Ngài dạy:

Bạch Vân bảo Công Phụ rằng: Xưa kia Thuý Nham Chân[117] Điểm Hung, say đắm mùi thiền quán, thích đem bàn bạc ngoài đầu lưỡi, chửi mắng mọi người ở các phương, chưa cho người nào là vừa ý mình, mà Đại pháp thật ra chưa được tinh tường, vào một ngày, Kim Loan thị giả[118] thấy vậy mỉm cười và nói: “Sư huynh tham thiền tuy nhiều, mà chẳng liễu ngộ, đúng là si thiền vậy”.

Bạch Vân Dạ Thoại.

Bạch Vân nói: “Sự thịnh suy của đạo đâu phải là lẽ thường, mà đều tại chỗ người hoằng đạo vậy. Nên có câu: “Gìn giữ thời còn, buông bỏ thời mất”[119]. Nhưng không phải đạo bỏ người, mà chỉ vì người bỏ đạo vậy. Người đời xưa ở nơi núi rừng, ẩn dật chốn triều thị, chẳng màng chi danh lợi, chẳng hoặc bởi thanh sắc, tiếng trong sạch mới hay chấn động một thời, cái đẹp mới lưu lại muôn thuở, lẽ đâu người xưa làm được mà người đời nay lại không thể làm được như vậy ư! Đó chỉ là do chỗ giáo hoá chưa chín mùi, chỗ làm đạo không hết sức vậy. Hoặc có kẻ bảo rằng: “Người thời xưa thì thuần phác nên hay giáo hoá, còn người đời nay thì phù bạc nên không thể dạy bảo”. Nói như thế chính là lời cổ hoặc quần chúng thật không đủ tin cậy”.

Thư trả lời Công Phụ .

Bạch Vân bảo Vô Vi Tử[120] rằng: “Nếu nói mà chẳng làm, thà rằng đừng nói, làm mà chẳng nói, thà rằng đừng làm. Phát ngôn phải lo đến hậu quả của nó, làm việc phải xét ở chỗ che đậy của nó. Bởi thế, bậc tiên triết cẩn thận ở lời nói, lựa chọn ở việc làm. Phát ngôn chẳng những để hiển đạo lý, mà còn đem mở bảo cho người học chưa ngộ. Làm việc không phải chỉ để hay riêng cho mình[121], mà còn đem dạy bảo cho người học chưa thành đạt. Vậy nên phát ngôn có pháp tắc, lập hành có lễ nghĩa, nên mỗi khi nói ra chẳng gặp vạ, mỗi khi làm việc chẳng bị nhục. Đã nói ra thời là Kinh, làm việc thời là Pháp. Cho nên nói rằng: “Nói và làm là then chốt của người quân tử, là gốc lớn của việc sửa mình”, động đến trời đất, cảm đến quỉ thần, thật đáng kính vậy”.

Bạch Vân Quảng Lục.

Bạch Vân bảo Diễn Tổ rằng: “Trí năng của bậc thiền, phần nhiều chỉ thấy những việc đã rồi, chẳng hay thấy được việc chưa tới. Chỉ quán định tuệ[122] thì phòng ngừa ở lúc trước của sự việc chưa tới, tác chỉ nhậm diệt[123] thì biết được sau của sự việc đã rồi. Cho nên, chỗ dùng của tác chỉ nhậm diệt thời dễ thấy, chỗ làm của chỉ quán định tụê thời khó biết. Duy cổ nhân có chí ở đạo, đoạn tuyệt mối niệm khi chưa manh nha. Tuy có chỉ quán định tuệ, tác chỉ nhậm diệt, cũng đều là bàn về gốc ngọn vậy. Sở dĩ nói rằng: [124]“Nếu có một mảy may nào nói tới gốc ngọn đều là tự dối mình, đó là chỗ thấy triệt để của cổ nhân chẳng bao giờ tự dối mình vậy”.

Thực Lục .

Bạch Vân nói: “Phần nhiều thấy những nột tử chưa từng trải kịp đến cái kế xa và lớn ta sợ chốn tùng lâm sẽ suy vi từ đây. Dương Kỳ tiên sư thường nói : “Trên dưới muốn lẫn tránh cho an nhàn, đó là mối đại hoạn cho chốn thiền môn”. Ta trước kia ẩn náu ở thư viện Qui Tông, duyệt xem kinh sử, chẳng những chỉ vài trăm lần qua mắt, mà xem đến nỗi kinh sách đó cũ nát tới cùng cực. Nhưng mỗi khi mở quyển tất nhiên lại cùng thu hoạch được nhiều ý mới lạ, như vậy thì sự học chẳng phụ người như thế vậy”.

Bạch Vân Thực Lục.

.Bạch Vân lúc đầu ở chùa Thừa Thiên thuộc Cửu Giang, sau dời về chùa Viên Thông, tuổi đời còn rất nhỏ. Khi bấy giờ Hối Đường[125] ở Bảo Phong, bảo Nguyệt Công Hối[126] rằng: “Tân Viên Thông là người thấu triệt được kiến nguyên[127], thực chẳng hổ là pháp tự của Dương Kỳ, chỉ tiếc là ra ứng cơ[128] quá sớm nên chẳng phải là phúc của tùng lâm”. Công Hối, nhân hỏi về nguyên cớ. Hối Đường nói: “Cái mỹ khí của công danh, tạo vật đều tiếc, chẳng để trọn vẹn cho con người, nếu người cố tâm muốn có nó, thì trời tất nhiên sẽ cướp đi”. Cuối cùng Bạch Vân mất ở chùa Hải Hội, thuộc Thư Châu vừa vặn năm mươi sáu tuổi. Người thức giả thường bảo rằng: “Hối Đường chẳng những chỉ biết về thời cơ mà còn biết tới chỗ vi tế nữa, quả thật là một triết nhân vậy”.