PHẬT NÓI KINH THÍ NGẠ QUỶ CAM LỘ VỊ ĐẠI ĐÀ LA NI

Thắng Đại Bi Nhật Đà La Ni




Này Thiện Nam Tử! Ta có Đại Bi thù thắng là Đà La Ni Môn, tên là Sấn Na Tất Lợi Đa Đại Đạo Trường Hội Cam Lộ Vị Pháp chẳng thể nghĩ bàn, đủ Đại Từ Bi, có uy thế lớn, hay đập tan núi nghiệp rộng lớn trong Địa Ngục, Súc Sinh, Ngạ Quỷ. Cũng hay khiến cho BồTát mau được Địa Nhất Tử (con một) của Như Lai. Lại được thành tựu loại Tâm Đại Từ Bi, hay khiến cho người trì giữ, ở thân hiện đời chứng được Đại Bi Đỉnh Luân Vương Đà La Ni, Đại Bi Bất Hoại Tạng Tam Muội Môn Thiện Nam Tử! Đại Thần Chú này hay diệt lửa đói khát dữ dội của Ngạ Quỷ, ban cho vị ngọt Cam Lộ trong mát, quyết định mau được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác). Ví như mặt trăng trong đêm hay trừ sự nóng bức (uất chưng). Đà La Ni (Dhāraṇī) này cũng lại nhưvậy. Ông nên cột buộc niệm, một lòng lắng nghe cho kỹ, đừng khiến cho quên mất. Nay Ta sẽ nói ...

Này Thiện Nam Tử! Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Đồng Nam, Đồng Nữ với các Người, Trời… có ý muốn thọ trì Pháp phương tiện này thì cần phải triệu thỉnh các Ngạ Quỷ, chúng Thần trong tất cả sáu đường, tận mười phương giới. Nên tác niệm này:

“Nam mô Phật Đà Gia
Nam mô Đạt Ma Gia
Nam mô Tăng Già Gia
Nam Mô Bản Tôn Thích Ca Mâu Ni NhưLai
Nam mô An Trú Đại Địa Bồ Tát Chúng
Nam mô tất cả Long Thiên, Thiện Thần
Nguyện dùng uy thần xót thương gia trì trợ giúp
Nay tôi triệu thỉnh: Ngạ Quỷ, loài hữu tình trong tất cả sáu đường, tận cõi hư không trong cõi nước khắp mười phương. Do sức uy thần của Tam Bảo cho nên đều đến chỗ của tôi”.


Nói lời đó xong, hướng mặt về phương Đông, liền tụng Triệu Thỉnh Thần Chú 7 biến”

Triệu Thỉnh Đà La Ni Chú.

“Na mô bồ bố lý đát tha già đá gia “
NAMO BHŪ-PŪRI TATHĀGATĀYA

Đức Phật bảo Ngài Nguyệt Ái: “Triệu thỉnh xong rồi. Lúc đó Ngạ Quỷ, QuỷThần trong tất cả sáu đường, ở khắp mười phương đều đến tập hội, chiêm ngưỡng Hành Giả Như thấy cha mẹ. Bấy giờ, Hành Giả cần phải khởi Tâm Đại Bi rồi nói rằng: “Các vị hãy nghe cho khéo! Nay tôi dùng Đà La Ni này mở cổ họng của các vị, ban cho các vị: sự trong mát, mềm mại, khoái lạc. Khiến cho các vị tựmình ăn uống được vị ngon của Cam Lộ” .

Khi ấy, Đức ThếTôn nói Khai Yết Hầu Đà La Ni Chú là:

“Án bồ bố lý ca đát lý đát đá già đá”
OṂ_ BHŪ- PŪRIKA TARI TATHĀGATA


Tụng Đà La Ni Thần Chú này đủ 7 biến xong thì các nhóm Quỷ đó, do sức của Chú, cho nên cổ họng được thông, tức lửa mạnh liền diệt mất, lại không có đau đớn buồn bực, thân tâm được thư thái.
Khi ấy, Hành Giả trước tiên nên bố thí nước. Người muốn bố thí nước thì vào mỗi buổi sáng sớm, hoặc lúc giữa ngày (giờNgọ) lấy một bụm nước sạch, hướng mặt về phương Đông, Chú vào 7 biến rồi hướng về phương Đông tán rải ở không trung. Nước ấy do sức của Đà La Ni này, một giọt rơi xuống đất sẽ biến thành mười Hộc nước uống Cam Lộ của cõi Trời. Các hàng QuỷThần được sung túc, no đủ, vui vẻ vô lượng.

_Bấy giờ, Đức ThếTôn vì Nguyệt Ái cho nên liền nói Chú Thủy Đà La Ni Chú là:

“Na mô tô lô bà duệ đát già tha đá gia đát thiết tha tô lô tô lô ba la tô lô, ba la tô lô, tóa ha “
NAMO SU-RŪPAYA TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ: SURU SURU, PRASURU PRASURU SVĀHĀ


(Tác Ấn Thí Vô Úy, dựng cánh tay phải, giương năm ngón tay thẳng lên trên tức thành.)
Lại nữa, nếu các Người, Trời muốn bố thí thức ăn thì mỗi ngày cần thiết ở trước giờTrai (giờNgọ) dùng cái bát hay vật khí tốt đẹp tối thắng, hoặc vật khí bằng vàng bạc, hoặc vật khí bằng đồng, vật khí bằng sắt, Du Thạch (?), chì. Hoặc nhóm vật khí bằng Lưu Ly, Pha Lê, vỏ sò, ngọc. Nếu không có các thứ bên trên, chỉ được vật khí bằng gỗ, đá, gạch nung…thật trong sạch, hoặc quả bầu cũng được dùng… chứa đầy sữa, lạc (cao sữa). Nếu không có sữa, lạc thì dùng nước sạch cũng được.
Lấy hết thảy thức ăn uống, hoặc cơm sữa, hoặc cơm gạo tẻ(cánh mễ), đại mạch. Hoặc nhóm bánh, men rượu, cháo… để ở trong vật khí, đừng để rau, cà. Ở dưới một cái cây có bóng mát, trước tiên tụng Triệu Thỉnh Chú, tiếp theo tụng Khai Yết Chú, như hướng đã nói, Chú vào thức ăn trong vật khí 7 biến xong thì dốc đổ xuống dưới cái cây. Lúc đó tất cả Ngạ Quỷ ở mười phương, do sức Uy Đức của Đà La Ni cho nên đều được thức ăn để ăn, cũng chẳng bị biến hóa thành máu mủ, cũng không bị ngăn chận cấm đoán, tự ý ăn nuốt sung túc no đủ, diệt lửa nóng của cái đói, thân thểan vui không có các sự đau đớn lo âu. Lại có sựtrong mát, mềm mại làm cơn gió thổi đến tiếp chạm thân ấy trừ diệt sựkeo kiệt nhơ nhuốc (khan cấu), thân không còn nóng khổ, an nhiên khoái lạc. Các loài trùng ác bám ởcác sợi lông dài trên thân đều rơi xuống, cũng không còn tất cảloài cầm thú độc ác tàn hủy lẫn nhau, Tâm Ý mạnh mẽ vui thích. Do Nhân Duyên này mà được hết tội, sinh trong cõi Trời, Người thọ nhận sự khoái lạc vi diệu tôn thắng, tựtại thù thắng của cõi Trời. Nên biết người đấy chỉ có Phật với Phật mới hay khen ngợi.

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn tức liền tuyên nói Thí Cam LộThực Đà La Ni Chú là:

“Na mô sa bà đát tha già đá nam phộc yết đế tam mạt la, tam mạt la”
NAMO SARVA TATHĀGATAN AVALOKITE SAMBHĀRA SAMBHĀRA


Khi ấy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói Thắng Đại Bi Nhật Đà La Ni Thần Chú xong, thời Trời Đất chấn động theo sáu cách. Nơi ba ngàn Đại Thiên Thế Giới này thảy đều sáng tỏ, tuôn mưa hoa báu của cõi Trời cuống quýt như mây rơi xuống với hương báu, chuỗi Anh Lạc, kỹ nhạc của cõi Trời rối rít rơi xuống như mưa. Tức thời tất cả khí cụ trị tội khổ không gián đoạn trong sáu nẻo tranh nhau va chạm, diễn xướng âm thanh: Vô Thường, Khổ, Không, Giải Thoát. Vạc nước nóng, lò than đều bị gãy đổ phá hoại. Tất cả tội nhân tự biết Túc Mệnh, tiêu trừ lo nghĩ (thích nhiên) như nhập vào Tam Thiền. Trong hội này có người được Sơ Quả cho đến A La Hán Quả. Vô lượng Người, Trời phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Vô THượng Chính Đẳng Chính Giác)”

_Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Nguyệt Ái BồTát với các Đại Chúng: “Đà La Ni này khó có thể được nghe, huống chi là được nhìn thấy, câu chi Đức Như Lai ởquá khứ, vị lai đều cùng nhau tuyên nói, nay Ta, Thích Ca Mâu Ni cũng lại vì ông mở bày tuyên nói.

Này Thiện Nam Tử! Nếu các Trời, Người như Pháp thọ trì. Hoặc bị các QuỷThần với sự đói khát bức bách, chết đột ngột chẳng đúng thời… ắt chẳng được tên gọi là Thắng Đại Bi Nhật Đà La Ni vậy. Tại sao thế? Vì Đà La Ni này ví như vua báu Ma Ni hay thỏa mãn tất cả Ý Nguyện, cũng như trăng sáng hay khiến cho hoa Ưu Đàm trợ nhau giọi sáng hé nở. Thiện Nam Tử! Nếu có BồTát chẳng dính mắc vào niềm vui của mình, cứu nơi khổ ấy, huân tu Đại Bi, tất cả lợi an, như Pháp thực hành bố thí thì người này đúng là BồTát Đại Bi. Người này do thực hành Hạnh Quán Âm nên được tất cả chư Phật trao tay thọ ký, các Tôn BồTát chịu khó yêu giúp, tất cả Hiền Thánh nhìn như đứa con của mình. Các Trời, Rồng, Thần đi theo hộvệ.

Thế nên Nguyệt Ái! Tuy bố thí cho A La Hán, Bích Chi Phật, thời hiện nhận quả báo ấy có hạn có lượng, chỉ được 500 Kiếp Quá Báo của Người, Trời. Khéo bốthí cho Ngạ Quỷ một món ăn bằng một sủy thì Phước Đức của người ấy tức là Bồ Đề. Bồ Đề (Bodhi) thì chẳng có thể hạn lượng, thế nên Phước Thọ chẳng thể hạn lượng.

Nay ông hãy nghe cho kỹ! Ta lại vì ông nói công năng với việc đã làm của Đà La Ni này.
Nếu lại có tội nặng, nghiệp ác chồng chất ngăn che, khó thể trừ đứt. Mỗi ngày Chú vào cháo sữa, đem cho Ngạ Quỷ. Đầy đủ 7 ngày thì tất cả tội chướng đều diệt được hết không có dư sót
Lại có một Pháp. Nếu người bị bệnh rất nặng với các nhóm bệnh Quỷ thì nên làm ba chén cháo miến rồi Chú vào 7 biến. Ở trong chỗ hoang vắng, đem cho Ngạ Quỷ. Nhưvậy 14 ngày thì bệnh đau đã bị, liền được trừkhỏi

Lại nữa, trong đất nước có chất độc của nghiệp ác lưu hành, người dân bị bệnh tật, súc sinh bị chết yểu thì nên làm lò lửa, lấy hạt Tát Lợi Sát Ba (Đời Đường nói là hạt cải trắng) hòa với nhóm bơ, mật. Hô gọi các hàng Tất Lợi Đá (Preta), sau đó lấy một dúm, một lần Chú thì một lần ném vào trong lửa. Nhưvậy ngày ngày đều làm 108 lần, xong 7 ngày thì Quỷác vui vẻ, thu nhiếp chất độc ác, bệnh tật tai họa đều trừdiệt

Lại nữa, nếu có người đột ngột gặp chuyện Khẩu Thiệt thì nên làm nước mật, Chú vào 7 biến, rải tán bốn phương thì tất cả việc Khẩu Thiệt tự nhiên diệt hết

Lại nữa, nếu có Oan Gia, Tâm thù muốn lập mưu gây hại, thì nên ởbuổi sáng sớm, vì các hàng Ngạ Quỷ đặt bày thức ăn uống ngon, xưng tên kẻ Oán lúc trước thì các Ngạ Quỷliền khiến cho người ấy gặp phải việc suy kém, tai họa.

Lại nữa, có Pháp. Nếu gặp Kiếp mất mùa đói kém thì nên Chú vào năm loại lúa đậu, sữa, cao sữa 108 biến rồi ném vào ao nước; tức người dân trong đất nước liền được no ấm an vui

Lại nữa, có Pháp. Nếu muốn Tất Đế Lợi (Preta), Ma Gia (Māyā). Lấy Ngưu Tô, sữa, cao sữa…hướng mặt về phương này, Chú vào một ngàn biến bố thí cho Ngạ Quỷ. Hô gọi hàng Xá Đề Đà, Lam Bà (Lambā)… vì ta chọn lấy mỗi một thứkia, tức liền đem đến. Nếu muốn khiến đi thì hô khiến đem đi, tức liền đem đi

Lại nữa, có Pháp. Nếu muốn khiến lấy mọi loại tài bảo. Như trên đặt bày thức ăn, Chú đủ một vạn biến. Hô gọi tên rối nói, tức đem vàng bạc, bảy báu đến cho Hành Giả

Lại nữa, có một Pháp. Lấy Sài hồ (một loại cỏ thuốc), gạo tẻ, bơ, mật… lấy một dúm, Chú một biến thì một lần thiêu đốt, đủ 1008 biến ắt được tài vật lớn, tất cả sự mong cầu đều được như ý.

Lại nữa, có Pháp. Nếu muốn mãn túc Đàn Na (Dāna: bố thí), Hành Giả mỗi ngày cho Ngạ Quỷ thức ăn uống, đủ một trăm ngày liền được đầy đủ.

Lại có Pháp. Nếu muốn cầu Thọ Mệnh kéo dài. Làm Pháp như bên trên, đủ một trăm ngày, liền được sống lâu

Lại có Pháp. Nếu muốn thân hiện tại được xinh đẹp, mạnh mẽ, khiến người nhìn thấy sinh vui vẻ thì nên bố thí cho Ngạ Quỷ đủ một trăm ngày, ắt được nhưý.
Như vậy, lược nói chỉ có tất cả việc mong cầu, mọi loại suy kém tai vạ thì khởi Ý đối trị, ắt tất cả đều được. Thế nên nay Ta lược nói chút ít vậy”

Khi ấy, Đức ThếTôn lại bảo Nguyệt Ý BồTát Ma Ha Tát rằng: “Đà La Ni Kinh này chẳng thể nghĩ bàn. Nói Công Đức ấy, nếu lại một kiếp, hoặc giảm một kiếp cũng chẳng thể hết. Nếu đời tương lai hay trì Kinh này thì nên biết người đó đã nhiếp lấy 20 loại nhóm Phước Đức lớn. Thế nào là hai mươi?

1_Hiện tại chẳng bị đót khát, nghèo cùng, ách nạn, bệnh tật, suy kém, tai vạ… quấy nhiễu thân tâm
2_Người ấy ăn thức gì, nếu chẳng ngon cũng đều thành Thượng Vị
3_Người ấy đi vào đường hoang vắng thì trùng độc hòa hợp với cỏ thuốc, cuối cùng chẳng thể gây thương tích được
4_ QuỷThần, La Sát. Tinh Mỵ, Võng Lượng nhìn thấy người ấy như Đức Phật.
5_ Chư Phật, BồTát, Thiên Tiên, Long Thần hộ giúp người ấy nhưtròng mắt của mình.
6_Hết thảy bệnh dịch, hoặc là Nghiệp, hoặc mơhồ… đều chẳng thể đến gần thân của người ấy
7_ Người ấy có Thọ Mệnh tăng tiến, nằm yên, hiểu biết điều hưvọng, việc tiếp chạm được cát tường
8_Người ấy ởnơi hiểm trở, hoang vắng, thiếu cỏ, nước thì tựnhiên hợp ý
9_Người ấy có tướng mạo vui vẻ, da dẻ sáng bóng, không có hình sắc xấu
10_ Người ấy thường gặp bạn tốt, cho đến BồTát hiện ra làm bạn
11_ Đời vị lai, người ấy thường sinh vào nhà Sát Lợi Vương
12_ Người ấy có đầy đủsắc đẹp, sức mạnh, sống thọ, được an vui, biện bác khéo léo
13_Người ấy thường sinh trước mặt chưPhật, BồTát
14_ Người ấy ở tại chỗ nào thì Phục Tàng (kho tành bị che dấu) tự hiện ra
15_ Người ấy luôn được người khác cung kính, tiếp đón
16_Không ai có thểcướp đoạt được hết thảy tài bảo của người ấy.
17_Ý Muốn, ước nguyện của người ấy đều được xứng tâm toại ý
18_Người ấy chẳng bị sinh ra trong thời đói kém, kiếp nạn
19_Người ấy thường sinh trên Trời, thọ nhận niềm vui thù thắng tôn quý
20_Người ấy thường dùng Pháp HỷThiền Duyệt không có đói khát

Đây là 20 loại nhóm Phước Đức lớn

Thiện Nam Tử! Đà La Ni này có uy đức tự tại. Nếu là người đói khát thì hướng vào mặt mà tụng thì kẻ ấy liền được no đủ. Nếu Chú vào cây khô thời nó còn được sống lại, huống chi là Chú vào hữu tình mà chẳng nương nhờ được Phước ấy sao. Cho nên nay Ta ân cần ba lần nói giao phó cho ông, ông nên nhớ giữ, vì chúng sinh nói, đừng để quên mất”
• Lưu ý
“Nam mô bộ bổ lợi đát tha yết đá gia Án tát bà tích lợi đa, yết la gia a già xoa tóa ha”
NAMO BHŪ-PŪRI TATHĀGATĀYA
OṂ_ SARVA PRETA KARĀYA AKṢA SVĀHĀ

Pháp tướng của Khế ấy: Đứng thẳng, đem hai chân đứng làm hình chữ Thập. Trước tiên ngửa tay trái rũ xuống ở đầu gối làm tướng Thí Vô Úy. Tiếp theo tay phải: đem ngón cái nhập vào lòng bàn tay, bốn ngón kia nắm lại nâng lên để dính vòng khen ở tai phải, dùng phần không có đầu ngón, đưa qua lại. Liền tụng niệm Diệu Ngôn 3 biến thời quán tưởng tất cả nhóm NgạQuỷ, 36 Bộ QuỷThần đều tập tụng Chú bên cạnh người, chắp tay chiêm ngưỡng, quán Hành Giả Đà La Ni Diệu Ngôn này. Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện, Đồng Nam, Đồng Nữ thọ trì đọc tụng thì thân đời này được mười loại nhóm Phước. Nhóm nào là mười?
1_Chẳng bịtrúng thuốc độc
2_Rắn độc chẳng dám cắn
3_Đao, gậy chẳng thểhại
4_Vua, quan chẳng dám giận
5_Mọi người đều yêu kính
6_Trời, Rồng thường đi theo gộgiúp
7_Quần áo đều dư đủ
8_Dung mạo đoan chính
9_Lìa hẳn sự đáng sợ
10_ Chẳng thọ nhân thân trong ba đường (Địa Ngục, Quỷ đói, súc sinh)
“Nam mô tố lỗ bà duệ đát tha yết đá gia đát điệt tha tô lỗ tô lỗ, ba la tô lỗ, ba la tô lỗ sa bà ha”
NAMO SU-RŪPAYA-TATHĀGATĀYA
TADYATHĀ: SURU SURU PRASURU PRASURU SVĀHĀ

Pháp tướng của Khế ấy: ngồi Bán Già như Pháp ngồi của Chuyển Luân Vương. Trước tiên dùng tay phải như dạng nâng cái cổ, cách cái cổ khoảng một Thốn (1/3 dm), để khuỷu tay trên đầu gối phải. Tiếp theo ngửa nghiêng tay trái, duỗi năm ngón rũ trên đầu gối trái, làm dạng ban cho sữa. Khi tác Khế này thời tụng niệm Diệu Ngôn 7 biến, tưởng quán năm đầu ngón tay trái tuôn ra sữa màu trắng, màu hơn hẳn bạc trắng, tuôn ra chẳng dứt. Các nhóm Quỷ đó đều há miệng nhận lấy sữa, đều được no đủ.

_Người tác Khế: Thiện Nam Tử ấy, thân hiện tại sẽ được 16 loại Công Đức. Thế nào là mười sáu?

1_ Thọ Mệnh lâu dài
2_ Nhan sắc xinh đẹp
3_ Khí lực tràn đầy
4_Tâm thường hoan lạc
5_Biện tài không có vướng mắc
6_Luôn không có tưởng bị đói
7_Trong miệng có hương thơm tinh khiết
8_Con người đều kính ngưỡng
9_Thiên Thần đi theo bảo vệ
10_Quỷ TỳXá Già (Piśāca) hiện hình cung cấp
11_Thận không có bệnh hoạn
12_Uy đức như vị vua
13_Người ác, Quỷác nhìn thấy đều sinh vui vẻ
14_Được Phước của ngàn vịLuân Vương
15_Trong mộng thấy các BồTát, A La Hán
16_Nơi sinh ra, Thế Giới chấn động

“Án, bộ bồ lợi già đát-lợi đát tha yết đá gia”
OṂ_ BHŪ-PŪRIKĀ-TARI TATHĀGATĀYA


Pháp tướng của Khế ấy: Dựa theo Triệu Hoán Khế Pháp bên trên kèm bàn chân
đứng thẳng, đem mười ngón tay chắp lại, cùng dính đầu ngón, khoảng giữa ấy cách
nhau khoảng một thốn (1/3 dm), mở cổ tay để ngay trên trái tim. Đây gọi là Đại Bi
Tâm Luân Đà La Ni Pháp.

Khi kết Ấn này thời quán tưởng trên Khế có một viên ngóc báu Ma Ni thủy tinh, phóng ánh sáng thủy tinh chiếu chạm các Quỷ thì tất cả lửa mạnh thảy đều chẳng cháy nữa, ánh sáng thủy tinh này nhập vào miệng của các Quỷthì cổhọng của các Quỷ đều được mở thông, tức lìa các khổ não.