trích trong tập Tu Bụi




- Ngày nọ, hai anh em đồng môn xuống núi. Trí Quang và Trí Minh đã sống quanh quẩn bên cạnh Thầy suốt mười lăm năm dài tu học. Hai anh em dắt tay nhau bước dần xuống đồi. Cứ mỗi bước đi tới lại quay lui nhìn Thầy.


Vị ân sư nuôi dạy hai trẻ mồ côi trong ngôi chùa cổ trên núi xanh dặn dò: “Cuộc đời thật dưới kia không phải là cảnh trời mà cũng chẳng phải là địa ngục. Hai con đã học chín những lời dạy tinh yếu nhất của ba tạng kinh điển. Nay phải xuống núi giúp đời là việc phải làm. Nếu chỉ lo tu trên núi để cầu mong giải thoát cho riêng mình như Thầy là điều rất khó đạt vì nợ nần chúng sanh là món nợ trùng trùng ân tình, ơn nghĩa dễ vay mà khó trả. Chưa trả sạch nợ thì nghiệp chưa giải hết, làm sao buông tay, quay mặt với đời để giải thoát một mình. Vay nhiều thì phải trả nhiều; vay ít thì trả ít; không vay thì khỏi trả. Trong các món nợ thì Nợ Mình là lớn nhất. Cái tôi càng nhỏ, nợ nần càng ít. Tâm không, vô ngã là hết nợ”.



Đời vô thường nên cuộc đoàn viên nào rồi cũng đến lúc chia tay. Với nụ cười khoan hòa, tĩnh lặng, nhưng không dấu được vẻ lưu luyến lúc chia xa, Thầy dừng lại ở cuối con đường chân núi vẫy tay dặn dò và chúc lành hai đứa bé mồ côi ngày xưa bây giờ đã thành hai thanh niên tuấn tú. Nước mắt lưng tròng, hai thanh niên nhìn lui Thầy lần chót khi con đường về đồng bằng rẽ khuất sau biển cây xanh.



Về với phố chợ lạ lùng, Trí Quang và Trí Minh bịn rịn bên nhau gần mấy tuần trăng, nhưng rồi cũng phải xa nhau, tự đi tìm lẽ sống. Trí Quang về sống ngay giữa khu chợ ồn ào, tấp nập bên cạnh bờ sông. Bắt chước theo hạnh đầu đà “thỏng tay vào chợ”, Trí Quang tin rằng, nuôi được tâm không vắng lặng giữa chốn bụi đời phiền trược mới thật là tịnh tâm và tịch diệt được mọi ham muốn ở đời. Tìm tịnh ngay trong động; và tìm động ngay trong tịnh mới thật là gần gũi với chân tính. Nghĩ thế và làm theo, Trí Quang suốt ngày lê la sống giữa chợ, mỉm cười bất chấp những điều tục lụy khen chê. Đêm về, anh ta ngồi ngủ trong cái lu sành kê dưới gốc cây mưng bên bờ sông, đêm khuya chợ vắng, Trí Quang ngẩng đầu ra khỏi miệng lu, tĩnh tọa ngồi thiền.



Quanh năm, áo quần tóc tai không thay đổi chăm sóc, bất cần đến nhục thân, bất cần đến xã hội xung quanh, miễn sao giữ cho được bản tâm mình thành thánh.



Trí Minh thì hoàn toàn ngược lại. Anh ta nghĩ rằng bồ tát hạnh không xa thế gian một mảy may nên lặng lẽ vào đời để sống như mọi người. Trí Minh làm ăn trở nên giàu lớn và lấy vợ sinh con, có đủ thê thiếp, kẻ ăn, người ở đầy nhà.

Mười năm trôi qua, Trí Minh chạnh nhớ người anh em và cho người đi tìm Trí Quang. Người nhà Trí Minh tìm được Trí Quang ngoài chợ và ngỏ lời mời đến thăm nhau. Trí Quang ra điều kiện là Trí Minh phải trải thảm đỏ từ nhà đến chợ để rước mình mới chịu đến thăm. Và khi đến dinh thự, Trí Minh và toàn thể gia nhân phải sắp hàng nghênh đón. Người nhà về bẩm báo, Trí Minh chịu mọi điều kiện của Trí Quang đưa ra.



Đến ngày hẹn, Trí Quang xuống sông tắm rửa, rồi xách gậy bước qua thảm đỏ đến thăm Trí Minh. Vừa đến dinh cơ đồ sộ của Trí Minh, Trí Quang ngẩn người ra một lát. Anh ta bị choáng ngợp với ý nghĩ rằng, Trí Minh đã quên lời Thầy dặn, chỉ lo tham luyến giữa đời. Rồi lập tức, chẳng nói, chẳng rằng, Trí Quang xách gậy đập vỡ từng cái một những đồ đạt quý giá, sang trọng bày biện khắp nơi trong dinh thự. Đập vỡ đồ đạc chán tay, Trí Quang lại xách gậy rượt đánh người nhà của Trí Minh chạy tán loạn.



Khi chỉ còn lại Trí Minh vẫn đứng tươi cười chờ đón người anh em trước cửa giữa cảnh đổ nát trong dinh thự sang trọng. Trí Quang vung gậy lên trước mặt Trí Minh nhưng bỗng chùn tay lại. Đôi mắt hung hãn của Trí Quang bắt gặp ánh mắt trong ngần, mát lạnh của Trí Minh đang thân ái nhìn mình. Cây gậy trong tay Trí Quang rơi xuống. Không nói một lời, hai anh em đồng môn cùng dang tay, chạy ào tới ôm nhau…


Trí Quang nói nhè nhẹ trong tiếng thở dài: “Đứng lại giữa đời mà lạc đường! Hèn gì Thầy mình phải vào sâu trong núi…”. Trí Minh an ủi: “Mọi vật đều biến đổi trong từng khắc. Có gì đứng lại được đâu. Cho nên tự mình đứng lại cũng có nghĩa là đang bị xô đi. Đã biết phút trước không còn, phút sau chưa đến thì có gì để bám víu và bám víu để làm gì đã chứ!”.

đồ gia bảo quý nhất là cái tâm trong sáng không dính mắc chứ chẳng phải là giá trị vật chất. Trốn chạy thực tế, chối bỏ vật chất cũng có thể là một cách tham lam đi tìm cái to hơn, cái quý hơn còn ở dạng tiềm năng, chưa tượng hình, tượng ảnh chứ chẳng phải là đi tìm chân Không, chân Tánh của Đạo.


- Làm gì có cái Ngã thực sự. Cái “tôi” hay cái “ta” chỉ là tên gọi tạm thời cho những đơn vị hợp thể. Khi hợp thể tan thì cái tôi hay ta tạm bợ đó cũng tan theo. Tất cả chỉ là sự chuyển hóa thói quen. Khi nói “tôi muốn hay không muốn…” là dựa vào kinh nghiệm và thói quen để bày tỏ.



- Hay thật! Nếu “ta” là hư vọng, là vô ngã thì tu cho ai và giải thoát cái gì nhỉ?


- Vô ngã là một ý niệm tuyệt đối, không thể dùng chữ, dùng lời, dùng âm thanh hay hình tượng mà gọi tên hay mô tả được. Khi còn một cái tôi thân xác nói được “vô ngã” bằng lời thì khái niệm vô ngã chưa thực sự là vô ngã. Cũng ví như khi người ta còn nói được “tôi ngủ” thì rõ ràng là chưa ngủ hay nói được “tôi đang ngủ” thì có nghĩa là đã thức dậy.


Người ngủ là người đang hòa tan trong giấc ngủ, làm sao còn nói lên được khái niệm thật sự về cái ngủ như thế nào. Những người còn tự xưng tụng hay muốn được xưng tụng mình là đức này, đấng nọ, ngài kia; còn cố bon chen cho được người trên ngưỡng mộ, người dưới cung bái để mưu cầu vô ngã là đang bước vào bóng tối để tìm ánh sáng, bám vào hòn đá chìm dưới đáy sông để làm ngộ. Vô tâm hay cố tình trói buộc cái ngã của mình, cái ngã của chúng sanh và vạn pháp vào trong chùa to, tháp lớn, tượng đài để thực hành “vô ngã” thì có khác gì nói rằng: “Ăn nhiều vào đi để cho đói, ngủ nhiều vào đi để cho thức, uống thật say đi để cho tĩnh, vơ vét cho thật nhiều đi để mà tay không…”.


- Cả Trí Quang lẫn Trí Minh đều là hai trường hợp cực đoan, chấp trước; cả hai đã trú ẩn vào cơn mộng tưởng làm cứu cánh sau dáng vẻ “cầu vô ngã”. Khác nhau chăng là hình thức bên ngoài. Trí Quang và Trí Minh đều bày tỏ tâm tưởng kiêu mạn theo cách riêng của mình. Trí Quang quyết xa lánh cái “có” và ngỡ rằng sẽ tìm được cái “không” bằng thái độ chối bỏ và xem rẻ đời sống và giá trị vật chất quanh mình.

Trí Minh thì tìm cách xa lánh cái “có” bằng thái độ bất cần. Đó là sự chọn lựa nhập thế, tạo dựng và thỏa hiệp với cuộc đời thường. Khi đã nắm được của cải vật chất trong tầm tay mình rồi thì lại ra vẻ dửng dưng và từ bỏ nó; rồi từ có biến thành không. Tiếc thay, đấy chỉ là ảo tưởng nhất thời khi tâm tưởng vẫn còn mắc kẹt trong khái niệm nhị nguyên đối đãi thông thường. Đó là khái niệm “có” và “không”vật lý chứ không phải có và không thể tánh.



- Thầy phải đi tìm một cái ngã an tịnh và ít nhiễm độc trên núi sâu; trong khi hai gã học trò xuống núi thực hành “vô ngã vô nhiễm” giữa chốn bụi đời. Sống với bụi đời bao bọc chung quanh mà không lo “tu bụi”. Tu bụi để gột rửa bớt lớp lớp bụi bặm phong trần chực chờ bám vào trên thân xác và trong tâm tưởng liên tục trong mỗi nháy mắt. Những lớp mỏng bụi mờ không lau sạch, sự dồn tụ càng lâu càng thành đống thành đồi. Làm sao có thể chuyển hóa cái nghiệp muôn năm dính mắc trên thân phận làm người của mình được khi bụi đời chưa lau sạch trong tâm.


- Vâng, tu là chuyển. Chuyển là thay đổi. Trong thay đổi thì cái gì cần nhất và gần nhất thì làm trước, thế thôi. Chỉ vì mãi lo “tu đạo” khi thân chưa sạch, tâm chưa an nên cả hai anh em nhà họ Trí đều bị dính mắc vào mớ bòng bong của tâm thức phá ngã và dối ngã.



Trí Quang khinh bỉ quay lưng hay nóng nảy đập phá thế giới vật chất mà anh ta coi như là “có”, là kẻ thù của vô ngã. Trí Quang nhắc ta nhớ lại hình ảnh một kiếm khách thời xa xưa vác trường kiếm chém gió thu để cho trời hết lạnh. Trí Minh thì tự cho mình đã vượt ra khỏi vòng câu chấp; ôm trọn đời sống vật chất trong tay nhưng quay lại đánh đổ và coi thường nó như một sự phủ nhận hiện hữu với tâm trạng thỏa mãn của người “giác ngộ”. Sự giác ngộ dễ dãi và ngây thơ của người chỉ thấy tượng Phật trong chùa mà không thấy tánh Phật quanh ta. Cái ngã của hai người anh em ấy to gấp đôi so với người thường. Mỗi người vốn có một cái “ngã sở” lù lù ra đó của riêng mình. Giờ đây, lại có thêm cái “ngã chấp” hiện tiền nung đốt họ.


- Vì tất cả chỉ là phương tiện tạm thời để đi đến cái đích. Ấy là hạnh phúc. Sống là phương tiện. Thân xác này là phương tiện. Tu bụi hay tu đạo cũng chỉ là phương tiện. Qua những thay đổi, thăng trầm bên ngoài mà có người cho là “dâu bể” thì hạnh phúc nhất là tìm được ra nhau. Trí Quang và Trí Minh tìm ra nhau, ôm lấy nhau sau những đổ vỡ tang thương. Ấy là hạnh phúc.