Nguyên Thủy / Bắc Tông
Đây là vấn đề nhạy cảm do vậy Zelda xin nương theo hoàn toàn vào lịch sử của Phật Giáo thế giới, và các minh chứng mang tính kinh điển nhất.

Chúng ta hãy cùng quay lại 2553 năm về trước,khi Đức Phật chúng ta vừa viên tịch.
Kết tập đầu tiên
Ba tháng sau khi Đức Phật nhập diệt, ngài Đại Ca-diếp (Mahā Kassapa) triệu tập một hội đồng gồm khoảng 500 vị thánh tăng tại vùng đồi núi ngoại thành Vương xá (Rājagaha) để kết tập kinh điển, sau này được gọi là Đại hội Kết tập I. "Kết tập" có nghĩa là thu góp, tập hợp lại, ôn lại, đừng để cho tán thất. Tiếng Phạn là "sangīti", có nghĩa là cùng nhau tụng lại. Trong Đại hội này, ngài Đại Ca-diếp là chủ quản, ngài A-nan-đa (Ānanda) đọc lại các bài kinh giảng, và ngài Ưu-ba-ly (Upāli) đọc lại các điều luật. Sau lần kết tập đầu tiên này, Luật tạng và Kinh tạng được đúc kết. Lúc ấy, Kinh tạng được chia ra thành 4 bộ chính: Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng bộ, và Tăng chi bộ.
Đây là thời kì nguyên thủy , tinh nguyên nhất được các bậc thánh kết tập lại . Nhưng chúng ta thấy chỉ có 4 tạng kinh .

Trong hệ Sanskrit (Bắc Phạn), các bộ tương đương là các bộ A-hàm (Āgama). Tuy nhiên, các bộ A-hàm nguyên thủy đã bị thất lạc và chỉ còn tìm thấy các bản kinh tiếng Sanskrit rời rạc, mà hiện nay chỉ còn các bản Hán văn, dịch từ nhiều nguồn gốc bộ phái và qua nhiều đời khác nhau.
Công trình của Tiến sĩ là so sánh kinh Trung bộ (Pàli Majjhima Nikàya) với Trung A-hàm (Madhyama Àgama), tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarvàstivàdins), hiện được duy trì trong bản dịch chữ Hán.



Trường bộ là tập hợp các bài kinh dài, gồm 34 bài kinh, đã được dịch sang Việt ngữ. Ngoài các bài thuyết giảng của Đức Phật, Bộ này cũng có các bài giảng của Đại đức Sāriputta (Xá-lợi-phất), vị đệ tử hàng đầu có tài thuyết giảng hùng biện nhất thời đó, và các vị đệ tử nổi tiếng khác.

Trung Bộ gồm có 152 bài kinh sắp xếp trong 15 phẩm, theo từng chủ đề. Các bài kinh quan trọng thường có liên quan đến phép hành thiền quán niệm, chánh kiến, cách tịnh tâm, cuộc đời Đức Phật, Tứ Diệu Đế, tính không, quán niệm hơi thở, v.v. Có thể nói đây là một bộ kinh quan trọng nhất, bao gồm các bài giảng thiết yếu trên đường tu tập, thực hành lời Phật dạy.

Tương ưng bộ gồm 2.889 bài kinh ngắn, chia làm 5 chương và 56 phẩm. Đây là tập hợp các bài kinh có chủ đề giống nhau về một điểm thảo luận, hoặc về một nhân vật nào đó trong thời Đức Phật. Có những bài giảng quan trọng về hành thiền, 12 nhân duyên và về 37 phẩm trợ đạo.

Tăng chi bộ là bộ kinh dựa theo cách sắp xếp số học (pháp số), từ các chủ đề có liên quan đến 1 phần tử, 1 yếu tố, dần dần lên đến các chủ đề có 11 phần tử hay yếu tố. Vì vậy, bộ kinh được chia làm 11 chương, gồm 2.308 bài kinh.

Kết tập lần thứ 2
Phật lịch thứ 100, Ngài Yassa mở hội kết tập lần thứ II . Thời kì này vẫn chưa phải là thời kì bộ phái, mà chỉ manh nha xuất hiện của Đại Chúng Bộ. Chúng ta lưu ý thời kì này chưa có xuất hiện tư tưởng Đại Thừa , hoàn toàn là giáo lý Nguyên Thủy mà thôi.

Trong 45 năm hoằng dương đạo pháp, Đức Phật đã đi nhiều nơi, giảng đạo cho nhiều người và thu nhận nhiều đệ tử. Các đệ tử của Ngài ở rải rác khắp nơi, không thể nào cùng về tham dự đại hội đầu tiên. Do đó, có thể có một số bài thuyết giảng và giới luật phụ do Đức Phật đặt ra đã không được kết tập trong kỳ đại hội đó.Vì vậy, khoảng 100 năm sau, năm 383 trước Tây lịch (TL), Đại hội Kết tập Kinh điển lần thứ hai được tổ chức, theo yêu cầu của tăng chúng thành Vesali và Vajji. Sau lần kết tập này, Luật tạng được mở rộng với các giới luật mà các đại biểu cho rằng đã không được kết tập trong kỳ Đại hội I, và một số các bài kinh giảng khác chưa kết tập, tạo thành một bộ kinh thứ 5 của Kinh tạng (Tiểu bộ).

Sau lần kết tập này, Luật tạng và Kinh tạng xem như đã thành hình, và các bài giảng có lẽ cũng giống như bài giảng mà chúng ta có được trong bộ Đại tạng kinh hiện nay.

Tiểu bộ thật ra không phải là bộ sách nhỏ, mà là tập hợp 15 bộ sách nhỏ:

1) Tiểu tụng (Khuddakapātha),
2) Pháp cú (Dhammapada),
3) Phật tự thuyết (Udāna),
4) Như thị ngữ (Itivuttaka),
5) Kinh tập (Suttanipāta),
6) Thiên cung sự (Vimānavatthu),
7) Ngạ quỷ sự (Petavatthu),
8) Trưởng lão tăng kệ (Theragāthā),
9) Trưởng lão ni kệ (Therigāthā),
10) Bổn sanh (Jātaka),
11) Nghĩa thích (Niddesa),
12) Vô ngại giải đạo (Patisambhidāmagga),
13) Thí dụ (Apadāna),
14) Phật sử (Buddhavamsa),
15) Hạnh tạng (Cariyāpitaka).

Tiểu Bộ KInh cũng rất đáng tin cậy, vì lần kết tập lần 2 này vẫn còn nhiều thánh tăng,và những bài kinh này hoàn toàn thích hợp và được sự minh chứng từ 4 tạng đầu.

Kết tập lần thứ 3

Một trăm ba mươi năm sau đó, năm 253 trước TL, vua Asoka (A-dục) cho triệu tập Đại hội Kết tập Kinh điển lần thứ III dưới sự lãnh đạo của ngài Mục-kiền-liên Tử Đế-tu Moggalliputa Tissa. Tiểu bộ của Kinh tạng lại được mở rộng và kết tập thêm nhiều bài kinh giảng khác. Quan trọng hơn hết là việc Đại hội đã đúc kết các bài giảng về tâm lý, thể tính và sự tướng của vạn pháp, tạo thành Thắng pháp tạng (Abhidhamma pitaka, A-tỳ-đàm tạng, hay còn gọi là Vi diệu pháp tạng, Luận tạng).Đại hội này gồm khoảng 1.000 vị tu sĩ đúc kết . Thêm vào đó, tổ chức tăng đoàn theo truyền thống Trưởng lão bộ được chấn chỉnh lại theo đúng các giới luật

Thắng pháp tạng

Còn gọi là Vi diệu pháp tạng, đây là tập hợp các bài giảng của Đức Phật về thể tính và sự tướng của vạn pháp, phân giải triết học và tâm lý học. Thắng pháp tạng gồm có 7 quyển:

1) Pháp tụ (Dhammasanganī),
2) Phân tích (Vibhanga),
3) Chất ngữ (Dhātukatha),
4) Nhân chế định (Puggalapaññatti),
5) Ngữ tông (Kathāvatthu),
6) Song đối (Yamaka),
7) Vị trí (Patthāna).

Đến đây các bạn thấy rằng vẫn chưa có sự xuất hiện của Đại Thừa, và Phật Giáo lúc này vẫn còn thống nhất , vẫn còn là giọt tinh sương đầu nguồn, và Đại Chúng Bộ vẫn không thể phát triển vào thời điểm này , do vậy tương lai chắc chắn sẽ có sự phân hóa , chia rẽ đạo Phật , do bất mãn trong lần kết tập lần 3 nầy.

Thời kì phân phái
Rồi sau đó là thời kỳ phân phái. Các tông phái đua nhau xuất hiện cùng với những luận điểm sai khác về giáo lý Đức Phật. Phật giáo sử có ghi lại tên tuổi của những học phái này, con số lên đến 18 hoặc 25. Đó là khái niệm về một thời kỳ vườn hoa đua nở hay là thời kỳ của tư tưởng tràn bờ.

Trong thời kỳ phân phái này có thể ghi nhận 3 khuynh hướng:

1) Khuynh hướng duy trì giáo lý nguyên thủy của Đức Phật do các vị trưởng lão chủ trương, nên đã trở thành Trưởng Lão Bộ (Theravāda).
Khuynh hướng này có được là do công Đại đức Mahinda , đã kiệp thời đem giáo lý nguyên thủy được kết tập ở lần thứ 3 nầy , truyền giáo sang Tích Lan, ngài được vua Tích Lan giúp xây cất một ngôi chùa lớn, gọi là Đại tự viện (Mahāvihara), và từ đó thành lập tông phái Đại tự viện ở xứ này. Một trăm năm sau thì một ngôi chùa khác, tự viện Vô úy sơn (Abhayagiri), được xây cất và các tu sĩ ở chùa này bắt đầu tạo ảnh hưởng lớn mạnh ở Tích Lan. Thêm vào đó, cũng có nhiều nhóm tu sĩ với khuynh hướng Đại thừa từ Ấn Độ sang hoạt động tại xứ này, nhưng không có ảnh hưởng sâu rộng. Sự tranh giành ảnh hưởng giữa hai tông phái nguyên thủy Đại tự viện và Vô úy sơn kéo dài qua nhiều thế kỷ, và chỉ chấm dứt vào khoảng thế kỷ thứ 12, khi nhóm Đại tự viện được vua Parakkamabahu chính thức thừa nhận, kết tạo thành tông phái Theravāda như chúng ta thấy được ngày nay.

Vào khoảng năm 29-17 trước TL, 500 tu sĩ phái Đại tự viện tập họp lại và bắt đầu cho viết các tạng Kinh, Luật và Thắng pháp trên một loại giấy bằng lá bối đa. Lần đầu tiên, sau gần 500 năm truyền khẩu, ba bộ tạng được ghi chép trên lá bối, và từ đó, Tam tạng kinh điển hệ Pāli bằng văn bản được tạo ra và lưu truyền cho đến ngày nay. Đó là Đại hội Kết tập IV. Sở dĩ văn tự Pāli được dùng vì đó là ngôn ngữ chính thống miền Tây Ấn và là ngôn ngữ của ngài Mahinda. Nhờ tình trạng xã hội tương đối ổn định và đảo Tích Lan tương đối biệt lập, các bộ Tam tạng này đã được gìn giữ nguyên vẹn, dù rằng trong khi sao chép chuyển truyền từ đời này sang đời khác, có thể có một vài sửa đổi, sơ sót. Nhưng đó chỉ là các đoạn nhỏ, không quan trọng.
Có nhiều sách ghi lại rằng bộ phái mà Đại đức Mahinda theo là Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavada). Tức là bộ phái này giữ nguyên giáo lý lần kết tập thứ 3 tránh xung đột, luận bàn ,và bảo thủ giữ nguyên những gì đã có , nhất thiết không chế tác.

2) Khuynh hướng triển khai một số điểm giáo lý và giới luật của Đức Phật, và vì có nhiều khuynh hướng luận giải bất đồng nên đã hình thành nhiều bộ phái khác nhau như: Nhất Thiết Hữu Bộ (Sabbatthivāda), Tuyết Sơn Bộ (Hema-vatika), Pháp Tạng Bộ (Dhammaguttika). Về sau Nhất Thiết Hữu Bộ lại chia ra thành Ca Diếp Bộ hay Quan Ấm Bộ (Kasapika), Thuyết Chuyển Bộ (Sankantika), Kinh Lượng Bộ (Suttavāda), v.v...
Khuynh hướng này có Nhất Thiết Hữu Bộ (Sabbatthivāda) chính đã truyền lại kinh A-Ham Trung Hoa cho đến bây giờ. Và được xuất hiện do truyền bá đi kháp nơi nhưng sau cùng Đạo Phật truyền sang mạn Tây Bắc, tạo lập trung tâm Phật giáo ở Kashmir , nơi đây là nơi tập trung nhiều tông phái và tư tưởng khác nhau, tuy nhiên bộ các bạn lưu ý giọt tinh sương do Đại đức Mahinda đã ở Tích Lan rồi.Kashmir là nơi xảy ra rất nhiều cuộc luận chiến giữa các tông phái với nhau, và bắt đầu xuất hiện sự sai khác, chế tác kinh điển ở đây.
Sự tranh cải thường vây quanh :
Nhất Thiết Hữu Bộ chủ trương ngã không, pháp hữu
Thế là sau đó có một vị không đồng ý, ấy là Ngài Harivama, đã viết Thành Thật Luận bảo rằng: đồng ý là ngã không nhưng pháp cũng không (ngã không, pháp không)
-Ngã không, pháp hữu.
- Ngã không, pháp không.
- Ngã hữu, pháp hữu.

Có lẽ các tông phái này không được nghe Đức Phật dạy trong kinh Agghivaccha-gottasuttam Majjhimanikāya của thời nguyên thủy rằng:

-"Không thể kết luận Ngã và Pháp là thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên, đồng nhất hay dị biệt, có hay không, vừa có vừa không hay không có không không. Tất cả những kết luận một chiều đó đều không áp dụng được, vì rằng đó là tà kiến, kiến trù lâm, kiến hoang vu, kiến hí luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược, đi đôi với khổ, với tàn hại, với não hại, với nhiệt não không nhất hướng yếm ly, ly tham, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, Niết Bàn".
May mắn thay đều được ghi lại trong một bộ luận gọi là Dị Bộ Luận (Kathāvatthu) kể lại tất cả khác biệt của các tông phái


3) Khuynh hướng triển khai giáo điển một cách rộng rãi hơn, khơi mào cho tư tưởng Đại Thừa sau này, như Đại Chúng Bộ (Mahasanghika), Độc Tử Bộ (Vajjiputtaka), Nhất Thuyết Bộ (Ekabbohārika), Kê Dận Bộ (Gokulika), Pháp Thượng Bộ (Dhammuttarika), Hiền Trụ Bộ (Bhaddayanika), Một Lâm Sơn Bộ (Channagarika), Chánh Lượng Bộ (Sammitiya), Chế Đa Sơn Bộ (Paññattivāda), Đa Văn Bộ (Bahulika), Thuyết Giả Bộ (Cetiyavāda), v.v...

Kinh điển Đại thừa bắt đầu xuất hiện nhiều hơn, có hệ thống hơn, từ thế kỷ 1 TL trở về sau. Tiếc rằng các bộ kinh đầu tiên, như Kinh Duy-ma-cật, Liễu Ba-la-mật, Bồ tát tạng, Tam pháp kinh, v.v. nay không còn nguyên bản Sanskrit, mà chỉ còn dịch bản chữ Hán và Tây Tạng, nên không thể đối chiếu, truy tầm nguồn gốc. Tuy nhiên các bộ kinh đại thừa quan trọng khác như Đại Bát nhã, Pháp hoa, Hoa nghiêm, A-di-đà vẫn còn các bản gốc tiếng Sanskrit.

Sự xuất hiện các bộ kinh đại thừa và sau đó là các quyển luận thuyết của các ngài Mã Minh, Long Thọ, Long Trí, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân trong bốn thế kỷ đầu Tây lịch đánh dấu sự thành hình và phát triển nhanh chóng của Phật giáo Mahāyana trong toàn xứ Ấn Độ. Ảnh hưởng này đã dần dần lan rộng sang Trung Hoa, và từ đó có những phong trào truyền bá, chuyển dịch kinh điển ở Trung Hoa qua nhiều thế kỷ, từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 7 TL, qua ba ngõ giao thông chính: đầu tiên là qua miền Trung Á, qua ngõ Nepal -Tây Tạng, và bằng đường biển.

Như vậy Kinh Điển Đại Thừa xuất hiện nhờ sự hỗn mang , tranh luận giữa các tông phái khác nhau ở trung tâm Phật Giáo thời bấy giờ.Và có trước thời ngài Long Thọ.

Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravāda) cỗ xe Pháp thừa (Dhammayana)

Vị nổi tiếng nhất thời ấy là Ngài Long Thọ, sau khi thấy rõ những điểm khác biệt của các tông phái nêu trên, Ngài đã dùng một pháp luận gọi là Trung Quán Luận để bác bỏ tất cả lý luận của ngoại đạo và Tiểu Thừa. Chính vì vậy Đại Thừa mới được xiển dương.

Phá bỏ lý luận chính là một cách khác để hiển bày sự thật như trong thời nguyên thủy Đức Phật đã từng làm. Nhưng tiếc thay người sau không thấy cái thực, mà lại thấy lý luận phá lý luận và đã đưa Trung Quán hoặc Không Luận xuống hàng triết học nên mới có chỗ cho phái Thanh Biện và phái Duy Thức một lần nữa nổ ra luận chiến. Đó là điều bi đát của Phật giáo chúng ta. Rồi sau đó thì Thiền Tông ra đời. Sở dĩ Thiền Tông ra đời là vì quá chán cái thời kỳ cả ngàn năm tranh biện này.

Thiền Tông ra đời với một tuyên ngôn sấm sét: "Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền". Vì sao vậy? Vì không còn tin vào văn tự luận giải bóng bẩy cao vời ấy của các học phái nữa. Văn chương chữ nghĩa đã cải vả nhau ồn ào cả ngàn năm rồi mà cũng chẳng tới đâu. Ngay kinh điển của Phật mà ngài còn dạy là chớ vội tin, huống chi kinh luận của các tông phái đời sau trước tác, vậy thì tốt nhất là hãy lo "trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật" là đủ rồi, nghĩa là chỉ có việc thấy cái thực mà giác ngộ thôi, chứ không qua kinh luận nữa! Đấy là tuyên ngôn của Thiền Tông. Tuyên ngôn này thực ra cũng không phải mới mẽ mà chính là tuyên ngôn đầu tiên của Đức Phật (mà có dịp chúng ta sẽ nói đến sau).

Do vậy, có điều rất hay là Thiền Tông đã vượt qua ngàn năm tranh biện của kiến giải văn tự để trở lại với thời nguyên thủy của giáo pháp Đức Phật. Thật là xúc động! Quả là xúc động! Tôi nói điều này mà nổi cả da gà. Xúc động quá phải không? Vì cả ngàn năm nay Phật giáo rơi vào những cuộc tranh luận dai dẳng, không ai chịu nhường ai cả. Rồi người này gọi người kia là Tiểu Thừa, người kia gọi người nọ là ngoại đạo, lung tung, chẳng ra đâu vào đâu cả, chẳng còn đạo lý gì cả.

Nói vậy không có nghĩa là họ lý luận không hay, trái lại họ lý luận quá hay là khác. Tất cả các vị luận sư của các bộ phái, Tiểu Thừa và Đại Thừa, dường như họ đều là bậc thầy lý luận. Nhưng mà cái hay ấy để làm gì nếu chúng ta không thấy được cái thực? Chúng ta nếu nắm được một số lý luận tuyệt vời hay ấy, rồi thực tế dẫn ta tới đâu? Chẳng tới đâu cả, khổ vậy! Cái hay mà đem ra tranh luận, cãi nhau thì thành ra vô ích.

Đến đây chúng ta có thể hiểu tại sao Thiền Tông phải đứng ngoài kinh điển văn tự. Lý luận dẫu hay thì bờ kia không chạy qua bờ này được. Lý luận dẫu hay mà vô minh, ái dục còn sờ sờ ra đó thì cũng không bao giờ lội lên được nguồn trên để uống được giọt nước đầu nguồn
Điều mà chúng ta rất mừng là Thiền Tông đã đi lại con đường của Phật giáo nguyên thủy. Chúng ta cần phải hiểu là, ngoài các bộ phái Tiểu Thừa và Đại Thừa mà chúng ta biết ở trên, còn có một dòng khác, một dòng đi xuyên suốt gần 3.000 năm nay, đó là Phật giáo Nguyên Thủy. Chính nhờ các vị Trưởng Lão, ngay từ thời Đức Phật vừa Niết Bàn, đã thấy trước sự hiểm họa của kiến giải, luận lý nên đã cương quyết bảo vệ giáo pháp trải qua bao cuộc phân hóa dâu bể thăng trầm, bảo vệ một giáo pháp tương đối gần với nguyên thủy nhất, đấy là Theravāda, Trưởng Lão Bộ, bộ phái của các vị Trưởng Lão, tức là kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy hiện nay bằng Tam tạng Pāli văn. May mắn là trước khi phân phái Phật giáo nguyên thủy đã truyền qua các nước Srilanka (Tích Lan), Myanmar (Miến Điện), nhờ công của vua A Dục, nên đã thoát khỏi trường luận chiến của các tông phái Tiểu Thừa, Đại Thừa, cũng như, thoát khỏi sự tàn phá của Hồi giáo xâm lăng Ấn Độ.

Chúng ta cần xác định một điều này: - Tất cả những tư tưởng triển khai tốt đẹp nhất và đúng đắn nhất trong thời kỳ Tiểu Thừa, Đại Thừa và Thiền Tông đều có đầy đủ trong giáo pháp nguyên thủy của Đức Phật.

Nếu quý vị có đọc quyển "Con Đường Chuyển Hóa" của thầy Nhất Hạnh, ở đó thầy có nêu ra 3 bài kinh Tứ Niệm Xứ. Bài kinh Tứ Niệm Xứ của Nguyên Thủy khác, bài của Nhất Thiết Hữu Bộ khác, bài Tứ Niệm Xứ của Đại Chúng Bộ khác. Tứ Niệm Xứ của Đại Chúng Bộ sau này thành Tứ Niệm Xứ của Đại Thừa. Chính thầy Nhất Hạnh, vốn ở trong dòng Đại Thừa mà thầy cũng thừa nhận Tứ Niệm Xứ của Nguyên Thủy là chính xác nhất, đầy đủ nhất và rõ ràng nhất. Như vậy, thì Tứ Niệm Xứ của Nguyên Thủy khác, của Đại Thừa khác, của Tiểu Thừa khác. Vậy phải phân biệt, khảo sát cho kỹ, cho đúng, cho chính xác mới khỏi lầm.

Xưa nay, hễ mình nghe nói "Tứ Niệm Xứ" là mình liền hình dung ra một công thức đơn giản:

"Quán thân bất tịnh
Quán thọ thị khổ
Quán tâm vô thường
Quán pháp vô ngã".

Chúng ta thường nói ra nơi miệng, lập đi lập lại như "câu thiều" vậy thôi, chứ thật ra ít ai biết được "Tứ Niệm Xứ" đích thực là gì? Ngay 4 câu kệ ấy về Tứ Niệm Xứ có đúng không? Có nói được cái thực không? Tứ Niệm Xứ không đơn giản như 4 "câu thiều" ấy đâu. Quý vị sẽ thấy rõ điều đó. Nó cao siêu, linh diệu hơn nhưng lại rõ ràng, giản dị hơn nhiều.

Cũng cần ghi nhận ở đây là các danh xưng "Đại thừa" và "Tiểu thừa" chỉ thấy đề cập trong kinh luận Mahāyana xuất hiện về sau, mà không thấy trong kinh điển nguyên thủy. Trong hệ Pāli Nikāya cũng như hệ Hán tạng A-hàm, Đức Phật có dạy ngài Ānanda về một cỗ xe Pháp duy nhất ­ Pháp thừa (Dhammayana). Đó là Con đường tám chánh (Bát Chánh Đạo), như đã ghi lại trong Tương ưng bộ và Tạp a hàm (SN XLV.4, SA 769):

"Này Ānanda, con đường tám chánh này là đồng nghĩa với cỗ xe tối thượng, là cỗ xe pháp, là sự chiến thắng vô thượng trong mọi chiến trận nhiếp phục tham, sân, si."
Cổ xe này đã có trong Phật Giáo Nguyên Thủy.

Trong kinh Pháp hoa, Đức Phật có nói: "Chư Phật chỉ dùng một cỗ xe duy nhất đưa đến giải thoát (nhất thừa Phật đạo), không có hai mà cũng chẳng có ba".

Trong Tiểu bộ và Tăng chi bộ của kinh tạng nguyên thủy, Ngài cũng dạy rằng:
"Như tất cả các đại dương đều có cùng một vị mặn, các giáo pháp của Ta cũng chỉ có một vị duy nhất, đó là vị giải thoát."

Ôi! Từ lâu đã biết bao nhiêu người hiểu lầm, những Pháp sư, Giảng sư, Luận sư, học giả trong và ngoài Phật giáo, tu sĩ và cư sĩ, hiểu lầm do xuyên tạc, do bị xuyên tạc, hiểu lầm do các loại kinh sách không đúng đắn, hiểu lầm do cố chấp, hiểu lầm do thành kiến, định kiến, phiến diện ngu si hoặc ngã mạn đã gọi Phật giáo Nguyên Thủy là Tiểu Thừa. Như vậy, hoặc vô tình hoặc cố ý... đã mạ lỵ ngay chính Đức Bổn Sư, mạ lỵ một giáo pháp uyên nguyên, trong sáng đầu nguồn.

*Vì tranh thắng thua nên các vị luận sư Đại Thừa đã cố ý mạc sát các tông phái khác qua 2 chữ Tiểu Thừa (Hīnayana)
chúng ta không nên dùng danh xưng "Tiểu thừa" để gọi tông phái Theravāda. Điều này thường gặp trong một số sách báo và bài viết về đạo Phật. Thật ra, "Tiểu thừa" là dịch từ chữ "Hīnayana" ­ cỗ xe nhỏ ­ một chữ dùng rất nhiều trong kinh điển và luận thuyết Đại thừa, có hàm ý chê bai, khinh miệt. Chữ "Hīna" ỏ đây không phải là nhỏ bé, mà có nghĩa là hạ liệt, thấp kém. Có lẽ đây là một dụng ý thâm sâu của các tu sĩ luận sư Đại thừa để chê bai các bộ phái Nguyên thủy, bởi vì nếu các vị ấy chỉ có ý muốn diễn tả một cỗ xe nhỏ thì danh từ "Cullayana" (Culla: nhỏ) có ý nghĩa chính xác và nghiêm túc hơn

Kinh Điển Đại Thừa Không Do Phật Thuyết
Qua bài viết trên chúng ta nên thấy rõ , kinh điển Nguyên Thủy có ngày nay không phải do chế tác luận chiến mà có, mà có được do nhờ sự bảo tồn . Những kinh điển đại thừa có ghi chép lại sự đối đáp giữa các bậc thánh ALahan với các vị BỒ Tát , điển hình nhất Zelda xin lấy kinh DUy Ma Cật . Trong đây diễn tả sự chiến thắng trong luận chiến của ngài Duy Ma Cật với các vị Thánh Thinh Văn.
Như vậy sẽ nảy sinh câu hỏi. Nếu thật sự là các vị Bồ Tát như Bổ Hiền ,Quan Âm,Duy Ma Cật. Vậy tại sao lần kết tập kinh điển đầu tiên các bậc Thánh Thinh Văn không ghi chép lại , nhất là Đại Đức Ca Diếp , ngài được nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần trong kinh điển Đại Thừa, và được xem là truyền thừa của Thiền Tông?Phải chăng lần kết tập đầu tiên này của Phật Giáo và duy nhất đối với các bậc Thánh Thinh Văn , do các vị thánh này xấu hổ , với con đừong BỒ Tát, hoặc là mắc cở do không chiến luận lại nổi với ngài Duy Ma Cật nên không kết tập các câu chuyện có ghi trong kinh điển đại thừa va` danh xưng các ngài Bồ Tát? Xin thưa rằng" không". Các bậc Thánh Thinh Văn đã đoạn trừ các lậu hoặc và tiền khiên tật, do vậy các ngài không biết xấu hổ , mắc cở , có sao nói vậy , chân thật tuyện đối . Do đó các vị bồ tát trong kinh điển Đại Thừa là không có thật, tương tự các kinh điển sau này như Lăng Nghiêm , Duy Ma Cật .v.v.v Đều đã được chế tác lại , nhằm có thêm sự tin tưởng của công chúng.
Cũng xin nói thêm để sắp xếp và thống nhất nguồn gốc của các loại kinh điển, các tăng sĩ thời đó đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau (các học thuyết "phán giáo"). Trong đó, thuyết của ngài Trí Giả, tông Thiên Thai, là phổ thông nhất và vẫn còn thấy lưu dụng cho đến ngày nay trong một số sách Phật giáo. Ngài cho rằng Đức Phật đã giảng kinh pháp trong 5 thời kỳ (ngũ thời phán giáo): Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã, và Pháp hoa - Đại Niết bàn, và vì thế có nhiều loại kinh điển từ nhiều tông phái khác nhau. Tuy nhiên, đây chỉ là một lối giải thích chủ quan để tổng hợp, hệ thống hóa toàn bộ kinh điển và biện minh sự siêu việt của Pháp hoa tông mà thôi. Giả thuyết này không có chứng liệu lịch sử, và không được các nhà nghiên cứu sử học Phật giáo ngày nay công nhận.


Lời kết:

Để có được bài viết trên Zelda kết tập từ 3 nguồn :
http://www.zencomp.com/greatwisdom/u.../kvandap02.htm
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u-ttht/ttht-01.htm
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/u...g/sosanh00.htm
Với những gì Zelda nói trên ngỏ hầu lợi ích đến toàn bộ chúng sinh trong Tam Giới,cầu cho tất cả đều được thắng hóa lợi ích trên con đường học đạo. Nếu có điều chi sai sót , nhất là lỗi chánh tả , mong các bạn bỏ qua cho.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật