Đặc tính Ảo Mộng và Thực Tế của Vạn pháp
Phúc Lâm
Ngày 20.01.2006
Trích Báo Viên Gíác - Đức
Tựa đề như trên vừa đọc qua chúng ta đã thấy đầy tính mâu thuẫn. Nhưng tùy theo nội dung ta có thể đặt tên cho một bài viết như "Trên đỉnh Phù Vân", "Thầy Phương Trượng", "Đại Đức Trụ Trì" hoặc "Bạn và Tôi", ... thì rốt cuộc tất cả cũng chỉ là tên gọi, chỉ là danh xưng được đặt ra để biểu thị cho một hay nhiều hiện tượng, vì ngay những chủ thể được biểu thị bằng những tên gọi này rốt cuộc cũng chỉ là ảo mộng, là phù vân. Nhưng nếu không có những cái mộng ảo và phù vân này thì cũng không bao giờ có sự giải thoát, giác ngộ. Bởi vì chỉ qua sự quán chiếu đặc tính duyên khởi, vô thường, phù vân của vạn pháp, trong đó có cả ta và tâm trí của ta, thì "người quán chiếu" mới ngưng tụ và lắng đọng. Nơi đây khó có thể đặt câu hỏi "Ai" là người được giải thoát, và "Ai" giác ngộ. Bởi vì "người quán chiếu" và "Ai" cũng chỉ là giả danh, cũng đồng nghĩa với vạn pháp phù vân. Nhưng vì sao đã phù vân, mộng ảo mà còn gọi là thực tế?
Nghĩ thân phù thế mà đau,
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê !
Giáo Lý Trung Quán dạy: "Tất cả pháp đều là không", như vậy theo thiển ý, cái nghĩa tuyệt đối của lời dạy này là ngay cả sự khẳng định "tất cả pháp đều là Không" cũng bị phủ định, cũng là Không! Bởi vì nơi đây không có gì làm cơ sở cho chủ thể khẳng định hoặc đối tượng bị phủ định. Lời dạy này phá hủy mọi định kiến về hữu, vô, sinh, diệt, và mọi nhị nguyên đối lập được lập ra bởi vọng thức. Thế giới khách quan vẫn luôn biến chuyển vô thường, với thực tính không, dẫu nó là đối tượng hay không là đối tượng cho tri thức con người. Sự khẳng định hay sự trực chứng cũng là một Pháp của tâm trí, nhưng nếu tâm trí ta cũng chỉ là phù vân, ảo mộng, tâm trí cũng là không, thì còn gì là cơ sở để khẳng định hay trực chứng!? Như vậy giải thoát và giác ngộ là điều không thể diễn tả. Hay có thể nói "Không Có Gì" để diễn tả và cũng "Không Có Người" diễn tả. Như vậy có lẽ ta sẽ tự hỏi: Rốt cuộc Giáo Lý của Đức Phật dạy ta điều gì mà mục đích cuối cùng là "Không Có Gì" ?!!! Giáo Lý dạy "Niết Bàn không khác gì Ta Bà và Ta Bà cũng không khác gì Niết Bàn" vậy rốt cuộc không có gì để tu, không có gì để chứng ?!!! Câu hỏi này có lẽ cũng chính là câu trả lời vô cùng thâm sâu diệu vợi của Giáo Lý Đức Phật, đó là tuyệt đối "Không Không" và tuyệt đối "Không Sắc". "Không Không và Không Sắc" hàm chứa trong lời dạy "Tất cả pháp đều là Không". Và theo thiển ý lời dạy "Niết Bàn không khác gì Ta Bà và Ta Bà cũng không khác gì Niết Bàn" cũng nằm trong ý: "Tất cả pháp đều là Không"? Và vì "Không Có Gì", không "chấp có" hoặc "chấp không", không "phủ nhận" hay "thừa nhận", nên không còn vướng ngại, ràng buộc, từ đó mới có sự hoàn toàn giải thoát.
"Không Có Gì" được hiểu là điều không thể diễn tả, chứ không phải là một thứ hư vô trống rỗng. Bởi vì nơi đây tuy an trụ nhưng hàm chứa mọi công năng linh động. Tuy "Chân Không" nhưng "Diệu Hữu" hay "Chân Không Diệu Hữu" đồng một thể.
Ta thấy Giáo Lý chỉ là con đường hướng dẫn tới sự giải thoát, giải thoát là do quán chiếu được tính duyên khởi và vô thường của vạn pháp, và nhận biết được Pháp tính bất sanh bất diệt ẩn tàng trong ta. Người quán chiếu và vạn pháp chính nằm trong cảnh thể của Ta Bà, nhưng khi đạt tới giải thoát thì dẫu cảnh thể Ta Bà khách quan vẫn còn đó người ngộ đạo vẫn trực chứng được thực tính không của vạn hữu. Ta thấy vì vọng tâm nên tâm trí người đời có sự phân biệt nhị nguyên đối đãi Ta Bà và Niết Bàn. Những khi đã có sự hoàn toàn giải thoát thì chỉ là Chân Như, an tịnh. Nơi đây "không có gì" để phân biệt hay diễn tả, như những chữ "Không" trong kinh Bát Nhã Ba La Mật đã dạy: "... Tướng không của các pháp là không sinh, không diệt, không nhiễm, không sạch, không thêm, không bớt. Vì thế trong Không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; .....; không khổ, tập, diệt, đạo; không trí tuệ, cũng không chứng đạt vì không gì để chứng". Điều đáng suy tư nơi đây là, đối với riêng một người, thì những hiện thể trước mặt là những thực thể tồn tại khách quan, tưởng chừng như chúng không bao giờ là ảo ảnh, phù vân. Nhưng về mặt khách quan thì hiện tượng hay vật thể đều do duyên khởi và trùng trùng nhân duyên tạo ra, đều nằm trong luật biến chuyển vô thường nên chỉ là bóng dáng biểu hiện ra trong không gian và thay đổi qua từng sát na, nên mọi hiện tượng đều không có tự tính, hay tự tính tuyệt đối của mọi hiện tượng là không. Về mặt chủ quan thì nếu một người sắp chết, thì đối với riêng người đó, những hiện thể trước mặt như đang dần dần tan rã. Và đối với một người đã bỏ được vọng tâm, thì sự tồn tại cũng mang bóng dáng của cái không tồn tại, và ngược lại chính trong cái không cũng tiềm tàng cơ năng phát khởi ra mọi hiện tượng. Điều này cho ta thấy thế giới khách quan vẫn luôn biến đổi vô thường, còn sự nhận ra tính ảo mộng hay thực tế của thế giới này là do tính vọng hay chân của tâm trí mỗi người. Điều đáng suy tư nữa là vọng tâm hay chân tâm đều hiện diện ngay nơi đây, trong cõi Ta Bà này, trong mỗi chúng ta, thế mà con người lại muốn đi tìm Niết Bàn ở một chân trời hay thế giới nào khác!
Bình thường chúng ta chỉ nhận ra được hiện tượng hay vật thể khi nó đã xảy ra, tức là chỉ nhận ra khi đã là quá khứ, đã có bóng dáng. Những cái "đang" xảy ra, cái hiện thực, ta chưa bao giờ thấy. Vì "điểm" trực tiếp trước khi bắt đầu xảy ra hiện tượng hay hình thành một vật thể là "nơi" chưa có bắt đầu của thời gian, và vì "lúc đó" chưa có hiện tượng và chưa có vật thể nên ở "điểm" này cũng chưa có không gian của hiện tượng hay vật thể. Một "điểm" nơi đó không có không gian và thời gian, thì chính là hư không, chính là thực tính tuyệt đối của hiện tượng. Và khi hiện tượng đã xảy ra thì nó mang tính tương đối, biến chuyển trong không gian và thời gian. (Nơi đây phạm trù biến chuyển đã hàm chứa không gian và thời gian). Trên mặt biến chuyển thì tất cả mọi hiện tượng hay vật thể đều được tạo thành do sự nối tiếp liên tục vô thủy vô chung của những "điểm" hư không này. Nhưng vì "thực tại điểm" này phi thời gian và phi không gian nên ta không thể "thấy" nó trong thế giới và với một tâm trí được tạo thành bởi thời gian và không gian. Tự tính tuyệt đối hư không chỉ hiển lộ trong một tâm thức hoàn toàn lắng đọng, vượt khỏi thời gian và không gian của bậc Giác Ngộ. Và lúc đó Niết Bàn, Chân Như cũng không khác gì Ta Bà, vì Người Giác Ngộ vẫn đang hiện diện "tại đây". Giáo Lý dạy ta vì Ta Bà là duyên khởi, vô thường nên nó không mang thái cực của cái hằng có, vậy tự tình tuyệt đối của Ta Bà là Không. Và Niết Bàn hay "Chân Không Diệu Hữu" không mang thái cực của cái hư không trống rỗng. Điều này cũng cho ta nhận thức được điểm không khác nhau giữa Ta Bà và Niết Bàn. Vì vạn pháp là sự biểu hiện của duyên khởi, nhưng chính cả nhân lẫn duyên đều vô tự tính, nên bản chất của duyên khởi cũng chính là Không. Và khi tự thể đã là không thì Ta Bà cũng là quê hương của Niết Bàn. Vì vậy mục đích của giáo Lý Trung Quán là phá hủy mọi thiên kiến sai lầm của tục đế để hiện thị Chân Đế. Ngài Long Thọ dạy: "Nếu không nương vào tục đế thì không thể đạt đến Chân đế, và như vậy không thể hiểu Phật Pháp là gì".
Sau 45 năm hoằng dương Giáo Lý trước khi nhập diệt Đức Phật đã chuyển ý là trong suốt thời gian này Người không dạy lời nào. Đây là điểm vô cùng thâm sâu của Giáo Lý. Vì tất cả những gì Phật dạy đều là pháp phương tiện dành cho chúng sinh bằng chính ngôn ngữ của chúng sinh, mà pháp phương tiện thì chỉ là tục-đế. Còn đối với cái tuyệt đối của Chân Đế thì không thể dùng ngôn ngữ để diễn đạt. Như vậy theo thiển ý, nếu ta chỉ bám víu vào triết lý suy tưởng thì ta khó có thể đạt được giải thoát hoàn toàn, vì đây cũng chỉ là huyền ảo của tâm trí và thân sắc. Cũng còn nằm trong quá trình tích trữ và ươm ấp chủng tử được gọi là tàng thức. Chân Như là an trụ nên đã vượt ra khỏi mặt biến chuyển này, nơi đây luôn thanh tịnh nên cũng không phân tích, không tích trữ cho nên cũng không tâm thức hay tàng thức. Điều này có nghĩa là con đường có khả năng đưa tới giải thoát là an trụ tâm trí của riêng ta qua thiền định, hay qua nhất tâm bất loạn niệm Phật chứ không chỉ bằng văn tự hay suy tư.
Theo Giáo Lý thì mục đích của Thiền Định là xóa bỏ cái tâm trí phân biệt, dính mắc, phá hủy mọi định kiến, mọi nhị nguyên đối đãi được lập ra bởi vọng thức để tiến đến cái thực tính tuyệt đối của ta. Nơi đây cơ sở chính yếu là sự tự trực chứng, còn lý thuyết, kinh tự là phương tiện hướng dẫn ta đạt tới mục đích này. Bởi vì nếu chỉ nương vào lý thuyết để đạt được giác ngộ thì, như Thiền Sư Mumon (1183-1260) dạy: "Không khác gì một người muốn đụng được mặt trăng bằng cây gậy".
Và theo thiển ý, khi niệm "Nam Mô A Di Đà Phật" thì không phải chỉ là lục-tự trên môi, mà là lúc lời niệm và tâm thức ta đồng một thể, khi niệm thì đó chính là lúc ta biểu thị tự tính Di Đà từ bi sẵn có trong chính ta.
Phật tánh vượt khỏi mọi tri thức phân biệt, mọi tâm thức lô-gích nhị nguyên, nên vượt khỏi mọi diễn tả bằng suy tư, văn tự. Và như vậy sự thực chứng Chân Như không nằm trong phạm vi của lô-gích hay trí thức, mà ngược lại chỉ khi tâm thức hoàn toàn lắng đọng thì lúc đó khả năng chứng ngộ mới có thể có. Khi tôi viết và khi bạn đọc những lời này bằng tâm thức phân tích thì chính đó là lúc chúng ta đang xa vời với giác ngộ, giải thoát. Trong lịch sử Thiền Tông có những vị thiền sinh bỗng nhiên chợt đại ngộ vì một câu nói, hay vì bị Sư Phụ đập vài gậy vào lưng, hoặc khi nhìn một đóa hoa đang nở, ... Điều này cho ta chiêm nghiệm rằng qua số kiếp tu hành mới có thể đạt tới giác ngộ. Nhưng khi Giác Ngộ là lúc bỗng nhiên trực thức ra rằng chính ta đã và luôn luôn hiện diện trong nó. Bỗng nhiên trực ngộ được rằng Chân Không Diệu Hữu, Phật Tánh luôn hiện diện trong ta. Nên nhớ đây là sự trực chứng chứ không phải là sự suy luận ra bằng tâm thức. ENO (638-713) vị Tổ Sư thứ sáu của Thiền Tông Trung Quốc, khi còn là Thiền sinh của Tổ Sư Gunin Daiman đã có lần đặt câu hỏi cho người bạn đồng môn tên là Myo: "Khi bạn không nghĩ đến tốt hoặc xấu, thì chính ngay lúc đó cái thực ngã của Myo sẽ là gì?".
Đây là câu hỏi đã đưa Myo đến đại ngộ. Bởi vì khi tâm thức ta vượt qua khỏi mọi nhị nguyên đối lập như tốt-xấu, đúng-sai, yêu-ghét, thành công-thất bại, ... khi không còn một tư tưởng nào làm rung động tâm thức. Vượt khỏi mọi tương đối để vào phạm vi tuyệt đối. Thì lúc đó không còn gì để phải tìm kiếm, tất cả đều lắng đọng và cái còn lại chính là thực tính tuyệt đối.
Theo ý trên chúng ta tạm dừng lại nơi đây để tự đặt và tìm giải pháp cho câu hỏi:
"Khi tâm thức của ta hoàn toàn lắng đọng thì ngay lúc đó cái thực ngã của ta là gì"?
Đây là câu hỏi không thể trả lời bằng suy tư hay văn tự mà chỉ qua sự trực chứng của chính ta. Bởi vì đã có suy tư thì tâm thức không lắng đọng, và mọi tìm kiếm, mọi suy tưởng chỉ đưa ta đến bí lối. Vậy lối thoát chỉ có khi tâm thức ta thật sự hoàn toàn lắng đọng.
Tất cả mọi kinh nghiệm, mọi suy tư, phân tích hiện đang có trong tâm trí của bạn và tôi chứng tỏ rằng chúng ta đang sống với một tâm thức đầy nhị nguyên đối đãi. Điều kiện cho sự trực ngộ chính là phá hủy tâm thức này. Và lúc đó có lẽ không còn chủ thể, khách thể, trong ngoài, không còn Đại ngã, Tiểu ngã, Tồn tại, không tồn tại cũng chỉ là một thể và ngay cả cái "một thể" này cũng tan biến mất. Giáo Lý Đức Phật dạy ta, trên mặt hiện-tượng-giới thì: "Tất cả đều xảy ra theo luật nhân quả", ngoài nhân quả thì sẽ không có bạn và tôi và cả vũ trụ cũng không có. Mọi hiện tượng trong mỗi sát na là cũng tùy thuộc nhân quả. Vậy một Bậc giác ngộ cũng có thể hiểu là Bậc đã tự giải thoát khỏi mọi quan hệ nhân quả. Vì thoát khỏi mọi quan hệ nhân quả nên tâm Bậc giác ngộ thoát khỏi mọi vướng ngại bởi dính mắc và phân biệt, một tâm thể luôn trực tiếp và tuyệt đối.
Trở lại điểm: Vì sao đã phù vân, mộng ảo mà còn gọi là thực tế? Có lẽ đây là điểm mà người Phật tử như chúng ta trên con đường học Đạo cần tham khảo và bổ túc cho nhau!?
Chúng ta biết vì pháp giới xuất phát qua trùng trùng nhân duyên và luôn biến chuyển vô thường nên pháp giới quả là phù vân, mộng ảo. Nhưng theo thiển ý, điểm quan trọng chính là "vạn pháp là biểu thể cái đặc tính Tuyệt Đối linh động của Bản Thể". Nếu hoàn toàn không có hiện tượng giới thì chính ta và tất cả đều là không. Nhưng vì đặc tính linh động của Bản Thể nên sự xảy ra hiện tượng là một Tuyệt Đối. Và vì đặc tính Chân Không của Bản Thể nên tất cả pháp đều là không cũng là Tuyệt Đối. Tất cả mọi chợt ẩn chợt hiện đều là biểu thể Tuyệt-Đối-Tính linh động của Bản Thể và đều xảy ra trong Bản Thể nên đối với Chân Như Bản Thể thì cũng không có gì thêm, không có gì bớt. Không sanh không diệt. Tất cả đều xuất ra từ không gian và tan biến vào không gian là cũng vì đặc tính tuyệt đối này. Vậy, trên mặt hiện tượng giới, sự phát triển của con người và muôn loài là một thực tế. Nhưng đây chỉ là thực tế tương đối của tục đế qua cái nhìn tuyệt đối Chân Không Diệu Hữu của Chân Đế. Mặc dầu bản chất của các pháp là đều do duyên khởi, nên cũng là không. Nhưng không phải là không có hiện tượng, vậy khi đã là hiện tượng thì phải mang đặc tính linh động biến chuyển. Theo thiển ý, đó là lối nghị luận của tục đế. Riêng đối với Chân Đế thì thực chất "chưa từng có gì xảy ra", "Không có gì", nên ảo mộng hay thực tế cũng chỉ là Không. Vì "chưa từng và không bao giờ có gì xảy ra" nên mọi nhị nguyên đối đãi, Đại ngã Tiểu ngã, Ta Bà Niết Bàn, mọi nghị luận phân tích, mọi điều mọi sự đều xuất phát bởi vọng thức. Và theo thiển ý, vì vô minh nên ta không biết rằng ngay cả tâm thức của mình cũng chỉ là Không.
Vì Chân Không Diệu Hữu là tuyệt đối tính của Bản Thể (hay bản thể vũ trụ chính là Chân Không Diệu Hữu (CKDH) nên khi nhất niệm vô minh vọng khởi thì CKDH vừa là động cơ chính của sự khởi phát ra hiện tượng vừa là cơ năng cho sự tiếp tục biến chuyển của hiện tượng. Và khi hiện tượng tan biến thì CKDH vẫn vậy, không thêm, không bớt. Hay nói cách khác, khi không có nhất niệm vô minh là nguyên nhân khởi phát ra hiện tượng thì thực tánh hay pháp tánh là Bản Thể vô tư. Khi có hiện tượng, có hình thể thì Pháp Tánh trong hình thể cũng là Pháp Tánh của Bản Thể, không thêm không bớt. Nhưng vì có hình thể nên có sự vô minh biến chuyển theo hình thể, vô minh chấp hiện tượng là tự ngã nên phải luân hồi vô thủy vô chung theo hiện tượng. Và vì vô minh nên quên rằng thực tánh của ta luôn thanh tịnh, không biến chuyển, không sinh diệt. Nhưng sự biến chuyển của thể cũng chính do Pháp tánh, linh giác mà có. Vì nếu trong một hình thể không hàm chứa CKDH thì cũng không có biến chuyển và thực sự cũng không có hình thể. Nhưng vì CKDH là tuyệt đối và bao trùm cả vạn hữu nên cái giả thuyết một hình thể không hàm chứa CKDH là điều không bao giờ có. Vậy một hình thể có cơ năng CKDH và CKDH không khác biệt nhau, không phải là một nhưng cũng không phải là hai. Không phải là một vì hình thể thì có tướng còn CKDH thì vô tướng, chỉ là tánh - Phật Tánh - Nhưng tướng của thế gian lại biến chuyển vô thường trong từng sát na nên không phải là thật tướng, nếu quán thật tướng của thân thì đó chính là Pháp Thân, luôn rỗng rang diệu hữu. Vả lại cái linh động của hình thể lại biểu thị cái Linh Giác ẩn tàng trong hình thể. Có lẽ vì vậy cho nên trong lịch sử Thiền Tông đã có những Bậc Tổ Sư chỉ nhìn hoa nở, tuyết rơi mà bỗng chợt giác ngộ. Nơi đây, theo thiển ý, đại ngộ không phải vì hoa nở, tuyết rơi mà vì thực chất "không có gì xảy ra", "không chủ thể và cũng không đối tượng". Và có lẽ cũng "không có người đại ngộ".
Theo thiển ý, lời dạy "Pháp Tánh trong hình thể cũng là Pháp Tánh của Bản Thể" là đặc điểm nổi bật của Phật Giáo khi so sánh với những tín ngưỡng khác. Nhiều niềm tin từ cổ xưa đã cho rằng nếu không có "sinh khí" hay "hơi thở" của Tạo Hóa thì một sinh vật không thể sống được. Một con người hay một thảo mộc bị chết đi đó là vì "sinh khí" đã thoát ra, giống như một bóng đèn hay cái Radio nếu không có điện thì không thể cháy hay không thể hát. Những điểm quan trọng Đức Phật đã dạy đó là điều kiện và nhân duyên. Nếu điều kiện và nhân duyên không đầy đủ, không thích hợp dẫu có "sinh khí" một sinh vật cũng không thể sống. Khi một bộ phận nào trong cái Radio bị hư thì dẫu có cho điện vào nó cũng không thể hoạt động và cũng vậy khi một cơ quan quan trọng nào trong cơ thể con người bị hư hoại, tức là thiếu điều kiện thích hợp, thì dẫu có "sinh khí" ta cũng không thể tiếp tục sống được. Hiện-tượng-giới tức tùy thuộc Điều Kiện và Nhân Duyên, tức nằm trong luật vô thường. Điểm đặc biệt quan trọng khác đó là: "Đặc tính linh động của Bản Thể là một tuyệt đối hiển nhiên, không nơi nào không có, vừa bao trùm vạn pháp, vừa hiện diện trong từng hạt bụi, hạt cát, trong sắc giới, vô sắc giới hay vô-vô-sắc-giới. Còn một hiện tượng hay hình thể phát khởi là do nhân duyên và điều kiện và biến chuyển hay tan biến hủy hoại cũng là do điều kiện, nhân duyên. Nên nơi đây không có vấn đề thoát ra hoặc chui vào của "sinh khí". Vì CKDH trước sau vẫn vậy, không thêm không bớt, không nhỏ đi hay to ra. Theo thiển ý "sinh khí" hay "hơi thở" là hình thức "thần thánh hóa" của người xưa. Trên thực tế đặc tính linh động của Bản Thể hiện diện trong tất cả chứ không riêng gì trong một "sinh vật". Và ngay cả trong cơ thể, trong từng tế bào của người chết vẫn tiềm tàng đầy đủ đặc tính linh động này! Cũng vì đặc tính linh động, CKDH của Bản Thể và quy trùng trùng nhân duyên nên mới có thế giới hiện tượng muôn màu vẻ này. Chúng ta biết trong thế giới hiện tượng của quả đất này thì chỉ riêng con người với một trí óc cao hơn mọi loài khác là có khả năng kiểm soát năng lực tâm thức, có khả năng đưa tâm thức mình đến an trụ. Từ sự biến chuyển của tâm thức đến sự an trụ của tâm thức cũng có nghĩa rằng từ thế giới hiện tượng đến thế giới không hiện tượng, nơi đó ta nhận chân được mọi hiện tượng đã xảy ra không phải là thực chất, vì cái tận cùng của mọi hiện tượng chính là CKDH. Nơi đây không còn gì xảy ra, nên cái dòng thời gian mà ta đã từng trải qua cũng không là một thực chất, vì nơi đây luôn thanh tịnh. Chân Không Diệu Hữu, Phật Tánh luôn thanh tịnh nhưng là Linh Giác vô biên. Trí Bát Nhã chỉ hiện lộ khi mọi vướng mắc của tâm thức thực sự hoàn toàn lắng đọng. Như vậy, theo thiển ý, cái đặc trưng của Phật Giáo chính là: "Đặc tính linh động của Bản Thể tiềm tàng trong tất cả, tất cả là CKDH". Nơi đây vượt qua khỏi mọi "thần thánh hay nhân vật hóa". Kinh nói: "Phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng".
Trước cái Có là cái Không và tận cùng của cái Có cũng là cái Không. Nên trong cái Có đã hàm chứa cái Không. Vì nếu không hàm chứa cái Không thì cái Có không thể tiến đến tận cùng của nó. Không thể tiến đến tận cùng nghĩa là hằng có, và hằng có có nghĩa là không biến chuyển, không phát khởi, không biến chuyển cũng có nghĩa là không có gì, tất cả đều là không. Nhưng trước mặt ta và chính cả ta là hiện tượng luôn vô thường biến chuyển, như vậy chính ta và tất cả mọi hiện tượng đều hàm chứa cái không biến chuyển, cái luôn an trụ, cái CKDH. Như vậy CKDH cũng có nghĩa là "trong Chân-Không đã hàm chứa Diệu-Hữu và trong Diệu-Hữu đã hàm chứa Chân-Không". Nếu tri thức được điều này thì hiện tượng và hình thể rốt cuộc chỉ còn là bóng dáng bên ngoài nguyên cái thực tánh bên trong là luôn thanh tịnh, an trụ.
Về mặt khách quan thì khi nhìn một vị Hòa Thượng hay nhìn một cái bông và nếu bỏ qua tên gọi, bỏ qua mọi biểu thị phân biệt thì lúc đó ta thấy cả hai đều là biểu thể của tuyệt-đối-tính linh động của bản thể, không khác gì nhau. Và về mặt chủ quan thì, như trên đã viết, nếu ta lắng đọng được tâm thức nhị nguyên đối đãi thì lúc đó chính ta cũng là một biểu thể của tuyệt-đối-tính linh động. Lời dạy của Ngài Long Thọ Bồ Tát: "Niết Bàn và thế gian không có gì sai biệt, Niết Bàn và thế gian chúng không hai, không khác" cho ta tri kiến cái nhất tính giữa Phật và chúng sanh hay giữa Niết Bàn và thế gian, nhưng thế gian chỉ là biểu thể, còn cái thực thể chính là Niết Bàn luôn thanh tịnh. Nên nếu không có Giáo Lý của Đức Phật và không tu thì một chúng sinh với tâm trí bình thường sẽ thấy hiện tượng giới là tuyệt đối có, và vì cái tuyệt đối có này mà chính mình lại vô thường nên bị đau khổ. Ta không biết rằng biến chuyển vô thường là tuyệt đối nên Có và Không cũng là tuyệt đối.
Tóm lại những lời dạy "Ta Bà không khác gì Niết Bàn"; "Chân Không Diệu Hữu", "Tất cả pháp đều là không" theo thiển ý thì cùng đồng một Chân Lý duy nhất, xuất phát từ sự thực chứng của Bồ Tát. Và qua lời dạy này không phải để ta tự hỏi "tu hay không tu", mà mục đích là trực tiếp đưa ta đến Giác Ngộ khi ta trí thức được "thực tính của Phật và chúng sinh không khác nhau", nhận biết được chính trong ta có ẩn tàng Phật tính và Phật tánh tức luôn thường lạc ngã tịnh. Và qua đó ta cũng biết được những suy tư, vọng tưởng trong tâm trí hiện nay của ta, kể cả những đau khổ, phiền muộn chỉ là bóng dáng bên ngoài nên không phải là thực tánh của ta. Đây là điểm chính yếu của Giáo Lý vì chính Đức Phật Thích Ca cũng đã thành Phật và tự giải thoát khỏi sanh tử khi Người nhận chân ra Pháp Tánh bất sanh bất diệt trong chính mình cũng như trong vạn pháp. Như vậy mặc dầu nói là không tu nhưng khi trực nhận ra Pháp tánh này thì chính là tu theo Phật Pháp vậy. Trong phần mở đầu là hai câu thơ trích từ "Phật Học Tinh Yếu" của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm:
Nghĩ thân phù thế mà đau, Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê!
Và trong "Kệ Kiến Tánh" của Thiền Sư Chân Nguyên viết:
Vốn từ Vô Vi đến
Lại từ Vô Vi đi
Nay ngộ thân Vô Vi
Thường trụ chỗ Vô Vi
Ta thấy hiện tượng giới là một ảo mộng và vì ảo mộng nên cũng là một biển khổ đối với người chưa nhận chân được đặc tính ảo mộng tuyệt đối này. Nhưng cũng ngay tại đây nếu ta nhận chân được thể tánh bất sanh, bất diệt (Vô Vi) luôn ẩn tàng trong ta cũng như trong muôn pháp, và thường trụ trong nó, thì ắt "Ta Bà không khác gì Niết Bàn". Điều này cũng có nghĩa rằng ẩn tàng trong cái hình thể, trong hiện tượng có sanh có diệt là Pháp tánh bất sanh bất diệt. Khi có dấy niệm sinh diệt tức là lúc quên Pháp tánh bất sinh bất diệt bổn có, vì vậy phải chịu sinh tử khổ đau và theo nghiệp thức luân hồi trong lục đạo. Vậy tu chính là dứt mầm sinh diệt, và dứt mầm sinh diệt tức là thực chứng được Phát Tánh bất sinh bất diệt ẩn tàng trong ta. Giáo Lý dạy: "Chẳng ngộ tự tánh tức gọi chúng sinh, giác biết tự tính nên gọi Chư Phật".
Thầy Phương Trượng, Đại Đức Trụ Trì, Bạn, Tôi và mọi hiện tượng đều là biểu thể của tuyệt-đối-tính linh động của Bản Thể. Và tuyệt-đối-tính của Bản Thể cũng là Chân Không. Duy có điều khác biệt là một chúng sinh bình thường như chúng ta thường đắm chìm theo hình thể, nhận hiện tượng qua tự ngã, nên cái linh động biến chuyển của ta là vì hình thể. Còn Bậc Tu Hành thì cố đạt đến cái tuyệt-đối-tính bất sinh bất diệt ẩn tàng trong chính hiện tượng này. Tức là vượt qua hiện tượng, hình thể để đạt đến cái CKDH. Đặc tính linh động của Bản Thể là một tuyệt đối hiẻn nhiên, dẫu có hay không có hiện tượng. Nhưng theo thiển ý, một linh động mà không có bóng dáng biến chuyển của hiện tượng thì đó chính là một linh động trong Chân Không, chính là Linh Giác, là CKDH, là Phật Tánh. Và vì đặc tính tuyệt đối linh động này nên sẽ rất sai lầm khi có người nghĩ rằng "những Bậc Tu Hành là những vị đã xuất thế, đã xây lưng lại với cuộc đời", ngược lại, theo thiển ý, trên mặt tục đế đây là những Bậc đang thể hiện tuyệt đối linh động của Bản Thể, bởi vì bao lâu còn con người trên quả đất này là còn phải phát triển để thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần, nhưng cái tột cùng của mọi sự phát triển vẫn là phát triển tri thức, và cái tột cùng của tri thức chính là Bát Nhã Trí. Và hơn nữa cái lý tưởng tuyệt đối của Bồ Tát là cứu vớt toàn thể chúng sinh, với lòng từ bi bao trùm cả vạn pháp. Nên mặc dầu đối với Bậc Giác Ngộ "hoàn toàn không có gì xảy ra", họ vẫn còn mãi mãi đi vào từng ngõ hẻm của cuộc đời và thiên nhiên. Nếu không như vậy thì vô số sinh hoạt, vô số bài thuyết giảng, vô số kinh tự từ xưa đến mãi mãi về sau này nhằm vào mục đích gì?
Tu Thiền Định đến hoàn toàn lắng đọng tâm trí, và niệm Phật đến nhất tâm bất loạn là việc vô cùng khó khăn không phải ai cũng làm được. Nhưng nếu Bạn và tôi, trong vài phút rảnh rỗi nào đó của một ngày, chúng ta tập lắng nghĩ rằng: "Trong chính ta có một cái gì luôn thanh tịnh". Và nếu việc lắng nghĩ này được thường xuyên lặp lại nhiều lúc trong một ngày thì nó sẽ trở thành thói quen. Và cũng vậy mỗi khi có điều gì khiến ta phải buồn phiền, giận hờn, đau khổ ta liền nghĩ: "Trong chính ta có một cái gì luôn thanh tịnh" thì có thể mọi thứ đó sẽ lắng dịu nhanh hơn. Tất cả mọi ganh tị, tham lam, sợ hãi cũng sẽ vơi đi rất nhiều vì: "chính trong ta luôn thanh tịnh", ... và chúng ta cùng tiếp tục tập và sống trong "sự thanh tịnh" này, ngay cả trước khi ta phải nhắm mắt xa lìa cuộc sống. Vì đó chính là "Phật Tánh" sẵn có nơi tự tâm. Và đó cũng chính là tu theo Phật Pháp vậy. "Phàm cái gì có trong chính ta thì chắc chắn ta sẽ tri thức và đạt tới được".
(Bad Säckingen, 18.05.2005)
Lần cập nhật cuối 20.01.2006
nguon : http://www.lien-hoa.net/Dac%20tinh%2...an%20phap.html
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks