NGUYÊN TÁC:

ESOTERIC CHRISTIANITY




CƠ ĐỐC GIÁO BÍ TRUYỀN

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

MỤC LỤC

Lời nói đầu

1.Phía ẩn mật của các Tôn Giáo

2.Phía ẩn mật của Cơ Đốc Giáo:Chứng cớ của Thánh Kinh

3.Phía ẩn mật của Cơ Đốc Giáo:Chứng cớ của Giáo Hội

4.Đấng Christ trong lịch sử

5.Đấng Christ trong thần thoại

6.Đấng Christ trong thần bí học

7.Sự chuộc tội

8.Sự sống lại và sự thăng thiên

9.Tam nguyên

10.Cầu nguyện

11.Sự tha tội

12.Phép Bí Tích: Đại cương

13.Phép Bí Tích: Trường hợp cụ thể

14.Khải thị

Lời kết



LỜI NÓI ĐẦU

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

Quyển sách này nhằm mục đích gợi một vài ý tưởng về những chân lý ẩn sâu trong Cơ Đốc Giáo thường bị bỏ qua và phủ nhận. Lòng ước muốn chia sớt rộng rãi những chân lý vô giá, không che đậy ánh sáng giác ngộ, đã đưa đến tấm lòng nhiệt thành không ngại góp ý vào Cơ Đốc Giáo, và đã trình bày những giáo lý ấy dưới một hình thức đôi khi làm mất lòng một vài người.

Mệnh lệnh “Giảng Tin Lành cho mọi người” đã được giải thích là không nên giảng Minh Triết (gnosis) cho một số ít người, hiển nhiên nó đã xóa mờ một lời nói ít phổ thông hơn của cùng vị Đại Giáo Chủ trên: “Đừng bỏ vật thánh cho chó, cũng đừng quăng ngọc châu mình cho heo” (Matt 7:6)

Tính đa cảm sái chỗ ấy đã không chịu nhận thấy những tình trạng bất đồng hiển nhiên của trí khôn và đạo đức, do đó nó đã thâu hẹp nhu g74 giáo lý cao siêu và hạ thấp xuống mức độ mà các hạng người kém tiến hóa có thể vươn tới được. Nó đã hy sinh cái cao siêu cho cái thấp kém và lại làm tổn thương cả hai. Tính đa cảm ấy đã không có chỗ đứng trong lương tri hào hùng của những người Cơ Đốc đầu tiên. S.Clement đã nói một cách ngay thẳng về các Bí Pháp: “Ngay đến bây giờ, tôi cũng ngại liệng ngọc báu cho heo, e rằng chúng sẽ dẫm lên rồi quay trở lại cắn chúng ta’. Bởi vì rất khó trình bày Ánh Sáng chân chính bằng những ngôn từ thật sự trong sáng và thuần khiết cho các người chưa được huấn luyện.”

Nếu muốn tái lập lại phần Minh Triết chân chánh, thì người ta chỉ nên hạn chế nó theo vài quy lệ cổ xưa mà thôi và không nên hạ thấp chân lý xuống ngang trình độ của hạng người kém phát triển. Chỉ bằng cách giảng dạy cho một số ít người tiến hóa mới có thể mở đường cho sự phục hồi nền hiểu biết cổ thời, và sự nghiên cứu Tiểu Bí Pháp cần đi trước Đại Pháp. Đại Bí Pháp không bao giờ được phổ biến mà chỉ được những Vị Huấn Sư “truyền khẩu” cho đệ tử mà thôi. Nhưng các Tiểu Bí Pháp hiện nay có thể được phục hồi và một quyển sách như thế này nhằm phát họa những nét đại cương và chỉ rõ bản chất của các lời giáo huấn cần phải được nắm vững. Nếu nơi nào lời giảng chỉ nêu ra những dấu hiệu, những điều bóng gió thì cần phải tham thiền về những chân lý được cố ý ẩn dấu mới thấy được những nét đại cương và nhờ tham thiền liên tục, ánh sáng càng ngày càng tỏ lộ rõ ràng, đầy đủ hơn. Hạ trí chỉ chăm lo vấn đề bên ngoài. Tham thiền sẽ làm hạ trí an tĩnh, và chỉ khi nào nó an tĩnh rồi, tinh thần mới có thể giác ngộ được nó. Kiến thức về những chân lý tinh thần chỉ có thể được đạt bằng cách ấy, từ bên trong chứ không từ bên ngoài, từ Tinh Thần thiêng liêng mà chúng ta là đền thờ chứ không phải từ một vị Huấn Sư bên ngoài.

Đây là con đường của Minh Triết Thiêng Liêng. Nó chẳng phải như vài người nghĩ là một sự pha chế của Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo hay một tôn giáo đặc biệt nào khác. Nó chính là Cơ Đốc Giáo bí truyền, cũng như nó cũng chính thật là Phật Giáo bí truyền. Nó thuộc về tất cả mọi tôn giáo, không ngoại trừ tôn giáo nào. Nó là nguồn cội cho các tư tưởng trong quyển sách nhỏ này, nó giúp những người tìm Ánh Sáng- cái Ánh Sáng chân thật “ dến thế gian soi sáng mọi người.”(S.John 1:9) mặc dù hầu hết chưa chịu mở mắt nhìn nó. Nó không đem Ánh Sáng đến. Nó chỉ nói:”Hãy ngắm nhìn Ánh Sáng.” Nó chỉ kêu gọi một số ít người khao khát hiểu biết hơn là truyền cho họ các giáo lý công truyền. Nó không nhắm đến những người tự thấy đã đầy đủ với những giáo lý công truyền. Tại sao lại phải cung cấp thực phẩm cho người không đói? Còn đối với những người đang đói, nó sẽ là miếng bánh mì chứ không phải là hòn đá.

CHƯƠNG 1

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

PHÍA ẨN MẬT CỦA CÁC TÔN GIÁO

Có lẽ nhiều người mới xem qua tựa sách đã nghĩ ngay rằng không có điều gì đáng được gọi là “Cơ Đốc Giáo bí truyền”. Một quan niệm phổ thông cho rằng C.Đ.G. không có các giáo lý huyền bí, và các “Bí Pháp” dẫu Tiểu hay Đại Bí Pháp cũng chỉ là của tà giáo. Câu “những Bí Pháp của Đức Jesus” rất quen thuộc với những người Cơ Đốc của thế kỷ đầu tiên sẽ gây ngạc nhiên cho các người kế vị họ về sau. Hiện nay người ta phô trương rằng C.Đ.G. không có điều chi bí mật, những gì phải nói thì nói cho mọi người, những gì cần giảng thì giảng cho tất cả. Những chân lý C.Đ.G. được cho là rất giản dị đến độ “một người dại khờ cũng không thể đi lạc trong đó”, và câu “Kinh Thánh đơn giản” đã trở nên một câu khuôn mẫu.

Vì thế cần chứng tỏ rằng ít ra trong thời Giáo Hội Đầu Tiên, C.Đ.G. cũng có phần giáo lý ẩn mật không thua gì các tôn giáo lớn khác, phần này chỉ do một nhóm nhỏ chọn lọc trong Huyền Môn gìn giữ như một bảo vật vô giá. Nhưng trước khi chứng minh, ta nên xem xét toàn diện vấn đề về khía cạnh ẩn mật của các tôn giáo và tìm hiểu tại sao phải có một khía cạnh như thế nếu một tôn giáo muốn mạnh mẽ và bền vững. Nhờ vậy chúng ta mới thấy sự hiện hữu của khía cạnh ấy trong C.Đ.G. hiện ra như một kết luận đã có rồi, và sự tham khảo trong những văn tự của các Cha Cơ Đốc mới có vẻ đơn giản và tự nhiên thay vì lạ lùng và khó hiểu. Vì là một sự kiện lịch sử nên sự hiện hữu của phần bí truyền được minh chứng dễ dàng. Nhưng người ta cũng có thể chứng minh sự cần thiết của nó trên phương diện lý trí.

Câu hỏi đầu tiên cần giải đáp là: mục đích của các tôn giáo là gì? Tôn giáo được những người khôn ngoan hơn quảng đại quần chúng truyền bá ra cho thế giới để thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại. Sự tiến hóa như một bậc thang lên cao trên đó mọi người đều không cùng một trình độ nên bậc nào cũng có họ. Người tiến hóa cao nhất cách xa hẳn người tiến hóa thấp nhất về cả sự sáng suốt và đức hạnh. Năng lực nhận thức và hành động thay đổi theo từng mỗi bậc. Do đó đưa ra cùng một giáo lý cho tất cả mọi người không ích lợi gì. Phần nào giúp ích được người khôn ngoan thì kẻ dại khờ không hiểu được; điều nào đưa một vị thánh vào trạng thái xuất thần thì lại bỏ rơi kẻ tội lỗi. Trái lại một giáo lý thích hợp với kẻ sơ học sẽ trở nên vô vị với một triết gia; điều gì giúp giải phóng một tội nhân thì hoàn toàn vô bổ cho một vị thánh. Tuy nhiên, mọi hạng người đều cần đến tôn giáo để có thể vươn lên một đời sống cao hơn, và không nên hy sinh một hạng người này cho một hạng người khác. Vậy thì tôn giáo phải có nhiều cấp bậc theo trình độ tiến hóa; nếu không, nó không đạt mục đích.

Câu hỏi kế tiếp: Các tôn giáo thúc đẩy sự tiến hóa nhân loại theo phương hướng nào? Tôn giáo thăng tiến bản tính đạo đức và trí tuệ, và giúp bản tính tinh thần tự khai mở. Tôn giáo nhìn nhân loại như một phức thể và gắng đáp ứng với mọi thành phần. Do đó các giáo lý phải thích ứng với mỗi lý trí, mỗi tâm tình riêng. Nếu tôn giáo không đạt đến và hướng dẫn trí tuệ, nếu nó không tinh luyện và cảm ứng cho các mối cảm động thì nó đã thất bại rồi vậy.

Ngoài ra nó còn phải kích động khai mở bản tính tinh thần, đó là một động lực hiện hữu sẵn có bên trong con người và cứ mãi thúc đẩy nhân loại tiến hóa, triền miên tìm kiếm Thượng Đế.

Tôn giáo sẽ đáp ứng các nỗi khắc khoải ấy, tăng cường, tinh luyện và hướng dẫn chúng vào con đường chánh đáng: hợp nhất tinh thần con người với tinh thần thiêng liêng để cho “Thượng Đế là tất cả trong tất cả” (I Cor. 15:28).

Câu hỏi kế tiếp hiện đến khi ta nghiên cứu: Tôn giáo có nguồn gốc nào? Ngày nay có hai câu trả lời của một nhóm Thần Thoại Đối Chiếu, và của một nhóm Tôn Giáo Đối Chiếu. Cả hai cùng đặt nền tảng trên các sự kiện đã được chấp nhận. Công phu khảo cứu đã chứng tỏ hùng hồn rằng các tôn giáo trên thế giới giống nhau một cách rõ rệt về các giáo lý chánh đại, về các quyền năng siêu phàm và mức tiến hóa tinh thần cao tuyệt của các Vị Sáng Lập, về các quy luật đạo đức của các Ngài, về cách Ngài tiếp xúc với những cõi giới vô hình. Tính tương đồng ấy, theo cả hai trường phái, đều chứng tỏ các tôn giáo có một nguồn gốc chung.

Nhưng về bản chất của nguồn gốc chung ấy thì hai phái còn đang bất đồng ý kiến. Phái Thần Thoại Đối Chiếu cho rằng nguồn gốc chung ấy là do sự vô minh, và những giáo điều cao cả nhất chỉ là các sự biểu lộ được tinh luyện lại của các phỏng đoán thô sơ và man dã của các người hoang dã sơ khai đối với các hoàn cảnh. Sùng bái ngẫu tượng, thờ thần, thờ thiên nhiên, thờ mặt trời, đó là những chất liệu của mảnh đất đầu tiên cho một tôn giáo tươi đẹp mọc lên.

Thượng Đế là một hình ảnh tổng hợp nhiều vị Thần, họ là những mãnh lực của thiên nhiên được nhân cách hóa. Tất cả được tóm tắt trong câu: Những tôn giáo là các nhánh của một thân cây chung- sự vô minh của con người.

Trái lại phái Tôn Giáo Đối Chiếu cho rằng tất cả mọi tôn giáo đều xuất phát từ những lời giáo huấn của những Bậc Thiêng Liêng thỉnh thoảng xuất hiện ở nước này hoặc nước khác trên thế giới. Tuy cùng những chân lý căn bản giống nhau, nhưng các Ngài rút ra những phần thích hợp với khả năng, trình độ của dân tộc ấy vào thời kỳ ấy. Các tín ngưỡng sơ khai là hình thức suy đồi, thoái hóa, biến dạng, còi lụn của các tôn giáo chân chính. Vào thời ấy tín ngưỡng thờ mặt trời và các hình thức đúng đắn thờ phượng thiên nhiên là những tôn giáo thanh khiết, đầy biểu tượng nhưng cũng đầy sự hiểu biết và chân lý sâu xa. Những vị Đại Huấn Sư họp thành một Đại Đoàn Huynh Đệ, các Ngài đã vượt cao hơn nhân loại và xuất hiện vào những thời kỳ nào đó để soi sáng thế giới. Các Ngài cũng là những người bảo vệ tinh thần cho nhân loại. Quan điểm này được kết đọng trong câu: “Những tôn giáo là các nhánh của một thân cây chung- nền Minh Triết Thiêng Liêng”.

Cuộc tranh luận giữa hai trường phái đối lập được xét theo sự vững chắc của các bằng chứng mỗi bên đưa ra. Phương pháp duy nhất để quyết định bên nào đúng chỉ bằng cách khảo sát các tổ tiên trung gian xa xôi. Chứng cớ của phái tin vào sự Minh Triết thuộc loại này. Họ dẫn chứng rằng các Vị Sáng Lập tôn giáo- xét theo các sự ghi chép về các lời dạy của Ngài- thì tiến hóa rất cao hơn mức độ của nhân loại; các Thánh Kinh chứa đựng những quy luật đạo đức, những lý tưởng cao cả, những cảm hứng thi vị, những lời xác quyết triết lý thâm sâu dẫu cho các người cùng thuộc một tôn giáo ấy về sau cũng không thể nào viết được một cách thiện mỹ và cao siêu như thế- Đó là cái cũ cao siêu hơn cái mới thay vì cái mới cao siêu hơn cái cũ. Không có trường hợp nào chứng tỏ có sự cải thiện các tôn giáo trong khi đó có nhiều trường hợp giáo lý thuần khiết bị suy đồi; và cả đến những tôn giáo của dân tộc sơ khai nếu được nghiên cứu cẩn thận, người ta sẽ tìm được nhiều ý tưởng cao cả vượt xa khỏi năng lực sáng tạo của họ.

Còn một lý do khác là tại sao một vài chân lý nào đó chỉ được dạy một cách bí truyền mà thôi. Hiển nhiên đó là vì “Kiến thức là quyền năng”.Sở dĩ một triết lý cao siêu được truyền bá một cách công khai là vì nó không làm hại được một ai. Người ta có thể giảng dạy nó không do dự, bởi vì nó không hấp dẫn kẻ ngu dốt. Nhưng có những giáo lý liên quan đến sự cấu tạo của thiên nhiên, hoặc giải thích những luật bí hiểm và soi sáng các phương cách ẩn mật. Nhờ hiểu biết chúng, người ta có thể chế ngự được các năng lực thiêng liêng và sử dụng vào các mục đích nào đó, giống như một nhà hóa học chế tạo các hợp chất. Sự hiểu biết ấy rất hữu ích cho người tiến hóa cao và gia tăng năng lực phụng sự của họ.Nhưng nếu nó được công bố ra thế giới, nó sẽ bị lạm dụng vào những mục đích ích kỷ, và con người dễ sa vào tà đạo có mục tiêu chia rẽ thay vì kết hợp. Do đó mà một số giáo lý được giữ kín đối với những người chưa đủ trình độ đạo đức để nhận lãnh. Các vị Huấn Sư rất muốn truyền bá nó cho những người nào biết sử dụng quyền năng ấy để phụng sự cho ích lợi chung và thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại.

Đây không phải là vấn đề lý thuyết. Sử sách Huyền môn cũng có ghi lại các chi tiết của những biến cố như được nói đến trong Sáng Thế Ký. Thời xưa ở lục địa Ắt Lăng Tíc, sự hiểu biết được truyền bá một cách không nghiêm ngặt đối với trình độ đạo đức, sự trong sạch và vô ngã của thí sinh. Những người nào đủ trí thông minh đều được dạy, như ngày nay người ta dạy khoa học thường thức vậy. Kết quả là họ hiểu biết nhiều nhưng đồng thời cũng rất xấu xa. Thế giới rên xiết dưới sự áp chế của họ. Do đó Châu Ắt Lăng Tíc (Alantic) bị tiêu diệt đi, toàn bộ ngập chìm sâu dưới đại dương. Kinh Thánh Do Thái ghi lại vài tiểu tiết ấy trong câu chuyện Đại Hồng Thủy, còn Kinh Thánh Ấn Độ ghi lại trong câu chuyện của Đức Vaivasvata Manu.

Sau kinh nghiệm nguy hại ấy, các vị Huấn Sư đòi hỏi những điều kiện khắc khe về tính tinh khiết, vô ngã và tự chủ của các thí sinh. Ngài đặt nặng vấn đề đạo đức hơn trí khôn. Vì sự giáo huấn tự nó sẽ mở mang trí khôn. Các Ngài thà bị người không hiểu biết công kích cho là ích kỷ vì giấu kín các điều hiểu biết hơn là các Ngài thúc đẩy thế giới vào một thảm họa Atlantic khác.

Sang qua các sự kiện thực tế, chúng ta sẽ hỏi vào thời trước, khía cạnh ẩn mật này có hiện hữu không? Chắc chắn là có. Mỗi tôn giáo đều tuyên bố có nắm giữ một giáo lý ẩn mật chứa đựng các kiến thức thần bí, lý thuyết lẫn thực hành. Kiến thức thần bí tuy được quảng bá cho quần chúng nhưng dưới dạng một biểu tượng, một ngụ ngôn mà một người thông minh có thể tìm hiểu được. Còn phần kiến thức thần bí thực hành chỉ được dạy với những điều kiện xác định đã được công bố, các thí sinh phải làm tròn những điều kiện này. S.Clement of Alexandria muốn ám chỉ đến Bí Pháp, ông nói: “Sau sự tinh luyện là các Tiểu Bí Pháp làm nền tảng chuẩn bị cho các điều về sau. Còn trong Đại Bí Pháp, người ta không còn phải học hỏi điều gì về vũ trụ nữa mà chỉ việc chiêm ngưỡng và tri nhận thiên nhiên”.

Đối với các tôn giáo cổ xưa, tình trạng này không cần phải thảo luận. Huyền Môn Ai Cập rất vẻ vang và những người con cao quý nhất của Hi Lạp đi đến Sais và Thebes để dược các vị Chân Sư Minh Triết Ai Cập điểm đạo. Huyền Môn Mithra ở Ba Tư, Huyền Môn Orpheus và Bacchus và sau đó Eleusinian ở Hi Lạp, Huyền Môn Samothrace, Scythia, Chaldea ít ra cũng là những tên rất quen thuộc như các từ ngữ trong gia đình. Huyền Môn Eleusinian dẫu trong hình thức yếu kém nhất cũng được các tinh hoa của Hi Lạp như Pindar, Sophocles, Isocrates, Phutarch và Plato khen ngợi. Những Huyền Môn ấy được xem là rất hữu ích vì nó nêu lên sự hiện tồn sau khi chết, cũng như người được Điểm Đạo biết rằng nó bảo đảm cho hạnh phúc tương lai của y. Sopater còn quả quyết rằng sự Điểm Đạo thiết lập sự quan hệ của linh hồn với Thiên Nhiên thiêng liêng, và trong bài ca về Demeter có nói bóng gió đến Hài Nhi thánh thiện Iacchus, đến sự chết và sự sống lại như các Huyền Môn đã đề cập. Người ta học được nhiều điều về mục tiêu của Huyền Môn nhờ Iamblichus, nhà thông thần học lớn ở thế kỷ 3 và 4. Thông thần học(theurgy) là pháp thuật,”phần cuối cùng của môn khoa học của các giáo chức(sacedortal)”được thực hành trong Đại Bí Pháp để triệu cầu những vị cao siêu hiện diện. Lý thuyết các Huyền Môn căn cứ có thể tóm tắt như sau: Có một Đấng Duy Nhất, cao hơn vạn vật, không di dịch, ngự trong sự tĩnh lặng nhất thể của chính Ngài. Từ đó, phát xuất ra Thượng Đế Tối Cao, Nguồn cội của mọi vật, Thượng Đế của các Thượng Đế, Nguyên nhân đầu tiên, tự biểu lộ trong Ánh Sáng. Nơi Ngài tuôn ra Thế Giới Thông Tuệ, Trí Đại Đồng, và những Thượng Đế vô thể cũng thuộc vào đó. Từ Thế Giới Thông Tuệ này lại phát xuất ra Linh Hồn Thế Giới, và các hình thể thông tuệ thiêng liêng cùng hiện diện với các thể của các Thượng Đế. Kế đó là các đẳng cấp khác nhau của những Vị Siêu Nhân. Con người thuộc một đẳng cấp thấp hơn, có bản chất liên hiệp với các vị này, và có khả năng hiểu họ. Những giào lý này được quảng bá trong Huyền Môn. Các vị siêu nhân có thể được triệu cầu, họ xuất hiện để dạy dỗ, nâng cao và tinh luyện con người. Iamblichus nói rằng những vị Thượng Đế tuôn xuống dồi dào cho các nhà thông thần, kêu gọi linh hồn họ hướng lên Ngài, hiệp nhất với Ngài, tập cho họ quen tách rời khỏi các thể-trong khi vẫn còn ở với xác thể-để được dẫn đến một khí thể trường cửu và thông tuệ của họ, vì linh hồn có một sự sống kép, một phần kết liền với xác thể, còn một phần khác tách rời khỏi mọi thể. Rất cần luyện tập cách tách rời linh hồn khỏi hạ thể để nó có thể hiệp nhất với Thượng Đế bằng phần thiêng liêng và thông tuệ của nó. Khi Thượng Đế xuất hiện, linh hồn nhận được “sự giải thoát khỏi các dục vọng, một sự toàn thiện tuyệt mỹ, và một năng lực phi thường” và hưởng được tình thương thiêng liêng và một niềm vui sướng vô biên.

Proclus cũng dạy rằng sự cứu rỗi duy nhất của linh hồn là sự trở về hình thức thông tuệ của nó và như thế thoát khỏi vòng sinh hóa, khỏi các cuộc lang thang triền miên, đạt đến con Người chân thật. Đây là sự sống mà những người được Orpheus điểm đạo vào Huyền Môn Bacchus và Proserpiine, và đây cũng là kết quả của việc thực hành những hạnh tinh luyện.

Những đức tính này rất cần thiết trong Đại Bí Pháp vì chúng liên quan đến sự tinh luyện thể tinh anh hơn mà linh hồn hoạt động trong đó khi thoát khỏi cái thể thô nặng. Các đức tính thực tiễn này tùy thuộc đời sống thông thường của con người và chúng phải được phát triển đến đến một mức độ nào đó trước khi y có thể trở nên một thí sinh của một Trường. Kế đó là những đức tính tinh luyện, nó giúp cho thể tinh anh-thể của tình cảm và của hạ trí được tinh luyện. Thứ ba là những đức tính thông tuệ, và thứ tư là sự chiêm ngưỡng, nhờ đó con người có thể hiệp nhất với Thượng Đế, Porhyry viết: “Ai hành động hợp với những đức tính thực tiễn là một người xứng đáng, ai hành động phù hợp với những đức tính tinh luyện là một người thiên thần. Ai hành động theo những đức tính thông tuệ là một Thượng Đế, còn người nào hành động theo những đức tính khuôn mẫu (paradigmatic) là Cha của các Thượng Đế”.

Các đẳng cấp thiên thần và các đẳng cấp khác cũng đưa ra nhiều huấn thị trong Huyền Môn, và Đức Pythagore - vị Đại Huấn Sư được Điểm Đạo ở Ấn Độ, đã dạy cho các đệ tử hữu thệ của Ngài biết kiến thức về chân tướng của sự vật - được người ta nói rằng Ngài có một kiến thức về âm nhạc thâm sâu đến nỗi Ngài có thể sử dụng nó để chế ngự những dục vọng thô bạo nhất của con người và để chiếu sáng tâm trí họ. Iamblichus đã nêu ra những trường hợp này trong quyển Đời Sống của Đức Pythagore.

Trường phái Thytagore ở Magna Graecia bị đóng cửa vào cuối thế kỷ 6 trước T.C, vì sự hà khắc của chính quyền, nhưng những cộng đồng khác vẫn còn tồn tại, lưu giữ truyền thống thiêng liêng, Giáo sư Mead nói rằng Plato đã tinh thần hóa nó để bảo vệ nó khỏi dự xúc phạm đang gia tăng, và các nghi lễ của Eleusinian còn bảo tồn vài hình thức của nó nhưng đã mất đi hẳn chất liệu. Phái tân-Platon thừa hưởng di sản của Pythagore và Plato, người ta nên nghiên cứu những tác phẩm của họ nếu muốn hiểu đôi điều về sự vĩ đại và nét mỹ lệ đang được bảo tồn cho thế gian trong Huyền Môn.

Trường phái Pythagore có thể sử dụng như một hình thức kỷ luật. Về điều này, ông Mead có đưa ra nhiều chi tiết lý thú và nhận xét: “Những tác giả của thời thượng cổ đều đồng ý rằng kỷ luật này đã thành công tạo được nhiều gương sáng chói nhất, không những về sự tinh khiết mà còn về sự giản dị trong tư thái, sự tế nhị, và sự say mê học hỏi nghiêm trang ít ai bì kịp. Cả đến các tác giả Cơ Đốc cũng chấp nhận điều này”. Trường này cũng có những đệ tử bên ngoài, vẫn sống cuộc đời gia đình và xã hội. Còn những đệ tử trong Trường thì có ba bậc: trước tiên là bậc Thinh Văn phải tịnh khẩu hai năm để học hỏi và cố gắng nắm vững những giáo lý. Bậc thứ nhì là sinh viên Toán học được dạy hình học và âm nhạc, bản chất của con số, hình thể, màu sắc và âm thanh. Bậc thứ ba là sinh viên Vật lý học phải nắm vững thuyết thành hình vũ trụ và siêu hình học. Điều này dẫn đến Huyền Môn chân chính. Những thí sinh muốn vào Trường phải là người có tiếng trong sạch và có một phong thái an nhiên tự tại.

Sự đồng nhất chặt chẽ giữa những phương pháp và mục đích mà những Huyền Môn khác nhau trên theo đuổi với những phương pháp và mục đích của Yoga ở Ấn Độ đều được mọi người công nhận. Tuy nhiên, không cần giả thiết rằng mọi quốc gia thượng cổ đều phát xuất từ Ấn Độ: tất cả đều phát xuất từ một nguồn gốc chung: Tổng Bộ ở Trung Á, nơi phái các vị được Điểm đạo đi khắp mọi nơi. Họ đều truyền dạy cùng những giáo lý như nhau, theo đuổi cùng những phương pháp như nhau để cùng dẫn đến những mục đích như nhau. Họ có một ngôn ngữ chung và một biểu tượng chung. Như thế Đức Pythagore đã du hành qua Ấn Độ và được Điểm Đạo cấp cao ở đấy. Sau này, Đức Apollonius of tyana theo vết chân Ngài. Ngôn từ và tư tưởng của Plotinus trong câu sau đây quả giống như của người Ấn Độ: “Bây giờ tôi tìm cách đưa cái Ngã trong tôi trở về với Đại Ngã (All.Self)”.

Người Ấn Độ nghiêm nhặt nhấn mạnh đến bổn phận chỉ truyền dạy kiến thức cao cả cho người xứng đáng mà thôi. “Điều bí nhiệm sâu xa nhất của mục đích của kiến thức…thì không được tuyên bố cho một ai không phải là con, là đệ tử hay là một người có tâm trí bất an”. “Hãy đứng lên!Thức tỉnh! Sau khi tìm thấy các Vị Cao Cả, hãy nghe Ngài. Đường Đạo rất khó đi, giống như lưỡi dao cạo sắc bén”. Rất cần Vị Huấn Sư vì kinh sách không đủ. “Mục đích của kiến thức” là để nhận biết Thượng Đế và hiệp nhất với Ngài, chứ không phải chỉ để tin tưởng và thờ phượng xa vời mà thôi. Con người phải biết thực tại của Sự Hiện Hữu thiêng liêng và kế đó biết rằng cái Ngã thâm sâu nhất của chính y vốn là một với Thượng Đế, và mục đích của đời sống là để thực hiện sự hiệp nhất đó. Nếu tôn giáo không thể hướng dẫn con người đi đến sự thực hiện đó, thì tôn giáo chỉ là một miếng đồng kêu vang mà thôi”.

Người ta cũng quả quyết rằng con người có nên tập tách rời thể xác nặng kệch: “Một người phải quyết tâm tách linh hồn khỏi thể xác của y như thân cây vượt khỏi vỏ bao của nó”. “Trong cái vỏ vỏ vàng cao nhất, Brahman cư ngụ. Đó là Ánh Sáng trắng chói lọi của các Ánh Sáng, mà những người tri thức được Bản Ngã đều biết”.

Người Do Thái cũng có nền kiến thức ẩn mật và những Trường Điểm Đạo của họ. Các tiên tri ở Naioth do Samuel điều khiển (Isamuel 19:20) tạo nên một Trường ấy, và những lời giáo huấn được họ truyền khẩu với nhau. Những Trường tương tự cũng có ở Bethel và Jericho(II King 2:2-5), và trong Biểu Kê ở Cruden có lời ghi chú lý thú sau đây: “Những Trường của các tiên tri là những Trường đầu tiên mà chúng ta có thể tìm thấy bất cứ bài tường thuật nào trong Thánh Kinh. Nơi đó, các đệ tử của các tiên tri tập sống một cuộc đời ẩn dật, khổ tu, học hỏi và chiêm ngưỡng, và đọc luật của Thượng Đế…Những Trường của các tiên tri được tiếp nối bằng các giáo đường”.

Kinh Kabbala chứa đựng những giáo lý bán công truyền, trong đó có một phần là công trình của Giáo sĩ Moses de Leon, ông chết năm 1305. Nó gồm có 5 quyển Bahir, Zohar, Sepher Sephiroth, Sephit Yetzirah và Asch Metzareth. Kinh được xác nhận là do khẩu truyền từ những thời đại cổ xưa-từ thời thượng cổ như lịch sử đã ghi nhận. Wynn Westcott nói rằng: “Tập tục Do Thái cho rằng những phần cổ xưa nhất của quyển Zohar có trước khi xây dựng Đền thờ thứ hai” và người ta nói rằng Giáo sĩ Simeon ben Jochai đã có viết vài đoạn trong thế kỷ thứ nhất. Saadiah Gaon mất năm 940- nói quyển Sepher Yetzirah “rất cổ xưa”. Vài đoạn giáo lý khẩu truyền cổ xưa được thêm vào trong Kinh Kabbala như bản văn hiện nay, nhưng sự Minh Triết tối cổ chân thật của người Do Thái vẫn còn được một số người con chân chính của Israel gìn giữ.

Những nét đại cương trên đây cũng đủ chứng tỏ có sự hiện diện của khía cạnh ẩn mật trong các tôn giáo trên thế giới ngoài Cơ Đốc Giáo. Bây giớ chúng ta hãy khảo sát xem Cơ Đốc Giáo có là một ngoại lệ của quy luật đại đồng này không?

CHƯƠNG HAI

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

PHÍA ẨN MẬT CỦA CƠ ĐỐC GIÁO

(a) CHỨNG CỚ CỦA THÁNH KINH

Chúng ta hãy xác nhận xem Cơ Đốc Giáo có thể nào không cần một nền Minh Triết (Gnosis), một kiến thức thâm sâu, mà chỉ cần một đức tin đơn giản hay không? Nếu quả thế thì thật đáng buồn vì C.Đ.G chỉ nhắm đến một hạng người chứ không phải cho mọi hạng người. Nhưng nếu không phải thế thì chúng ta có thể tìm cách xác minh được.

Và chứng cớ ấy là điều mà C.Đ.G hiện nay rất cần có, bởi bông hoa C.Đ.G đang tàn tạ vì thiếu sự hiểu biết. Nếu giáo lý nội môn được khôi phục và thắng được các học giả kiên nhẫn, nhiệt thành thì phần giáo lý huyền bí cũng sẽ được khôi phục không lâu. Các đệ tử của Tiểu Bí Pháp sẽ trở nên các thí sinh của Đại Bí Pháp. Có sự hiểu biết thì giáo lý mới có uy thế. C.Đ.G đánh mất giáo lý thần bí nội môn nên mất đi một số lớn những người học thức cao. Nhưng trong vài năm vừa qua, C.Đ.G hồi sinh lại phần nào nhờ việc đem trở lại vài giáo lý thần bí. Người ta thấy rõ trong khoảng 40 năm cuối của thế kỷ vừa qua, rất nhiều người có đạo đức và biết suy tư đã rời bỏ nhà thờ vì những giáo lý gây bất mãn cho lý trí và tâm đạo của họ. Những ai khảo sát hiện tượng này đếu thấy đó là do những quan niệm tôn giáo khiếm nhã đặt để cho họ, những mâu thuẫn trong các giáo điều, những quan điểm về Thượng Đế, con người và vũ trụ. Họ chống lại những giáo điều bôi nhọ Thượng Đế và con người: Thượng Đế như một nhà chuyên quyền; còn con người đã phạm tội từ trong bản thể, nhờ phục lụy mà được cứu rỗi.

Nguyên nhân họ chống lại là vì giáo lý C.Đ.G đã bị suy đồi dần và biến thành cái được gọi là sự đơn giản (simplicplicity) mà kẻ vô học nhất cũng có thể nắm được. Những người Tin Lành (Protestant) tuyên bố rằng không có điều cần giảng dạy ngoại trừ các điều mà ai ai cũng có thể hiểu được, rằng sự vinh quang của Kinh Thánh ở nơi sự đơn giản của nó, rằng trẻ con và người vô học hẳn phải hiểu được nó và áp dụng vào đời sống. Quả đúng vậy nếu họ muốn nói rằng có vài chân lý mà mọi người đều có thể hiểu, và rằng một tôn giáo sẽ thất bại nếu nó bỏ rơi hạng người thấp kém vô học nhất ra ngoài ảnh hưởng nâng cao của nó. Nhưng thật là vô cùng sai lầm nếu họ muốn nói rằng tôn giáo không có những chân lý mà người tăm tối không thể hiểu được, không có điều chi để giảng dạy cao xa hơn tư tưởng của người khôn ngoan hay cao hơn nền đạo đức của người thấp hèn. Khi quan điểm này lan rộng thì nhiều người thanh cao lấy làm đau đớn phải từ bỏ lòng tin trước đây của họ, nhường chỗ trong nhà thờ cho các hạng giả thiện và vô học. Sau đó, hoặc là họ sẽ theo thuyết bất khả tri (agnosticism) tiêu cực, hoặc nếu họ còn trẻ và nhiệt huyết thì họ sẽ chống đối tích cực, không tin điều gì xúc phạm lý trí và lương tri là điều cao cả nhất, chẳng thà họ thành thật nhận mình vô tín ngưỡng hơn là bắt lý trí và lương tri phải chán ngán vâng lời một quyền lực mà họ biết rằng chẳng có gì thánh thiện.

Liệu C.Đ.G có còn tồn tại như một tôn giáo ở Tây phương nhiều thế kỷ về sau và tiếp tục hướng dẫn tư tưởng cho các dân tộc ấy? Nếu muốn tồn tại, nó phải hoạch đắc lại nền hiểu biết đã mất với những giáo lý thần bí và huyền bí. Bấy giờ nó sẽ có những quan điểm về chân lý rộng rãi và sâu xa hơn, những tín điều không còn là lớp vỏ trói buộc mà là những sự trình bày những thực tại căn bản. Những ai đủ điều kiện ấn định thuở xưa và sẵn sàng mong muốn hiểu biết những chân lý tinh thần sẽ được học hỏi giáo lý Huyền môn.

Vấn đề C.Đ.G có một gia bảo ẩn tàng hay không, không phải là một vấn đề lý thuyết mà là một vấn đề bằng chứng, được quyết định nhờ các tài liệu đã có, chứ không theo mặt chữ, “Ngài đã nói vậy” (ipsedixit) của các người Cơ Đốc hiện nay.

Quả thật, Tân Ước và các văn tự của Giáo Hội đầu tiên đều cùng tuyên bố Giáo Hội có những giáo lý như thế, và nhờ đó chúng ta biết rằng Giáo Hội có các Bí Pháp, gọi là Bí Pháp của Đức Jesus hay Bí Pháp của Vương Quốc, các điều kiện đòi hỏi nơi thí sinh, bản chất tổng quát của các lời giáo huấn và những chi tiết khác. Sách Tân Ước có những đoạn rất tối nghĩa, nhưng dưới ánh sáng của các lời phát biểu của các Cha thì chúng trở nên rõ ràng và hiểu được.

Chứng cớ đầu tiên được khảo sát là “Tân Ước”. Chúng ta sẽ xem các văn tự của vị đại tông đồ S.Paul và các người kế vị đã hướng dẫn Giáo Hội trong các thế kỷ đầu tiên. Do theo sự kế vị liên tục và lời chứng được viết ra thì vấn đề C.Đ.G có một khía cạnh ẩn mật có thể được xác định. Chúng ta sẽ thấy thêm rằng lời giải thích thần bí về Tiểu Bí Pháp có thể được tìm thấy biểu lộ qua nhiều thế kỷ cho đến đầu thế kỷ 19; và mặc dầu không có Trường Thần Bí nào được biết có mục đích chuẩn bị cho sự Điểm Đạo, sau khi Huyền Môn ẩn diện, những nhà Đại Thần Bí thỉnh thoảng vẫn đạt được đến các giai đoạn thấp của trạng thái xuất thần nhập định do công phu trì chí của họ và chắc chắn được các Vị Huấn Sư vô hình giúp đỡ.

Những ngôn từ của chính Đức Jesus minh bạch và xác định, được Origen dẫn chứng khi nói đến giáo lý bí ẩn được Giáo Hội gìn giữ. “Khi Ngài ở một mình thì những kẻ chung quanh cùng 12 môn đồ hỏi Ngài về thí dụ ấy. Ngài phán rằng thí dụ được đưa ra cho các ngươi để biết được sự mầu nhiệm của nước Đức Chúa Trời, còn đối với người ngoài thì mọi sự ấy đều là các thí dụ”. Và về sau: “Ngài dùng nhiều thí dụ dường ấy mà giảng đạo cho họ, tùy sức họ nghe. Ngoài thí dụ Ngài chẳng phán gì cùng họ, nhưng khi ở riêng thì Ngài giảng nghĩa hết cho môn đồ (S.Mark 4:10,11,33,34). Xin lưu ý các chữ ẩn nghĩa: “khi họ ở riêng” “những người ngoài”. Lời tường thuật của S.Mathew cũng thế: “Ngài giải tán đám đông đi khỏi và bước vào nhà, các môn đồ đến với Ngài”. Những giáo lý được giảng “trong nhà”, những ý nghĩa thâm sâu nhất của những lời giáo huấn của Ngài được người ta tin chắc là lưu động đi khỏi và bước vào nhà, các môn đồ đến với Ngài”. Những giáo lý được giảng “trong nhà”, những ý nghĩa thâm sâu nhất của những lời giáo huấn của Ngài được người ta tin chắc là lưu truyền từ vị thầy này sang vị thầy khác. Nên lưu ý rằng Kinh Thánh đưa ra những lời giải thích thần bí bóng gió bằng biểu tượng, ngụ ngôn mà chúng ta gọi là Tiểu Bí Pháp, nhưng còn ý nghĩa thâm sâu hơn chỉ được dạy cho những người đã được Điểm Đạo.

Ngay chính các tông đồ, Ngài còn nói: “Ta còn có nhiều điều nói với các ngươi nữa, nhưng bây giờ các ngươi không thể đương nổi” (S. John 16:12). Sau khi chết, Ngài còn dạy cho họ vài điều ấy nữa. Ngài hiện ra trước các môn đồ và “phán bảo những điều về nước Đức Chúa Trời”.(Công vụ 1:3). Không có điều nào trong các điều này được ghi lại công khai, nhưng ai dám bảo rằng chúng bị lãng quên và không được truyền lại như một bảo vật? Truyền thuyết cho rằng: Sau khi chết Đức Jesus vẫn gặp gỡ các vị tông đồ một thời gian rất lâu để dạy bảo họ. Có một câu mà nhiều người sẵn lòng giải thích một cách nhẹ nhàng khác đi: “Đừng bỏ vật thánh cho chó, cũng đừng quăng ngọc châu mình cho heo”(S.Matt 7:6). Quả thật đó là một lời răn chung, nhưng Giáo Hội đầu tiên muốn nói đến những giáo lý bí truyền. Nên nhớ rằng ngày xưa những tiếng đó không gây chướng tai như ngày nay bởi vì tiếng “chó”- giống như tiếng “kẻ phàm phu”, “kẻ phạm thượng” là do những người bên trong một giới nào đó nói đến giới bên ngoài- một hội, một quốc gia chẳng hạn. Đôi khi tiếng ấy cũng được dùng để chỉ những người ngoài vòng Điểm Đạo, Giáo Hội đầu tiên cũng dùng với nghĩa ấy. Ai chưa được nhận vào Huyền Môn được xem như ở bên ngoài “nước của Đức Chúa Trời” hoặc “nước Do Thái tinh thần”. Ngoài tiếng “Huyền Môn” còn nhiều tên khác được dùng để chỉ nhóm những người được Điểm Đạo hoặc liên quan đến sự Điểm Đạo: Vương Quốc, Vương quốc của Đức Chúa Trời, Con Đường Hẹp, Cái cổng Hẹp, Người Toàn Thiện, Người được Giải Thoát, Sự Sống Vĩnh Cửu, Sự Sống, Sinh lần thứ Hai, Hài nhi.(The Kingdom, The Kingdom of God, the Kingdom of Heaven, the Narrow Path, the Straight Gate, the Perfect, the Saved, Life Eternal, Life, the Second Birth, Alittle One, Alittle Child).

Nhờ các văn tự Cơ Đốc đầu tiên, người ta hiểu rõ được nghĩa các chữ này. Trong vài trường hợp ngoài C.Đ.G cũng sử dụng các từ trên. Trong cộng đồng người Essences có ba cấp bậc: Tân Tín Đồ, người Huynh Đệ và Vị Toàn Thiện (Neophytes, Brethen perfect). Hài nhi là tên thông thường chỉ một thí sinh vừa mới được Điểm Đạo, nghĩa là vừa mới được “sinh lần thứ hai”.

Khi chúng ta biết được các nghĩa nầy thì những đoạn khó hiểu, gút mắc sẽ trở nên hiểu được. Có người nói với Ngài rằng: Thưa Chúa, kẻ được cứu có ít chăng? Ngài đáp cùng chúng rằng: Hãy gắng sức vào cửa hẹp, vì Ta nói cùng các ngươi, nhiều kẻ sẽ tìm vào mà không thể được (S.Luke 13:23,24). Câu này gây kinh ngạc và khó tin cho cách thức cứu rỗi khỏi hỏa ngục đời đời của Phái Tin Lành thông thường. Không ai dám nói Vị Cứu Thế quả quyết nhiều người sẽ tìm cách tránh khỏi địa ngục để vào thiên đàng nhưng sẽ không thành công. Nhưng khi áp dụng nghĩa cửa hẹp của sự Điểm Đạo và sự giải thoát khỏi tái sinh, thì câu trên hoàn toàn đúng thật và tự nhiên. Lại nữa: “Hãy vào ngõ hẹp, vì ngõ rộng và đường lớn dẫn đến sự hư mất, kẻ vào đó thì nhiều. Song ngõ hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ tìm được thì ít (S.Matt 7:13,14).

Cái “Cổng Hẹp” này là cái cổng của sự Điểm Đạo, mà một thí sinh phải bước qua để vào “Vương Quốc”. Hẳn nhiên chỉ có một ít người qua được cái cổng ấy mặc dầu có hằng hà sa số người vào miền hạnh phúc của cõi Thượng Giới. Cách đây gần ba ngàn năm, một vị Đại Giáo Chủ khác có nói: Trong hằng ngàn người, hiếm có được một người cố gắng để hoàn thiện, trong hằng ngàn người cố gắng thành công hiếm có được một người biết được bản thể tinh túy của Ta”. (Bhagavad Gita 7:3). Trong mỗi thời kỳ, số vị Điểm Đạo thì ít, nhưng trong lời tuyên bố trên không có sự phán quyết đen tối nào về nỗi thống khổ đời đời cho đa số nhân loại. “Người được Giải Thoát”- như Proclus có dạy- là người đã thoát khỏi vòng sinh hóa ràng buộc con người.

Chúng ta nhớ lại câu chuyện một chàng trai đến với Đức Jesus, tôn kính Ngài làm Thầy, và hỏi làm sao để được sự sống đời đời- sự giải thoát khỏi tái sinh nhờ hiểu biết về Thượng Đế. (Nên nhớ rằng người Do Thái tin tưởng mọi linh hồn chưa hoàn thiện phải trở lại sống trên trái đất). Câu trả lời đầu tiên của Ngài là lời khuyên công truyền thông thường: “Hãy giữ các điều răn”. Nhưng khi chàng trai đáp: “Mọi điều đó tôi đã giữ từ khi còn nhỏ”. Đối với một tâm hồn không còn tội lỗi như y, Vị Huấn Sư chân chính trả lời: “Nếu ngươi muốn được trọn lành hãy đi, bán hết của cải ngươi mà cho kẻ nghèo, thì ngươi sẽ có của báu ở trên trời; rồi hãy đến theo Ta”. “Nếu ngươi muốn được trọn lành” tức là trở nên một nhân viên của Vương Quốc, thì phải có tính thanh bần và vâng lời. Sau đó Ngài giải thích cho các môn đồ rằng một người giàu khó có thể bước vào nước Trời, còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Đối với con người, điều ấy vẫn bất năng, nhưng đối với Trời, mọi sự đều được cả. (S.Matt 19:16-26), chỉ có Trời trong con người mới có thể qua ngưỡng cửa ấy mà thôi.

Đoạn văn này đã được biện hộ theo nhiều cách khác nhau. Hiển nhiên người ta không thể chấp nhận ý nghĩa bên ngoài cho rằng một người giàu không thể bước vào trạng thái hạnh phúc sau khi chết. Người giàu cũng như người nghèo đều có thể bước vào trạng thái ấy và tập tục phổ thông của người Cơ Đốc chứng tỏ rằng họ không khi nào tin rằng của cải giàu sang gây nguy hiểm cho niềm hạnh phúc của họ sau khi chết. Nhưng nếu ta hiểu được nghĩa chân thật của Vương Quốc của Trời thì ta thấy đoạn ấy diễn tả một sự kiện đơn giản và minh bạch. Bởi sự nhận biết về Trời là Sự Sống Đời Đời không thể đạt được cho đến khi mọi sự trần thế đều được quy phục, không thể nào học biết được cho đến khi mọi điều đã được hy sinh. Chẳng những con người phải từ bỏ các của cải vật chất, xem nó qua tay y như người quản lý, mà y còn phải từ bỏ của cải bên trong nữa; chừng nào y chưa cởi bỏ trơ trọi thì y chưa thể bước qua cái cổng hẹp. Đó là điều kiện để được Điểm Đạo, và hạnh “thanh bần, vâng lời, tinh khiết” là lời thệ của thí sinh.

“Sinh lần thứ hai” là một từ ngữ khác được nhận thức rõ trong lễ Điểm Đạo. Ngay hiện nay, các giai cấp cao ở Ấn Độ được gọi là “người được sinh hai lần” và nghi lễ khiến họ sinh lần hai là nghi lễ Điểm Đạo- nhưng ngày nay chỉ còn là hình thức bên ngoài. Khi Đức Jesus nói với Nicodemus, Ngài cho biết rằng: “Nếu người nào chẳng được tái sinh thì không thể thấy được nước Đức Chúa Trời”. Lần sinh này do bởi “nước và Thánh Linh”. (S. John 3:5) đây là lần Điểm Đạo thứ nhất. Và một lần sinh khác về sau do bởi “Thánh Linh và lửa” (S. Matt 13:11) giống như lễ báp têm lúc mới được sinh ra, lễ báp têm thứ hai của Vị Điểm Đạo đón mừng y như một “Hài nhi” vào nước Trời (S.Matt 18:3). Biểu tượng này rất là quen thuộc giữa các nhà thần bí Do Thái. Đức Jesus ngạc nhiên trước câu hỏi của Nicodemus và trả lời bằng một câu thần bí: “Ngươi là Thầy của Israel mà không biết những điều đó sao?” (S.Matt 3:10).

Một lời dạy khác của Ngài vẫn còn rất khó hiểu đối với tín đồ là: “Vậy hãy trở nên trọn lành như Cha các ngươi ở trên Trời trọn lành vậy.” (S.Matt 5:48). Người Cơ Đốc thông thường biết mình không thể nào tuân thủ điều răn ấy được, mình đầy tội lỗi và yếu hèn thì làm sao có thể trở nên toàn thiện như Trời được? Thấy việc thực hiện hoàn toàn vô vọng, y bèn để sang bên và không nghĩ đến nữa. Nhưng nếu biết được sức cố gắng tăng lên sau nhiều kiếp trì chí hoàn thiện và hiểu rằng chính “Trời trong chúng ta” sẽ chiến thắng bản tính thấp hèn, thì việc thực hiện ấy không xa vời. Chúng ta nhớ lại lời cuả Porphyry rằng người thực hiện những đức tính gương mẫu ấy chính là Cha của các Thánh Thần và chính trong Huyền Môn mà những đức tính ấy được thực hiện.

Thánh Paul noi theo vết chân của Thầy, cũng nói cùng một ý nghĩa ấy nhưng rõ ràng hơn, Quý học giả nên chú ý các chương 2 và 3, và tiết 1 của chương 4 trong Thư Thứ Nhất gửi cho người Côrintô (I cor.) và nên nhớ rằng những lời ấy nói với những hội viên đã chịu báp têm và chịu mình Thánh thể. Họ là các hội viên thiệt thụ theo quan điểm hiện đại, mặc dầu vị Tông Đồ chỉ xem họ như những trẻ con, trần tục. Họ không phải là các Tân Tín đồ mà là những người có đầy đủ đặc ân và trách nhiệm của nhân viên Hội Thánh, được Vị Tông đồ xem như cách biệt với thế gian và không hành động như những người trần tục. Xin tóm lược lời vị Tông Đồ:

“Tôi đến với anh em mang theo chứng cớ thiêng liêng không để quyến dụ anh em bằng sự hiểu biết của con người mà bằng quyền năng của Thánh Linh. Chúng tôi cũng giảng sự khôn ngoan giữa những người trọn lành nhưng không phải sự khôn ngoan của con người. Chúng tôi giảng sự khôn ngoan của Trời trong lẽ mầu nhiệm, cả đến sự khôn ngoan ẩn dấu mà Trời đã phán cho thế gian và không ai cả đến những vua chúa của thế gian hiểu được. Những điều của Minh Triết này vượt qua tư tưởng con người, nhưng Trời đã nhờ Thánh Linh bày tỏ những sự đó cho chúng ta, vì Thánh Linh đã dò xét mọi sự, cả đến sự sâu nhiệm của Trời? Đây là những điều tinh thần, chỉ người nào có trí của Đấng Christ mới nhận thức được.”Anh em ơi, về phần tôi, tôi chẳng thể nói với anh em như với người tinh thần, nhưng như với người thuộc xác thịt, cả đến như những con trẻ trong Christ vậy. Tôi từng cho anh em uống sữa chớ chẳng cho ăn thịt vì anh em không thể chịu nổi, đến bây giờ cũng chưa thể được, vì anh em vẫn còn thuộc xác thịt”. “Tôi đã lập nền như một tay kiến trúc khôn khéo, và anh em là đền thờ của Trời và Thánh Linh của Trời ở trong anh em. Vậy ai nấy hãy coi chúng tôi như thừa sai của Christ và quản gia các Lẽ Mầu Nhiệm của Trời”.

[Để ý rằng đoạn này rất phù hợp với lời hứa của Đức Jesus nơi S.John (16:12-14):”Ta còn có nhiều điều nói với các ngươi nữa nhưng bây giờ các ngươi chưa thể đương nổi. Song khi nào Thánh Linh của lẽ thật đến, Ngài sẽ dẫn dắt các ngươi vào mọi lẽ thật… Ngài sẽ báo các ngươi những điều tương lai… Ngài sẽ nhận của Ta mà báo cáo cho các ngươi.]

Không ai đọc đoạn này mà không công nhận rằng vị Tông Đồ S. Paul có được một nền hiểu biết thiêng liêng của Huyền Môn và các giáo hữu Côrintô chưa thể tiếp thu được. Lưu ý đến những từ kỹ thuật: sự hiểu biết, sự hiểu biết của Trời trong lẽ mầu nhiệm, sự hiểu biết ẩn dấu, chỉ có người ‘tinh thần’ biết được, chỉ nói giữa những người ‘toàn thiện’ còn các người không ‘tinh thần’, các con trẻ trong Christ, người ‘xác thịt’ bị loại ra, chỉ có người kiến trúc khôn khéo, người quản gia các Lẽ Mầu Nhiệm của Trời mới hiểu được.

Thỉnh thoảng ông lại đề cập đến các Lẽ Mầu Nhiệm ấy. Trong thư gửi cho người Ephêsô, ông nói rằng: bởi khải thị đã khiến cho tôi biết Lẽ Mầu Nhiệm… sự hiểu biết của tôi về Lẽ Mầu Nhiệm của Đấng Christ… và khiến cho mọi người đều rõ về sự kết bạn (fellowship) với Lẽ Mầu Nhiệm (Eph.3:3,4,9). Về Lẽ Mầu Nhiệm này, ông đã lập lại với người Côlôse là ông được gọi làm “người thừa hành, chấp sự” Lẽ Mầu Nhiệm đã được dấu kín từ các thời đại và các thế hệ mà nay được tỏ ra cho các thánh đồ của Ngài”, không phải cho người ngoài, cũng không phải cho người Cơ Đốc, mà chỉ cho những Vị Thánh Thiện: “sự vinh hiển của Lẽ Mầu Nhiệm ấy chỉ được tiết lộ cho họ mà thôi”. “Christ ở trong anh em” một câu đầy ý nghĩa thuộc về đời sống của Vị Điểm Đạo. Như thế, chung cuộc mỗi người đều phải học sự hiểu biết ấy để trở nên ‘trọn lành trong Christ Jesus’. Ông bảo người Côlôse cầu nguyện “xin Trời mở cho chúng tôi một cửa truyền đạo để giảng Lẽ Mầu Nhiệm của Đấng Christ”.Ông cũng viết cho Timothy yêu dấu của ông, khuyên y chọn những người trợ tế trong số những người giữ “Lẽ Mầu Nhiệm của đức tin trong lương tâm trong sạch”.(I.Timothy 3:9).

Bấy giờ Timothy giữ một vị thế quan trọng, đại diện cho thế hệ thầy Cơ Đốc kế tiếp. Ông là môn đệ của Thánh Paul, được chỉ định điều hành một phần Giáo Hội.Chúng ta biết Timothy đã được thánh Paul thâu nhận vào Huyền Môn nhờ những câu kỹ thuật làm đầu mối. “Hỡi Timothy, con ta, ta theo lời tiên tri chỉ về con trước kia, đem mạng lịnh này ủy thác cho con,” một câu kinh long trọng của Vị Điểm Đạo khi thâu nhận một thí sinh. Nhưng Vị Điểm Đạo không hiện diện một mình; “Đừng bỏ lơ ân tứ trong con, là điều nhờ lời tiên tri và sự đặt tay của các Trưởng Lão mà ban cho con” (I.Tim 4:14). Thánh Paul nhắc ông giữ lấy sự sống đời đời là sự con được gọi đến, và cũng vì đó mà con đã thừa nhận sự thừa nhận tốt đẹp trước mặt nhiều người chứng kiến (I.Tim 6:12) lời tuyên thệ của người mới được Điểm Đạo trước các Huynh Trưởng và hội đồng các Vị Điểm Đạo. Sự hiểu biết được truyền thụ rất là thiêng liêng đến nỗi Thánh Paul phải thốt to lên: “Timothy ơi, hãy giữ lấy điều đã ủy thác cho con” (I.Tim 6:20)- không phải sự hiểu biết thông thường của người Cơ Đốc, vì nếu thế thì đã không có sự bắt buộc đặc biệt đặt để cho S.Timohty, mà là một sự hiểu biết thiêng liêng giao phó cho ông với tư cách là một người được Điểm Đạo, và cần thiết cho sự an toàn của Giáo Hội. Sau này S.Paul lại nhắc lại điều ấy, nhấn mạnh vào tính cách vô cùng quan trọng của sự hiểu biết ấy, nó là gia tài chung của người Cơ Đốc: “ Hãy giữ lấy mẫu mực của những lời thuần chính mà con đã nghe nơi Ta, trong đức tin và sự thương yêu trong Christ-Jesus. Hãy nhờ Thánh Linh trong chúng ta mà giữ lấy điều lành đã phó thác cho con rồi (II.Tim 1:13,14) một lời yêu cầu nghiêm trang mà đôi môi có thể phát ra. Ngoài ra đó là trách nhiệm của ông phải truyền sự hiểu biết ấy lại cho tương lai. “Những điều con đã nghe nơi Ta giữa nhiều người chứng kiến”- những giáo lý khẩu truyền thánh thiện được truyền giữa những người được Điểm Đạo, họ là chứng nhân cho sự chính xác của lời truyền đạt- “hãy phó thác cho những người trung tín cũng có tài dạy dỗ kẻ khác”. (II.Tim 2:2).

Nhờ hiểu được Giáo Hội có những giáo lý ẩn mật này, chúng ta thấy được những điều tự nhận xét của Thánh Paul rải rác đây đó. Khi kết hợp chúng lại với nhau, chúng ta biết đại cương về sự tiến hóa của Thánh Paul. Ông xác nhận rằng mặc dầu ông đã ở trong nhóm người trọn vẹn, người được Điểm Đạo- ( vì ông có nói rằng: vậy hễ bao nhiêu người trọn vẹn trong chúng ta đều phải có tâm trí đó)- ông chưa “đạt đến”, chưa thật “trọn vẹn” vì ông chưa được Christ, chưa vươn tới sự “kêu gọi từ trên của Đức Chúa Trời qua Christ”, “quyền năng của sự sống lại của Ngài và được dự phần trong sự khổ sở của Ngài, và đồng hóa theo sự chết của Ngài”; ông đang cố gắng, ông nói: “mong bất cứ thể nào tôi được đạt đến sự sống lại từ kẻ chết” (Phil 3:8-15).

Bởi đây là sự Điểm Đạo, nó giải thoát con người nó làm người được Điểm Đạo trở thành Chân Sư Trọn Vẹn, đấng Christ sống lại, cuối cùng giải thoát Ngài khỏi sự “chết”, khỏi vòng sinh hóa của nhân loại, khỏi những mối ràng buộc linh hồn vào vật chất nặng kệch. Nơi đây chúng ta lại gặp một số từ kỹ thuật, và cả độc giả nào chỉ đọc theo bề ngoài cũng hiểu rằng “sự sống lại từ kẻ chết” nói nơi đây không có nghĩa của người Cơ Đốc tân thời về sự sống lại thông thường mà mọi người đều không tránh khỏi và vì thế không cần phải cố gắng đặc biệt để đạt được sự sống lại ấy. Thật ra, chữ “đạt được” dùng không đúng khi nói đến một kinh nghiệm phổ thông và không thể tránh khỏi của con người. Thánh Paul không thể tránh khỏi sự sống lại ấy theo quan điểm của người Cơ Đốc tân thời. Vậy thì ông đã cố gắng nghiêm nhặt để đạt được sự sống lại nào? Một lần nữa, câu giải đáp duy nhất lại phát xuất từ Huyền Môn. Trong Huyền Môn, người được Điểm Đạo tiến gần đến cấp bậc Điểm Đạo giải thoát khỏi vòng sinh tử được gọi là “Christ thọ khổ” (the suffering Christ), y chia xẻ nỗi đau của Vị Cứu Thế, chịu đóng đinh trên thập tự giá theo nghĩa thần bí, “ đồng hóa theo sự chết của Ngài”, và như thế đạt đến sự sống lại, dự vào Đấng Christ vinh hiển; sau sự chết ấy, không có quyền lực nào vượt qua y được. (Khải thị 1:18 “Ta là Đấng Sống, Ta đã chết; này, Ta sống cho đến đời đời vô cùng.) Đó là cái “phần thưởng” mà vị Đại Tông Đồ Paul đang mau bước đến, ông cũng thúc hối “nhiều người trọn vẹn”- chớ không phải tín đồ thông thường- hãy cố gắng như thế, đừng an lòng với những điều đã đạt được mà hãy cố gắng mau tiến bước mãi.

Sự giống nhau giữa người được Điểm Đạo và Christ chính là căn bản của Đại Bí Pháp, như chúng ta sẽ thấy chi tiết hơn khi nghiên cứu “Đấng Christ trong Thần Bí Học”. Người được Điểm Đạo không còn nhìn Christ như bên ngoài y nữa: “Dầu chúng tôi từng nhận biết Christ theo xác thịt, song từ nay không còn nhận biết Ngài theo cách ấy nữa”. (II.Cor 5:16).

Tín đồ thông thường đã “mặc lấy Christ”; vì hễ bao nhiêu người trong anh em đã chịu báp têm trong Christ, thảy đều đã mặc lấy Christ” (Gal 3:27). Bấy giờ họ là “con trẻ trong Christ”. Họ mong chờ sự giúp đỡ nơi Đấng Cứu Thế Christ, họ chỉ nhận biết Ngài “theo xác thịt” mà thôi. Nhưng khi họ đã chiến thắng được bản ngã thấp hèn và không còn là “xác thịt” nữa, thì họ đã bước vào đường đạo và tự mình trở nên Christ. Đây là điều mà Thánh Paul đã đạt đến và mong mỏi nơi các tín đồ của ông: “Các con bé mọn của Ta ơi, Ta lại vì cớ các con mà chịu cơn quặn thắt cho đến chừng nào Christ thành hình trong các con”. (Gal 4:19). Ông đã là cha tinh thần của họ, đã “dùng Tin lành mà sinh anh em ra” (I.Cor 4:15).Nhưng bây giờ “một lần nữa”, ông giống như cha mẹ, như một người mẹ sinh họ lần thứ hai. Christ bé thơ, Christ Thánh Thiện, được sinh ra trong linh hồn, “người ẩn mật trong lòng” (I.S Pet 3:4). Người được Điểm Đạo trở thành ‘Hài Nhi Bé Nhỏ’ (little Child); từ nay về sau y phải sống một đời sống cùa Christ, cho đến khi y trở nên “con người trọn vẹn”, lớn lên “được tầm thước vóc dáng theo sự đầy đủ của Christ” (Eph 4:13). Bấy giờ, giống như Thánh Paul đang làm, y chứa đầy sự đau khổ của Christ trong xác thịt của chính y (Col 1:24) và luôn luôn “thân thể hằng mang sự chết của Jesus” (II Cor. 4:10). Do đó y có thể nói một cách đúng thật rằng: “Tôi đã bị đóng đinh với Đấng Christ trên thập tự giá, dầu vậy tôi sống: nhưng không phải là tôi sống nữa mà là Christ sống ở trong tôi. Đó là nỗi đau khổ của Vị Tông Đồ, ông miêu tả mình như thế. Và khi trận đấu đã qua, một âm điệu chiến thắng an tĩnh thật là khác biệt với các cố gắng gay go của những năm trước: “Bây giờ ta đã sẵn sàng để được dâng hiến, kỳ qua đời của ta gần rồi. Ta đã đánh trận tốt đẹp, ta đã chạy xong cuộc đua, ta đã giữ được đức tin. Từ rày về sau, mão miện công nghĩa đã để dành cho ta. (II Tim 4:8-6). Đây là mão miện được ban cho “người đã chiến thắng”, Đấng Christ thăng thiên có nói: “Kẻ chiến thắng, ta sẽ khiến làm rường cột trong đền thờ của Trời ta, và người không còn ra khỏi đó nữa (Khải thị 3:12). Vì sau sự “Sống Lại”, người được Điểm đạo trở nên một người Trọn Vẹn, Vị Chân Sư, và Ngài không còn ra khỏi Đền Thờ nữa, ở đấy Ngài phụng sự và hướng dẫn các cõi.

Trước khi kết thúc chương này, cũng nên nêu rõ rằng chính Thánh Paul cũng thừa nhận việc sử dụng giáo lý thần bí lý thuyết để giải thích những biến cố lịch sử ghi trong các Kinh Thánh. Ông không coi lịch sử viết trong đó như là một sự ghi chép đơn giản những sự kiện đã xảy ra trong cõi trần. Là một nhà thần bí học thật sự, ông thấy trong các biến cố hồng trần những hình bóng của những chân lý đại đồng mãi ẩn mật trong những cõi giới cao siêu và ông thấy rằng những biến cố chọn lọc để lưu trữ trong các văn tự huyền bí là những biến cố tiêu biểu, sự giải thích những biến cố này sẽ giúp cho sự giáo huấn con người. Vì thế ông dùng những câu chuyện của Abraham, Sarai, Hagar, Ishmael và Isaac, nói rằng “những chuyện đó là lời bóng gió”, rồi ông giải thích ý nghĩa thần bí (Gal 4:22-31). Về chuyện dân Do Thái trốn khỏi Ai Cập, ông nói đến Hồng Hải như một lễ báp têm, cây tần bì và nước như thức ăn và thức uống tinh thần, và vầng đá có nước tuôn ra như là Christ (I Cor 10:1-4). Ông thấy Lẽ Mầu Nhiệm của sự hợp nhất giữa Christ và Giáo Hội của Ngài trong mối tương quan chồng vợ của con người, ông nói về các người Cơ Đốc như thịt và xương của thân thể Đấng Christ. Tác giả thư gửi người Hê Bơ Rơ đã biểu tượng hóa toàn thể hệ thống thờ phượng của người Do Thái. Trong Đền Thờ, ông thấy một kiểu mẫu Đền Thờ thiên giới, nơi Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm ông thấy Đấng Christ, trong các sinh tế ông thấy lễ vật của Người Con tinh khiết; các thầy tế lễ của Đền Thờ chỉ là “thí dụ và hình bóng của các sự thiên giới”. Các chương 3-10 là một chuyện ngụ ngôn soạn thảo công phu nhất, và người viết quả quyết rằng Thánh Linh có một ý nghĩa sâu xa hơn.

Đối với các Kinh Thánh, người ta không xác định các biến cố ghi trong đó quả thật đã xảy ra và các điều xảy ra ở cõi hồng trần chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Giải thích các câu chuyện ấy tức là vén màn Tiểu Bí Pháp, giáo lý thần bí được phép đưa ra cho thế gian. Nó không phảido trí tưởng tượng đặt ra như nhiều người nghĩ, nhưng nó là kết quả của trực giác thật sự thấy được các kiểu mẫu trên các cõi Trời, chớ không phải là những hình bóng của các kiểu mẫu xuất hiện trên màn ảnh của thời gian trần thế.

CHƯƠNG 3

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

PHÍA ẨN MẬT CỦA CƠ ĐỐC GIÁO

(B)CHỨNG CỚ CỦA GIÁO HỘI.

Trong khi một số người sẵn sàng chấp nhận rằng các Vị Tông Đồ và những người kế vị trực tiếp có một nền hiểu biết sâu xa hơn về những điều tinh thần thì một số ít người lại muốn tiến một bước xa hơn cho rằng Huyền Môn của Giáo Hội Đầu Tiên là nơi chứa đựng những giáo lý thiêng liêng của họ. Chúng ta có Thánh Paul đã truyền đạt lại phấn giáo lý không được viết ra, chính Ông đã dạy đạo cho Thánh Timothy, huấn luyện cho Thánh Timothy dạy đạo lại những người khác, và những người này lại dạy đạo lại cho những người khác nữa. Như thế có bốn thế hệ đạo sư nối tiếp nhau được nói đến trong chính những Kinh Thánh. Bốn thế hệ này chắc chắn bao gồm những tác giả trong Giáo Hội đầu tiên là những người đã chứng kiến sự hiện hữu của Huyền Môn. Khi chúng ta khởi sự khảo sát những văn tự của Giáo Hội Đầu Tiên, chúng ta thấy rằng chúng chỉ là những lời bóng dáng mà chỉ có Huyền Môn mới hiểu được, và sau đó chúng xác nhận sự hiện hữu của Huyền Môn.

Những chứng nhân đầu tiên là những vị Cha, các đệ tử của các Vị Tông Đồ, nhưng các văn tự của họ còn lại rất ít. Những lời văn ấy không được minh bạch như các người viết sau. Polycarp, Giám mục ở Smyrna và là bạn đồng học với Ignatius của T.Paul, hy vọng các người viết thư với Ông được “thành thạo với Thánh Kinh, và không có điều gì ẩn mật với anh em, nhưng còn tôi thì không được đặc ân đó”, hiển nhiên Ông viết trước khi Điểm Đạo. Barbanas nói về “vài đoạn mà chính ông đã nhận được”, và sau khi giải thích Luật một cách thần bí, ông tuyên bố rằng “sau khi hiểu đúng đắn các điều răn của Ngài, chúng tôi giải thích các điều răn ấy theo như ý Ngài muốn”. Ignatius, Giám mục Antioch, một môn đồ của T. Paul, nói về ông “chưa được toàn vẹn trong Jesus- Christ. Vì bây giờ tôi mới bắt đầu là một đệ tử, và tôi nói với anh em như các đồng môn của tôi”, và ông nói về họ như “đã được Điểm Đạo vào Huyền Môn với Paul, người Thánh Thiện; người khổ nạn”. Ông còn nói: “Tôi không thể viết cho anh em nhiều điều mầu nhiệm hơn sao? Nhưng tôi ngại làm thế, e tôi sẽ gây tổn thương cho anh em vì anh em chỉ là con trẻ (babes). Xin tha lỗi cho tôi, tôi e ngại anh em không nhận được ý nghĩa quan trọng của chúng, chúng sẽ làm nghẹn các anh em. Ngay cả tôi, mặc dầu tôi đang hướng về Christ và tôi có thể hiểu được các sự ở cõi Trời, các đẳng cấp thiên thần, sự phân biệt giữa quyền năng và quyền lực, sự hùng vĩ của những thời kỳ vô tận, sự siêu việt của các đại thiên thần, sự cao cả của Tinh thần, vương quốc của Đấng Christ và trên hết là sự uy nghi không thể so sánh của Đức Thượng Đế Toàn Năng- mặc dầu tôi đã quen thuộc các điều ấy, tuy nhiên tôi vẫn chưa được toàn thiện chút nào, cũng như tôi chưa được là một môn đồ như Paul và Peter”. Đoạn này rất là lý thú vì nó chỉ rằng sự tổ chức đẳng cấp cõi Trời là một trong những vấn đề được giảng dạy trong Huyền Môn.

Kế đó là T.Clement of Alexandria và môn sinh Origen của Ông, hai tác giả của thế kỷ thứ hai và thứ ba viết hầu hết về Huyền Môn của Giáo Hội Đầu Tiên. Mặc dầu lời văn đầy bóng dáng thần bí, nhưng cả hai xác định minh bạch rằng Huyền môn là một tổ chức được thừa nhận.

Bấy giờ S.Clement là một đệ tử của Pantaenus ông nói về ông và hai người khác, có lẽ là Titian và Theodotus, như là người “bảo tồn những giáo lý phát xuất trực tiếp từ những Vị Tông Đồ Thánh thiện Peter, James, John và Paul” như thế sự liên lạc giữa ông và chính các Vị Tông Đồ chỉ qua một người trung gian. Ông là Thủ trưởng trường Vấn Đáp ở Alexadria vào năm 189, và chết vào năm 220. Origen, sinh năm 185, là học trò của S.Clement. Có lẽ ông là một Cha uyên thâm nhất và là một người có một vẻ đẹp đạo đức hiếm có nhất. Đó là những chứng nhân nhờ đó chúng ta nhận được các bằng cớ về sự hiện hữu của một Huyền Môn xác định trong Giáo Hội Đầu Tiên.

Quyển Stromata (Linh tinh) của S. Clement là nguồn tài liệu về Huyền Môn vào thời ông. Ông nói những văn tự này như là “những ghi chú linh tinh về Duy Tri (Gnostic) theo nền triết học chân chính” và ông đã miêu tả chúng như một tập ghi nhớ những giáo lý mà ông nhận từ Pantaenus. Đoạn sau đây có tính cách khuyên bảo: “Ngài (The Lord)…cho phép chúng tôi truyền đạt Huyền Môn và ánh sáng thiêng liêng ấy cho những ai có khả năng tiếp nhận. Chắc chắn Ngài không phô bày cho nhiều người điều gì không thuộc về nhiều người, Ngài chỉ trình bày nó cho một số ít người mà Ngài biết rằng họ có thể thâu nhận được và sống theo nó. Nhưng những điều bí mật này chỉ được truyền khẩu, chứ không bằng văn tự… Tôi biết rõ tập ghi chú này rất là thô thiển so với tinh thần đầy ơn phước mà tôi có đặc ân nghe được. Nhưng nó sẽ là một hình ảnh gợi lại nguyên hình cho ai đã được điểm đạo bằng cây trượng Thyrsus”. Chúng tôi xin thêm rằng cây trượng Thyrsus được các Vị Điểm Đạo mang theo và chạm vào người thí sinh trong nghi lễ Điểm Đạo. Nó có một ý nghĩa thần bí, biểu tượng cho đường xương sống và hạch quả tùng trong Tiểu Bí Pháp, và biểu tượng cho Trượng Quyền Lực trong Đại Bí Pháp mà các nhà Huyền Bí Học đều biết. Do đó nói rằng: “được trượng Thyrsus chạm vào” tức là nói: “được Điểm Đạo vào Huyền Môn” Clement viết thêm: “…Theo thời gian có nhiều sự đã vuột khỏi chúng tôi mà chưa viết ra được…Rồi cũng có nhiều điều mà tôi không thu nhập được, vì quyền lực ở trong những người thánh thiện rất lớn lao”. Đó là một kinh nghiệm thường gặp của những người được các Bậc Cao Cả dạy dỗ, bởi vì sự hiện hữu của Ngài kích thích và làm linh hoạt các quyền năng còn ẩn tàng trong người họ, mà nếu không có Ngài tham dự, họ sẽ không khơi động được. Có nhiều điều tôi đã cố ý loại bỏ đi vì e rằng các độc giả của tôi sẽ hiểu sai nghĩa. Trong bài cảo luận của tôi, sẽ có một số điều được ám chỉ, một số điều được trì hoãn và một số điều chỉ được lưu ý đến mà thôi. Bài ấy sẽ nói một cách khó nhận thức, trình bày một cách bí mật và chứng minh một cách âm thầm”.

Chỉ riêng đoạn này cũng đủ chứng tỏ có sự hiện hữu của một giáo lý ẩn mật trong Giáo Hội Đầu Tiên. Nhưng trong chương “Điều Mầu Nhiệm của Đức Tin không nên tiết lộ cho mọi người”, Clement tuyên bố rằng ví có những người không phải là hiền nhân có thể thấy tác phẩm của ông nên “cần phải che đậy sự Minh Triết trong Điều Mầu Nhiệm, sự Minh Triết mà Con của Trời đã dạy…Những điều tiên tri chỉ được nói bằng ẩn ngữ khó hiểu. Lẽ Mầu Nhiệm không thể được trình bày phóng túng cho tất cả mọi người, mà chỉ được trình bày khi đã có sự tinh luyện và giáo huấn trước…”

Còn nhiều điều nữa, nhưng bấy nhiêu cũng đủ chứng tỏ S.Clement đã biết và đã được Điểm Đạo vào Huyền Môn của Giáo Hội, ông cũng đã viết để giúp đỡ cho những người cũng được Điểm Đạo vào Huyền Môn như ông.

Nhân chứng thứ hai là Origen, học trò của ông, một người đầy ánh sáng hiểu biết, can đảm, thánh thiện, tôn sùng, ôn hòa, và nhiệt thành; những tác phẩm của ông là một kho tàng Minh Triết mà sinh viên có thể tìm học.

Trong cuộc bút chiến nổi danh với Celsus, ông đã binh vực cho Cơ Đốc Giáo về các giáo lý bí mật. Celsus đã tấn công cho rằng Cơ Đốc Giáo là một hệ thống bí mật (secret system). Origen đã biện hộ nói rằng trong khi vài giáo lý được giữ bí mật thì có những giáo lý khác được đưa ra công chúng, và hệ thống giáo lý công truyền và bí truyền cũng đều được các triết gia áp dụng. Trong đoạn văn sau, độc giả ghi chú về sự phân biệt giữa sự sống lại của Jesus được nhìn theo ánh sáng của lịch sử với “lẽ mầu nhiệm của sự sống lại”; “Hơn nữa, vì Celsus thường cho Giáo Lý Cơ Đốc là một hệ thống bí mật, chúng ta phải bác bỏ quan điểm của ông vì hầu hết mọi người đều quen thuộc với những gì người Cơ Đốc giảng dạy hơn là những ý kiến tốt đẹp của các triết gia. Vì có ai không biết đến việc Đức Jesus sinh từ một trinh nữ, Ngài chịu chết và sống lại là một vấn đề của đức tin trong nhiều vấn đề khác, đến kỳ phán xét sắp đến người tội lỗi sẽ bị phạt và người công nghĩa được thưởng? Tuy nhiên lẽ Bí Nhiệm về sự sống lại nếu không được hiểu rõ sẽ là mục tiêu chế diễu cho những người không tin… Cơ Đốc Giáo vẫn có chỗ cho người thất học, nhưng không phải chỉ chuyên cho hạng người này, mà nó còn những giáo lý thâm sâu cho hạng người “thông minh và nhạy bén”.

Vì thế mà ông đã gắng công chứng tỏ rằng Thánh Kinh Do Thái và Thánh Kinh có những nghĩa ẩn mật, ẩn dưới những câu chuyện có những ý nghĩa bên ngoài rất phi lý. Phần lớn quyển bốn của tác phẩm ông giải thích các ý nghĩa thần bí của các câu chuyện trong Thánh Kinh.

Giáo Hội ngày nay có nắm lại được những giáo lý thần bí tức Tiểu Bí Pháp và chuẩn bị cho các tín đồ thiết lập lại nền Đại Bí Pháp chăng? Tương lai của Cơ Đốc Giáo tùy thuộc vào câu trả lời vấn đề ấy.



CHƯƠNG 4

Đầu Sách Cuối sách Mục Lục

ĐẤNG CHRIST TRONG LỊCH SỬ

Các vị Tông Đồ và những người kế vị thông hiểu dễ dàng với hơn ý nghĩa lịch sử mặc dầu họ không hề phủ nhận lịch sử. Họ không ngần ngại giảng dạy các tín đồ đã được huấn luyện rằng vài câu chuyện trong Cựu Ước rõ ràng có trong lịch sử nhưng thực sự là ngụ ngôn thuần túy. Không nơi nào chúng ta cần hiểu điều này hơn khi nghiên cứu về lịch sử của Đức Jesus Christ. Nếu chúng ta không gỡ các sợi chỉ rối đan vào nhau và không thấy nơi nào các biểu tượng được xem như biến cố, các ngụ ngôn được xem như lịch sử- thì chúng ta sẽ đánh mất tính cách giáo huấn và nhiều vẻ mỹ lệ của câu chuyện. Chúng ta không thể nhấn mạnh quá đáng rằng Cơ Đốc Giáo mạnh mẽ hơn khi đức tin và đức hạnh có thêm tri thức, như lời dạy của Vị Tông Đồ (II.S.Peter 1:5). Người ta sợ rằng Cơ Đốc Giáo sẽ bị suy yếu khi lý trí khảo sát nó và thật là “nguy hiểm” khi chấp nhận những biến cố được nghĩ là thuộc về lịch sử lại có một ý nghĩa thần thoại thần bí quan trọng sâu xa hơn. Trái lại, chẳng những Cơ Đốc Giáo không bị suy yếu mà lại còn được tăng phần kiên cố, và học giả sẽ vui mừng thấy rằng viên ngọc vô giá chiếu sáng rực rỡ, tinh khiết hơn với nhiều màu sắc khi lớp vô minh bao bọc bị loại bỏ ra.

Hiện nay có hai trường phái tư tưởng chống đối nhau kịch liệt, tranh luận về lịch sử của vị Đại Giáo Chủ Do Thái. Một trường phái cho rằng không có điều gì cả trong các lời tường thuật về đời sống của Ngài ngoại trừ những chuyện thần thoại được đưa ra để giải thích vài hiện tượng thiên nhiên, dùng hình ảnh để dạy vài sự kiện thiên nhiên, ghi khắc vào tâm trí những người vô học vài loại biến cố thiên nhiên quan trọng với họ để hướng dẫn đạo đức cho họ. Những người thừa nhận quan điểm này tạo thành một trường phái nổi bật lôi cuốn nhiều người có học thức cao và rất thông minh. Xung quanh họ là những đám đông ít học hơn hăng hái khuếch đại các yếu tố phá hoại. Phái này đối nghịch với phái các tín đồ Cơ Đốc Giáo chính thống tuyên bố rằng toàn thể câu chuyện của Đức Jesus là câu chuyện thật có trong lịch sử, không pha chuyên thần thoại. Họ quả quyết rằng lịch sử này không gì khác hơn là lịch sử về đời sống của một người được sinh ra khoảng mười chín thế kỷ trước tại Palestine và đã trải qua mọi kinh nghiệm ghi trong Thánh Kinh. Họ không công nhận câu chuyện có một ý nghĩa nào vượt quá ý nghĩa của một đời sống con người và thánh thiện. Giữa hai trường phái ấy có nhiều ý kiến khác tự gọi là “tự do tư tưởng” cho rằng câu chuyện ấy có một phần thần thoại, một phần có thật nhưng họ không đưa ra một phương pháp giải thích rõ ràng và hợp lý thích ứng cho toàn thể vấn đề phức tạp. Nhưng chúng ta cũng thấy trong vòng Giáo Hội Cơ Đốc, có một số đông- và càng ngày càng đông hơn- tín đồ khôn ngoan, họ có lòng tin rất nồng nhiệt và những nguyện vọng ngoan đạo, nhưng qua Thánh Kinh họ thấy nhiều điều hơn là lịch sử của một Người thiêng liêng đơn độc. Họ chủ trương rằng câu chuyện của Đấng Christ có một ý nghĩa sâu xa hơn là ý nghĩa hiển lộ bên ngoài. Trong khi họ vẫn duy trì tính chất lịch sử của Đức Jesus, thì cùng lúc ấy họ tuyên bố rằng Đấng Christ còn lớn lao hơn con người Jesus, và có một ý nghĩa thần bí. Để hỗ trợ cho chủ trương này, họ đưa ra những câu như của Thánh Paul: “Các con bé mọn của Ta ơi, Ta lại vì cớ các con mà chịu quặn thắt, cho đến chừng nào Christ thành hình trong các con? (Gal 4:19). Nơi đây hiển nhiên Thánh Paul không thể nói đến một Jesus lịch sử, mà ông muốn nói đến một điều gì vượt khỏi linh hồn con người và ông cho là sự phát triển của Christ bên trong. Vị thầy ấy còn tuyên bố rằng mặc dầu ông đã “nhận biết Christ theo xác thịt, song hiện nay chẳng còn nhận biết Ngài theo cách ấy nữa” (II.Cor 5:16). Hiển nhiên ông ám chỉ rằng trong khi ông nhận biết Christ xác thịt- Jesus- thì ông còn đạt đến một quan điểm cao siêu hơn, nó đưa Đức Jesus lịch sử vào bóng tối. Đây là quan điểm mà hiện nay nhiều người đang tìm kiếm, và - chạm trán với những sự kiện của Tôn Giáo Đối Chiếu, rối trí bởi các mâu thuẫn trong Thánh Kinh, hoang mang với những vấn đề nan giải vì họ bị ràng buộc vào các ý nghĩa hời hợt bên ngoài của Thánh Kinh - họ tuyệt vọng thốt lên rằng mặt chữ giết chết sự sống, còn tinh thần tạo nên sự sống, họ dò tìm ý nghĩa sâu xa và rộng rãi trong một câu chuyện xưa như các tôn giáo trên trái đất. Những người này quá rời rạc và chưa xác định nên không thể nói rằng họ lập được một trường phái, hình như họ vươn một tay về phía nhóm chủ trương thần thoại, khẩn cầu chấp nhận một nền tảng lịch sử; còn về phía kia họ nói với các tín đồ Cơ Đốc rằng sự học theo một ý nghĩa duy nhất về mặt chữ sẽ gặp nguy cơ vô phương chống đỡ trước sự hiểu biết càng ngày càng gia tăng ngày nay, và ý nghĩa tinh thần sẽ bị thất truyền hoàn toàn. Ý nghĩa “câu chuyện về Christ”có nguy cơ thất truyền, quan niệm về Đấng Christ từ trước đến giờ vẫn là nguồn nương cậy và nguyện vọng của hàng triệu người thanh cao từ Đông sang Tây mặc dầu họ có thể gọi danh Christ bằng những tên khác và thờ phượng Ngài dưới những hình thức khác. Chúng ta e rằng viên ngọc vô giá có thể vượt khỏi đôi tay chúng ta và con người sẽ trở nên khốn nàn mãi mãi.

Để có thể tránh nguy cơ này, chúng ta cần phải tháo các sợi chỉ rối quanh lịch sử Đấng Christ và đặt chúng bên cạnh nhau: sợi của lịch sử, sợi của thần thoại và sợi của thần bí. Chúng đã đan lại thành một sợi lớn làm con người rối trí. Khi tháo chúng ra, chúng ta sẽ thấy rằng câu chuyện ấy sẽ có giá trị hơn nhờ có sự hiểu biết chiếu rọi vào, khi ánh sáng càng rực rỡ hơn thì vẻ đẹp của chân lý càng được phát hiện nhiều hơn.

Chúng ta sẽ khảo sát Christ theo lịch sử, kế đó theo thần thoại học và sau cùng theo thần bí học. Chúng ta sẽ thấy rằng tất cả phương diện ấy kết hợp thành Jesus Christ của các Giáo Hội. Chúng thấm vào thành phần của Nhân Vật vĩ đại và thi vị, bao trùm những tư tưởng và tình cảm của toàn thể Cơ Đốc Giáo- Đó là Người của Đau khổ, Vị Cứu Thế, Đức Từ Ái và Chúa của con người.

ĐẤNG CHRIST TRONG LỊCH SỬ

HAY ĐỨC JESUS VỊ THẦY CHỮA BỆNH VÀ HUẤN SƯ

Sợi chỉ rối này gỡ ra không khó lắm. Sự nghiên cứu của chúng ta được dễ dàng nhờ tham chiếu những lời ghi chép của quá khứ mà những chuyên viên có thể kiểm chứng chúng được, và trong các lời ghi chép ấy có vài chi tiết liên quan đến vị Huấn Sư Do Thái do bà H.P.Blavatsky và các chuyên viên nghiên cứu huyền bí học đưa ra cho thế gian. Nhiều người có thể thắc mắc về chữ “chuyên viên” được sử dụng trong huyền bí học. Tuy nhiên nó chỉ có nghĩa là một người do bởi sự học hỏi đặc biệt, được huấn luyện đặc biệt nên đã thâu hoạch được một loại kiến thức đặc biệt và đã khai mở các quyền năng cho phép y đưa ra một ý kiến căn cứ trên sự hiểu biết cá nhân của y về vấn đề y đang khảo sát. Giống như chúng ta nói Huxley là chuyên viên thực vật học, Wrangler là chuyên viên toán học, hay Lyell là chuyên viên địa chất học. Cũng thế chúng ta có thể gọi một chuyên viên huyền bí học là người trước tiên đã nắm vững trên phương diện trí tuệ vài lý thuyết căn bản về sự cấu tạo con người và vũ trụ và sau đó đã phát triển trong y những quyền năng tiềm tàng trong mỗi người (ai chuyên tâm học hỏi thích đáng đều có thể phát triển đươc), những khả năng giúp y quan sát những phương thức bí ẩn hơn của thiên nhiên. Như một người sinh ra có sẵn khả năng toán học và nhờ được huấn luyện mà khả năng ấy gia tăng vô cùng sau nhiều năm, một người sinh ra với vài khả năng nào đó trong y, những khả năng thuộc về linh hồn, mà y có thể phát triển do tập luyện và kỷ luật. Khi những quyền năng này đã được phát triển, y áp dụng chúng để khảo sát thế giới vô hình. Một người như thế trở thành một chuyên viên Khoa Học Huyền Bí, và y có thể tùy ý kiểm chứng lại những điều lưu chép mà tôi đã tham khảo. Sự kiểm chứng ấy vượt khỏi khả năng của một người thường, như một quyển sách toán học được viết bằng những ký hiệu của toán học cao cấp vượt quá khả năng của một người không được huấn luyện về toán học. Không có điều gì độc đoán trong sự hiểu biết. Những người nào sinh ra với một khả năng bẩm sinh và huấn luyện khả năng ấy, đều có thể sử dụng môn khoa học tương ứng của nó. Còn ai sinh ra mà không có một khả năng nào hoặc những người có mà không chịu phát triển, thì hẳn phải chịu thiếu hiểu biết. Đây là những quy luật đại đồng cho thâu hoạch kiến thức, trong Huyền Bí Học cũng như trong mọi khoa học khác.

Những biên ký huyền bí có phần xác nhận câu chuyện ghi trong các Kinh Thánh, có phần không xác nhận. Biên ký ấy cho chúng ta thấy đời sống của Ngài, do đó giúp ta phân cách được các chuyện thần thoại lẫn trong đó.

Đứa trẻ có một tên Do Thái và được đổi thành tên Jesus, sinh ở Palestine vào năm 105 trước kỷ nguyên T.C., dưới thời quan chấp chánh tối cao La Mã Publius Rutilius Rufus và Gnaeus Mallius Maximus, cha mẹ Ngài thuộc dòng danh giá nhưng thanh bần. Ngài được giáo dục theo kiến thức của Kinh Thánh Do Thái cổ. Lòng tôn sùng nồng nhiệt và sự nghiêm trang trước tuổi của Ngài đã khiến phụ thân hiến dâng Ngài cho đời sống tôn giáo khổ hạnh. Chẳng bao lâu sau kỳ thăm viếng Jerusalem, lúc đó sự thông minh xuất chúng và lòng nhiệt huyết tầm kiếm hiểu biết được biểu lộ trong sự tìm gặp các nhà thông thái trong Đền Thờ, Ngài được gởi đi huấn luyện trong một Giáo Hội Tinh Hoa ở sa mạc miền nam Judaen. Khi được mười chín tuổi, Ngài tiếp tục vào tu viện Tinh Hoa gần núi Serbal, một tu viện thường được những học giả du hành từ Ba Tư và Ấn Độ sang Ai Cập thăm viếng, và nơi đây có một thư viện nổi tiếng về những tác phẩm huyền bí học, nhiều tác phẩm phát xuất từ các miền Xuyên-Hy-Mã-Lạp Sơn Ấn Độ. Từ trung tâm thụ huấn thần bí này, Ngài di chuyển sang Ai Cập. Ngài được thọ giáo đầy đủ những giáo lý bí truyền về căn nguyên thật sự của sự sống giữa những vị Tinh Hoa, và được Điểm Đạo ở Ai Cập làm đệ tử của một Chi Hội cao cả mà các vị Sáng Lập các tôn giáo lớn đều xuất phát từ đó. Ở Ai Cập còn tồn tại một trong những trung tâm thế giới về các Bí Pháp chân chính, cón các Bí Pháp bán-công khai chỉ là các phản ánh mờ nhạt và xa xôi của các Bí Pháp chân chính. Những điều huyền bí mầu nhiệm được nói đến trong lịch sử khi Ngài ở Ai Cập là những bóng dáng của các điều hiện thật “Trên Núi”, và nơi ấy người trai trẻ Do Thái được thừa nhận long trọng để chuẩn bị cho Ngài bước sang trình độ Tư Tế mà Ngài phải đạt đến sau này (Priesthood). Ngài quá tinh khiết và đầy lòng tôn sùng nên trong cuộc đời thanh nhã của Ngài, Ngài nổi bật lên giữa những vị khổ tu nghiêm khắc và hơi cuồng tín cùng được huấn luyện với Ngài, Ngài tỏa ra hương vị của một sự hiểu biết dịu dàng thanh cao đến những người Do Thái khắc khổ như một cây hoa hồng mọc lạ lùng giữa sa mạc tỏa hương thơm cho vùng hoang vu chung quanh. Lời nói của Ngài-dầu ít-vẫn luôn ngọt ngào và đầy tình thương, làm cho người khắc nghiệt nhất trở nên hiền lành tạm thời và người cứng rắn nhất trở nên dịu dàng lúc ấy. Ngài sống như thế suốt từ 9 tuổi đến 20 tuổi của cuộc sống hồng trần, càng ngày càng duyên dáng và thanh nhã.

Sự tinh khiết và lòng tôn sùng siêu phàm này khiến cho Jesus, người đệ tử, được thích ứng để trở nên đền thờ của một Quyền Năng cao cả, một Hiện Hữu nội tại, hùng cường. Đã đến lúc một trong những sự biểu lộ Thiêng Liêng xuất hiện để giúp đỡ nhân loại, cần có một động lực mới để hối thúc sự tiến hóa tinh thần của nhân loại khi một nền văn minh mới sắp chớm nở. Thế giới Tây Phương bấy giờ đang chờ đợi và đã sẵn sàng chào đời. Giống dân phụ Teutonic sẽ nắm lấy uy quyền vừa rơi khỏi bàn tay của La Mã. Trước khi Tây Phương bắt đầu cuộc hành trình, một Vị Cứu Thế phải xuất hiện đứng ban phước bên nôi đứa bé Hercule.

Một người “Con của Trời” (Son of God) uy mãnh phải lấy xác thịt cõi trần, một vị Huấn Sư cao cả “đầy ân điển và lẽ thật” (S.John 1:14), Minh Triết Thiêng Liêng đầy đủ trong Vị ấy, Ngài thật là “Ngôi Lời” nhập thế, Ánh Sáng và Sự Sống tuôn tràn sung mãn, một Nguồn thật sự của các Nước của Sự Sống. Danh hiệu của Ngài là Đức Từ Ái và Minh Triết. Từ Nơi Cư Ngụ Bí Nhiệm, Ngài bước vào thế giới con người.

Đối với Ngài, một đền thờ trần thế là cần thiết- một hình thể con người, một xác thân con người. Còn ai thích ứng dâng hiến thể xác mình trong sự vui mừng và mong muốn phụng sự Vị mà các Thiên Thần và con người đều nghiêng mình hết sức cung kính hơn là chàng Do Thái này, một người “Toàn thiện” tinh khiết nhất và cao quý nhất có một xác thân trong sạch và một tâm trí tinh anh tốt đẹp nhất mà nhân loại có thể mang lại? Jesus vui lòng hiến thân mình cho Đức Từ Ái, Ngài dùng xác thân tinh khiết này như một đền thờ để cư ngụ suốt ba năm dưới trần.

Thời kỳ này được đánh dấu trong những câu chuyện trong Thánh Kinh nói về Lễ Báp Têm của Jesus, khi “Thánh Linh từ Trời ngự xuống như bồ câu đậu trên Ngài” (S.John 1:32) và có tiếng trên trời phán rằng Ngài là Con yêu dấu. Quả thật Ngài là con yêu dấu mà Cha rất đẹp lòng(S.Mat 3:17) và từ bấy giờ trở đi “Jesus khởi rao giảng” (S.Matt 4:17). Ngài là sự mầu nhiệm phi thường. “Thượng Đế được tỏ ra trong xác thịt”. Nhưng không phải duy có Ngài là Thượng Đế vì “Trong luật pháp của các ngươi, há chẳng chép rằng: “Ta đã nói: Các ngươi là Thượng Đế hay sao”. Quả thật, mọi người đều là Thượng Đế nếu nói về Tinh Thần (Spirit) trong họ, nhưng Thượng Đế không biểu lộ trong tất cả mọi người như trong Con yêu dấu của Đấng Tối Cao.

Đối với Sự Hiện Diện được biểu lộ ấy, danh tự “The Christ” có thể được dùng một cách đúng đắn, và chính Ngài đã sống và di chuyển trong hình thể của con người Jesus qua những đồi núi đồng bằng ở Palestine, rao giảng, chữa bệnh và tụ họp quanh Ngài một ít linh hồn tiến hóa cao làm đệ tử. Vẻ mỹ lệ hiếm có của tình thương tuyệt diệu của Ngài toát ra như những tia sáng mặt trời đã thâu hút những người đau khổ, mệt mỏi, ngã lòng. Còn mãnh lực huyền diệu của sự hiểu biết cao quý của Ngài đã thanh lọc, nâng cao các người đến tiếp xúc với Ngài. Ngài dùng các ngụ ngôn và các thí dụ minh bạch để dạy các nhóm kém học vây quanh Ngài. Ngài sử dụng những quyền năng của Thánh Linh và chữa được nhiều bịnh bằng lời nói hoặc bằng tay chạm vào, từ điển của thể xác tinh khiết của Ngài được tăng cường bằng mãnh lực của sự sống bên trong của Ngài.

Ngài bị các bạn đồng môn đầu tiên loại trừ vì Ngài đem truyền bá cho thế gian nền minh triết thiêng liêng và họ xem như bảo vật bí mật nhất và hãnh diện nhất của họ, và bởi vì tình thương đại đồng của Ngài đã thâu hút cả những hạng người suy đồi, lang thang. Lúc nào Ngài cũng yêu thương Chân Ngã Thiêng Liêng tiềm ẩn trong hạng người thấp kém nhất cũng như trong hạng người tiến hóa cao nhất.

Ngài thấy những đám mây đen tối của lòng thù hận và nghi ngờ bao quanh Ngài nhanh chóng. Những thầy dạy và người cai trị quốc gia nhìn Ngài với lòng ganh tị và giận dữ. Tinh thần của Ngài là một sự khiển trách dai dẳng tính duy vật của họ. Quyền năng của Ngài chỉ rõ một cách bền bỉ nhưng im lặng- sự yếu đuối của họ. Ba năm trôi qua từ khi Ngài chịu lễ Báp Têm đến lúc cơn bão tích tụ bùng dậy, và thể xác của Jesus gánh lấy khổ nhục vì đã là đền thờ cho sự Hiện Diện vinh quang của một vị Huấn Sư.

Nhóm đệ tử nhỏ bé mà Ngài đã chọn để ủy thác những giáo lý của Ngài bỗng mất đi sự hiện diện bằng thể xác của Vị Huấn Sư trước khi họ đồng hóa được những giáo huấn của Ngài, nhưng họ là những linh hồn tiến hóa cao, sẵn sàng học hỏi Minh Triết và đủ sức truyền lại cho những người kém hơn. Người dễ thụ cảm nhất trong số họ là người “đệ tử được Jesus yêu mến”, trẻ tuổi, hăng hái, hết lòng tận tụy với Đức Thầy và cũng có tinh thần yêu thương đại dồng bao gồm tất cả như Ngài. Ông tiêu biểu cho tinh thần tôn sùng thần bí tìm kiếm trạng thái nhập định và hợp nhất với Thiêng Liêng, trong khi đó vị Tông Đồ Thánh Paul tiêu biểu cho trạng thái hiểu biết của Huyền Môn.

Vị Huấn Sư không quên lời hứa Ngài sẽ đến với họ sau khi thế gian không còn thấy Ngài nữa.(S.John 14:18,19). Trong khoảng hơn năm mươi năm sau, Ngài đến thăm họ trong thể tinh thần thanh cao, tiếp tục dạy những giáo lý mà Ngài đã bắt đầu hồi còn sống với họ, huấn luyện cho họ một kiến thức Huyền Môn. Đa số thời gian ấy, họ sống chung với nhau ở một địa điểm hẻo lánh vùng ngoại ô Judaea, không gây chú ý như các cộng đồng tương tự chung quanh thời bấy giờ. Họ học hỏi những chân lý thâm sâu mà Ngài đã dạy cho họ và hoạch đắc được “những tặng phẩm của Thánh Linh”.

Những điều giáo huấn nội môn đã được bắt đầu từ khi Ngài còn sống giữa họ và tiếp tục sau khi Ngài bỏ xác, hợp thành một nền tảng căn bản cho “Những Bí Pháp của Jesus”, mà chúng ta đã thấy trong Lịch sử Giáo Hội đầu tiên. Những giáo lý ấy tạo nên một sự sống bên trong, nó là cái nhân trung tâm, xung quanh tụ tập những vật phẩm đa dạng kết hợp thành Giáo Hội Cơ Đốc.

Trong một đoạn văn đáng chú ý Pistis Sophia của Valentinus, chúng ta có một tài liệu quan trọng nhất nói về giáo lý ẩn mật. Đoạn ấy nói rằng trong thời gian mười một năm sau khi chết, Ngài dạy các môn đồ “các lãnh vực của các quy luật đầu tiên, rồi đến các lãnh vực của điều mầu nhiệm thứ nhất, điều mầu nhiệm bên trong màn che”. Cho đến bây giờ, họ chưa học đến sự phân cấp các đẳng thiên thần. Đến khi Đức Jesus đang “ở trên núi” với môn đồ của Ngài và sau khi nhận được Y phục thần bí- sự hiểu biết về tất cả các cõi và những Câu Quyền Lực (Words of Power) để mở chúng- Ngài bèn dạy họ xa hơn và hứa rằng: “Ta sẽ làm cho các ngươi được trọn vẹn trong mọi điều trọn vẹn, từ những mầu nhiệm bên trong đến những mầu nhiệm bên ngoài. Ta sẽ làm các ngươi tràn đấy Thánh Linh để các ngươi được gọi là tinh thần, trọn vẹn trong mọi điều trọn vẹn”. Và Ngài dạy họ về Sophia tức Minh Triết, về sự giáng nhập của nó vào vật chất để cố gắng tiến đến Đấng Tối Cao, về tiếng Nó kêu gọi Ánh Sáng mà Nó đã tin cậy, về việc phái Jesus đi giải thoát Nó khỏi sự hỗn độn, về sự vinh quang của Nó với Ánh Sáng của Ngài. Ngài dạy họ xa hơn về Đấng Mầu Nhiệm cao cả nhất, Đấng không thể tả được, đơn giản nhất và minh bạch nhất mặc dầu cao siêu nhất, chỉ có Đấng ấy tự biết mình mà thôi và Đấng ấy hoàn toàn xa lìa thế gian.

Do sự hiểu biết đó mà những con người trở nên những Christ vì “những người ấy chính là Ta, và Ta là những người ấy”, vì Christ là Đấng Mầu Nhiệm cao cả nhất ấy, biết rằng con người “được biến thể thành Ánh Sáng tinh khiết và được đem nhập vào Ánh Sáng. Và Ngài cử hành nghi lễ Điểm Đạo cho họ, lễ báp têm “dẫn đến miền chân lý và bước vào miền Ánh Sáng”, Ngài bảo họ hãy cử hành lễ ấy cho những người xứng đáng khác: “Nhưng các ngươi hãy dấu kín Điều Mầu Nhiệm này, chớ đưa nó cho mọi người chỉ trừ ai sẽ làm đủ mọi sự mà Ta đã nói cho các ngươi trong các điều răn của Ta.” (Valentinus, Pitis Sophia).

Sau khi được giáo huấn đầy đủ, các vị Tông Đồ đi ra rao giảng, luôn được Thầy giúp đỡ. Những môn đồ ấy và những người đồng giáo của họ theo trí nhớ viết lại các lời giảng công cộng và các ngụ ngôn của Vị Thầy mà họ đã nghe. Họ cũng nhiệt tâm thâu thập bất cứ bản tường thuật nào mà họ tìm được và họ đều viết lại rồi lưu hành tất cả văn tự ấy cho những người kết hội với cộng đồng nhỏ bé của họ. Họ lập được nhiều bộ sưu tập khác nhau, người nào cũng viết lại điều gì y nhớ và thêm vào các bản tường trình của các người khác. Nhưng những giáo lý nội môn Đấng Christ dạy riêng cho các môn đồ chọn lựa của Ngài thì không được viết ra và chỉ được khẩu truyền cho người nào xứng đáng nhận lãnh nó, cho những người chuyên học họp thành những nhóm nhỏ sống một cuộc đời ẩn dật và duy trì liên lạc với cơ quan trung ương.

Vậy thì Đấng Christ trong lịch sử là một Đấng vinh hiển thuộc về một đẳng cấp tinh thần cao cả hướng dẫn sự tiến hóa tinh thần của nhân loại. Chính Ngài đã dùng thể xác của vị đệ tử Jesus trong ba năm sau cùng để giảng đạo cho quần chúng suốt miền juđê và Samari. Ngài là người chữa bệnh và thực hiện nhiều công việc Huyền Bí đáng kể khác. Ngài họp quanh Ngài một nhóm môn đồ nhỏ và giảng dạy cho họ những chân lý thâm sâu của đời sống tinh thần. Ngài thu hút con người bằng một tình thương và một sự dịu dàng giản dị, bằng một nền hiểu biết phong phú toát ra từ Con Người của Ngài. Và cuối cùng Ngài bị giết bởi sự xúc phạm, bởi việc giảng dạy tính Thiêng Liêng nội tại của chính Ngài và của tất cả mọi người. Ngài đến tạo một động lực mới cho đời sống tinh thần nhân loại; khởi phát lại những giáo lý nội môn ảnh hưởng đời sống tinh thần; vạch rõ lại con đường hẹp cổ xưa; tuyên bố sự hiện hữu của “Cõi Trời” (Kingdom of Heaven) và sự hiện hữu của Lễ Điểm Đạo đưa con người đến sự hiểu biết về Trời, và thâu nhận vào Cõi ấy một ít người có thể giảng dạy người khác. Xung quanh Nhân Vật vinh hiển này, có nhiều chuyện thần thoại kết hợp Ngài vào một dọc dài những tổ tiên của Ngài, những chuyện thần thoại kể bóng gió lịch sử của tất cả kiếp sống đó vì chúng biểu tượng hóa công việc của Đức Thượng Đế (Logos) trong Vũ Trụ và sự tiến hóa cao cả hơn của linh hồn con người.

Nhưng không nên cho rằng công việc của Đấng Christ đối với các tín đồ của Ngài là hết sau khi Ngài đã thành lập các Bí Pháp, hoặc chỉ hạn chế trong những lần xuất hiện hiếm hoi. Sự chăm sóc, bảo hộ của Ngài lan rộng bao trùm cả toàn thể sự tiến hóa tinh thần của giống dân thứ năm. Ngài đã giao phó vào đôi bàn tay mạnh mẽ của người đệ tử thánh thiện ấy để chăm sóc Giáo Hội còn trong thời kỳ thơ ấu. Hoàn thiện sự tiến hóa trong giai đoạn con người của mình, Đức Jesus trở nên một trong những vị Chân Sư Minh Triết và phụ trách đặc biệt về Cơ Đốc Giáo, luôn tìm cách hướng dẫn Giáo Hội đi đúng đường lối, che chở,bảo vẹ và nuôi dưỡng Giáo Hội. Ngài là Đại Tư Giáo (Hierophant) trong Huyền Môn Cơ Đốc, Vị Huấn Sư trực tiếp của những người được Điểm Đạo. Ngài là nguồn cảm hứng giữ cho Minh Triết luôn bùng cháy trong Giáo Hội. Ngài là sự hoạt động kiên nhẫn tăng sức mạnh cho hết linh hồn này đến linh hồn khác bền công vượt qua tăm tối, nuôi nấng trong lòng họ một tia sáng của lòng mong ước thần bí, một niềm khao khát tìm kiếm vị Thượng Đế Ẩn Mật. Ngài là nguồn phát xuất vững bền chân lý vào tâm trí nào sẵn sàng chấp nhận nó, để ngọn đuốc Minh Triết được truyền sang tay qua nhiều thời đại và không bao giờ tắt. Ngài là người đứng bên kệ xưng tội và trong ngọn lửa của giàn hỏa để khích lệ những người thú tội và người tử đạo của Ngài, thoa dịu nỗi đau đớn của họ và truyền vào tâm họ niềm an lạc của Ngài. Ngài là động lực vang rền trong tiếng sấm của Savonarola, hướng dẫn sự hiểu biết an tịnh của Erasmus, gợi ý cho nền đạo đức thâm sâu của Spinoza. Ngài là năng lượng thúc đẩy Roger Bacon, Galileo và Paracelcus trong cuộc dò tìm vào thiên nhiên. Ngài là vẻ mỹ lệ quyến rũ Fra Angelica, Raphel và Leonardo da Vinci, gợi hứng cho thiên tài Michael Angelo, chiếu sáng cho Murillo, và tạo nên sức mạnh xây dựng các công trình tuyệt tác trên thế giới: Duomo ở Milan, San Marco ở Venice, Cathedral ở Florence. Ngài là âm điệu du dương trong các tác phẩm của Mozart, Beethoven, Handel, Bach, Brahm. Ngài là sự Hiện Diện cổ võ các nhà thần bí cô tịch, các nhà huyền bí tìm kiếm, các nhà tầm chân lý kiên nhẫn. Suốt nhiều thế kỷ

mang trên vai, Ngài không bao giờ bỏ rơi một con tim nhân loại nào cầu cứu Ngài giúp đỡ. Và bây giờ, Ngài đang cố gắng hướng dẫn làn sóng Minh Triết vĩ đại đang tuôn xuống tạo tươi nhuận thế giới đem về làm lợi ích cho bộ phận Cơ Đốc Giáo. Xuyên qua các Giáo Hội Ngài đang tìm kiếm những người nào có tai biết nghe Minh Triết và muốn đáp ứng lời kêu gọi của Ngài để làm sứ giả mang lời Ngài đến cho các tín đồ của ngài: “Con hiện diện xin Ngài hãy sai con.”