Khi học giáo pháp thì Kinh Kim cang bát nhã làm tôi khổ sở nhất , vì sao ? vì tôi thì ngu muội , mà khi đọc kinh thì cứ thấy lặp lại nhiều lần :không phải –không không phải – phải …làm tôi ù hết tai dù cố gắng đọc 2 lần .Đến khi đọc bài giảng của HT Tuyên Hóa cái mê ngu muội của tôi nó hình như vẫn còn. Cho đến khi đọc bài giảng của Lục tổ Huệ năng may ra tôi lỏm bỏm vài chữ . Dù là lỏm bỏm , cứ có còn hơn không nên tôi sẽ cắm tiếp cái bảng dẫn đường . Tuy mấy cái bảng dẫn các kinh trước khá là vô duyên , chẳng khiến ai tham gia tua đi đến nơi kinh , tìm học kỹ Kinh sách cả , nhưng chót nhỡ thích rồi thì tôi cứ làm . Kinh Địa Tạng giúp người làm lành tránh ác , Kinh Pháp Hoa là lộ đạo đi Phật quả , Kinh Thủ Lăng nghiêm là sự cẩn trọng của Phật chỉ bày chi tiết rõ hơn trên lộ đạo gồm những gì , kinh Bát nhã thì chỉ đích đến vi tế cỡ nào . Nó quá vi tế nên Phật biết khó diễn tả nổi cho chúng sinh hiểu nên ông cứ lặp đi lặp lại nhiều lần cái vi diệu khôn cùng ấy làm sao lột tả nó .
Tu là gì ? tu la sửa , sửa cho cái nhân :bất tịnh - khổ - ngã mạn–vô thường làm sao cho tương ứng với Phật quả gồm Thường –Lạc –Ngã –Tịnh trong kinh Đại Bát Niết bàn .
Chân Ngã hay Phật Tánh- kim cương tánh - đó chính là bản thể thanh tịnh thường hằng bất biến của tất cả mọi loài chúng sinh, mênh mông như hư không, thường trụ bất hoại, tuy vậy bản thể ấy không phải tất cả chúng sinh là một, nhưng cũng không phải là khác, vượt ra khỏi tư tưởng suy nghĩ thông thường của đời sống tương đối hiện tượng, cho nên gọi là bất khả tư nghị, tức không thể nghĩ bàn, nhưng chính là cái chân thật của mọi chúng sinh, không phải là cái "Tôi" ô nhễm tham sân si, đầy vướng mắc khổ vui vô thường này. Bản thể ấy tràn ngập khắp nơi nhưng chúng sinh bị trói buộc vì phiền não, tham sân si nhiễm ô che mờ nên không thấy được. Bản thể ấy luôn luôn sẵn sàng, tịch tĩnh hiện diện, nên gọi là Như Lai. Tất cả kinh điển Phật giáo đều hàm chứa ít nhất hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất được diễn đạt bởi ngôn ngữ quy ước, giúp chúng ta nắm hiểu được những sự kiện, chi tiết được mô tả trong kinh văn. Nhưng tầng nghĩa này chỉ là một phần rất nhỏ so với những gì kinh văn muốn chuyển tải. Ví như một núi băng trôi trên mặt đại dương, cái mà chúng ta nhìn thấy được chỉ là phần chóp nhọn rất nhỏ, trong khi phần chìm sâu bên dưới mặt nước là cả một khối lượng khổng lồ. Cũng vậy, tầng nghĩa thứ nhất vừa nói trên chỉ là phần rất nhỏ so với tầng nghĩa thứ hai là những gì hàm chứa phía sau lớp vỏ ngôn ngữ.

Tuy nhiên, để tiếp cận được với tầng nghĩa thứ hai này, quý vị không thể sử dụng sự phán đoán, suy luận của trí óc, mà phải nhờ đến năng lực trực giác, tức là sự rung động hay cảm nhận trực tiếp của tâm thức, không thông qua bất cứ quá trình suy diễn nào, vì mọi quá trình suy diễn tất yếu đều bị giới hạn bởi những khái niệm mà chúng ta ai ai cũng sẵn có.

Nói cách khác, để có thể tiếp nhận được tầng nghĩa thứ hai này, ta không thể chỉ đọc kinh đơn thuần bằng trí óc, mà nhất thiết phải cần đến một tâm thức thật an tĩnh, sáng suốt. Đây chính là lý do vì sao ta không thể đọc kinh với sự hối hả và nôn nóng.Thầy chúng ta thọ lĩnh được mật ý nên có thể truyền giảng cho chúng ta
KINH KIM CANG BÁT NHÃ – LỤC TỔ HUỆ NĂNG GIẢNG GIẢI
Người dịch : Nguyên Hiền

http://www.hoavouu.com/images/file/B...giang-giai.pdf
http://www.hoavouu.com/p136/sach-phat-hoc-pdf
Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật
Lục tổ Huệ Năng giảng giải nghĩa
Cuốn sách tìm ở Tục Tạng Kinh
Ngộ nhập Phật tâm , Kinh Kim cang
Vô tướng làm tông , vô trụ thế
Bồ đề Đạt ma trao ý chỉ
Khiến người ngộ đạo thấy tự tánh
Những người thượng căn nghe liền ngộ
Độn căn tụng nhiều không thông ý.
Pháp môn kiến tánh vì không tự
Giải thích nghĩa lý của Thánh nhân
Đoạn trừ nghi lầm Ý CHỈ KINH
Tự tính đều có mà không thấy
Ngộ được bản tâm, HIỂU Ý KINH
Chẳng nơi văn tự khi tụng đọc
Tìm Phật ngoài tâm ,hướng ra ngoài
Không khai nội tâm , tịnh vô lượng
Trong thân có tâm , quặng có vàng
Dùng lửa trí tuệ luôn nung nấu
Luyện công tinh tấn có vàng ròng
Trí tuệ bát nhã ,Phật tính sáng
Phật tính kiên cố , phiền não phá
Phiền não cứng chắc , trí tuệ phá
Thấy được Phật tính , không chúng sinh
Không thấy Phật tính là chúng sinh
Ngoài tụng trong trì tuệ giác phát
Nội tâm không kiên định tuệ mất
Miệng tụng tâm hành định tuệ SINH
Vàng ở trong núi , núi đâu biết
Vạn vật vô tình biết hay chi ?
Phật tính luôn ở trong tứ đại
Con người hữu tính chẳng vô tri
Ngã mạn núi cao , quặng phiền não
Trí tuệ công phá núi nhân ngã
Sẽ thấy có quặng mỏ phiền não
Loại bỏ tạp quặng , mới thấy vàng
Lửa giác ngộ luyện, thấy Phật tính
Trí tuệ Kim cương chiếu sáng soi
Bát nhã là hoa của trí tuệ
Người trí quyết không khởi tâm mê,
Người tuệ biết dùng phương tiện khéo
Thoát ly sinh diệt Ba-la-mật
Ý tưởng sinh khởi như sóng biển
Trôi lăn các nẻo, chưa đến bờ
Biết rõ các Pháp , lìa ý niệm
Đến bờ bên kia, bến Chân như
Kinh là con đường thành tựu Phật
Muốn đi Đạo lộ phải hiểu Kinh
Hiểu Kinh chính là tu trí tuệ
Tu TÂM y lý , tâm có Kinh

LỤC TỔ GIẢI NGHĨA KINH KIM CANG BÁT NHÃ
I- Nhân duyên pháp hội
Các pháp đều không . là ngoại giác
Chẳng nhìn lỗi người , không mê hoặc
Không nhiễm sáu trần tâm vắng lặng
Duy chỉ nhất niệm tâm tĩnh tịch
Phật ở Xá vệ , vườn Cô độc
Một ngàn hai trăm năm mươi vị
Tuần tự khất thực ,trải tọa ngồi
Đệ nhất giải không ,Tu Bồ Đề
“Thật là hiếm có , thưa Thế tôn “
Từ ngai thân vàng tướng tươi đẹp
Hội đủ ba thân , đủ các Pháp
Trí tuệ siêu việt chẳng ai bằng
Đức cao vô thượng phương tiện khéo
Giáo hóa hộ niệm các Bồ tát
Trợ giúp dạy bảo Ba la mật
Trí tuệ Bát nhã , tâm trung đạo
Chẳng yêu chẳng ghét , chẳng nhiễm ô
Niệm niệm chân chính , chẳng khởi tà
Niệm niệm thanh tịnh chân giải thoát
Đạo tâm cung kính , luôn tỉnh thức
2- Tu-bồ-đề thưa hỏi
“ Thiện nam thiện nữ thưa Thế tôn
Làm sao an trụ , hàng phục tâm ?”
Chúng sinh tâm động như gió cuốn