Sau 49 ngày nhập định dưới cây Bồ đề, Đức Phật thành đạo, đánh dấu thời điểm của một biến cố vô cùng trọng đại thiêng liêng. Đó là sự chuyển đổi tư cách của Đức Phật từ một Sa môn Cồ Đàm khao khát tìm chân lý trở thành đấng giác ngộ sáng suốt hoàn toàn. Ngài biết rõ và sử đụng được quy luật chi phối con người và thế giới con người.
Trên bước đường truyền bá giáo lý, Đức Phật đến Lộc Uyển thuyết pháp, độ năm anh em Kiều Trần Như. Đây là bài pháp đầu tiên mà Đức Phật giảng nói đã được lịch sử ghi nhận.
Tuy nhiên, kinh Hoa Nghiêm lại diễn tả sự tu chứng hay thế giới siêu hình mà Đức Phật thâm nhập trong 49 ngày tư duy rất bao la diệu vợi. Sau khi thành đạo, ngài liền truyền đạt trí tuệ siêu việt đã chứng đắc cho các Bồ tát, bao hàm tất cả sự mầu nhiệm trang nghiêm của chư Phật, hiện rõ trùng trùng điệp điệp vô số thế giới trong Hoa Tạng giới.
Đối trước hai dữ kiện khác nhau như vậy, chúng ta cần kết hợp những sự kiện về lịch sử truyền bá của Đức Phật với nội dung của kinh Hoa Nghiêm. Qua đó, chúng ta mới có thể nhận thức rõ con người thật của Đức Phật trên cuộc đời.
Như lịch sử đã ghi nhận, Đức Phật có một tình thương bao la trải rộng đến mọi người, mọi sự sống. Tấm lòng cảm thông với biết bao nổi khổ đau, cùng với sự khao khát hiểu biết chân lý là động lực chính thúc đẩy Đức Phật dấn thân trên con đường đi tìm một lẽ sống chân thật, vĩnh cửu. Và ngài cố gắng phát huy tất cả năng lực trí tuệ để nắm bắt chân lý của cuộc sống nhân sinh.
Vì vậy, đề cập đến sự giác ngộ, Đức Phật nói : "Mắt đã sanh, kiến đã sanh, tuệ đã sanh, minh đã sanh, ánh sáng đã sanh”. Thành đạo, hay tuệ sanh, minh sanh, Đức Phật tổng hợp được tất cả nhận thức đương thời và có trước ngài. Ngài nhìn thẳng vào xã hội đang sống, thấy được nguyện vọng của mọi người và tùy theo đó mà ngài giáo hóa họ thăng hoa cuộc sống.
Ngọn đuốc trí tuệ muôn đời mà Đức Phật đốt lên từ 25 thế kỷ trước, vẫn tiếp tục soi sáng cho chúng ta ngày nay. Nguồn sống mãnh liệt của đạo Phật chính là trí tuệ, khả năng nhận thức sáng suốt.
Trong kinh Mahapurinibhana Sutta có ghi lời của Đức Phật với đệ tử A Nan, trước khi ngài nhập diệt : "Vì thế, Ananda, hãy lấy pháp làm ánh sáng, hãy nương tựa chánh pháp mà sống và đừng nương tựa nơi nào khác…”. Lấy pháp làm ánh sáng, hay nương tựa chánh pháp thì đồng nghĩa với lấy trí tuệ thấy đúng như thật, để hướng dẫn hành động.
Giáo lý Đức Phật không chỉ nhằm giải thích thế giới, giải thích cuộc sống nhân sinh, hay áp đặt cho chúng ta những tín điều một cách độc đoán. Giáo lý đưa ra phương pháp tư duy (trí tuệ), hướng dẫn chúng ta hiểu biết rõ sự thật về con người, về xã hội để ứng xử đúng đắn, tồn tại thích nghi với sự chuyển đổi của muôn pháp.
Mô hình Tam Bảo đầu tiên lấy trí tuệ chỉ đạo cho mọi việc làm, sống đúng theo quy luật và đoàn kết hài hòa với mọi người. Mô hình này đã tạo thành sức sống nuôi dưỡng và phát triển giáo lý đạo Phật một cách toàn bích.
Đến khi Đức Phật Niết bàn, theo thời gian càng cách xa ngài, dưới lăng kính của tinh thần Phật giáo phát triển, căn cứ vào những việc làm phi thường của Đức Phật và thường quan sát sự vật với cảm tính nhiều hơn. Vì thế, Phật giáo phát triển càng có khuynh hướng lý tưởng hóa Đức Phật, nên Ngài trở thành siêu thực.
Từ Đức Phật siêu hình, tiến đến Đức Phật nhiều quyền năng diễn tả trong kinh Hoa Nghiêm, thì Đức Phật là Phật Tỳ Lô Giá Na, hay Phật của trí tuệ, hay Trí thân. Theo kiến giải của Hoa Nghiêm, Đức Phật Thích Ca bằng xương thịt mất đi, để Trí thân Phật phát triển sống mãi với muôn loài.
Trong phẩm Nhập Pháp giới của kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đã trải qua quá trình tu thập Tín, thập Trụ, thập Hạnh, thập Hồi hướng, thập Địa, hoàn thành công hạnh Bồ tát, rồi mới đi vào Pháp giới. Hình ảnh này nhằm chỉ rằng Đức Phật Thích Ca đã thành xong Vô thượng Đẳng giác, vì thương nhân gian mà sinh lại cuộc đời. Nói cách khác, Thiện Tài là Trí thân của Đức Phật; trong khi Thích Ca là hiện thân của Đức Phật.
Sự thật trên mặt lịch sử giáo hóa của Đức Phật, không có một nhân vật thật nào là Thiện Tài. Thiện Tài chỉ là một người vô hình, giả tưởng, tiêu biểu cho sự hiện hữu của Đức Phật Thích Ca trên cuộc đời. Khi Thiện Tài sinh ra, gia đình ông giàu có, nhiều của báu; nhưng ông không hề để tâm ưa thích. Thiện Tài chỉ khao khát tìm thầy học đạo, y hệt như Đức Phật Thích Ca bỏ ngôi báu đi tìm chân lý.
Trên bước đường cầu đạo, đầu tiên Thiện Tài gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ tát. Bồ tát Văn Thù là nhân vật được kinh ghi nhận; nhưng trên thực tế cũng không có nhân vật lịch sử nào tên Văn Thù. Trong hầu hết các kinh điển Đại thừa đều có Bồ tát Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ. Ngài được xem là Thầy của ba đời mười phương các Đức Phật.
Tuy nhiên, chúng ta đều biết Đức Phật là bậc vô sư tự ngộ. Không có ai là Thầy của Đức Phật cả. Vậy Bồ tát Văn Thù là Thầy của ba đời mười phương Phật mang ý nghĩa gì ?
Điều tiên quyết tất yếu mà chúng ta đều biết rằng Đức Phật thành Phật vì ngài có trí tuệ. Trí tuệ không thể dùng mắt thấy. Vì thế, không có ông Thầy ở nhân gian bằng con người hữu hình truyền dạy, thì kinh điển Đại thừa đã nhân cách hóa vị Thầy siêu hình bằng một nhân vật mang tên Bồ tát Văn Thù tiêu biểu cho trí tuệ.
Thiện Tài gặp Văn Thù, hay một cuộc gặp gỡ giữa con người siêu hình tham vấn, học đạo với một con người siêu hình. Không phải hai con người thật gặp nhau.
Dưới kiến giải của tinh thần Đại thừa, đây là một cuộc gặp gỡ diễn ra hoàn toàn trong tư duy; không có trên thực tế. Nói cách khác, Trí thân Bát Nhã của ta và Trí thân Bát Nhã của Thầy hoàn toàn vô hình. Trí thân của ta được un đúc bằng Trí thân của Thầy, chúng ta không thấy được; nhưng đó là sự thật.
Thiện Tài đi cầu tìm trí tuệ, may mắn được gặp đại trí Văn Thù. Phải chăng điều này không mang một ý nghĩa nào khác hơn là cụ thể hóa sự Thành đạo của Đức Phật Thích Ca dưới cội Bồ đề.
Sau khi Thiện Tài học xong với đại trí Văn Thù, ngài khuyên ông nên đi vào pháp giới để chứng nghiệm lại sự hiểu biết đã học. Vì hiểu biết của Bồ tát Văn Thù truyền trao cho Thiện Tài chỉ là nhận thức thuần lý do suy nghĩ; không phải là hiểu biết bằng hành động, bằng việc làm.
Sự kiện này cũng không khác hơn hình ảnh của Đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề, trí giác của ngài bừng sáng. Nếu ngài không tiếp tục quãng đời 49 năm thuyết pháp thì cũng chẳng ai biết ngài là Phật. Đức Phật Thích Ca rời Bồ đề đạo tràng, đi vào cuộc đời giáo hóa chúng sinh, được kinh Hoa Nghiêm diễn tả qua hình ảnh Thiện Tài đồng tử trải qua 52 chặng đường hành đạo trong pháp giới.
Trước tiên, Thiện Tài đi về phía Nam gặp Đức Vân Tỳ kheo đang tu khổ hạnh; ông là người đức hạnh bậc nhất. Đến đây chúng ta lại thấy trong kinh điển nguyên thủy không hề có nhân vật lịch sử tên Đức Vân.
Thực tế lịch sử cho thấy Kiều Trần Như là người đầu tiên được Đức Phật giáo hóa, đắc quả A la hán trước nhất. Nhưng trong các pháp hội từ Lộc Uyển đến Ta La song thọ, không thấy ngài Kiều Trần Như xuất hiện. Ngài vẫn sống một cuộc đời lặng lẽ trầm mặc, mà vẫn tiêu biểu cho Tăng đoàn thời bấy giờ và cũng được tôn xưng là bậc đức hạnh đệ nhất.
Từ một con người hiện thực trên cuộc đời, Tỳ kheo Kiều Trần Như được kinh Hoa Nghiêm nâng lên thành một nhân vật lý tưởng trong pháp giới là Đức Vân Tỳ kheo. Theo kiến giải của Hoa Nghiêm, Đức Vân là Kiều Trần Như, hay lý tưởng và hiện thực là một, không khác nhau.
Sau đó, Thiện Tài đến gặp ngoại đạo Thắng Nhiệt Bà la môn. Ông này xúi Thiện Tài hành đạo bằng cách leo lên núi đao, nhảy vào hầm lửa. Mới nghe qua, chúng ta thấy đây là pháp tu của ngoại đạo.
Tuy nhiên, theo tinh thần Hoa Nghiêm, muốn giải thoát để thâm nhập pháp giới, chúng ta không thể đặt ngoại đạo đối lập riêng rẽ với Phật đạo. Vì tạo ra sự đấu tranh giữa Phật đạo và ngoại đạo chỉ đưa đến kết quả phi đạo.
Trên bước đường tu, ở giai đoạn đầu, cần phân biệt hai thế giới tốt và xấu. Ta tránh xấu, chỉ sống với cái tốt. Nhưng tiến sang giai đoạn sau cùng, để được tự tại, giải thoát hoàn toàn thật sự, thì phải không còn đối đãi tốt xấu. Cả hai tốt xấu đều đồng một thể, nếu chúng ta hóa giải được người xấu trở thành tốt.
Thiện Tài nghe Thắng Nhiệt bảo nhảy vào hầm lửa thì hơi chùn bước và suy nghĩ phải chăng đây là ngoại đạo muốn tiêu diệt Phật giáo. Nghi ngờ suy nghĩ của Thiện Tài, hay đúng hơn là nghi ngờ của giới tu sĩ trẻ trong thời Phật giáo phát triển, hay thời kỳ hình thành kinh Hoa Nghiêm.
Vào thời ấy, Phật giáo đóng khung trong chủ nghĩa giáo điều xơ cứng. Những tu sĩ trẻ có tinh thần cầu tiến muốn thoát ra ngoài cái vỏ tôn giáohạn hẹp. Nhưng họ vẫn vấp phải sự dè dặt được diễn tả bằng khởi niệm nghi ngờ của Thiện Tài.
Dưới cái nhìn của Phật giáo bảo thủ chủ trương một nếp sống xuất thế, không dính líu đến cuộc đời, ly trần để được giải thoát. Họ chỉ làm một việc duy nhất là tụng kinh; còn xã hội bên ngoài tiến triển văn minh thế nào mặc kệ.
Phật giáo bảo thủ nghĩ rằng chủ trương nhập thế của Bà la môn là núi đao, hầm lửa. Trước núi đao, hầm lửa tiêu biểu cho cạm bẫy của cuộc đời, Thiện Tài chùn bước một chút, dừng lại một giây rồi trèo lên núi đao, nhảy vào hầm lửa và ông đắc đạo.
Hình ảnh Thiện Tài đắc đạo trong núi đao, hầm lửa biểu hiện cho tôn chỉ hội nhập vào đời mà không bị đời làm ô nhiễm của Phật giáo phát triển. Sự thật, nếu Phật giáo không sản sinh những người siêu xuất dấn thân làm lợi ích cho đời, thì đạo Phật không thể nào tồn tại phát triển cho đến ngày nay.
Sau đó, Thiện Tài đồng tử đi cầu đạo với nhiều nhân vật khác, để diễn tả hình ảnh Đức Phật Thích Ca trên bước đường giáo hóa đã gặp đủ tất cả thành phần xã hội. Ngài giáp mặt với kỹ nữ là Bà Tu Mật Đa trong kinh Hoa Nghiêm không ai khác hơn là Liên Hoa Sắc nữ Tỳ kheo trên hiện thực; cho đến trưởng giả Giải Thoát chính là ông Cấp Cô Độc, hoặc vua Vô Yểm Túc chính là vua A Xà Thế.
Nói chung, những nhân vật trong kinh Hoa Nghiêm mang tên khác với tên Pali của nguyên thủy; nhưng thật là đồng một người được diễn tả dưới dạng tâm thức hay siêu hình. Trong 52 chặng đường cầu đạo của Thiện Tài, đủ tất cả thành phần xã hội đều có mặt. Và cuối cùng, Thiện Tài gặp Bồ tát Phổ Hiền, kết thúc hành trình tu tập để thâm nhập vào thế giới bất tư nghì giải thoát.
Thiện Tài thể hiện tư cách một người đi trong thế gian mà chứng được xuất thế; ở thế gian nhưng vượt trội hơn thế gian về trí tuệ và đạo đức. Điều này làm sống dậy ý nghĩa chân tinh thần của đạo Phật theo kiến giải của Phật giáo phát triển. Hình ảnh này hiển nhiên cũng chính là hình ảnh của Đức Thích Ca siêu tuyệt trên cuộc đời này vậy.
Trên bước đường giáo hóa, Đức Phật Thích Ca gặp những người mà kinh Hoa Nghiêm diễn tả dưới dạng lý vào sự. Nghĩa là pháp giới thuần lý mà Đức Phật tâm chứng được thì hoàn toàn thanh tịnh. Từ lý pháp giới vô ngại ấy, đi vào hiện tượng hay sự pháp giới một cách tự tại, nên tất cả những chướng ngại của cuộc đời đều bị đẩy lùi về phía sau ngài.
Khởi điểm với Đức Phật nguyên thủy trên cuộc đời được lịch sử ghi nhận là một người trí tuệ thấy biết và điều động mọi việc một cách chính xác. Từ quan niệm này tiến đến sự hình thành một Đức Phật Tỳ Lô Giá Na của kinh Hoa Nghiêm trong pháp giới trùm khắp muôn loài. Đây chỉ là sự biểu hiện của một người dưới hai dạng là hiện tượng và bản thể.
Trên bản thể có một con người lịch sử là Đức Thích Ca tu chứng Vô thượng Đẳng giác. Đức Phật có thật bằng xương thịt để giới thiệu cho chúng ta thấy Tỳ Lô Giá Na Pháp thân trên bản thể cùng với Tỳ Lô Giá Na tánh là tánh sáng suốt sẵn có của muôn loài.
Như vậy, giữa Đức Phật lịch sử và Đức Phật siêu hình của kinh Hoa Nghiêm thông với nhau như hai mặt của một bàn tay. Không có một khoảng cách nào ngăn ngại giữa Đức Phật có thật trên cuộc đời với Đức Phật Pháp thân Tỳ Lô Giá Na thường hằng bất biến trên bản thể chân như.
Từ Phật Pháp thân Tỳ Lô Giá Na lưu xuất ra Phật Thích Ca mang thân ngũ uẩn. Và Phật Thích Ca sinh diệt này Niết bàn, trở về Phật Pháp thân vĩnh hằng Tỳ Lô Giá Na. Nói cách khác, bản thể phát sinh ra hiện tượng và hiện tượng sinh diệt trở về với bản thể. Đó chỉ là một trò chơi ảo thuật của những bậc đã hoàn toàn khai thác được tánh sáng suốt vạn năng của Tỳ Lô Giá Na vậy.
Đức Phật với trí tuệ sáng suốt hoàn toàn, thấy được những chuyển biến về vật lý và tâm lý. Ngài mới vận dụng được quy luật khách quan trong cuộc sống. Và ngài trở thành bậc Đạo sư dẫn dắt mọi người cùng tu học trong tinh thần đoàn kết của pháp Lục Hòa.
Tóm lại, trong suốt 49 năm Đức Phật dốc hết tâm trí và sinh lực vào việc hoằng hóa độ sinh. Mọi người thuộc đủ tầng lớp xã hội đã đến với ngài và họ đều trở thành những người trí tuệ, đạo đức kiểu mẫu trong xã hội. Tuy Đức Phật Thích Ca mang thân người không còn hiện hữu trên cuộc đời; nhưng nhân cách thánh thiện của ngài đã trở thành bất tử.
Thật vậy, những lời giáo huấn, những tư tưởng tích cực trong sáng mà Đức Phật để lại cho chúng ta vẫn được xem là di sản quý báu hướng dẫn sự sống của loài người ở khắp mọi nơi, tạo thành nguồn sinh lực vô tận.
Nguồn sinh lực vô tận của Phật giáo được kinh Hoa Nghiêm triển khai dưới dạng Phật Tỳ Lô Giá Na biến chiếu. Nghĩa là trí tuệ của Đức Phật tác động sâu sắc, thẩm thấu vào mọi lãnh vực, đi vào lòng muôn người. Và ảnh hưởng ấy đã biến thành sức mạnh văn hóa của loài người dưới mọi hình thức khác nhau; un đúc nên đời sống tốt đẹp của hàng tỷ người trên khắp thế giới.
Và thực tế ngày nay, tiếng nói của Phật giáo càng trở nên quan trọng hơn trong việc đóng góp thiết thực lợi ích của những người đệ tử Phật khắp năm châu. Họ đang cống hiến trí tuệ, của cải và sức lực cho sự nghiệp thiêng liêng bảo vệ sự sống của nhân loại.
Riêng đạo Phật có mặt ở Việt Nam trong gần 20 thế kỷ qua, đã có một vai trò, một vị trí quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc và lịch sử văn hóa, văn minh Việt Nam. Nhất là Phật giáo Lý Trần đã thể hiện trí tuệ sâu sắc bằng sự nhập thân sinh động và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, việc làm gắn bó với cuộc sống an vui, hạnh phúc của dân tộc.
Ngày nay, tiếp nối sự nghiệp của cha anh, Tăng Ni, Phật tử chúng ta phải vận dụng trí tuệ và khả năng của mình để phục vụ cho đất nước phồn vinh, nhân dân được hạnh phúc. Và chúng ta đóng góp tích cực hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng hòa bình, an sinh cho mọi người.
(chuahuenghiem)
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks