế Tôn, rằng bạch ngài, vì lý donào mà ngôi bảo tháp như vầy từ đất vọt lên, và trong đó phát ra âm thanh vừa rồi? Đức Thế Tônbảo, Đại lạc Thuyết, trong ngôi bảo tháp này có toàn thân của một đức Phật đà. Thì quá khứ, ở phương dưới, trong nhiều con số vô số quốc độ, có một quốc độ tên là Bảo tịnh. Quốc độ ấy cóđức Phật giáo chủ danh hiệu là Đa Bảo Phật đà. Khi còn đi trên đường đi của bồ tát, đức Đa Bảo Phật đà có phát lời nguyện trọng đại, nguyện rằng nếu được trở thành Phật đà thì sau khi nhập diệt, trong mười phương quốc độ, chỗ nào có Phật nói kinh Pháp Hoa, bảo tháp của Như Lai cũng sẽ xuất hiện trước chỗ ấy để nghe kinh ấy, và làm chứng cho kinh ấy bằng cách tán dương rằng tốt lắm. Khi thành Phật đà rồi, lúc sắp nhập diệt, đức Đa Bảo Phật đà ở giữa đại hội chư thiên nhân loại mà tuyên cáo chư vị tỷ kheo, rằng khi Như Lai nhập diệt rồi, ai muốn hiến cúng toàn thân của Như Lai thì nên chung nhau xây dựng một ngôi bảo tháp cho vĩ đại. Rồi đức Đa Bảo Phật đà vận dụng sức mạnh thần thông và sức mạnh đại nguyện, bất cứ chỗ nào trong mười phương quốc độcó Phật tuyên thuyết Pháp Hoa, bảo tháp của ngài cũng vọt lên, xuất hiện ở trước, và toàn thân của ngài ở trong bảo tháp tán dương rằng tốt lắm. Đại lạc Thuyết, hôm nay đức Đa Bảo Phật đà nghe Như Lai tuyên thuyết Pháp Hoa, nên bảo tháp của ngài từ đất vọt lên mà tán dương rằng tốt lắm.
    Đại lạc Thuyết đại sĩ, lúc ấy, do thần lực của đức Thế Tôn nên thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, chúng con ước muốn được nhìn thấy toàn thân của đức Đa Bảo Phật đà. Đức Thế Tôn bảo, Đại lạc Thuyết, đức Đa Bảo Phật đà còn có lời nguyện sâu xa và trọng đại nữa, nguyện rằng khi bảo tháp của Như Lai xuất hiện trước các đức Phật để nghe Pháp Hoa, nếu đức Phật nào muốn đem toàn thân của Như Lai chỉ cho bốn chúng, thì chư Phật phân thân của đức Phật ấy đang thuyết pháp giáo hóa ở khắp mười phương quốc độđều qui tụ lại một chỗ, bấy giờ toàn thân của Như Lai mới xuất hiện. Đại lạc Thuyết, chư Phật phân thân của Như Lai hiện đang thuyết pháp giáo hóa ở mười phương quốc độ, hôm nay Như Lai cũng nên chiêu tập. Đại lạc Thuyết đại sĩ thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng ước muốn được nhìn thấy chư Phật phân thân của đức Thế Tôn để lễ bái, hiến cúng.
    Khi ấy đức Thế Tôn liền phóng một đường ánh sáng của tướng lông trắng, chiếu qua hướng đông. Cả đại hội tức thì thấy được chư Phật của cực nhiều hằng sa quốc độ ở hướng ấy. Các quốc độ này toàn là đất bằng pha lê, với những cây ngọc được trang hoàng bằng những dải vải đẹp. Vô số ngàn vạn ức bồ tát tràn đầy trong mỗi quốc độ, và được giăng khắp lên trên là những màn và lưới đính kết các thứ ngọc. Cả đại hội ai cũng nghe thấy chư Phật ở các quốc độ ấy thuyết pháp bằng âm thanh cực kỳ tinh túy, nghe thấy vô số ngàn vạn ức bồ tát khắp trong mỗi quốc độ cũng thuyết pháp cho các chúng. Hướng đông như vậy thì các hướng tây nam bắc, bốn góc và trên dưới, hướng nào ánh sáng của tướng lông trắng cũng chiếu đến, và cả đại hội ai cũng nghe thấy như đã nghe thấy về hướng đông.
    Chư Phật phân thân ở mười phương hướng đều bảo các vị bồ tát, chư thiện nam tử, Như Lai nay nên đến quốc độ Kham nhẫn, chỗ đức Thích Ca Thế
    Tôn, để hiến cúng ngài và hiến cúng bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà. Bấy giờ quốc độKham nhẫn tức thì biến thành sạch sẽ, đất bằng lưu ly, cây ngọc trang trí, hoàng kim làm dây phân ranh tất cả đường sá thành những đường ngã tám. Không có thôn xóm, làng mạc, thành phố, thị trấn, sông biển, khe suối, núi non, rừng rú. Đốt lên hương liệu rất quí, và hoa mạn đà bủa khắp mặt đất. Màn lưới đính kết các thứ ngọc thì dăng che ở trên, và mắc vào đó còn có những cái chuông nhỏ quí báu. Chỉ để lại đại hội các chúng này, còn bao nhiêu nhân loại và chư thiên đều dời để ở quốc độ khác.
    Bấy giờ chư Phật phân thân ngài nào cũng đem theo một vị đại bồ tát mà làm thị giả, cùng đến quốc độ Kham nhẫn này, và bước đến dưới các cây ngọc. Mỗi cây ngọc cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả đều có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc đều có một tòa sư tử, cao năm do tuần và trang sức bằng ngọc lớn. Chư Phật phân thân mỗi ngài ngồi xếp bằng trên một tòa sư tử ấy. Lần lượt như vậy, đầy cả đại thiên thế giới này mà chư Phật phân thân tại một phương hướng của đức Thích Ca thế tôn vẫn chưa hết.
    Đức Thích Ca Thế Tôn muốn đủ chỗ ngồi cho chư Phật phân thân, nên cả tám phương hướng, mỗi phương hướng biến hai trăm vạn ức trăm triệu quốc độ thành quốc độ sạch sẽ, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh và tu la. Nhân loại và chư thiên cũng được dời để ở quốc độ khác. Tất cả quốc độ đã biến thành quốc độ sạch sẽ này cũng lấy lưu lylàm đất và trang trí bằng cây ngọc. Cây ngọc cũng cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả cũng có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc cũng có một tòa sư tử cao năm do tuần, trang trí bằng các thứ ngọc. Cũng không có sông biển, không có núi Mục chân và Đại mục chân, núi Thiết vi và Đại thiết vi, núi Tu di và những núi lớn cùng loại. Suốt cả một ngàn sáu trăm vạn ức trăm triệu quốc độ ấy thành một cõi Phật, đất ngọc bằng thẳng. Che khắp lên trên là những màn được đính kết các thứ ngọc một cách xen nhau và bủa ra. Bảo cái có phan phướn được treo lên. Đốt lên hương liệu rất quí. Các loại hoa quí của chư thiên rải khắp mặt đất.
    Để đủ chỗ ngồi cho chư Phật phân thân sẽ đến nữa, nên cả tám phương hướng, mỗi phương hướng đức Thích Ca Thế Tôn lại biến thêm hai trăm vạn ức trăm triệu quốc độnữa, cũng thành quốc độ sạch sẽ, cũng không có địa ngục ngạ quỉ súc sinh và tu la. Bao nhiêu nhân loại và chư thiên cũng được dời để ở quốc độ khác. Tất cả quốc độ đã biến thành quốc độ sạch sẽ lần này cũng lấy lưu ly làm đất, cũng trang trí bằng cây ngọc. Cây ngọc cũng cao năm trăm do tuần, nhánh lá hoa quả cũng có thứ tự và rất đẹp. Dưới mỗi cây ngọc cũng có một tòa sư tử cao năm do tuần, trang trí bằng ngọc lớn. Cũng không có sông biển, không có núi Mục chân và Đại mục chân, núi Thiết vi và Đại thiết vi, núi Tu di và những núi lớn cùng loại. Suốt cả một ngàn sáu trăm vạn ức trăm triệu quốc độ này, cùng với số ấy ở trước, thành một cõi Phật, đất ngọc bằng thẳng. Che khắp lên trên cũng là những màn được đính kết các thứ ngọc một cách xen nhau và bủa ra. Bảo cáicó phan phướn cũng được treo lên. Cũng đốt lên hương liệu rất quí. Và các loại hoa quí của chư thiên cũng được rải khắp mặt đất.
    Lúc ấy phân thân của đức Thích Ca Thế Tôn ở hướng đông, tức chư Phật giáo chủ tại các quốc độ nhiều bằng cực nhiều hằng sa thuộc hướng ấy, ngài nào cũng hiện đang thuyết pháp giáo hóa ở quốc độ của mình, và bấy giờ cùng đến qui tụ ở quốc độ Kham nhẫn này. Lần lượt như vậy, chư Phật phân thân ở mười phương hướng đều đến qui tụ, ngồi vào tám phương hướng. Tám phương hướng này, bấy giờ mỗi phương hướng có đến bốn trăm vạn ức trăm triệu quốc độ, và chư Phật phân thân ngồi đầy trong đó. Ngài nào cũng ngồi trên tòa sư tử ở dưới cây ngọc, cùng phái vị đại bồ tát thị giả đến vấn an đức Thích Ca Thế Tôn. Các ngài cầm mà đưa hoa ngọc cho các vị ấy bưng đầy hai tay, bảo rằng Thiện nam tử, hãy đến Linh sơn, chỗ đức Thích Ca Thế Tôn, thưa với ngài đúng như lời của Như Lai, rằng đức Thế Tôn ít bịnh ít phiền, khí lực yên vui chăng, các chúng thanh văn và bồ tát yên ổn cả chăng. Hãy rải hoa ngọc này mà hiến cúng ngài, và bạch rằng đức Thế Tôn của con danh hiệu như vậy, muốn được cùng đức Thế Tôn mở cửa bảo tháp của đức Đa Bảo Phật đà. Tất cả chư Phật phân thân cũng phái vị đại bồ tátvới phong cách như vậy.
    Khi ấy đức Thích Ca Thế Tôn thấy chư Phật phân thân đã qui tụ, cùng ngồi trên tòa sư tử, lại nghe chư Phật ấy muốn được cùng mở cửa bảo tháp, nên ngài đứng dậy, rời khỏi pháp tòa, đứng trong không gian. Tất cả bốn chúng, vốn đã đứng lên và chắp tay, bây giờ chăm chú mà nhìn đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn liền dùng ngón tay bên phải mở cửa bảo tháp làm bằng bảy chất liệu quí báu, làm phát ra âm thanh lớn như cửa thành lớn được tháo khóa chốt mà mở ra. Tức thì toàn thể đại hội các chúng đều được thấy đức Đa Bảo Phật đà ngồi trong bảo tháp, trên tòa sư tử, toàn thân không rã, y như đang nhập thiền định. Cả đại hội lại được nghe lời của đức Đa Bảo Phật đà nói, rằng tốt lắm, thưa đức Thích Ca Thế Tôn, ngài đã tuyên thuyết một cách thích thú về kinh Pháp Hoa. Tôi đến đây là để nghe kinh ấy.
    Bốn chúng cùng bao bộ chúng khác, nghe thấy đức Phật nhập diệt hàng ức thời kỳ rồi mà nói như vậy thì ai cũng ca tụng là sự chưa từng có. Cả khối hoa quí của chư thiênđược họ đem tung rải trên đức Đa Bảo Phật đà và đức Thích Ca Thế Tôn. Còn đức Đa Bảo Phật đà thì ở trong bảo tháp để một nửa pháp tòa của mình nhường cho đức Thích Ca Thế Tôn mà nói rằng thưa ngài, mời ngài đến ngồi ở đây. Tức thì đức Thích Ca Thế Tôn vào trong bảo tháp, ngồi trên một nửa pháp tòa, cũng theo cách ngồi xếp bằng. Cả đại hội các chúng thấy hai ngài cùng ngồi xếp bằng trên pháp tòa sư tử ở trong bảo tháp, thì nghĩ rằng hai ngài ngồi cao xa quá, xin đức Thế Tôn dùng sức mạnh thần thông mà làm cho chúng con cũng được lên ở trên không gian. Tức thì đức Thích Ca Thế Tôndùng sức mạnh thần thông mà tiếp cả đại hội các chúng cùng lên ở trên không gian, rồi đem âm thanh vĩ đại mà phổ cáo bốn chúng, rằng ai là người có thể ở trong quốc độKham nhẫn này mà giảng nói rộng rãi về kinh Pháp Hoa, thì bây giờ chính là lúc nên nói ra. Như Lai không bao lâu nữa sẽ nhập niết bàn. Như Lai muốn có người để phó thác kinh Pháp Hoa này.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Đa Bảo Phật đà,
    vị chúa thánh triết
    nhập diệt từ lâu,
    thân ở trong tháp,
    mà vì chánh pháp
    còn hiện đến đây.
    Như vậy các người
    bởi lý do gì
    không vì chánh pháp
    mà cố nỗ lực?
    (2) Đa Bảo Phật đà
    nhập diệt đến nay
    thì gian đã có
    vô số thời kỳ,
    còn hiện khắp chỗ
    để nghe Pháp Hoa,
    như thế là vì
    Pháp Hoa khó gặp.
    (3) Ngài vốn phát nguyện:
    nhập niết bàn rồi,
    Như Lai vẫn đến
    tất cả mọi chỗ
    để được thường xuyên
    nghe nói Pháp Hoa.
    (4) Và vô số Phật
    nhiều bằng hằng sa,
    vốn do Như Lai
    phân thân biểu hiện,
    cũng đến nơi này
    để nghe Pháp Hoa
    và để yết kiến
    Đa Bảo Phật đà.
    (5) Các ngài rời bỏ
    quốc độ tốt đẹp,
    các chúng đệ tử,
    tám bộ thiên long,
    bao sự hiến cúng,
    muốn làm chánh pháp
    tồn tại lâu dài
    nên cùng đến đây.
    (6) Để có đủ chỗ
    chư Phật ngự tọa,
    Như Lai vận dụng
    sức mạnh thần thông,
    di chuyển vô lượng
    các loại chúng sinh,
    biến quốc độ này
    sạch sẽ rộng lớn.
    (7) Chư Phật đi đến
    dưới mỗi cây ngọc,
    trông như hoa sen
    làm đẹp hồ sạch.
    (8) Những tòa sư tử
    dưới mỗi cây ngọc,
    chư Phật ngự tọa
    thì sáng đẹp ra,
    tựa như đêm tối
    đuốc lớn đốt lên.
    (9) Thân của chư Phật
    phát ra hương thơm
    tỏa khắp quốc độ
    trong cả mười phương,
    làm cho chúng sinh
    cùng được xông cả,
    và lòng say sưa
    không tự chủ nổi,
    như nhánh cây nhỏ
    được thổi gió lớn.
    Bao nhiêu phong cách
    phương tiện như vậy
    để làm chánh pháp
    tồn tại lâu dài.
    *
    (10) Như Lai phổ cáo
    toàn thể các chúng,
    rằng khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    những ai có thể
    kính giữ Pháp Hoa
    bằng mọi pháp hạnh,
    trong đó gồm có
    nghiên cứu, diễn giảng....,
    thì ngày hôm nay
    đối trước Như Lai
    hãy tự phát nguyện.
    (11) Đa Bảo Phật đà
    tuy đã nhập diệt
    từ lâu lắm rồi,
    mà do đại nguyện
    vẫn phát âm thanh
    như sư tử gầm,
    chứng minh ca tụng
    Diệu pháp Liên hoa.
    (12) Đức Đa Bảo ấy,
    cùng với Như Lai,
    chư Phật phân thân
    sẽ cùng chứng biết
    cho ý nguyện ấy
    của những con Phật.
    Vậy những con Phật
    ai kính giữ được
    Diệu pháp Liên hoa,
    hãy phát đại nguyện
    nguyện làm pháp ấy
    tồn tại lâu dài.
    (13) Ai có năng lực
    kính giữ Pháp Hoa
    thì thế là đã
    hiến cúng Như Lai;
    cùng với hiến cúng
    Đa Bảo Phật đà_
    một đức Phật đà
    ở trong tháp rồi
    vẫn đến mười phương
    chỉ vì Pháp Hoa.
    (14) Cũng là hiến cúng
    chư Phật phân thân _
    những đấng làm cho
    tráng lệ huy hoàng
    hết thảy quốc độ
    khắp cả mười phương.
    (15) Ai có năng lực
    diễn giảng Pháp Hoa,
    thì thế tức là
    thấy được Như Lai,
    thấy đức Đa Bảo
    thấy Phật phân thân.
    (16) Chư thiện nam tử,
    hãy suy nghĩ kỹ.
    Đây là trách vụ
    rất là khó khăn
    mà các người nên
    phát nguyện đảm nhận.
    *
    (17) Hằng sa kinh điển
    ngoài kinh Pháp Hoa,
    diễn giảng hết cả
    chưa đủ là khó;
    (18) đón núi Tu di
    ném qua vô số
    thế giới hướng khác
    cũng chưa đủ khó;
    (19) chỉ dùng ngón chân
    mà hất đại thiên
    văng xa cõi khác
    cũng chưa đủ khó;
    (20) trên đỉnh hiện hữu
    đứng đó nói cho
    tất cả bộ chúng
    về các kinh khác
    nhiều đến vô lượng
    cũng chưa đủ khó;
    (21) sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    ở trong thời kỳ
    dữ dội đáng sợ,
    nói được Pháp Hoa
    như vậy mới khó.
    (22) Giả sử có người
    nắm được hư không
    mà đem đi dạo
    cũng chưa đủ khó;
    (23) sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    sao chép ấn hành
    giữ cho còn mãi
    Diệu pháp Liên hoa,
    và khuyên người khác
    cũng làm tương tự,
    như vậy mới khó.
    (24-Đem cả địa cầu
    25) để trên móng chân
    vọt lên Phạn thiên
    cũng chưa đủ khó;
    (26) sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    trong thời kỳ dữ
    học được một lúc
    kinh Pháp Hoa này,
    như vậy mới khó.
    (27) Gánh vác cỏ khô
    vào lửa hoại kiếp
    mà không bị cháy
    cũng chưa đủ khó;
    (28) sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    ai giữ Pháp Hoa
    kín đáo giảng được
    cho một người thôi,
    như vậy mới khó.
    (29) Kho tàng chánh pháp
    đến tám vạn tư,
    và bao kinh pháp
    mười hai thể loại,
    nếu ghi nhớ hết
    và giảng cho người,
    (30) làm cho người nghe
    được sáu thần thông,
    dẫu là như vậy
    cũng chưa đủ khó;
    (31) sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    đối với Pháp Hoa
    nếu có năng lực
    lắng nghe, tiếp nhận,
    hỏi thấu nghĩa ý,
    giảng nói cho người,
    như vậy mới khó.
    (32) Có ai thuyết pháp
    làm cho vạn ức
    vô số vô lượng
    hằng sa chúng sinh
    được thành La hán
    đủ sáu thần thông,
    ích lợi đến vậy
    cũng chưa đủ khó;
    (33) sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    ai có năng lực
    diễn giảng kính giữ
    Diệu pháp Liên hoa
    như vậy mới khó.
    (34) Vì cho chúng sinh
    được tuệ giác Phật,
    Như Lai ở trong
    vô lượng quốc độ,
    từ lúc mở đầu
    cho đến hiện nay,
    tuyên thuyết phong phú
    bao nhiêu kinh pháp.
    (35) Trong kinh pháp ấy
    Pháp Hoa bậc nhất:
    nếu có năng lực
    giữ được Pháp Hoa,
    tức là giữ được
    toàn thân Như Lai.
    (36) Chư thiện nam tử,
    sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    ai có năng lực
    tiếp nhận kính giữ
    Diệu pháp Liên hoa
    bằng mọi pháp hạnh
    trong đó gồm có
    đọc xét văn nghĩa,
    tụng được thuộc lòng...,
    nay trước Như Lai
    hãy tự phát nguyện.
    (37) Diệu pháp liên hoa
    khó mà giữ nổi;
    những ai giữ nổi
    ít thì gian thôi,
    Như Lai hài lòng,
    chư Phật cũng vậy.
    (38) Những ai giữ nổi
    Pháp Hoa như vậy
    thì thế là được
    chư Phật tán dương,
    thế là dũng mãnh,
    thế là tinh tiến,
    thế là giữ giới,
    tu hạnh đầu đà,
    thế là chóng được
    tuệ giác vô thượng.
    (39) Thời ác sau này
    những ai có thể
    học hỏi kính giữ
    Diệu pháp Liên hoa,
    người ấy chính là
    con Phật đích thực,
    đứng vào ở nơi
    vị trí Thuần thiện,
    sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi
    vẫn lý giải được
    nghĩa ý Pháp Hoa.
    (40-Người ấy chính là
    41) mắt của thế gian
    trong đó có cả
    chư thiên nhân loại.
    Ở trong thời kỳ
    khủng bố khiếp sợ,
    người ấy nói được
    Diệu pháp Liên hoa,
    dầu chỉ có thể
    nói trong chốc lát,
    hết thảy trời người
    đều nên hiến cúng.

  16. #16

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch


    Phẩm 12:
    Đề Bà Đạt Đa
    Khi ấy đức Thế Tôn bảo chư vị bồ tát, bốn chúngvà các chúng nhân loại chư thiên, rằng trong thì quá khứ, Như Lai đã cầu Pháp Hoa trong vô lượng thời kỳ, không biếng nhác, không mỏi mệt. Trong nhiều thời kỳ, Như Lai thường làm quốc vương, phát nguyện cầu tuệ giác vô thượng, lòng không thoái lui hay lệch khỏi mục đích ấy. Để hoàn thiện sáu pháp ba la mật nên quốc vương nỗ lực bố thí, lòng không tiếc lẫn gì hết về voi ngựa, bảy thứ quí báu, về quốc thành, thê tử, về tôi tớ, tùy tùng, về đầu mắt, tủy não, thân thịt, tay chân; tính mạng cũng không nuối tiếc. Bấy giờ dân chúng sống lâu vô lượng. Quốc vươngvì cầu chánh pháp nên bỏ ngôi vua, ủy thácchính sự cho thái tử, rồi đánh trống truyền lịnh mà cầu chánh pháp khắp nơi, rằng ai có khả năng nói cho ta về pháp đại thừa thì ta sẽ cung phụng phục dịch suốt đời. Bấy giờ có một vị tiên đến tâu, tôi biết bản kinh đại thừa tên là Pháp Hoa. Quốc vương không trái ý tôi thì tôi sẽ dạy cho. Quốc vương nghe vị tiên nói, vui mừng rộn rã, tức thì đi theo vị ấy, cung phụng mọi sự vị ấy cần đến. Những việc hái trái, múc nước, nhặt củi, dọn ăn, đến nỗi đem thân làm giường làm ghế cũng không mỏi mệt cơ thể hay tâm trí. Quốc vương lúc ấy phụng sự như vậy đến cả ngàn năm, vì chánh pháp mà siêng năng một cách tinh chuyên, cung đốn hầu hạ không thiếu sót điều gì. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (42) Như Lai nhớ lại
    trong thì quá khứ,
    vì cầu cho được
    chánh pháp vĩ đại,
    nên dẫu làm vua
    của cả một nước,
    vẫn không đam mê
    năm thứ dục lạc.
    (43) Đánh chuông gióng trống
    tuyên cáo khắp nơi,
    rằng ai biết được
    chánh pháp vĩ đại
    mà đem giảng giải
    thuyết trình cho ta,
    thì ta đích thân
    làm kẻ tôi tớ.
    Bấy giờ vị tiên
    tên là Vô Tỷ
    đến tâu với vua
    rằng tôi có biết
    chánh pháp tinh túy
    hiếm nhất thế gian.
    (44) Vua thực hành được
    thì tôi dạy cho.
    Nghe vị tiên nói
    vua rất vui đẹp,
    tức thì đi theo
    cung phụng cần dùng.
    Ngay việc nhặt củi
    kiếm trái hái rau
    cũng vẫn kính cẩn
    cung phụng đúng lúc.
    (45) Dồn hết tâm tình
    vào pháp tinh túy,
    nên cả thân tâm
    không nhác không mệt.
    Khắp vì tất cả
    bao loại chúng sinh
    mà cố nỗ lực
    cầu pháp vĩ đại,
    chứ không vị gì
    bản thân của mình,
    cũng không cầu hồ
    thú vui ngũ dục.
    (46) Như Lai cố ý
    làm đại quốc vương
    siêng cầu cho được
    chánh pháp vĩ đại,
    do đó mà được
    thành đức Phật đà,
    và bây giờ đây
    cố đem chánh pháp
    vĩ đại như vậy
    nói cho các người.
    Đức Thế Tôn bảo chư vị tỷ kheo, quốc vương lúc ấy nay là Như Lai, còn vị tiên lúc ấynay là Đề bà đạt Đa mà làm cho Như Lai hoàn bị sáu pháp ba la mật, bốn tâm vô hạn, ba mươi hai tướng quí, tám mươi vẻ đẹp, thân màu hoàng kim, mười đại năng lực, bốn sự không sợ, bốn sự nhiếp hóa, mười tám sự đặc biệt, sức mạnh thần thông, sức mạnh tuệ giác, trở thành bậc Biết khắp và đúng, hóa độ sâu rộng các loại chúng sinh, toàn là do người bạn tốt Đề bà đạt Đa.
    Như Lai nay tuyên cáo với tất cả bốn chúng, Đề bà đạt Đa sau này qua vô lượng thời kỳrồi, sẽ được thành Phật danh hiệu là Thiên Vương Như Lai, đủ mười đức hiệu. Quốc độcủa ngài tên là Thiên Đạo. Ngài tồn tại hai mươi thời kỳ bậc giữa, tuyên thuyết cho chúng sinh một cách rộng rãi về chánh pháp tinh túy, làm cho hằng sa chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh phát tâm Duyên giác, hằng sa chúng sinh phát tâmTuệ giác vô thượng, thực hiện tuệ giác Không sinh, đạt đến địa vị Không thối chuyển. Thiên Vương Như Lai nhập niết bàn rồi, giáo pháp nguyên chất tồn tại hai mươi thời kỳbậc giữa, xá lợi toàn thân được xây dựng tôn thờ trong ngôi tháp bằng bảy chất liệu quí báu, cao sáu chục do tuần, chu vi bốn chục do tuần. Chư thiên, nhân loại, ai cũng đem bông hoa đa dạng, các hương liệu, vải vóc, vòng hoa, tràng phan, bảo cái, kịch nhạc, ca khúc và thi thơ mà lễ bái và hiến cúng bảo tháp tuyệt diệu như vậy, và sự lễ bái hiến cúng này làm cho vô lượng chúng sinh được tuệ giác La hán, vô lượng chúng sinh được tuệ giác Duyên giác, không thể nghĩ bàn chúng sinh phát Tâm tuệ giác vô thượng, đến bậc Không thoái chuyển.
    Chư vị tỷ kheo, trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được phẩm Đề bà đạt Đa này của kinh Pháp Hoa mà lòng trong sáng, tin kính cẩn, không ngờ vực, không lầm lẫn, thì người ấy không sa vào địa ngục ngạ quỉ súc sinh, mà lại sinh trong nhân loại chư thiên, hay sinh trước chư Phật ở bất cứ phương hướng nào. Và sinh ở đâu cũng thường được nghe kinh Pháp Hoa. Sinh trong nhân loại hay chư thiên thì hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu và hơn hết, còn sinh trước chư Phật thì hóa sinh bằng hoa sen.
    *
    Bấy giờ Trí Tích, vị bồ tát thị tùng đức Đa Bảo Phật đà, vốn ở phương dưới, bạch với ngài hãy trở về quốc độ của mình. Đức Thích Ca Thế Tôn bảo bồ tát Trí Tích, thiện nam tử, hãy chờ một lát. Quốc độ này có vị bồ tát tên là Văn Thù, các vị đáng gặp nhau, luận thuyết chánh pháp tinh túy rồi về. Lúc bấy giờ bồ tát Văn Thù ngồi trên hoa sen có cả ngàn cánh, lớn như bánh xe, các vị bồ tát tùy tùng cũng ngồi trên hoa sen quí báu, từ Diêm hải long cung trong biển cả, đột nhiên vọt lên, lên cao trong không gian, lướt đếnLinh sơn, bước xuống hoa sen, lại chỗ đức Thích Ca Thế Tôn và đức Đa Bảo Phật đà, đem đầu mặt kính lạy ngang chân hai ngài. Làm sự tôn kính như vậy rồi, bồ tát Văn Thùbước qua chỗ bồ tát Trí Tích, hỏi thăm nhau và ngồi một bên. Bồ tát Trí Tích hỏi bồ tátVăn Thù, nhân giả đến long cung giáo hóa chúng sinh số lượng được mấy? Bồ tát Văn Thù nói, số lượng ấy vô lượng, không thể tính kể, không thể miệng nói hay trí lường mà biết được. Xin nhân giả đợi một chút, sẽ tự có chứng cứ. Nói chưa xong thì vô số bồ tátcũng ngồi hoa sen quí báu, từ biển vọt lên, lướt đến Linh sơn, ở trong không gian. Các vị bồ tát này toàn do bồ tát Văn Thù hóa độ, hoàn bị phong cách bồ tát, và cùng luận thuyếtsáu pháp ba la mật. Gốc của các vị này là thanh văn, ở trong không gian mà nói về việc làm thanh văn, nhưng nay thì ai cũng thực hành nguyên lý Không của đại thừa. Bồ tátVăn Thù nói với bồ tát Trí Tích, sự giáo hóa của tôi ở trong biển cả là như vậy. Bồ tát Trí Tích liền dùng những lời chỉnh cú sau đây vừa tán dương vừa hỏi bồ tát Văn Thù.
    (47) Bậc đại trí đức
    dũng mãnh tinh tiến!
    bằng chánh pháp nào
    ngài giáo hóa được
    vô lượng bồ tát
    mà đại hội này
    và chính tôi đây
    đã thấy như kia?
    (48) Ngài giảng thật tướng,
    thuyết minh thế nào
    đối với giáo pháp
    cỗ xe duy nhất,
    hướng dẫn đầy đủ
    các vị như vầy
    làm cho chóng được
    tuệ giác vô thượng?
    Bồ tát Văn Thù nói, trong biển cả tôi chỉ thường xuyên tuyên thuyết Pháp Hoa. Bồ tát Trí Tích hỏi, kinh ấy cực kỳ sâu xa tinh túy, quí báu nhất trong các kinh, thế giới hiếm có; trong biển cả có hay không có người nỗ lực tinh tiến, thực hành được kinh ấy và thành Phật được một cách mau chóng? Bồ tát Văn Thù nói, có. Long Nữ của Diêm Hải long vương mới tám tuổi mà trí tuệ, lợi căn, khéo biết trình độ và hành vi của chúng sinh. Được pháp tổng trì, tiếp nhận và ghi nhớ đủ hết kho tàng bí yếu sâu xa của chư Phật tuyên thuyết. Vào sâu thiền định, thấu suốt các pháp. Trong khoảng đơn vị ngắn nhất của thì gian mà phát lộ Tuệ giác vô thượng, thành bậc Không cò thoái chuyển. Đủ các tài hùng biện. Thương chúng sinh y như thương con đỏ. Công đức hoàn hảo. Lòng nghĩ, miệng nói, toàn là tinh túy cao cả. Từ bi, khiêm nhượng, chí ý hòa nhã. Long Nữ ấy có đủ năng lực đạt đến Tuệ giác vô thượng. Bồ tát Trí Tích nói, tôi thấy đức Thích Ca Thế Tôntrải qua vô lượng thời kỳ, làm những khổ hạnh khó làm, chứa công dồn đức, cầu tuệ giác vô thượng không lúc nào ngừng nghỉ. Quan sát cả đại thiên thế giới này thì thấy không có chỗ nào, dầu chỉ bằng hạt cải mà thôi, mà không phải là chỗ ngài xả bỏ thân mạng vì chúng sinh, sau đó mới được thành tựu tuệ giác vô thượng. Tôi không tin Long Nữ nào đó chỉ trong khoảnh khắc mà thành được một bậc Biết đúng và khắp. Nói bàn chưa xong, Long Nữ đột nhiên xuất hiện trước mắt, đem cả đầu mặt lễ bái tôn kính đức Thế Tôn rồi đứng lui một khoảng, dùng lời chỉnh cú sau đây mà tán dương ngài.
    (49) Thế Tôn thấu suốt
    thật tướng tội phước,
    ánh sáng của ngài
    soi khắp mười phương.
    Thân ngài: pháp thân,
    tinh túy, trong suốt,
    đủ ba mươi hai
    tướng đại trượng phu.
    (50) Pháp thân như vậy
    còn được trang hoàng
    bằng cả tám chục
    vẻ đẹp tùy thuộc.
    Nhân loại, chư thiên,
    long vương, thiện thần,
    ai cũng kính ngưỡng,
    tất cả chúng sinh
    ai cũng tôn thờ
    như bậc đồng tông.
    (51) Nghe đức Văn Thù
    nói con chóng thành
    tuệ giác vô thượng,
    việc ấy chỉ có
    Thế Tôn đại giác
    chứng biết cho con;
    con sẽ tuyên dương
    chánh pháp đại thừa,
    hóa độ giải thoát
    chúng sinh đau khổ.
    Lúc ấy tôn giả Xá lợi Phất nói với Long Nữ, thiện nữ nói thành đạt mau chóng tuệ giác vô thượng, việc ấy thật khó tin. Tại sao, vì thân thể nữ nhân dơ bẩn, không phải là vật dụngchứa đựng chánh pháp, thiện nữ làm sao mà thành được tuệ giác vô thượng _ Trong khi tuệ giác vô thượng của Phật thì xa xôi, mênh mông, trải qua vô số thời kỳ, siêng và khổ mà tích lũy công hạnh, thực hành đủ hết các pháp ba la mật, sau đó mới hoàn thành. Huống chi thân thể nữ nhân còn có năm sự bị cản trở, ấy là không được làm Phạn vương, Đế thích, Ma vương, Luân vương và Phật thân. Như vậy thân thể thiện nữ làm sao thành Phật, mà lại thành Phật mau chóng? Long Nữ có một viên ngọc quí, giá bằng cả đại thiên thế giới. Bấy giờ Long Nữ hai tay nâng viên ngọc ấy hiến lên đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn nhận liền. Long nữ thưa bồ tát Trí Tích và tôn giả Xá lợi Phất, con hiến ngọc quí, đức Thế Tôn nhận cho con, việc này mau chóng không? Rất mau chóng; hai ngài trả lời như vậy. Long Nữ thưa, đem thần lực của các ngài nhìn sự thành Phật của con, thì sự ấy còn mau hơn việc này. Tức thì toàn thể đại hội các chúng lúc ấy cùng thấy, trong khoảnh khắc đột nhiên, Long Nữ biến thành nam tử, đầy đủ phong cách bồ tát, lướt qua thế giới hệ Vô cấu ở hướng nam, ngồi trên đài sen quí báu, thành bậc Biết đúng và khắp, với cái thân đủ hết ba mươi hai tướng quí và tám mươi vẻ đẹp, tuyên thuyết chánh pháp tinh túy cho chúng sinh mười phương. Tại quốc độ Kham nhẫn này, các vị bồ tát, các vị thanh văn, tám bộ thiên long, tất cả nhân loại và loài khác, từ xa thấy sự thành Phật và thuyết pháp của Long Nữ thì tâm thần người nào cũng rất hoan hỷ, vọng xa mà lạy. Thế giới hệ Vô cấu thì vô lượng chúng sinh nghe pháp đều lý giải, tỏ ngộ, được sự không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh nữa được nhận sự thọ ký về tuệ giác vô thượng, và thế giới hệ ấy chấn động đủ cả sáu cách. Thế giới hệ Kham nhẫnthì ba ngàn người đứng vào vị trí không thoái chuyển, ba ngàn người nữa phát triển tuệ giác vô thượng và được nhận sự thọ ký về tuệ giác ấy. Bồ tát Trí Tích, tôn giả Xá lợi Phất, và cả đại hội các chúng, đều yên lặng mà tin nhận.

  17. #17

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch

    Phẩm 13:
    Kính giữ Pháp Hoa
    Lúc ấy Dược Vương đại sĩ, Đại lạc Thuyết đại sĩ, và hai vạn bồ tát tùy thuộc, cùng đối trước đức Thế Tôn mà phát nguyện như vầy: Kính xin đức Thế Tôn đừng lo nghĩ. Sau khi đức Thế Tônnhập niết bàn, chúng con nguyện kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, giảng giải... Con ngườitrong thời kỳ dữ dội sau này gốc rễ điều lành thì ít dần, sự tăng thượng mạn thì nhiều lên, ham hố danh lợi và sự hiến cúng, tăng thêm bất thiện, tách xa giải thoát. Tuy khó giáo hóa, chúng con vẫn nổi dậy sức mạnh của sự ẩn nhẫn lớn lao mà kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, giảng giải, sao chép, hiến cúng.... Chúng con không tiếc nuối thân mạng của chúng con trong việc kính giữ Pháp Hoa.
    Trong đại hội, năm trăm vị La hán đã được thọ ký, lúc ấy cũng thưa, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng tự nguyện ở trong các quốc độ khác mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Tám ngàn vị tu học tiếp tục và tu học hoàn tất đã được thọ ký cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, thệ nguyện như vầy: Bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng sẽ ở tại các quốc độ khác mà diễn giảng rộng rãi về kinh Pháp Hoa. Tại sao, vì trong quốc độ Kham nhẫnnày con người phần nhiều tàn tệ độc ác, thượng mạn đầy lòng, công đức mỏng mảnh, giận ghét, dua nịnh, tâm không chắc thật.
    Lúc ấy di mẫu của đức Thế Tôn là tỷ kheo ni Đại thắng sinh Chủ, cùng sáu ngàn vị tỷ kheo ni tu học tiếp tục và tu học hoàn tất, cũng đứng dậykhỏi chỗ mình ngồi, chuyên chú chắp tay mà chiêm ngưỡng đức Thế Tôn, mắt không rời ngài một thoáng. Đức Thế Tôn bảo, Đại thắng sinh Chủ, tại sao bà nhìn Như Lai với vẻ ưu tư? Bà nghĩ rằng Như Lai không gọi tên bà mà trao cho lời ghi về tuệ giác vô thượng chăng? Đại thắngsinh Chủ, trước đây Như Lai đã nói tổng quát, rằng hết thảy thanh văn đều được thọ ký. Nay bà muốn biết sự thọ ký ấy thì, vị lai, trong chánh pháp của rất nhiều ức đức Phật, bà sẽ làm nhà diễn giảng vĩ đại, sáu ngàn vị tỷ kheo ni tu họctiếp tục và tu học hoàn tất cũng làm những nhà diễn giảng, và bằng cách này mà bà hoàn thiệnmột cách đều đặn đường đi của bồ tát, trở thànhmột đức Phật đà với danh hiệu Nhất thế chúng sinh hỷ kiến Như Lai, đủ mười đức hiệu. Đại thắng sinh Chủ, đức Nhất thế chúng sinh hỷ kiếnNhư Lai sẽ cùng sáu ngàn bồ tát tuần tự thọ kýcho nhau mà thành tựu tuệ giác vô thượng.
    Bấy giờ thân mẫu của tôn giả La hầu La là tỷ kheo ni Trì Dự, nghĩ rằng, trong sự thọ ký này đức Thế Tôn đặc biệt không đề cập đến ta. Biết rõ ý nghĩ ấy nên đức Thế Tôn bảo, Trì Dự, vị lai, bà sẽ ở trong chánh pháp của rất nhiều ức đức Phật mà làm việc làm của bồ tát, bằng cách cũng làm nhà diễn giảng vĩ đại, đều đặn và hoàn tất đường đi của Phật, rồi được thành Phật tại cõi Thiện quốc, với danh hiệu Cụ túc thiên vạn quang tướng Như Lai, đủ mười đức hiệu, sống lâu đến vô lượng thời kỳ vô số.
    Tỷ kheo ni Đại thắng sinh Chủ, tỷ kheo ni Trì Dự, cùng những người tùy thuộc, bấy giờ ai cũng hoan hỉ cùng cực, có được sự chưa từng có, tức thì đối trước đức Thế Tôn mà thưa ngài với lời chỉnh cú này.
    (1) Bạch đức Thế Tôn,
    bậc thầy lãnh đạo
    đem lại an ủi
    cho cả trời người!
    Chúng con được nghe
    lời ghi làm Phật,
    trong lòng ổn định
    thỏa mãn hoàn toàn.
    Chư vị tỷ kheo ni thưa lời chỉnh cú ấy rồi lại nói, bạch đức Thế Tôn, chúng con cũng có thể ở các quốc độ khác mà tuyên thuyết rộng rãi về kinh Pháp Hoa.
    Khi ấy đức Thế Tôn nhìn vào nhiều ức trăm triệu bồ tát đại sĩ. Các vị này toàn là những bậc Không thoái chuyển, có thể chuyển đẩy bánh xe chánh pháp Không thoái chuyểnbằng các pháp tổng trì mà các vị đã được hoàn thiện. Khi đức Thế Tôn nhìn vào, các vị liền đứng dậy khỏi chỗ mình ngồi, đến trước ngài, tập trung tâm trí, chắp hai tay lại, suy nghĩ như vầy: Nếu đức Thế Tôn phán bảo chúng ta duy trì và công bố Pháp Hoa, thì chúng ta sẽ làm đúng như lời ngài mà tuyên thuyết phong phú về kinh pháp ấy. Các vị lại nghĩ: Nhưng đức Thế Tôn yên lặng mà không phán bảo, vậy chúng ta phải làm gì? Kính thuận tình ý của đức Thế Tôn, lại muốn viên mãn tâm niệm của mình, nên các vị đối trước ngài, cất tiếng nói uy dũng như tiếng sư tử gầm mà phát nguyện như vầy: Bạch đức Thế Tôn, sau khi ngài nhập diệt, chúng con sẽ qua lại mười phương thế giới, đem hết năng lực mà làm cho chúng sinh, đối với kinh Pháp Hoa, biết sao chép ấn hành, tiếp nhận ghi nhớ, đọc xét văn nghĩa, tụng được thuộc lòng, giảng giải ý nghĩa, làm đúng kinh dạy, nhớ nghĩ chính xác... Chúng con làm được như vậy toàn là nhờ uy lực của đức Thế Tôn. Kính xin đức Thế Tôn dẫu ở quốc độ khác cũng vẫn chăm sóc che chở cho chúng con. Các vị đồng thanh mà nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (2) Kính xin Thế Tôn
    khỏi phải lo nghĩ.
    Sau khi Thế Tôn
    nhập niết bàn rồi,
    ở trong thời kỳ
    khủng bố tàn ác,
    chúng con thệ nguyện
    sẽ cùng tuyên thuyết
    một cách phong phú
    về kinh Pháp Hoa.
    (3) Những kẻ vô trí
    độc miệng chưởi mắng,
    sử dụng dao gậy
    hành hung chúng con,
    chúng con cũng nguyện
    ẩn nhẫn hết thảy.
    (4) Thời ác có kẻ
    tự xưng tỷ kheo,
    nhưng trí thì lầm
    mà tâm lại dối,
    chưa thật được gì
    tự bảo là được,
    cả người tràn ngập
    tâm lý ngã mạn.
    (5) Hoặc xưng lan nhã
    quấn tấm vải vá
    ở chỗ trống vắng,
    tự cho mình làm
    đạo hạnh chân thật,
    khinh thị nhân gian.
    (6) Hoặc vì tham lam
    quan tâm lợi lộc,
    họ bày thuyết pháp
    cho người trần thế,
    được người trần thế
    kính như tôn kính
    một vị La hán
    đủ sáu thần thông.
    (7) Những người như vậy
    ôm giữ lòng ác,
    thường xuyên nghĩ đến
    những việc trần tục,
    giả danh là kẻ
    tu hạnh lan nhã
    mà chỉ ưa thích
    chỉ trích chúng con.
    (8) Họ tuyên ngôn rằng
    những tỷ kheo này
    vì ham lợi lộc
    nói thuyết ngoại đạo.
    (9) Ngụy tạo kinh sách,
    họ lừa thế nhân.
    Và vì danh lợi,
    họ cũng bày ra
    diễn giảng Pháp Hoa,
    ở giữa công chúng
    thường chê chúng con
    lấy thuyết của họ.
    (10) Họ lại đi đến
    quốc vương, đại thần,
    đến bà la môn,
    đến các cư sĩ
    và tỷ kheo khác,
    phỉ báng chúng con.
    (11) Họ bảo chúng con
    là kẻ tà kiến
    diễn giảng lý thuyết
    các phái ngoại đạo.
    Kính thuận Thế Tôn,
    cho nên chúng con
    ẩn nhẫn tất cả
    tệ ác như vậy.
    (12) Bị họ mai mỉa
    bằng cách nói rằng
    các người toàn là
    Phật đà cả đó!
    Khinh ngạo đến thế
    chúng con cũng nhẫn.
    (13) Thời kỳ khủng khiếp
    lắm kẻ đáng sợ,
    quỉ dữ nhập vào
    thân tâm của họ,
    nên họ thóa mạ
    hạ nhục chúng con.
    (14) Thế nhưng chúng con
    kính tin Thế Tôn,
    nên mặc áo giáp
    của sự nhẫn nhục,
    nhẫn hết bao nhiêu
    khó khăn tai nạn
    để mà tuyên thuyết
    Diệu Pháp Liên Hoa.
    (15) Chúng con không tiếc
    tính mạng chúng con,
    chúng con chỉ tiếc
    đạo pháp vô thượng.
    Nên chúng con nguyện
    trong thì vị lai
    kính giữ Pháp Hoa
    Thế Tôn ký thác.
    (16) Như đức Thế Tôn
    tự biết quá rõ,
    trong thời vẩn đục
    tỷ kheo bất hảo
    đâu có thấu hiểu
    về cách phương tiện
    tùy nghi thuyết pháp
    của đức Thế Tôn.
    (17) Miệng dữ, mặt cáu,
    họ đuổi chúng con
    ra khỏi chùa chiền:
    tàn tệ đến thế.
    (18) Chúng con nhớ lời
    Thế Tôn phán dạy,
    ẩn nhẫn tất cả
    sự tình như vậy.
    (19) Thôn xóm thị thành
    có ai cầu pháp,
    chúng con cũng đến
    mà nói cho họ
    cái pháp Thế Tôn
    đã đem ký thác.
    (20) Là những sứ giả
    của đức Thế Tôn,
    chúng con không sợ
    ở giữa công chúng.
    Chúng con sẽ khéo
    tuyên thuyết Pháp Hoa,
    và cùng thỉnh nguyện
    Thế Tôn yên tâm.
    (21) Trước đức Thế Tôn
    trước đức Đa Bảo
    và chư Phật đà
    đến từ mười phương,
    chúng con ngày nay
    thệ nguyện như vậy,
    nguyện xin các ngài
    biết cho chúng con.
    _______
    Kết thúc tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin hồi hướng:
    Vạn ức thời kỳ
    không thể nói được
    mới được có lúc
    Phật nói Pháp Hoa.
    Vạn ức thời kỳ
    không thể nói được
    mới được có lúc
    nghe nói Pháp Hoa.
    Chúng con nương nhờ
    Phật Pháp Tăng lực
    mới được trì tụng
    Diệu Pháp Liên Hoa.
    Chúng con nguyện đem
    công đức như vầy
    hiến khắp tất cả
    các loại chúng sinh,
    cầu cho chúng con
    cùng với chúng sinh
    đều được thành tựu
    tuệ giác chư Phật.
    Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh của tuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởi kinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trì Pháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phátPháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.

  18. #18

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch


    CUỐN 5
    Ngưỡng bạch Phật Pháp Tăng vô tận tam bảo từ bi chứng minh. Đệ tử chúng con nguyện vì bản thân, vì cha mẹ bà con, vì người thân kẻ thù, vì mọi người và vì chúng sinh, trì tụng kinh đại thừatên Diệu Pháp Liên Hoa.
    Mở đầu tụng kinh Pháp Hoa, chúng con xin kính lạy:
    Kính lạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, bản kinh củatuệ giác bình đẳng vĩ đại, bản kinh dạy cho Bồ tát và được Phật giữ gìn. Kính lạy tất cả Pháp bảo trong quốc độ này và trong mười phươngquốc độ.
    Kính lạy đức Thích Ca Mâu Ni, đức Phật giáo chủ bổn sư, đã tuyên thuyết kinh Pháp Hoa. Kính lạy đức Đa Bảo, đức Phật đã làm chứng cho kinh Pháp Hoa toàn là chân thật. Kính lạy đức Di Lạc, đức Phật đương lai, đã phát khởikinh Pháp Hoa và tiếp dẫn những người hành trìPháp Hoa vãng sinh Đâu suất tịnh độ. Kính lạy tất cả Phật bảo trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    Kính lạy bồ tát Văn Thù, vị pháp sư Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Phổ Hiền, vị khuyến phát Pháp Hoa. Kính lạy bồ tát Quan Âm, vị đại sĩ toàn diện. Kính lạy tất cả Tăng bảo là các vị Bồ tát, các vị Duyên giác và các vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa, trong quốc độ này và trong mười phương quốc độ.
    ________
    Phẩm 14:
    Sống yên vui

    Vào lúc bấy giờ, Văn Thù đại sĩ, vị thái tử của đức Pháp vương, thưa với ngài rằng, bạch đức Thế Tôn, các vị bồ tát này thật hiếm có. Các vị kính thuận đức Thế Tôn nên phát ra thệ nguyệncao cả, nguyện ở trong thời kỳ dữ dội sau này mà kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng diễn giảng kinh ấy. Nhưng bạch đức Thế Tôn, bồ tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này, làm thế nào để diễn giảng Pháp Hoa? Đức Thế Tôn dạy, Văn Thù, bồ tát đại sĩ ở trong thời kỳ dữ dội sau này, muốn diễn giảng Pháp Hoa thì phải đặt mình vững chắc vào trong bốn cách sống yên vui.
    Cách sống yên vui thứ nhất là đặt mình vững chắc vào phạm vi đi và phạm vi thân của bồ tát, mới có năng lực diễn giảng Pháp Hoa cho mọi người.
    Văn Thù, phạm vi đi của bồ tát là gì? Là bồ tát đi trong đường đất nhẫn nhục, ôn hòa, khéo thuận, không thô bạo, không kinh hoảng. Hơn nữa, đối với các pháp thì không đi theo pháp nào mà chỉ nhìn thật tướng của các pháp ấy, cũng không đi theo sự không nhận thức các pháp. Như vậy gọi là phạm vi đi của bồ tát.
    Phạm vi thân của bồ tát là gì? Là bồ tát không thân gần quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng. Không thân gần tu sĩ ngoại đạo, Ni kiền tử. Không thân gần những kẻ tạo ra văn bút, thi ca và tác phẩm trần tục. Không thân gần những kẻ theo chủ thuyết xuôi với đời hay chủ thuyết ngược với đời. Cũng không thân gần những kẻ chơi những trò chơi hung hãn như đâm nhau, vật nhau; những kẻ hóa trang, ảo thuật. Không thân gần chiên đà la và những kẻ ác luật nghi như nuôi heo dê gà chó, săn bắn chài lưới. Tất cả những kẻ trên đây có khi đến với bồ tát, thì bồ tát nên thuyết pháp cho họ mà không ước vọnggì về danh lợi. Lại không thân gần bốn chúng cầu niết bàn của thanh văn, không hỏi thăm, không ở chung trong phòng, chỗ kinh hành hay trong giảng đường. Các vị ấy có khi đến với bồ tát thì bồ tát tùy nghi thuyết pháp mà không ước vọng gì về danh lợi. Văn Thù, đối với thân thể nữ nhân, bồ tát không vì những hình dáng phát sinh tư tưởng về dục mà thuyết pháp cho họ, cũng không ham gặp. Đến nhà người, đừng nói chuyện với thiếu nữ, xử nữ, quả phụ... Đừng gần mà thân thiết với năm loại người phi nam. Đừng một mình đến nhà người; có lý do phải đến một mình thì chuyên tâm nghĩ nhớ đến Phật. Thuyết pháp cho nữ nhân thì không cười bày răng, không để hở ngực, và đến nỗi vì chánh pháp cũng không thân thiết với nữ nhân, huống chi vì gì khác. Không thích nuôi đệ tử sa di nhỏû tuổi, trẻ con, cũng không thích cùng thầy với họ. Thường ưa ngồi thiền, ở chỗ không bị quấy nhiễu, tập trung mà sửa chữa tâm mình. Văn Thù, như vậy gọi làphạm vi thân thứ nhất của bồ tát. Bồ tát lại xét thấy các pháp là Không _ thấy thật tướngcác pháp: không thác loạn, không dao động, không suy thoái, không chuyển biến ; thấy như hư không: không phải những sự sở hữu của tư duy, không phải những sự mô tảcủa ngôn ngữ, không phát sinh, không xuất hiện, không nổi dậy, không danh từ, không khái niệm; thấy thật là không thật: không số lượng, không giới hạn, không trở ngại, không ngăn cách_ chỉ do sự tương quan mà có, và từ sự nhận thức thác loạn mà phát sinh và diễn tả. Thường thích quán sát về thật tướng như vậy. Đó là phạm vi thân thứ hai của bồ tát.
    Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đãï nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Thời ác sau này,
    vị bồ tát nào
    không có e sợ,
    muốn nói Pháp Hoa,
    (2) thì phải vào nơi
    chỗ đi chỗ thân.
    Thường xa quốc vương,
    cùng với vương tử,
    (3) đại thần, quan trưởng,
    kẻ chơi hung hãn,
    kẻ làm ảo thuật,
    kẻ chiên đà la,
    và những tu sĩ
    các phái ngoại đạo.
    (4) Cũng không thân gần
    người tăng thượng mạn,
    học giả thuộc cả
    ba tạng tiểu thừa,
    tỷ kheo phá giới,
    La hán giả danh.
    (5-Những tỷ kheo ni
    6) ưa thích cười giỡn,
    những nữ tín đồ
    quá ham ngũ dục,
    với những người ấy
    đều chớ thân gần.
    Và sự thể này
    nên coi như là
    tìm kiếm niết bàn
    ngay trong hiện tại.
    (7) Những người trên đây
    bằng tâm lý tốt
    đến chỗ bồ tát
    để được nghe nói
    về tuệ giác Phật,
    bồ tát phải đem
    sự không khiếp sợ,
    và không ẩn ý
    ước vọng danh lợi,
    mà thuyết pháp cho.
    (8) Quả phụ, xử nữ,
    và những phi nam,
    đừng nên gần gũi
    làm người thân thiết.
    (9-Cũng đừng thân gần
    12) thầy trò thợ thịt.
    Săn bắn chài lưới
    vụ lợi sát hại,
    sinh sống bằng nghề
    buôn bán thịt cá,
    ma cô tú bà
    buôn bán nữ sắc,
    những kẻ như vậy
    cũng đừng thân gần.
    (13) Đô vật hung hãn,
    các loại trò chơi,
    cũng như dâm nữ
    đều không thân gần.
    Đừng ngồi chỗ khuất
    và ngồi một mình
    mà thuyết chánh pháp
    cho các nữ nhân,
    khi thuyết chánh pháp
    thì đừng đùa giỡn.
    (14) Đi vào khất thực
    nơi chỗ dân cư
    thì phải đi với
    một vị tỷ kheo,
    nếu không có được
    vị tỷ kheo ấy
    thì phải chuyên tâm
    nghĩ nhớ đến Phật.
    (15) Như vậy gọi là
    chỗ đi chỗ thân;
    nhờ hai chỗ ấy
    thuyết pháp yên vui.
    (16) Lại không đi theo
    pháp cao vừa thấp,
    hữu vi vô vi,
    thật với không thật.
    (17) Cũng không phân biệt
    này đây là nam
    này đây là nữ,
    không biết không thấy
    không tìm ra được
    các pháp là thật.
    (18) Như vậy gọi là
    chỗ bồ tát đi.
    (19) Tất cả các pháp
    không phải thật có:
    không phải thường còn
    không phải sinh diệt,
    đó là chỗ thân
    của bậc có trí.
    (20) Nhận thức thác loạn
    nên thấy các pháp
    có không, thật giả,
    và sinh với diệt.
    (21) Ở chỗ trống vắng
    tập trung tâm trí,
    an nhiên bất động
    như núi Tu di,
    mà xét các pháp
    thì thấy là Không.
    (22) Tựa như hư không
    không gì cố định:
    không là phát sinh
    cũng không xuất hiện,
    không là suy thoái
    cũng không dao động,
    vĩnh viễn nhất quán,
    ấy là chỗ thân.
    (23) Sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    bấy giờ nếu có
    tỷ kheo bồ tát
    nhập vào chỗ đi
    và chỗ thân này,
    thì nói Pháp Hoa
    không có khiếp nhược.
    (24-Có lúc vị ấy
    25) vào trong tịnh thất,
    ghi nhớ chính xác
    xét pháp theo nghĩa,
    rồi xuất thiền định
    mà giảng Pháp Hoa;
    diễn giảng khai thị
    cho hàng quốc vương,
    vương tử, thần dân,
    và bà la môn,
    mà tâm an nhiên
    không có khiếp nhược.
    Văn Thù đại sĩ,
    như vậy gọi là
    bồ tát đứng vững
    nơi cách thứ nhất,
    có thể ở trong
    thời ác sau này
    tuyên thuyết phong phú
    Diệu Pháp Liên Hoa.
    Văn Thù, sau khi Như Lai nhập diệt, trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, ai muốn diễn giảng Pháp Hoa thì phải đặt mình vững chắc vào trong cách sống yên vui thứ hai. Là miệng chỉ diễn giảng hay đọc tụng kinh điển, không thích nói nhược điểm của người, của kinh điển. Không khinh ngạo các vị diễn giảng khác. Không nói những sự tốt xấu giỏi dở của mọi người. Đối với thanh văn, không đem tên ra mà nói xấu hay khen tốt. Tâm lý oán ghét hiềm khích không hề nổi dậy, là vì khéo tu cái tâm yên vui. Ai muốn nghe pháp cũng không nghịch ý họ. Họ hỏi gì thì không trả lời bằng giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ, chỉ đemgiáo pháp cỗ xe vĩ đại mà giảng giải, làm cho họ đạt được tuệ giác Biết tất cả. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (26-Bồ tát là người
    30) luôn luôn thư thái
    yên vui thuyết pháp.
    Một cái pháp tòa
    được sắp đặt cho
    nơi chỗ sạch sẽ.
    Trước đó tắm rửa
    sạch hết dơ bẩn,
    lấy dầu xoa mình,
    mặc áo sạch mới.
    Trong ngoài sạch rồi
    đến ngồi pháp tòa,
    tùy người thưa hỏi
    mà giảng nói cho.
    Đối diện tỷ kheo
    và tỷ kheo ni,
    hoặc ưu bà tắc
    với ưu bà di,
    quốc vương vương tử
    quần thần sĩ dân,
    đều đem nghĩa lý
    tinh túy sâu xa
    mà nói cho họ
    với mặt hiền hòa.
    (31) Có ai gạn hỏi,
    đáp theo nghĩa lý;
    yếu tố, ví dụ,
    diễn giảng, phân tích,
    dùng những cách này
    làm họ phát tâm
    tăng dần lợi ích
    vào tuệ giác Phật.
    (32) Loại bỏ biếng nhác,
    tách xa bực dọc,
    đem tâm từ bi
    mà thuyết chánh pháp.
    (33) Ngày đêm thường thuyết
    chánh pháp vô thượng,
    đem mọi yếu tố
    và lắm ví dụ
    khai thị cho người
    làm ai cũng vui.
    (34) Đồ mặc đồ nằm
    đồ ăn đồ uống
    cùng với thuốc thang,
    đối với tất cả
    những thứ như vậy
    không mong ước gì.
    (35) Chỉ một tâm nguyện
    nguyện nhờ thuyết pháp
    mà mình với người
    cùng được thành Phật,
    và đó chính là
    những sự ích lợi,
    lạc thú, hiến cúng
    vô cùng lớn lao.
    (36) Sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    bấy giờ nếu có
    tỷ kheo bồ tát
    có thể diễn giảng
    Diệu Pháp Liên Hoa,
    thì lòng không còn
    ganh tị, tức bực,
    không bị quấy phá
    không gặp trở ngại,
    không còn lo rầu
    không ai thóa mạ,
    (37) không bị khủng bố,
    hành hung, xua đuổi,
    vì đã đứng vững
    trong sự ẩn nhẫn.
    (38) Người có trí tuệ
    khéo tu tâm mình
    bằng cách sống theo
    cách sống yên vui
    mà ở trên đây
    Như Lai đã dạy,
    thì bao hiệu quả
    mà người ấy có,
    vạn ức thời kỳ
    áp dụng toán số
    hay sự ví dụ
    nói cũng không hết.
    Văn Thù, cách sống yên vui thứ ba là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo phápsắp ẩn mất, những người kính giữ Pháp Hoa thì đừng ôm giữ tâm lý ganh ghét, dua nịnhvà dối trá. Đừng khinh khi thóa mạ những người học tập tuệ giác của Phật, đừng tìm kiếm điều hay cái dở của những người ấy. Đối với bốn chúng tỷ kheo, tỷ kheo ni, ưu bà tắc,ưu bà di, đối với các vị cầu cỗ xe thanh văn, cỗ xe duyên giác, cỗ xe bồ tát, thì đừng quấy rối, làm cho họ thắc mắc, hối tiếc, bằng cách nói rằng các người cách xa tuệ giáccủa Phật, không bao giờ thực hiện được tuệ giác Biết tất cả, vì lẽ các người là những kẻ bất thường, biếng nhác đối với tuệ giác ấy. Đừng bàn chơi các pháp, cãi cọ lẫn nhau. Đối với chúng sinh thì nghĩ đến đại bi, đối với Phật đà thì nghĩ là từ phụ, đối với bồ tát thì nghĩ là đại sư. Đối với bồ tát mười phương thì tôn kính sâu xa, đối với chúng sinh đủ loại thì thuyết pháp bình đẳng. Nhưng thuận với chánh pháp nên không nói nhiều cũng không nói ít, thậm chí đối với những người ưa thích chánh pháp một cách sâu xa cũng không vì họ mà nói nhiều. Văn Thù, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo pháp sắp ẩn mất, các vị bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ ba này thì lúc diễn giảng Pháp Hoa không ai quấy phá được. Người ấy còn được đồng học rất tốt, chung nhau đọc tụngPháp Hoa; được các chúng đến nghe mà nghe rồi nhớ được, nhớ rồi tụng được, tụng rồi giảng được, giảng rồi tự mình sao chép hay khuyên người sao chép, và hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương đối với cuốn kinh ấy. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (39) Muốn giảng Pháp Hoa,
    phải bỏ tâm lý
    ganh tức, ngạo mạn,
    dua nịnh, tà ngụy,
    mà thường tu sửa
    đức tính chất trực.
    (40) Đừng khinh miệt người,
    cũng đừng bàn chơi
    đối với các pháp,
    đừng làm người khác
    thắc mắc hối tiếc
    bằng cách nói rằng
    các người không thể
    thành đức Phật đà.
    (41) Con Phật như vậy
    diễn giảng Pháp Hoa
    thường xuyên ôn hòa
    và hay ẩn nhẫn,
    từ bi giáo hóa
    tất cả các chúng,
    không hề sinh ra
    tâm tư biếng nhác.
    (42) Chư đại bồ tát
    ở mười phương hướng,
    vì thương chúng sinh
    du hóa khắp cả;
    thì với các ngài
    phải nên tôn kính,
    rằng đó là bậc
    đại sư của tôi.
    (43) Đối với chư vị
    Đại giác Thế Tôn
    thì thờ làm bậc
    từ phụ tối thượng.
    Dẹp bỏ tất cả
    tâm lý kiêu căng,
    nên thuyết chánh pháp
    không gặp trở ngại.
    (44) Cách sống thứ ba
    là như thế ấy,
    người có trí tuệ
    phải giữ cho đúng.
    Đồng nhất tâm mình
    với cách sống vui,
    thì được vô lượng
    các chúng tôn kính.
    Văn Thù, cách sống yên vui thứ tư là, sau này, trong thời kỳ cuối cùng, khi giáo phápsắp ẩn mất, bồ tát có vị nào kính giữ Pháp Hoa thì đối với những người tại gia và xuất gia phải có lòng lành, đối với những người không phải bồ tát phải có lòng thương; nên nghĩ như vầy: những người ấy mất mát rất lớn nếu không nghe không biết không hay, không hỏi không tin không hiểu gì về sự phương tiện tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn, nghĩa là không hỏi không tin không hiểu gì về Pháp Hoa. Dầu vậy, ta vẫn nguyện rằng khi được tuệ giác vô thượng rồi, tùy những người này ở vào bất cứ vị trí nào, ta cũng đem thần thông lực và trí tuệ lực mà dẫn dắt cho họ được đứng vào trong Pháp Hoa. Văn Thù, sau khi Như Lai nhập diệt, bồ tát có ai thành tựu cách sống yên vui thứ tư này thì diễn giảng Pháp Hoa không có lầm lỗi, thường được bốn chúng, được quốc vương, vương tử, đại thần, dân chúng, bà la môn, cư sĩ, và mọi thành phần khác, cùng hiến cúng cung kính tôn trọng tán dương. Chư thiên ở trong không gian, vì nghe phápnên cũng thường xuyên theo hầu. Khi vị ấy ở những nơi thôn xóm thành thị, hoặc ở những chỗ núi rừng thanh vắng, có ai đến muốn gạn hỏi, thì chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ vị ấy, làm cho người nghe ai cũng hoan hỷ. Tại sao, vì Pháp Hoa là bản kinh được sự giữ gìn của thần lực chư Phật quá khứ vị lai cùng với hiện tại. Văn Thù, trong vô lượng quốc độ, kinh Pháp Hoa này đến nỗi cái tên còn khó được nghe đến, huống chi được nhìn thấy, thọ trì đọc tụng đối với kinh ấy.
    Văn Thù, ví như vị luân vương hùng cường, muốn sử dụng uy thế làm cho các nước thần phục. Nhưng các quốc vương không tuân lịnh. Luân vương phải động binh chinh phạt. Và thấy tướng sĩ chiến đấu ai có công thì luân vương mừng, tùy công mà thưởng bằng cách hoặc cho ruộng đất, nhà cửa, thôn xóm, thành thị, hoặc cho y phục và những đồ trang sức thân thể, hoặc cho những thứ quí báu như bạc, vàng, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, hoặc cho voi ngựa, xe thuyền, tôi tớ, dân chúng. Chỉ viên ngọc sáng trong bối tóc thì không đem cho, vì chỉ trên đỉnh đầu của luân vương mới nên có viên ngọc sáng ấy. Nếu đem cho thì tướng sĩ của luân vương tất hết sức kinh dị. Văn Thù, Như Lai cũng vậy, nhờ định lực và tuệ lực mà có quốc gia chánh pháp, ngự trị ba cõi. Nhưng chúa tể các loại ma không chịu khuất phục. Tướng sĩ hiền thánh của Như Laiphải chiến đấu với chúa tể các loại ma ấy. Và ai có công thì Như Lai hoan hỷ, ở giữa bốn chúng mà nói cho họ các kinh pháp để họ đẹp dạ, thưởng cho họ bao nhiêu là tài sảnchánh pháp đại loại như thiền định, giải thoát, căn bản và năng lực thuần khiết, lại ban cho họ đô thành niết bàn, tuyên ngôn họ được niết bàn để dẫn đạo cho lòng họ hoan hỷ. Nhưng không nói cho họ kinh Pháp Hoa này.
    Văn Thù, vị luân vương thấy tướng sĩ ai có công lớn mới rất mừng, và đem viên ngọc sáng, một viên ngọc khó có ai tin nổi giá trị của nó, từ lâu luân vương để trong bối tóc, không bừa bãi cho ai mà nay thưởng cho. Như Lai cũng vậy, làm vị pháp vương vĩ đại trong cả ba cõi, đem chánh pháp giáo hóa hết thảy chúng sinh, thấy tướng sĩ hiền thánhchiến đấu với ma hợp thể, ma phiền não và ma chết chóc mà ai có công lớn diệt ba độc, vượt ba cõi, phá lưới ma, thì bấy giờ Như Lai rất hoan hỷ, và đem kinh Pháp Hoa, bản kinh có năng lực làm cho chúng sinh đạt đến tuệ giác của bậc Toàn giác, hết thảy thế gian phần nhiều oán ghét khó tin, trước đây chưa nói bao giờ mà nay nói cho. Văn Thù, Pháp Hoa là pháp thoại bậc nhất của chư Phật. Trong các pháp thoại, Pháp Hoa sâu xahơn hết, nên cuối cùng Như Lai mới nói mà ban cho, như vị luân vương hùng cường giữ mãi viên ngọc sáng, ngày nay mới đem ban thưởng. Văn Thù, Pháp Hoa là kho tàng bí mật của chư Phật, ở trên hết trong các kinh pháp, Như Lai giữ gìn từ lâu, không nói bừa bãi, ngày nay mới đem phát lộ cho chư vị.
    Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (45) Thường xuyên nhẫn nhục,
    xót thương tất cả,
    mới diễn giảng được
    kinh Phật tán dương.
    (46) Trong thời cuối cùng,
    kính giữ Pháp Hoa,
    thì với những vị
    tại gia xuất gia
    cùng với những vị
    không phải bồ tát,
    phải có từ bi
    thương người không nghe
    không tin Pháp Hoa
    là rất mất mát.
    (47) Nguyện rằng khi được
    tuệ giác Phật đà
    thì dùng phương tiện
    nói cho Pháp Hoa,
    để làm cho họ
    đứng trong pháp ấy.
    *
    (48) Ví như luân vương
    năng lực hùng cường,
    thấy các tướng sĩ
    chiến đấu có công,
    thì đem tưởng thưởng
    đủ cả mọi vật:
    voi ngựa xe thuyền,
    đồ trang sức mình,
    cùng với nhà đất,
    thôn xóm thị thành.
    (49) Hoặc cho y phục,
    các thứ vàng ngọc,
    tôi tớ tài sản
    vui vẻ cho cả.
    (50) Nhưng ai mạnh nhất
    làm việc khó làm,
    mới mở bối tóc
    lấy cho ngọc sáng.
    (51) Như Lai cũng vậy:
    làm vua các pháp,
    có sức mạnh lớn
    là sức nhẫn nhục,
    có kho báu lớn
    là kho tuệ giác,
    vận dụng đại từ
    cùng với đại bi
    giáo hóa thế giới
    một cách đúng cách.
    (52) Là thấy mọi người
    chịu bao khổ não,
    muốn thoát khổ não
    nên chiến với ma;
    Như Lai vì họ
    nói các chánh pháp,
    đem phương tiện khéo
    nói bao khế kinh.
    (53) Khi biết mọi người
    đắc lực cả rồi,
    cuối cùng nói cho
    kinh Pháp Hoa này;
    tựa như luân vương
    lấy viên ngọc sáng
    để trong bối tóc
    đem ra ban thưởng.
    (54) Pháp Hoa tôn quí
    trên hết các kinh,
    Như Lai giữ gìn
    không nói bừa bãi.
    Nay mới đúng lúc
    nói cho chư vị.
    (55) Sau khi Như Lai
    nhập niết bàn rồi,
    những ai tìm kiếm
    tuệ giác Phật đà,
    muốn được yên vui
    giảng nói Pháp Hoa
    thì phải thân gần
    bốn cách sống vui.
    *
    (56) Đọc tụng Pháp Hoa
    thì không lo bực,
    cũng không đau ốm,
    sắc tướng sáng tươi;
    không sinh hay sống
    ở trong những chỗ
    nghèo nàn khốn cùng
    thấp hèn xấu xí.
    (57) Ai cũng thích nhìn
    như mến hiền thánh.
    Đồng tử chư thiên
    làm người phục dịch.
    (58) Dao gậy vô phương,
    độc tố hết phép.
    Ai muốn mắng chưởi
    miệng lưỡi tắc nghẽn.
    (59) Như sư tử chúa
    đi đâu chẳng sợ.
    Trí tuệ chiếu sáng
    như mặt trời chiếu.
    (60) Trong mộng thì thấy
    toàn việc tốt đẹp.
    Được thấy Như Lai
    ngồi tòa sư tử,
    đang thuyết pháp cho
    tỷ kheo bao quanh.
    (61) Được thấy tám bộ
    chư thiên thiện thần
    nhiều bằng hằng sa
    cung kính chắp tay,
    và thấy chính mình
    thuyết pháp cho họ.
    (62) Được thấy Như Lai
    thân đầy tướng quí
    toàn màu hoàng kim,
    phóng ra vô số
    các tia ánh sáng
    chiếu soi khắp cả,
    lại còn sử dụng
    âm thanh Phạn thiên
    tuyên thuyết diễn giảng
    các loại chánh pháp.
    (63) Lại thấy Như Lai
    nói pháp tối thượng
    cho cả bốn chúng,
    và thấy bản thân
    ở trong bốn chúng
    chắp tay ca tụng,
    (64) nghe pháp, hoan hỷ,
    và hiến cúng ngài,
    được pháp tổng trì
    thành trí bất thoái.
    (65) Và thấy Như Lai
    biết mình vào sâu
    tuệ giác Phật đà
    nên thọ ký cho
    sẽ thành một đấng
    Biết rất chính xác,
    bằng cách nói rằng
    này thiện nam tử,
    sau này ông được
    cái trí vô lượng
    là trí vĩ đại
    của chư Phật đà,
    (66) với một quốc độ
    tráng lệ sạch sẽ
    và lớn đến nỗi
    không cõi nào bằng;
    trong quốc độ ấy
    cũng có bốn chúng
    chắp tay lắng nghe
    chánh pháp tối thượng.
    (67) Lại thấy bản thân
    ở trong núi rừng,
    tu tập thiện pháp
    thấu suốt thật tướng,
    vào sâu thiền định
    thấy chư Như Lai.
    (68) Thấy thân Như Lai
    toàn màu hoàng kim,
    tướng quí trăm phước
    cực kỳ trang nghiêm;
    thấy mình nghe pháp
    Như Lai tuyên thuyết,
    và đem pháp ấy
    nói lại cho người.
    Những người đọc tụng
    Diệu Pháp Liên Hoa
    thì thường được có
    mộng đẹp như vậy.
    (69) Lại mộng thấy mình
    làm vị quốc vương,
    rời bỏ cung điện
    cùng với hoàng gia,
    bỏ cả năm thứ
    dục lạc thượng thặng,
    và rồi đi đến
    nơi bồ đề tràng;
    (70) ngồi tòa sư tử
    dưới cây bồ đề,
    và qua bảy ngày
    suy tầm tuệ giác
    là được hoàn thành
    tuệ giác của Phật;
    (71) sau khi hoàn thành
    tuệ giác vô thượng,
    đứng lên chuyển đẩy
    bánh xe chánh pháp,
    giảng diễn chánh pháp
    cho cả bốn chúng
    trải qua đến cả
    vạn ức thời kỳ;
    (72) giảng diễn chánh pháp
    thuần khiết tinh túy,
    giáo hóa cứu độ
    vô lượng chúng sinh,
    sau đó nhập vào
    niết bàn hoàn toàn,
    tựa như đèn tắt
    khói cũng không còn.
    (73) Chính trong thời kỳ
    dữ dội sau này,
    ai diễn giảng được
    cái pháp bậc nhất,
    thì người như vậy
    được đại lợi ích
    là những hiệu quả
    đã nói trên đây.

  19. #19

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch

    Phẩm 15:
    Từ đất xuất hiện
    Lúc ấy các vị bồ tát đại sĩ từ các quốc độ khác đến quốc độ này, nhiều hơn tám hằng sa, đứng dậy trong đại hội, chắp tay đảnh lễ mà thưa, bạch đức Thế Tôn, nếu ngài cho phép chúng con, sau khi ngài nhập diệt, ở tại quốc độ Kham nhẫn này, nỗ lực tinh tiến mà kính giữ Pháp Hoa, thì chúng con nguyện ở tại đây mà diễn giảng kinh ấy một cách phong phú. Đức Thế Tôn bảo các vị bồ tát đại sĩ, hãy thôi, chư thiện nam tử, khỏi phiền chư vị kính giữ Pháp Hoa tại quốc độnày. Quốc độ này của Như Lai tự có sáu vạn hằng sa bồ tát đại sĩ, mỗi vị lại có sáu vạn hằngsa tùy thuộc. Thầy trò các vị này có thể, sau khi Như Lai nhập diệt, kính giữ Pháp Hoa bằng cách đọc tụng, công bố rộng rãi...
    Khi đức Thế Tôn nói như vậy thì đất của toàn thểđại thiên quốc độ Kham nhẫn đều chấn động mà nứt ra, và từ đó có vô số bồ tát đại sĩ cùng lúcvọt lên. Các vị ấy thân toàn màu hoàng kim, đủ cả ba mươi hai tướng quí, và ánh sáng thì vô sốlượng. Các vị cùng ở trong không gian phía dướiquốc độ Kham nhẫn này, nghe tiếng đức Thế Tôn nói như trên nên từ đó dũng xuất. Các vị toàn là những bậc đạo sư, dẫn theo đại chúng bồ tát tùy thuộc: Nhiều vị, mỗi vị dẫn theo sáu vạn hằng sa tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo năm vạn, bốn vạn, ba vạn, hai vạn hay một vạn hằng sa tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo một hằng sa, một phần nửa của một hằng sa, một phần tư của một hằng sa, cho đến một phần ngàn vạn ức trăm triệu của một hằng sa tùy thuộc. Nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ngàn vạn ức trăm triệu tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ức vạn tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo ngàn vạn, trăm vạn cho đến một vạn tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo một ngàn, một trăm cho đến một chục tùy thuộc; nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ dẫn theo năm, bốn, ba, hai hay một tùy thuộc. Và nhiều vị hơn nữa, mỗi vị chỉ đến đơn độc, vì thích sống tách rời. Thầy trò các vị bồ tát đại sĩ như thế này thật vô lượng vô biên, toán số ví dụ cũng không thể xác định.
    Thầy trò các vị từ đất xuất hiện rồi, cùng đến chỗ đức Đa Bảo và đức Thích Ca, nơi ngôi tháp do bảy chất liệu quí báu kết hợp, ở trong không gian. Đến rồi, các vị hướng về hai ngài mà đem đầu mặt lạy ngang chân. Các vị lại đến chỗ chư Phật phân thân ngồi trên tòa sư tử ở dưới các cây ngọc, làm lễ cũng như vậy. Theo chiều bên phải, các vị đi quanh chư Phật phân thân mỗi ngài ba vòng, chắp tay, cung kính, đem những cách thức tán dương của bồ tát mà tán dươngcác ngài. Rồi đứng lại một phía, các vị hân hoanchiêm ngưỡng đức Đa Bảo và đức Thích Ca. Thì gian các vị mới xuất hiện cho đến tán dươngxong, trải qua hết năm chục thời kỳ bậc nhỏ. Trong thì gian ấy, đức Thế Tôn ngồi yên lặng. Bốn chúng cũng yên lặng trong năm chục thời kỳ bậc nhỏ ấy. Nhưng do thần lực của đức Thế Tôn nên làm cho cả đại hội coi như nửa ngày mà thôi.
    Lại nhờ thần lực của đức Thế Tôn mà bốn chúng thấy các vị bồ tát đại sĩ như thế này đầy khắp không gian của quốc độ Kham nhẫn mà, lúc bấy giờ, quang cảnh tựa như không gian của vô lượng quốc độ. Rồi bốn vị trong số các vị đạo sư, thứ nhất danh hiệu Thượng Hạnh, thứ hai danh hiệu Vô biên Hạnh, thứ ba danh hiệu Tịnh Hạnh, thứ tư danh hiệu An lập Hạnh, là bốn vị đạo sư thượng thủ, cùng đứng trước đại chúng bồ tát ấy, chắp hai tay lại, nhìn đức Thích Ca mà vấn an, rằng bạch đức Thế Tôn, ngài ít bịnh, ít phiền, sống yên vui chăng? Những người đáng được ngài hóa độ, họ có tiếp nhận sự hóa độ ấy một cách dễ dàng để làm cho ngài khỏi phải mệt nhọc chăng? Bốn vị cùng lặp lại sự vấn an của mình bằng lời chỉnh cú sau đây.
    (1) Thế Tôn yên vui
    ít bịnh ít phiền,
    hóa độ chúng sinh
    không mệt nhọc chăng?
    (2) Chúng sinh dễ dàng
    tiếp nhận hóa độ
    để làm cho ngài
    khỏi mệt nhọc chăng?
    Khi ấy đức Thế Tôn bảo đại chúng bồ tát, đúng như vậy, chư thiện nam tử; Như Lai yên vui, ít bịnh ít phiền, những người đáng được hóa độ cũng dễ hóa độ, không mệt nhọc gì. Những người này bao đời đến nay thường tiếp nhận sự giáo hóa của Như Lai, lại hiến cúng tôn trọng mà gieo trồng thiện căn ở nơi chư Phật quá khứ. Những người này mới thấy thân Như Lai, mới nghe lời Như Lai, là tức thì tin tưởng chấp nhận, nhập vào tuệ giác Như Lai. Ngoại trừ những người trước đây tu học theo giáo pháp cỗ xe thấp nhỏ; những người như vậy ngày nay Như Lai cũng làm cho nghe được Pháp Hoa mà nhập được Phật tuệ. Nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, bốn đại bồ tát lại nói lời chỉnh cú sau đây.
    (3) Tốt thay, lành thay,
    Thế Tôn đại hùng!
    bao nhiêu chúng sinh
    hóa độ dễ dàng!
    (4) Họ có thể hỏi
    về tuệ giác Phật
    cực kỳ sâu xa,
    hỏi rồi nghe được
    nghe rồi tin được
    tin rồi làm được.
    Tất cả chúng con
    kính xin tùy hỷ.
    Đức Thế Tôn tán dương bốn vị đại bồ tát thượng thủ, tốt lắm, chư thiện nam tử, các vị có thể có sự tùy hỷ như vậy đối với Như Lai.
    Vào lúc bấy giờ, đức Di Lạc cùng chúng chư bồ tát nhiều đến tám ngàn hằng sa, đều nghĩ rằng, từ trước đến nay, chúng ta không thấy không nghe chúng đại bồ tát như vầy, từ đất dũng xuất, đang đứng trước đức Thế Tôn mà chắp tay hiến cúng và vấn an. Đức Di Lạc biết ý nghĩ trong lòng tám ngàn hằng sa bồ tát, lại muốn giải trừ nghi hoặc của mình, nên chắp tay hướng về đức Thế Tôn mà thưa hỏi bằng những lời chỉnh cú sau đây.
    (5) Đại chúng bồ tát
    vô lượng vạn ức
    như thế này đây
    con chưa từng thấy.
    Thưa đấng hoàn hảo
    phước đức tuệ giác!
    xin ngài dạy cho
    chúng con được rõ.
    (6-Các vị như vầy
    7) từ đâu đến đây?
    vì lý do nào
    mà qui tụ lại?
    Thân thể cao lớn,
    thần thông quảng đại,
    trí tuệ khó lường,
    trí nhớ vững chắc,
    nhẫn lực vĩ đại,
    ai cũng thích nhìn:
    các vị như vậy
    từ đâu đến đây?
    (8) Mỗi vị đại sư
    dẫn theo đệ tử
    số lượng vô số
    tính theo hằng sa.
    (9) Có những đại sư
    dẫn theo đệ tử
    số lượng nhiều bằng
    sáu vạn hằng sa,
    mà con xem ra
    đệ tử như vậy
    ai cũng nhất tâm
    cầu tuệ giác Phật.
    (10) Những đại sư này
    đã nhiều bằng số
    sáu vạn hằng sa,
    cùng nhau đến đây
    để được hiến cúng
    đối với Thế Tôn,
    và được coi giữ
    kinh Pháp Hoa này.
    (11-Còn các đại sư
    22) dẫn theo đệ tử
    năm vạn hằng sa,
    số đại sư này
    lại càng nhiều hơn
    số đại sư trên.
    Các vị dẫn theo
    bốn vạn ba vạn
    hai vạn một vạn
    một ngàn một trăm
    đến một hằng sa,
    phần nửa phần ba
    cùng với phần tư,
    cho đến một phần
    vạn ức trăm triệu
    của một hằng sa,
    số đại sư này
    càng nhiều hơn trên.
    Các vị dẫn theo
    vạn ức trăm triệu,
    dẫn theo vạn ức,
    cho đến nửa ức,
    số đại sư này
    càng nhiều hơn trên.
    Các vị đại sư
    dẫn theo trăm vạn,
    cho đến một vạn,
    một ngàn một trăm
    năm chục một chục
    đến ba hai một;
    và các đại sư
    chỉ đến đơn độc,
    vì thích đơn độc
    không có đệ tử.
    Tất cả cùng đến
    chỗ Thế Tôn đây,
    số lượng tuần tự
    càng nhiều hơn trên.
    (23) Đại chúng bồ tát
    như con vừa nói,
    nếu ai phát thẻ
    để đếm số lượng,
    thì qua thời kỳ
    nhiều hơn hằng sa,
    cũng vẫn không thể
    đếm mà biết hết.
    (24) Đại chúng bồ tát
    mà cả uy đức
    và sự tinh tiến
    cùng vĩ đại này,
    ai đã thuyết pháp
    giáo hóa tác thành?
    (25) Họ từ vị nào
    bắt đầu phát tâm?
    và đã tuyên dương
    giáo pháp Phật nào?
    đã từng tiếp nhận
    thực hành kinh nào?
    và từ Phật nào
    họ tu Phật tuệ?
    (26-Đại chúng bồ tát
    27) như thế này đây
    thần lực trí lực
    thật là vĩ đại:
    khắp quốc độ này
    đất chấn động cả,
    và họ từ đó
    mà cùng dũng xuất.
    (28) Bạch đức Thế Tôn,
    từ trước đến nay
    con chưa hề thấy
    sự trạng như vầy.
    Xin ngài nói cho
    danh hiệu quốc độ
    mà các vị này
    từ đó đến đây.
    (29) Con thường du hóa
    khắp các quốc độ,
    mà chưa hề thấy
    các vị như vầy.
    (30) Trong các vị này
    đến nỗi một người
    con cũng không biết.
    Các vị bỗng nhiên
    từ đất xuất hiện.
    Xin đức Thế Tôn
    nói rõ nguyên ủy
    của các vị ấy.
    (31) Trong đại hội đây
    chúng chư bồ tát
    vô số vạn ức
    muốn biết điều này.
    (32) Nguyên ủy gốc ngọn
    của các vị ấy
    là như thế nào,
    thưa đấng Thế Tôn
    trí đức vô lượng,
    xin ngài dạy rõ
    để giải ngờ vực
    cho cả các chúng.
    Chư Phật phân thân của đức Thế Tôn, đến đây từ vô số quốc độ ở mọi phương hướng, hiện vẫn ngồi xếp bằng trên tòa sư tử dưới các cây ngọc khắp cả tám hướng. Các vị thị giả của chư Phật ấy ai cũng thấy đại chúng bồ tát vọt lên từ đất khắp cả đại thiên quốc độ này, và đứng trong không gian. Mỗi vị thị giả thưa với đức Phật của mình, rằng bạch đức Thế Tôn, đại chúng bồ tát vô lượng vô biên vô số này từ đâu đến đây? Chư Phật ngài nào cũng bảo vị thị giả của mình, rằng thiện nam tử, hãy chờ một lát. Vị đại bồ tátdanh hiệu Di Lạc, người được đức Thích Ca Thế Tôn thọ ký làm Phật kế ngài, đã hỏi ngài về việc này. Ngài sắp giải đáp, nhân đó các người sẽ được nghe.
    Khi ấy đức Thế Tôn bảo, tốt lắm, Di Lạc, đại sĩ có thể hỏi Như Lai về việc quan trọng nhưvậy. Chư vị hãy cùng nhau tập trung tâm trí, khoác áo giáp tinh tiến, phát ý chí cứng chắc. Như Lai nay muốn phát lộ về tuệ giác của Như Lai, thần thông của Như Lai, khí lực của Như Lai, uy lực của Như Lai. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (33) Hãy cố nỗ lực
    tập trung tâm trí.
    Như Lai sắp nói
    về sự thể này.
    Chư vị đừng có
    hoài nghi thắc mắc.
    Tuệ giác Như Lai
    ngoài tầm lý luận.
    (34) Hôm nay chư vị
    hãy xuất sức mạnh
    của sự tin tưởng,
    hãy đứng vững chắc
    trong sự nhận định
    và sự tế nhị.
    Vì lẽ những gì
    xưa nay chưa nghe
    thì nay chư vị
    sẽ được nghe đến.
    (35) Như Lai hôm nay
    an ủi như vậy,
    để cho chư vị
    khỏi ngờ khỏi sợ.
    Như Lai không có
    lời nói không thật,
    tuệ giác Như Lai
    không thể lường nổi.
    (36) Cái pháp bậc nhất
    Như Lai thực hiện,
    là pháp rất sâu,
    trên sự phân tích.
    Pháp ấy Như Lai
    nay sắp nói đến.
    Tất cả chư vị
    chú ý lắng nghe.
    Nói nói những lời chỉnh cú ấy rồi, đức Thế Tôn bảo đức Di Lạc, hôm nay, giữa đại hộicác chúng như vầy, Như Lai tuyên cáo để chư vị biết. Di Lạc, đại chúng bồ tát vô lượngvô số, từ đất dũng xuất và chư vị xưa nay chưa thấy đây, là do Như Lai ở thế giới hệ Kham nhẫn này, thành tựu tuệ giác vô thượng rồi giáo hóa chỉ dẫn cho các vị ấy thuần hóa tính ý, phát tâm tuệ giác. Các vị ấy ở trong không gian phía dưới thế giới hệ này. Đối với kinh pháp, các vị đọc tụng thông suốt, suy xét, phân tích và ghi nhớ chính xác. Di Lạc, các thiện nam tử này không thích ở chỗ đông đảo và nói năng nhiều lời, thường xuyên thích nơi yên tĩnh, nỗ lực tinh tiến, chưa từng dừng nghỉ. Các vị không sống với nhân loại hay chư thiên. Các vị thường ưa thích tuệ giác sâu xa, không bị trở ngại, nghĩa là thường ưa thích giáo pháp chư Phật, chuyên tâm tinh tiến mà cầu đạt cho được tuệ giác vô thượng. Đức Thế Tôn muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (37) Di Lạc đại sĩ,
    chư vị nên biết,
    đại chúng bồ tát
    như thế này đây,
    vô số thời kỳ
    cho đến bây giờ,
    thường xuyên tu tập
    tuệ giác Phật đà.
    (38) Các vị toàn do
    Như Lai giáo hóa
    làm cho phát ra
    tâm đại bồ đề.
    Các vị như vầy
    là con Như Lai,
    và sống ngay nơi
    thế giới hệ này.
    (39) Thường hành đầu đà
    thích nơi yên tĩnh,
    tách rời đông đảo
    ồn ào náo nhiệt,
    không ưa nói bàn
    nhiều điều lắm chuyện.
    Những con Phật này
    học tập về pháp
    tuệ giác vô thượng
    của Như Lai đây,
    ngày đêm thường xuyên
    nỗ lực tinh tiến
    để cầu đạt được
    tuệ giác Phật ấy.
    (40-Tất cả các vị
    41) cùng nhau ở trong
    không gian phía dưới
    quốc độ Kham nhẫn.
    Trí lực khí lực
    đều rất vững chắc,
    thường xuyên tinh tiến
    cầu tuệ giác Phật.
    Các vị tuyên thuyết
    đủ loại chánh pháp
    mà trong tâm tưởng
    không e sợ gì.
    (42) Như Lai ngồi dưới
    bồ đề đại thọ
    gần thành Già da,
    thành tựu tuệ giác
    tuyệt đối chính xác,
    chuyển đẩy bánh xe
    chánh pháp tối thượng,
    bấy giờ Như Lai
    mới giáo hóa cho
    các vị như vầy,
    làm họ bắt đầu
    phát tâm tuệ giác,
    đến nay cùng đến
    vị trí bất thoái,
    và ai cũng sẽ
    thành đức Phật đà.
    (43) Như Lai hôm nay
    nói lời rất thật.
    Chư vị một lòng
    mà tin Như Lai.
    Rằng chính Như Lai
    từ lâu đến nay
    giáo hóa đại chúng
    bồ tát như vầy.
    Bấy giờ trong lòng đức Di Lạc và vô số bồ tát lại sinh nghi hoặc, lấy làm quái lạ, cho là một sự chưa từng có mà nghĩ rằng, đức Thế Tôn làm cách nào mà trong một thời gian ít ỏi, đã giáo hóa cho đại bồ tát vô lượng vô số như vầy, làm cho tất cả đều đứng vững ở trong tuệ giác vô thượng? Nghĩ như vậy nên đức Di Lạc thưa rằng, bạch đức Thế Tôn, ngài làm thái tử, thoát ly hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ đề tràng, thành đạt tuệ giác vô thượng, từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm. Trong thì gian ngắn ngủi như vậy mà tại sao ngài có thể làm được một cách lớn lao việc làm của Phật, ấy là đem khí lực của Phật và dùng đức tính của Phật mà giáo hóa số đại bồ tátnhư vầy sẽ thành tuệ giác vô thượng _ số đại bồ tát mà giả sử có người đếm đến ngàn vạn ức thời kỳ cũng không biết được số lượng, không tìm được giới hạn, số đại bồ tátmà chắc chắn từ lâu xa cho đến bây giờ đã ở nơi chỗ vô biên chư Phật mà gieo trồng gốc rễ pháp lành, thành thục đường đi của bồ tát, thường xuyên tu tập phạn hạnh? Bạch đức Thế Tôn, điều đó quả là cả thế gian đều khó tin. Ví như có kẻ sắc tốt, tóc đen, tuổi mới hai mươi lăm, mà chỉ những người trăm tuổi, nói rằng đây là con ta, những người trăm tuổi cũng chỉ người trẻ tuổi, nói rằng đây là cha, đã sinh ra và nuôi lớn chúng ta, thì đó là việc thật khó tin. Đức Thế Tôn cũng vậy. Từ khi ngài thực hiện tuệ giác vô thượngcho đến ngày nay thực ra chưa lâu, còn đại chúng bồ tát này thì chắc chắn đã trải quavô lượng thời kỳ, vì tuệ giác Phật đà mà nỗ lực tinh tiến, khéo vào khéo ở và khéo ra đối với vô số chánh định, được đại thần thông, lâu tu phạn hạnh, lại khéo tuần tự tu tập các loại thiện pháp, khéo hỏi khéo đáp, nói tóm, họ là bảo vật trong mọi người, hiếm có nhất thế giới. Vậy mà ngày nay đức Thế Tôn lại bảo ngài thực hiện tuệ giác Phật đà rồi mới làm cho các vị ấy phát tâm đại bồ đề, giáo hóa chỉ dẫn cho các vị ấy hướng đến tuệ giácvô thượng. Nghĩa là đức Thế Tôn trở thành đấng Toàn giác chưa bao lâu mà thực hiệnđược thành quả vĩ đại như vậy! Dẫu rằng chúng con tin sự tùy nghi thuyết pháp của đức Thế Tôn, tin lời đức Thế Tôn nói chưa bao giờ không thật, tin sự thấy biết của đức Thế Tôn là thấu suốt tất cả, nhưng các vị bồ tát mới phát tâm, sau khi đức Thế Tôn nhập diệtmà nghe thấy những lời này, thì có thể có kẻ không tin tưởng tiếp nhận, sinh ra cái lỗi bài bác chánh pháp. Dạ, chính vì vậy, bạch đức Thế Tôn, con xin ngài giảng dạy, giải trừnghi hoặc cho chúng con, lại làm cho bao nhiêu thiện nam và thiện nữ trong thì vị lai nghe được việc này cũng không nghi hoặc. Đức Di Lạc muốn lặp lại ý nghĩa đã thỉnh cầu, nên nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (44) Trước đây Thế Tôn
    thoát ly hoàng cung
    của dòng họ Thích,
    đến gần Già da
    mà ngồi ở nơi
    bồ đề đại thọ.
    Từ đó đến nay
    chưa được bao lâu.
    (45) Vậy mà Thế Tôn
    lại có những người
    con Phật như vầy
    số lượng vô số,
    từ lâu đi theo
    tuệ giác của Phật,
    đã đứng vững vàng
    trong thần thông lực,
    đã khéo tu học
    đường đi bồ tát.
    (46) Không hề nhuốm bẩn
    theo thói thế gian
    y như hoa sen
    không dính bùn nước,
    những con Phật này
    từ đất xuất hiện,
    và cùng cung kính
    đứng trước Thế Tôn.
    (47) Sự thể thế này
    thật khó suy luận.
    Làm sao tin được
    Thế Tôn thành tựu
    tuệ giác Phật đà
    mới rất gần đây,
    lại tác thành cho
    rất nhiều bồ tát
    đã được nhiều việc
    như thế này đây?
    Để giải nghi ngờ
    cho cả các chúng,
    con xin Thế Tôn
    chỉ dạy đúng như
    sự thực được có
    trong vấn đề này.
    (48-Như người trẻ mạnh
    49) tuổi mới hâm lăm
    mà nói với người:
    những kẻ trăm tuổi
    tóc bạc mặt nhăn
    già cả thế kia
    là con tôi sinh,
    những người thế kia
    cũng nói người trẻ
    là cha chúng tôi.
    Cha trẻ con già,
    đời ai tin được.
    (50-Thế Tôn cũng vậy;
    51) từ khi thực hiện
    tuệ giác vô thượng
    cho đến ngày nay,
    thì gian được có
    mới rất gần đây.
    Còn các bồ tát
    đến như thế này
    trí nhớ vững chắc,
    không còn khiếp nhược,
    vô lượng thời kỳ
    cho đến ngày nay
    đi theo con đường
    của bồ tát đi,
    khéo hỏi khéo đáp
    tâm không sợ hãi,
    ẩn nhẫn cực nhục,
    tâm trí quyết đoán,
    tướng mạo tuyệt mỹ,
    uy đức toàn hảo,
    Phật đà mười phương
    đều ca tụng cả,
    khéo léo phân tích
    diễn giảng pháp nghĩa,
    (52) không thích ở nơi
    những chỗ đông người
    mà thường thích thú
    ở trong thiền định,
    vì cầu tuệ Phật
    mà họ cùng nhau
    ở trong không gian
    dưới quốc độ này.
    (53-Chúng con trực tiếp
    54) nghe Thế Tôn nói,
    nên với việc này
    không ngờ vực gì.
    Nhưng xin Thế Tôn
    vì người tương lai
    giải thích việc này
    cho họ hiểu rõ.
    Vì lẽ nếu ai
    ngờ vực không tin
    kinh Pháp Hoa này
    thì sa đường dữ,
    nên con thỉnh cầu
    ngài giải thích cho:
    Đại chúng bồ tát
    vô số như vầy,
    tại sao Thế Tôn
    trong thì gian ngắn
    có thể dạy cho
    bắt đầu phát tâm
    cho đến đến nơi
    vị trí bất thoái?

  20. #20

    Mặc định

    KINH PHÁP HOA
    (Hoa Sen Của Chánh Pháp)
    Phần CHÍNH VĂN - Trí Quang dịch


    Phẩm 16:
    Sự sống lâu của đức Thế Tôn
    Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo chư vị bồ tát, và toàn thể các chúng ở trong đại hội, chư thiện nam tử, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Một lần nữa, đức Thế Tôn bảo toàn thể đại hội, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Lại một lần nữa, đức Thế Tônbảo toàn thể đại hội, các người hãy tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Bấy giờ đại chúng bồ tát mà bậc thượng thủ là đức Di Lạc, chắp taymà thưa, bạch đức Thế Tôn, xin ngài chỉ dạy, chúng con sẽ tin tưởng tiếp nhận lời ngài. Thấy chư vị bồ tát thỉnh cầu đến ba lần mà không ngưng, nên đức Thế Tôn bảo, chư vị hãy nghe cho kỹ về thần lực bí mật của Như Lai.
    Chư thiện nam tử, tất cả thế giới như chư thiênnhân loại và tu la, ai cũng nói đời này đức Thích Ca Thế Tôn rời khỏi hoàng cung họ Thích, cách thành Già da không xa, ngồi nơi bồ đề tràng mà được tuệ giác vô thượng. Nhưng, chư thiện nam tử, Như Lai thật sự trở thành Phật đà thì đến nayđã cực nhiều con số trăm triệu thời kỳ. Ví nhưhàng ức con số vô số đại thiên quốc độ, giả thiếtcó người đem nghiền thành bụi nhỏ, rồi đi về hướng đông, qua khỏi hàng ức con số vô sốquốc độ mới bỏ xuống một hạt bụi nhỏ ấy. Tuần tự như vậy mà đi về hướng đông và bỏ hết số bụi. Chư thiện nam tử, trong ý chư vị nghĩ thế nào, bao nhiêu quốc độ mà người ấy đi qua, có thể nào nghĩ và tính mà biết được số lượng hay không? Đức Di Lạc và các vị đồng chúng cùng thưa, bạch đức Thế Tôn, quốc độ như vậy vô lượng vô biên, không phải toán số biết được, cũng không phải trí lực biết thấu. Tất cả các vị thanh văn duyên giác vận dụng tuệ giác không còn sơ hở cũng không thể nghĩ mà biết được số lượng ấy. Chúng con là những người đã ở địa vịKhông thoái chuyển mà đối với số lượng ấy cũng không thấu suốt. Bạch đức Thế Tôn, quốc độ như vậy thật vô lượng vô biên.
    Đức Thế Tôn bảo các vị đại bồ tát, chư thiện nam tử, Như Lai nay tuyên ngôn rõ ràng cho chư vị biết, bao nhiêu quốc độ ấy, được hay không được bỏ bụi xuống, đều đem hết ra mà nghiền làm bụi nữa, rồi mỗi hạt bụi giả thiết một thời kỳ, thì Như Lai thành Phật đến nay, còn hơn số ấy đến cực nhiều con số thời kỳ vô số. Từ đó đến nay, Như Lai thường ở tại quốc độ Kham nhẫnnày mà thuyết pháp giáo hóa, lại ở vô số con số vô số quốc độ khác nữa mà dắt dẫn ích lợi cho các loại chúng sinh. Chư thiện nam tử, trong thì gian ấy và trong những quốc độ ấy, Như Lai tự nói là các đức Như Lai khác, đại loại như Nhiên Đăng Như Lai, lại nói đến sự nhập diệt của các đức Như Lai ấy. Như vậy toàn là phương tiệnmà nói. Chư thiện nam tử, có ai đến chỗ Như Laithì Như Lai đem mắt Phật mà nhìn tín tiến niệm định tuệ, các căn ấy của họ lanh hay chậm, rồi tùy sự nên hóa độ như thế nào mà, tại mỗi quốc độ, Như Lai tự nói danh hiệu khác nhau, tuổi tác lớn nhỏ, lại nói sẽ nhập diệt. Như Lai còn dùng đủ cách phương tiện mà nói chánh pháp tinh túy, làm cho chúng sinh ai cũng hoan hỷ. Chư thiện nam tử, Như Laithấy chúng sinh ưa thích giáo pháp thấp nhỏ, đức mỏng tội nặng, thì vì những người ấy mà nói rằng Như Lai lúc trẻ tuổi đã xuất gia và mới được tuệ giác vô thượng gần đây. Nhưng thật sự Như Lai thành Phật đến nay đã lâu xa như trên đã nói, chỉ vì phương tiệngiáo hóa chúng sinh cho họ nhập vào tuệ giác của Phật, nên nói mới thành Phật gần đây.
    Chư thiện nam tử, Như Lai thuyết ra kinh pháp toàn là để hóa độ chúng sinh, nên nói mình qua thân mình hay nói mình qua thân khác, nói mình biểu hiện qua thân mình hay nói mình biểu hiện qua thân khác, nói mình biểu hiện qua việc mình hay nói mình biểu hiện qua việc khác, mọi cách nói đều trung thực, không dối trá. Vì lẽ Như Lai đúng như sự thật của ba cõi mà thấy ba cõi không sinh không chết, không lui mất không hiện ra, không tồn tại không nhập diệt, không thật không giả, không như nhau không khác nhau. Không như chúng sinh ba cõi nhìn thấy ba cõi; ba cõi như vậy Như Lai nhìn thấy rõ ràng, không có lầm lẫn. Chỉ vì các loại chúng sinh có đủ thứ cá tính, thị hiếu, hành động và tư tưởng khác nhau, mà Như Lai thì muốn làm cho ai cũng được phát sinh gốc rễ điều thiện, nên đem bao nhiêu yếu tố, ví dụ và lời chữ mà thuyết pháp đủ cách, làm việc Phật làm mà chưa bao giờ tạm thời ngừng bỏ. Như vậy là Như Lai thành Phật đến nay đã cực kỳ lâu xa, sống lâu cực nhiều con số thời kỳ vô số, vĩnh viễn tồn tại mà không có nhập diệt.
    Chư thiện nam tử, Như Lai xưa kia đang đi đường đi của bồ tát mà sự sống lâu có được, đến nay vẫn chưa hết, thì gian còn nhiều hơn bội phần số lượng đã nói ở trên; huống chi Như Lai ngày nay đã thành Phật, và sự sống lâu của Như Lai là của một đức Phật? Như Lai nay không thật nhập diệt mà tuyên bố sẽ nhập diệt, là Như Lai dùng phương tiện ấy để giáo hóa chúng sinh. Tại sao, vì nếu Như Lai tồn tại lâu dài thì những kẻ phước đứcmỏng mảnh không lo gieo trồng gốc rễ điều lành, y nguyên nghèo nàn hèn hạ, tham đắm năm thứ dục lạc, sa vào mạng lưới tư tưởng sai lầm. Những kẻ ấy nếu thấy Như Laithường tồn tại mà không nhập diệt thì khinh thường, phóng túng mà nhàm chán, biếng nhác, chứ không có ý tưởng Như Lai khó gặp, không sinh tâm lý tôn kính, vì vậy mà Như Lai phương tiện nói rằng chư vị tỷ kheo, phải biết các đức Như Lai xuất thế rất là khó gặp. Trải qua vô lượng trăm ngàn vạn ức thời kỳ, những kẻ phước đức mỏng mảnhmới thấy Như Lai hoặc vẫn không thấy được, vì sự thể này mà Như Lai nói rằng chư vị tỷ kheo, Như Lai rất là khó gặp. Những kẻ phước đức mỏng mảnh nghe nói như vậy thìtất nghĩ đến sự khó gặp ấy mà trong lòng luyến mộ, khao khát và ngưỡng vọng đối với Như Lai, tự nhiên gieo trồng gốc rễ điều lành, vì vậy nên Như Lai không thật nhập diệtmà tự nói nhập diệt. Chư thiện nam tử, cách thức hóa độ của các đức Như Lai là như vậy, vì hóa độ chúng sinh mà nói, nên nói thế nào cũng trung thực chứ không sai lầm, dối trá.
    Ví như một vị lương y trí tuệ thông suốt, chế thuốc hay và chữa bịnh giỏi. Lương y nhiều con, mười người, hai mươi người, cho đến cả trăm. Vì có việc nên lương y đi xa, đến các nước khác. Các con ông, sau khi ông đi, dùng nhằm thuốc độc của kẻ khác. Độc phát nên sảng loạn, lăn lóc mặt đất. Khi ấy người cha trở về. Các con dùng nhằm thuốc độc hoặc mất trí hoặc không mất, nhưng thấy cha từ xa thì cùng mừng mà quì lạy, chào đón, rằng cha về yên lành. Chúng con ngu muội, dùng lầm thuốc độc, xin cha cứu chữa cho chúng con sống còn. Người cha thấy các con đau đớn như vậy thì y theo sách thuốc mà soạn ra một phương thuốc, tìm cây thuốc tốt với sắc hương vị đều tốt, đem quết thật nhuyễn, rây thật mịn, hòa trộn với nhau, rồi đưa cho các con mà bảo, dược phẩm này rất quí, sắc hương vị đều tốt, các con dùng đi, thì mau hết đau đớn, không độc chất nào mà còn được nữa. Trong các con, ai không mất trí, thấy dược phẩm sắc hương vị đều tốt ấy thì dùng liền và bịnh lành hết. Còn những người mất trí thì thấy cha về tuy cũng mừng, cũng chào đón, cũng xin chữa bịnh, nhưng cho thuốc lại không chịu dùng; tại sao, vì độc tố quá sâu, làm cho mất trí, nên dược phẩm sắc hương vị đều tốt mà cho là không tốt. Người cha nghĩ rằng, những đứa con này thật đáng thương, trúng độc đến nỗi loạn trí, tuy thấy ta cũng mừng, cũng xin cứu chữa, nhưng thuốc tốt như vầylại không chịu dùng. Ta phải lập chước phương tiện làm cho các con chịu dùng thuốc ấy. Ông bảo, các con phải biết ta già rồi, giờ chết đã đến. Dược phẩm tốt này ta để lại ở đây, các con lấy dùng thì khỏi lo không lành. Chỉ dạy như vậy rồi ông lại đến nước khác, chosứ giả về bảo cha các người chết rồi. Bấy giờ các con nghe nói cha chết, lòng rất lo buồn mà nghĩ, cha còn thì thương mà cứu chữa và bảo vệ chúng ta. Nay cha bỏ chúng ta mà chết xa xôi ở xứ người! Tự nghĩ côi cút, không nơi nương tựa! Nghĩ mãi nên tỉnh trí. Và nhận ra được dược phẩm sắc hương vị đều tốt, tức khắc lấy dùng và bịnh lành liền. Người cha nghe các con lành cả thì về lại cho các con thấy. Chư thiện nam tử, ý chư vị nghĩ thế nào, có người nào chỉ trích được rằng vị lương y như vậy có lỗi dối tráchăng? Không, bạch đức Thế Tôn. Chư thiện nam tử, Như Lai cũng vậy. Như Lai thành Phật đến nay đã cực nhiều con số thời kỳ vô số, chỉ vì cứu độ chúng sinh mà Như Laiphương tiện tuyên bố nhập diệt, nhưng không ai có thể nói đúng cách rằng Như Lai có lỗi nói dối.
    Muốn lặp lại ý nghĩa đã nói, nên khi ấy đức Thế Tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.
    (1-Như Lai từ khi
    2) thành Phật đến giờ,
    trải qua cực nhiều
    thời kỳ vô số.
    Trong thì gian ấy
    Như Lai thường xuyên
    thuyết pháp giáo hóa
    vô số chúng sinh,
    trong đó có số
    bồ tát dũng xuất,
    đặt họ vào trong
    tuệø giác Phật đà
    cũng lâu đến số
    vô lượng thời kỳ.
    (3) Chỉ vì hóa độ
    chúng sinh biếng nhác,
    Như Lai phương tiện
    nói rằng nhập diệt;
    nhưng thật Như Lai
    không có nhập diệt,
    mà thường ở đây
    thuyết pháp giáo hóa.
    (4) Như Lai thường ở
    tại quốc độ này,
    nhưng vì thần lực
    cực kỳ siêu việt,
    vì mọi chúng sinh
    ảo giác thác loạn,
    Như Lai bên cạnh
    mà vẫn không thấy.
    (5) Chúng sinh nếu thấy
    Như Lai nhập diệt
    thì cúng xá lợi
    một cách lớn lao,
    và cùng cảm thấy
    lưu luyến hâm mộ
    mà sinh tâm lý
    khao khát ngưỡng vọng.
    (6) Khi họ tin tưởng,
    chân thành, ôn nhu,
    thiết tha muốn được
    nhìn thấy Như Lai
    mà không tiếc nuối
    đến cả tính mạng,
    bấy giờ Như Lai
    cùng với Tăng chúng
    đồng xuất hiện ra
    tại Linh sơn này.
    (7) Và nói với họ
    cho biết Như Lai
    thường còn tại đây
    chứ không nhập diệt.
    Nói rằng nhập diệt
    rằng không nhập diệt
    chỉ do Như Lai
    phương tiện mà nói.
    (8) Ở quốc độ khác
    có những chúng sinh
    tôn kính, tin tưởng,
    thích thú Như Lai,
    Như Lai lại hiện
    tại quốc độ ấy,
    tuyên thuyết cho họ
    chánh pháp tối thượng.
    Chư vị không nghe
    về sự thể ấy,
    chỉ nói Như Lai
    đã nhập diệt rồi.
    (9) Như Lai nhìn thấy
    bao người cam tâm
    trầm mình ở trong
    mọi sự khổ não,
    nên không hiện thân
    cho họ nhìn thấy,
    để họ sinh ra
    khao khát ngưỡng vọng;
    và khi lòng họ
    lưu luyến hâm mộ,
    bấy giờ Như Lai
    lại hiện thân ra
    tuyên thuyết cho họ
    chánh pháp tối thượng.
    (10) Thần lực Như Lai
    là như thế ấy,
    vô số thời kỳ
    thường ở Linh sơn
    cùng với bao nhiêu
    chỗ ở khác nữa.
    (11) Chúng sinh nhìn thấy
    thì thấy hoại kiếp
    lửa dữ đốt cháy
    cả quốc độ này.
    Nhưng chính lúc ấy
    quốc độ Như Lai
    vẫn thường yên ổn,
    chư thiên nhân loại
    vẫn thường tràn đầy
    trong quốc độ ấy.
    (12) Vườn rừng lầu đài
    trang trí vàng ngọc,
    cây ngọc sum sê
    những hoa và quả,
    mọi người thích thú
    du ngoạn trong đó.
    (13) Chư thiên thì đánh
    trống của chư thiên,
    lại thường diễn tấu
    các thứ nhạc khí
    và rưới hoa xuống
    loại như mạn đà,
    rải trên Như Lai
    và cả đại chúng.
    (14) Tịnh độ Như Lai
    tồn tại như thế,
    vậy mà chúng sinh
    thấy lửa đốt hết,
    thấy bao lo sợ,
    kinh hoàng, đau đớn.
    Những nỗi khổ ấy
    thấy đầy khắp cả.
    (15) Bao chúng sinh ấy
    vì những nhân tố
    hành vi tội ác,
    mà bao thời kỳ
    danh hiệu Tam bảo
    cũng không được nghe,
    huống chi được thấy
    thân thể Như Lai.
    (16) Những ai tu hành,
    chân thành, ôn nhu.
    thì đều thấy được
    thân thể Như Lai
    thường ở tại đây
    tuyên thuyết chánh pháp.
    (17) Vì những người này
    mà Như Lai nói
    đời sống Như Lai
    vô biên vô lượng;
    còn ai lâu lắm
    mới thấy Như Lai,
    Như Lai vì họ
    nói Phật khó gặp.
    (18) Trí lực Như Lai
    là như thế đó.
    Ánh sáng trí ấy
    chiếu soi vô tận,
    đời sống Như Lai
    vô số thời kỳ,
    là do Như Lai
    lâu xa tu tập
    hành vi thích đáng
    mà thực hiện được.
    (19) Tất cả chư vị
    là người có trí,
    với sự thể này
    đừng sinh ngờ vực.
    Hãy loại bỏ hết
    mọi sự ngờ vực,
    vì lời Như Lai
    thật chứ không dối.
    (20) Ví như lương y
    khéo chước phương tiện;
    để chữa cho những
    đứa con cuồng sảng,
    nên thật còn sống
    mà nói chết rồi,
    nhưng ai nói được
    ông ấy dối trá?
    (21) Như Lai cũng vậy;
    là vị từ phụ
    cứu chữa bao kẻ
    đau khổ thác loạn:
    chính vì cứu chữa
    bao kẻ thác loạn
    mà thật thường còn
    lại nói nhập diệt.
    (22) Vì nếu để họ
    thường thấy Như Lai
    thì họ sinh ra
    kiêu căng, mặc ý,
    phóng túng tham đắm
    năm thứ dục lạc,
    và sa vào trong
    các nẻo đường dữ.
    (23) Như Lai thường xuyên
    thấy biết chúng sinh
    ai có ai không
    đi theo đường chánh,
    rồi tùy trường hợp
    cần phải hóa độ
    cho họ thế nào,
    Như Lai nói pháp
    với những cách nói
    thích ứng cho họ.
    Như Lai thường xuyên
    nghĩ với ý nghĩ
    là làm cách nào
    cho các chúng sinh
    cùng được nhập vào
    tuệ giác vô thượng,
    mau chóng thành tựu
    thân thể Như Lai.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 13-02-2013, 09:38 PM
  2. Triết lý Phục vụ trong Kinh Thánh và Kinh Doanh
    By minhthai in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 8
    Bài mới gởi: 19-01-2013, 11:08 PM
  3. kinh lang ngiem va kinh phap hoa
    By tritinh in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 01-09-2012, 05:21 PM
  4. 107. Kinh Ganaka Moggallàna - Trung Bộ Kinh
    By do anh tuan in forum Thiền Tông
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 01-08-2011, 05:40 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •