Trang 1 trong 4 1234 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 74

Ðề tài: Phật giáo toàn tập!

  1. #1

    Mặc định Phật giáo toàn tập!

    Phi Lộ
    Chào các bạn! mình muốn lập toppic này nhằm mục đích hệ thống hóa toàn bộ đạo Phật, nhằm mang đến cho mình cũng như những người sơ cơ cái hiểu tương đối toàn diện và chắc chắn về đạo Phật, tránh trường hợp ai nói gì về đạo Phật cũng thấy đúng, bị những kẻ buôn thần bán thánh lợi dụng, tranh luận không dựa trên tôn chỉ, nguyên lý nhà Phật, tránh các hiện tượng mê tín dị đoan làm xấu đi hình ảnh Phật giáo trong mỗi con người..., và quan trọng nhất là mỗi người dựa trên những vấn đề mình tổng hợp mà tự chọn lấy 1 đường tu, 1 pháp tu phù hợp cho mình khỏi phải cầu trông, như đức Phật đã dạy: "HÃY LẤY PHÁP LÀM THẦY"
    Những vấn đề mình tổng hợp gồm: những khái niệm, nguyên lý, quan điểm của đạo phật (hay nhân sinh quan, vũ trụ quan của đạo Phật), các danh từ Phật giáo cần biết, đại lược Kinh, Luật, Luận, các trường phái Phật giáo, các cách tu theo đạo Phật không cần thầy, và Phật giáo ở các nước: Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam .... (ước tính không dưới 500 trang Word)
    Với mụch đích hệ thống hóa như vậy nên mình mong các bạn đừng viết bài trong toppic này (tránh loãng), nếu có vấn đề gì không nhất trí hay cần bàn luận thêm mời các bạn lập toppic mới để bàn luận!
    Những vấn đề mình tổng hợp dựa trên quan điểm Phật giáo đại đồng vì vậy những cao nhân có quan điểm trái chiều xin hết sức thông cảm!
    Cuối cùng, kiến thức Phật pháp thì bao la mà cái đầu mình thì nhỏ bé, nên chắc không tránh khỏi những thiếu sót, cũng như tính hệ thống chưa tốt, kính mong các cao nhân hoan hỉ cho! Chân thành cảm ơn!
    Last edited by Nonamepas; 05-09-2013 at 08:43 PM.

  2. #2

    Mặc định

    Toppic cua ban rat i nghia, nhung minh nghi chua hang da dung, chung ta dua vao phap lam thay thi deu do ko co gi de noi roi. Nhung minh thiet nghi neu can duyen tot chung ta nen kiem 1 nguoi thay la nhung bac chan tu chan chinh de chi dan va giup chung ta buoc di theo con duong dao phap mau chong va bit dau khi hat giong nay mam tot thi ta laj co the giup do cho nhung nguoi buoc di theo sau. Theo y minh thi gioi luat can dat len hang dau...! Chung ta thuong di vao qua sau ma quen nhat nhung van de co ban. Buon thay...!

  3. #3

    Mặc định

    Đạo Phật là gì?
    Chữ đạo có ba nghĩa: Ðạo là con đường; Ðạo là bổn phận làm người; Ðạo là lý tánh tuyệt đối, là bản thể, là thật tánh.
    Chữ Phật, nói cho đúng tiếng Phạn là Bouddha (Phật Ðà). Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giác Giả, (bực đã giác ngộ, sáng suốt hoàn toàn).
    Vậy chữ Phật là một danh từ chung để gọi những bậc đã tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, chứ không phải là một danh từ riêng để gọi một người nào nhất định. Ai tu hành được chứng quả như đã nói trên đều được gọi là Phật.
    Ðạo Phật là con đường chơn chánh, hoàn toàn sáng suốt đưa đến bản thể của sự vật, là lý tánh tuyệt đối, lìa tất cả hư vọng phân biệt, mà các đấng giác ngộ hoàn toàn đã phát minh ra. Ðạo Phật gồm tất cả tự lợi và lợi tha, tự giác, giác tha và có công hạnh độ mình, độ người được hoàn toàn thành tựu, rốt ráo viên mãn.
    Lợi là đại danh từ chỉ hiệu quả do một thứ phương pháp, hành vi có thể đạt đến một thứ "Lìa hẳn khổ não, thành tựu an lạc".
    Tự Lợi = Tự mình làm lợi, Lợi Tha = Giúp người khác làm lợi, Tự Giác = Tự mình giác ngộ, Giác Tha = Giúp người khác giác ngộ.
    Mục đích của đạo Phật
    Kinh Trung A Hàm, Đức Phật dạy 3 mục đích chính:
    1.Tự điều phục mình: Tự điều phục là làm chủ được bản thân mình, tự điều phục mình, chế ngự bản năng của mình, tự chiến thắng mình là sự tự vươn tới tự do. Mục đích gần.
    2.Đạt được sự thanh tịnh, an lạc: Sự an lạc tùy thuộc vào tư duy, cảm xúc của con người, nên nói “sướng khổ tại tâm”. Kinh Pháp Cú dạy: "Không có hạnh phúc nào lớn bằng sự yên tĩnh của tâm trí". Mục đích gần.
    3.Đạt được giải thoát - Niết bàn: Đây là mục đích tối hậu của mọi người Phật tử: chấm dứt mọi đau khổ, thoát ly sanh tử, luân hồi, thành tựu trí tuệ viên mãn. Nỗi khổ thật sự và lâu dài chính là vô minh; niềm hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu là sự chấm dứt vô minh, đó là đáo bỉ ngạn, là "vô minh diệt minh sanh". Mục đích xa, mục đích cuối cùng mục đích chính hay mục đích rốt ráo tối hậu. Đây là mục đích mà chỉ đạo Phật mới đặt ra và đưa ra cách giải quyết.
    Những đặc tính tiêu biểu của đạo Phật có 5 đặc tính chính:
    1.Tự do tư tưởng: Lời Phật dạy cho dân Kàlama được các nhà học giả phương Tây coi là bản tuyên ngôn về tự do tư tưởng của nhân loại: "Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin đồn. Đừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi vì thích thú trong những lý luận, hay bởi những điều dường như có thể xảy ra, hay bởi ý nghĩ đây là bậc Đạo sư của chúng ta. Nhưng này các Kàlama, khi nào các ông biết chắc rằng những điều ấy là thiện, là tốt, hãy chấp nhận và theo chúng" (Tăng Chi I).
    2.Tinh thần tự lực: Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc của chính mình, thắp lên với chánh pháp, đừng thắp lên vơi một pháp nào khác. Hãy tự mình làm chỗ nương tựa của chính mình, nương tựa với chánh pháp, đừng nương tựa với một pháp nào khác" (Trường A Hàm I).
    3.Tinh thần từ, bi, hỷ, xả: Thương yêu đồng loại và vạn loại chúng sanh là chất liệu sống của đạo Phật.
    4.Tinh thần thực tiễn: Đức Phật dạy: "Những gì Như Lai biết ví như lá trong rừng, còn những gì Như Lai giảng dạy như nắm là ở trong tay, nhưng đây là những phương pháp diệt khổ" (Tương Ưng V).
    5.Tinh thần không chấp thủ: Đức Phật dạy: "Cuộc đời là vô thường, nên nó đem đến đau khổ (vì chấp là thường). Cái vô thường mà ta cho là của ta, là ta thì hoàn toàn không hợp lý". Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc, bám víu vào cuộc đời. Đức Phật ví dụ giáo pháp như chiếc bè để qua sông, không phải để nắm giữ; chánh pháp như chiếc bè, chánh pháp cũng phải xả huống là phi pháp.
    Giáo lý Ðạo Phật
    Giáo lý của đạo Phật gồm trong 3 tạng kinh điển (Tam tạng) là Kinh, Luật, Luận.
    1. Kinh: là những lời của đức Phật Thích Ca đã nói khi còn tại thế, hay những điều được cho là đức Phật Thích Ca nói.
    2. Luật: là những giới luật mà Phật đã chế ra cho các đệ tử.
    3. Luận: là những sách phần nhiều do các đệ tử Phật làm ra để bàn giải rõ ràng nghĩa lý mầu nhiệm trong kinh, luật.
    Tam tạng kinh điển lại chia làm hai loại là Ðại Thừa và Tiểu Thừa.
    Chữ Thừa nghĩa là chở, có chỗ cũng gọi là Thặng, nghĩa là cổ xe.
    Ðại thừa (xe lớn) là pháp vừa giải thoát cho mình và cho người ra khỏi sanh tử luân hồi; Tiểu Thừa (xe nhỏ) là pháp để giải thoát cho riêng mình.
    Last edited by Nonamepas; 05-09-2013 at 06:51 PM.

  4. #4

    Mặc định

    Tứ diệu đế, Pháp được Đức Phật giảng nói đầu tiên sau khi thành đạo
    Tứ là bốn; Diệu là hay đẹp, quý báu, hoàn toàn; Ðế là sự chắc chắn, rõ ràng đúng đắn nhất.
    Tứ diệu đế là bốn sự thật chắc chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có một giáo lý ngoại đạo nào có thể sánh kịp.
    Tứ diệu đế gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế.
    1. Khổ đế ( Dukkha): Tức luận về khổ, Ðức Phật thường ví cõi đời là một bể khổ mênh mông.
    2. Tập đế (Sameda Dukkha): Tức luận về nguyên nhân của khổ, là lý do vì đâu có những nỗi khổi ấy.
    3. Diệt dế (Nirodha Dukkha): Tức diệt khổ, trình bày rõ ràng hoàn cảnh quả vị an lành, tốt đẹp mà chúng sanh sẽ đạt đến khi đã diệt trừ được những nỗi khổ và những nguyên nhân của đau khổ.
    4. Ðạo đế (Nirodha Gamadukkha). Tức con đường diệt khổ. Ðó là chân lý chỉ rõ con đường quyết định đi đến cảnh giới Niết Bàn. Nói một cách giản dị, đó là những phương pháp tu hành để diệt khổ và được vui.

  5. #5

    Mặc định

    Luận Về Sự Khổ Của Thế Gian
    Kể cho hết cả sự khổ ở thế gian, thì không bao giờ cùng cả thảy 84000 khổ. Song căn cứ theo kinh Phật, có thể phân loại ra đời ba thứ khổ (tam khổ) hay đời bát khổ.
    1. Ba khổ: Ba thứ khổ là: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
    a) Khổ khổ. Cái khổ chồng chất lên cái khổ, bản thân đã là khổ, mà hoàn cảnh chung quanh lại đè lên bao cái khổ khác: đó là "Khổ khổ"
    b) Hoại khổ. Trong Khế kinh chép: "Phàm vật có hình tướng đều phải bị hoại diệt".
    c) Hành khổ. Phật dạy: "tâm viên, ý mã". Ta bị chi phối bởi những ý tưởng, dục vọng, tiềm thức, và luôn luôn chịu mệnh lệnh của chúng. Ðó là "Hành khổ".
    2. Bát khổ: tám loại này tựu trung cũng không ngoài ba khổ kia.
    Tám loại khổ: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
    a) Sanh khổ: Như hai câu thơ của Ôn Như Hầu:
    "Thảo nào lúc mới chôn nhau
    Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra !"
    b) Lão khổ. Ca dao có câu:
    "Già nua là cảnh cảnh điêu tàn
    Cây già cây cỗi, người già người si".
    c) Bệnh khổ.
    Mỗi năm thêm một tuổi đời,
    Yếu đau già bệnh theo người gia tăng,
    Mắt mờ tóc bạc da nhăn,
    Đứng lên ngồi xuống khó khăn nhọc nhằn.
    d) Tử khổ.
    Mạng người như chiếc lá vàng,
    Một cơn gió thoảng dễ dàng rụng rơi,
    e) Ái biệt ly khổ: Tức thích nhau mà phải xa nhau là khổ. Người đời thường nói: "Thà lìa tử, chứ ai nỡ lìa sanh?". Ðó là cái khổ của "Sanh ly".
    g) Cầu bất đắc khổ (Cầu không được là khổ). Như lời Ôn Như Hầu Nguyễn gia Thiều đã nói:
    "Gót danh lợi, bùn pha sắc xám
    Mặt phong trần nắng nám mùi dâu !"
    h) Oán tắng hội khổ: Tức gét nhau mà phải ở bên nhau là khổ. Người ta thường nói: "Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt; ở chung với người nghịch, như nếm mật, nằm gai".
    i) Ngũ ấm xí thạnh khổ (ngũ ấm là gốc khổ).
    Ngũ ấm gồm
    1. Sắc: chỉ thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), doTứ đại chủng tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng.
    2. Thụ tức là toàn bộ các cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính.
    3. Tưởng là nhận biết các tri giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện.
    4. Hành là những hoạt động tâm lí sau khi có tưởng, ví dụ chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác...
    5. Thức bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức phụ thuộc vào sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành nên sáu thức. Nếu không có thức người ta sẽ không phân biệt được màu sắc hay âm thanh v.v
    Khổ xuất phát từ sự bấp bênh, không chắc thật của các uẩn đó; và con người được tạo thành từ năm uẩn đó không gì khác hơn là một sự giả hợp, không có một cái "ta" thật sự đứng đằng sau con người đó (Vô ngã).
    Last edited by Nonamepas; 05-09-2013 at 01:41 PM.

  6. #6

    Mặc định

    Tập Ðế: nguyên nhân sự khổ, có 10 nguyên nhân
    1. Tham: Nghĩa là tham lam.
    2. Sân: Nghĩa là nóng giận.
    3. Si: Nghĩa là si mê, mờ ám.
    Ba tánh tham, sân, si này, Phật gọi là ba món độc (tam độc); vì do chúng mà chúng sanh phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh.
    4. Mạn: Nghĩa là tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống;
    Mạn có bảy thứ:
    a) Mạn: hơn người ít, mà nghĩa mình hơn nhiều.
    b) Ngã mạn: ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người.
    c) Quá mạn: mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng.
    d) Mạn quá mạn: người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
    đ) Tăng thượng mạn: chưa chứng thánh quả mà cho mình đã chứng.
    e) Ty liệt mạn: mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít.
    g) tà mạn: người tu về tà đạo, được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết được đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.
    5. Nghi: nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin.
    Nghi có ba phương diện:
    a) Tự nghi: Nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: "Tu hành sẽ được giải thoát", nhưng lại tự nghi rằng: "Chẳng biết mình tu có được không?". Vì lòng do dự nghi ngờ ấy, nên không tu.
    b) Nghi pháp: Nghĩa là nghi phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe kinh Di Ðà nói: "Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, được nhất tâm bất loạn, đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp dẫn sanh về nước Cực lạc"; nhưng họ lại nghi ngờ "Phương pháp ấy không biết có kết quả đúng như vậy không? " Do sự nghi ngờ đó mà không tu.
    c) Nghi nhơn: Nghĩa là nghi người dạy mình.
    6. Thân kiến: (Kiến có nghĩa là thấy hay hiểu biết.) là những kiến chấp sai lầm về thân, nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta.
    7. Biên kiến: (Biên có nghĩa là 1 bên, 1 phía, lệch lạc) nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất là:
    a) Thường kiến (chấp sự thường tồn): nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi: người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn chết trở lại làm thánh nhơn.
    b) Ðoạn kiến (chấp sự không thường tồn): nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn.
    8. Kiến thủ: nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình.
    Kiến thủ có hai phương diện:
    a) Kiến thủ vì không ý thức được sai lầm của mình.
    b) Kiến thủ vì tự ái hay vì cứng đầu.
    9. Giới cấm thủ: nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, không làm sao đưa người ta đến sự giải thoát được, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau thêm.
    10. Tà kiến: nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả, là mâm mống của mê tín dị đoan.
    Tánh Chất Của 10 nhân khổ
    Tánh chất của mười món căn bản phiền não không giống nhau: có thứ nhanh nhẹn, có thứ chậm chạp; có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; có thứ đâm sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý thức; có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc.
    1. Kiết sử: Mười thứ phiền não gốc: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến cũng gọi là "Thập Kiết sử".
    Kiết là trói buộc; Sử là sai khiến. Mười phiền não nầy gọi là Kiết Sử, vì chúng nó có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi và sai sử chúng sinh phải quay lộn trong vòng sanh tử luân hồi, từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ não.
    Nhưng mười Kiết sử này có thứ mạnh, thứ yếu, thứ chậm chạp, thứ mau lẹ, nên đức Phật chia chúng ra làm hai thứ với hai tên gọi khác nhau là: Lợi sử và Ðộn sử.
    a) Lợi sử là những món phiền não rất lanh lẹ, dễ sanh khởi mà cũng dễ trừ bỏ (lợi là lanh lợi). Lợi sử gồm có năm là: Thân kiến Biên Kiến, Kiến Thủ, Giới Cấm thủ ,Tà Kiến.
    b) Ðộn sử là những món phiền não nặng nề, chậm chạm, sanh khởi một cách ngấm ngầm, sâu xa, nhưng mãnh liệt, khó dứt trừ (độn là chậm lụt). Thuộc về Ðộn sử gồm có năm phiền não là: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
    2. Kiến hoặc: Chữ Kiến hoặc có hai nghĩa:
    a) Loại mê lầm nầy mong manh cạn cợt, chỉ tu hành đến địa vị Kiến đạo (thấy chân lý) thì đoạn được.
    b) Loại mê lầm nầy thuộc về phần vọng kiến (vọng chấp), phân biệt của ý thức đối với sự vô thường, vô ngã v.v....mà sinh ra; hay do lầm nghe theo lời khuyên dạy của ta sư ngoại đạo mà sinh ra.
    Kiến hoặc gồm nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến là do mê lý mà sanh, và sẽ bị diệt trừ khi ngộ được chân lý.
    3. Tư hoặc: Trong số mười phiền não căn bản nói trên, có bốn thứ ăn sâu gốc rễ từ vô thỉ rất khó diệt trừ là Tham, Sân, Si, Mạn (bốn Ðộn sử) thì gọi là Tư hoặc. Theo tân dịch thì Tư hoặc có hai nghĩa:
    a) Nó ngấm ngầm khởi lên, do mê muội về sự vật mà sanh; như đối với sự vật ăn, mặt, ở ( sắc, thanh, hương, vị, xúc) sanh tham gia trước.
    b) Sự mê lầm này phải đến địa vị Tu đạo mới trừ dứt được.
    Last edited by Nonamepas; 05-09-2013 at 10:27 PM.

  7. #7

    Mặc định

    Diệt Ðế: là quả lành sinh do diệt khổ. Sau đây là những quả lành do diệt đế đem lại:
    1. Tứ gia hạnh: Từ những tư tưởng, thành kiến mê lầm của phàm phu mà đến Thánh trí để dự vào lòng Thánh quả, người tu hành phải tu bốn gia hạnh sau đây:
    a) Noản vị: Noản là hơi nóng, là thường chuyên cần tinh tấn; vị là địa vị. Nó là tướng ban đầu của đường đến Niết-bàn. Có noãn tướng là thâm đắc nhất tâm, được tương tợ thật pháp, đến bên ranh vô lậu. Hành giả khi ấy được đại an ổn, tự nghĩ: Ta quyết định sẽ được Niết-bàn, vì thấy được tướng này. Người được bước đầu vô lậu hay đi an ổn, ấy gọi là Noãn pháp. (bước đầu có chứng ngộ)
    b) Ðảnh vị: Ðảnh là chóp cao, Tăng tiến chuyển lên gọi là Đảnh. Qua khỏi giai đoạn Noản vị, người tu hành tiếp tục tiến bước và lên được trên chóp đỉnh núi mê lầm. Ðứng ở địa vị nầy, toàn thân hành giả được tắm trong khoảng không gian rộng rãi vô biên, nhưng chân chưa rời khỏi chóp núi mê lầm.
    c) Nhẫn vị: Nhẫn là nhẫn nhịn, chịu đựng. Người biết nhịn, luôn luôn vẫn yên lặng sáng suốt trước sự khuấy phá của đối phương. Người tu hành lên đến bậc này, trí giác ngộ đã gần sáng tỏ, thân tâm vẫn giữ được mực yên lặng trong sáng, mặc dù các pháp có lăng xăng và ẩn hiện.
    d) Thế hệ nhất vị: Bậc nầy cao quí nhất trong đời. Tu đến bậc này là một công phu rất to tát, gần giải thoát ra ngoài vòng Dục giới.
    2. Thánh quả: người tu tiếp tục tu cao lên nữa sẽ đắc thánh quả (thánh quả có 4)
    a.Sơ quả Tu-đà-hoàn
    Còn gọi là Nhập lưu, nghĩa là bắt đầu nhập vào dòng thánh. Đây là thánh vị đầu tiên sau khi đệ tử Phật phá được ba kiết sử Thân kiến, Giới cấm thủ, và nghi. Một vị chứng Sơ quả thì có thể có trình độ thiền của Chánh niệm, hoặc Sơ thiền, thậm chí Nhị thiền. Nhưng ngược lại, một vị chứng thiền định như thế thì chưa chắc chứng được quả Thánh nào. Đó là lý do tại sao nhiều hành giả có thể chứng thiền định rất sâu, có thần thông nhưng không thể chứng thánh quả là vậy. Thánh quả khác với thiền định ở chỗ đòi hỏi trí tuệ, đạo đức và công đức. Thiền định chỉ cần tâm vắng lặng là đủ mặc dù tâm đi vào vắng lặng lại phải có Công đức, Đạo đức và Khí công. Hầu hết những vị chứng thánh quả đều có nguyên nhân từ kiếp xa xưa đã từng hết lòng tôn kính một vị thánh giác ngộ nào đó. Điều này giống như Thánh nối tiếp Thánh thành một dòng bất tận. Còn việc thành tựu thiền định thì chỉ đòi hỏi công đức đem được nhiều niềm an vui cho nhiều người. Điều khác nhau giữa Thánh quả và bốn mức thiền là sự bảo toàn ở vị lai. Đối với các mức thiền, nếu không đạt được Tứ thiền ngay trong kiếp này, hoặc không lập nguyện, thề ước với Phật sẽ tu hành đời đời kiếp kiếp, thì khi sang kiếp sau hành giả có nguy cơ quên mất, quay lại với kiếp người bình thường. Còn đối với Thánh quả thì có bảo chứng cho sự giải thoát hoàn toàn ở vị lai theo từng quả vị khác nhau. Ở Sơ quả Tu đà hoàn, Phật ấn chứng rằng vị này chắc chắn sẽ giải thoát nhưng không đưa ra thời gian cụ thể. Vị đó vẫn sống như người bình thường, tuy rằng sẽ không bao giờ rớt vào ba đường ác đạo (xem Lục đạo), rồi sẽ tu hành để chứng A-la-hán
    b.Nhị quả Tư-đà-hàm
    Còn gọi là Nhất lai, nghĩa là còn trở lại một lần nữa. Quả vị này hiện hữu nơi người đã phá xong ba kiết sử trên và tiếp tục làm mỏng nhạt tham và sân. Người chứng Nhị quả chưa phải là người đã phá trừ hết hai kiết sử Tham và Sân, chỉ là bớt đi Tham và Sân, đủ để ta không bao giờ nhìn thấy vị ấy khởi tham lam và sân hận. Còn Tham và Sân vi tế, tiềm tàng thì khi diệt sạch sẽ đắc Tam quả. Phật cũng ấn chứng cho người chứng được Nhị quả Tư-đà-hàm sẽ chỉ còn một lần tái sinh lại cõi đời này và chứng A-la-hán.
    c.Tam quả A-na-hàm
    Còn gọi là Bất lai, nghĩa là Không trở lại nữa, xuất hiện nơi vị đã diệt sạch hai kiết sử Tham và Sân.
    Nhân duyên làm chúng ta cứ bị liên lụy với cõi đời này chính là do tham lam, tham dục, hận thù, ganh ghét. Hết hai kiết sử Tham và Sân rồi thì nhân duyên với thế gian này cũng hết. Do vậy, một vị chứng A-na-hàm thì không còn bị tái sinh về cõi này nữa, sẽ hóa sinh giữa cõi trời Sắc cứu kính, sau một thời gian không nhất định, sẽ chứng Niết bàn tại đây. Chúng ta cũng không nghe nói là phải chứng được mức thiền nào thì chứng A-na-hàm, chỉ theo lời Phật dạy để biết rằng ai có thể diệt trừ năm kiết sử từThân kiến, Giới cấm thủ, Nghi, Tham và Sân thì đạt được đệ Tam thánh quả.
    d.Tứ quả A-la-hán
    là quả vị thánh cao siêu cuối cùng, thật sự giải thoát, giác ngộ viên mãn. Vị A-la-hán tự tại phi thường, tuổi thọ vượt hơn người bình thường, không còn bị cuốn vào luân hồi sinh tử nữa, muốn chết (viên tịch) lúc nào cũng được. Sự vĩ đại của một bậc A-la-hán thì không một ngôn từ nào có thể diễn tả được. Mỗi người chỉ tùy theo nhân duyên và trí tuệ của riêng mình để hiểu một phần nho nhỏ nào đó mà thôi. Nếu trong vô lượng kiếp quá khứ chúng ta xả thân làm lợi ích cho chúng sinh, thực hành Bồ tát hạnh, thì đến khi đủ phước để đắc đạo, ta sẽ chứng được một quả vị A-la-hán cao siêu tột bậc, đó là quả vị Phật. Khi bản ngã đã hết, vị A-la-hán không còn bị ràng buộc bởi sức mạnh nào đối với luân hồi sinh tử nên hoàn toàn giải thoát. Sau khi phá luôn năm kiết sử cuối cùng, một vị A-na-hàm sẽ chứng A-la-hán, nghĩa là đạo đức đã trở thành tuyệt đối hoàn hảo. Không một thần thánh thiên tử nào có thể tìm thấy lỗi lầm của một vị A-la-hán nữa. Nơi đây, đương nhiên một vị A-la-hán cũng đã thành tựu xong bốn mức thiền. Tứ thiền và Tứ thánh quả đều hiện diện đầy đủ nơi vị A-la-hán như thế.
    Giá Trị Diệu Dụng Của 4 Cõi Thánh
    Bốn quả thánh của Thanh văn trên đây, đều là những kết quả giải thoát hiển nhiên của công phu tu tập. Không cứ căn cơ nào đều có thể ở ngay trong cảnh giới của mình (kinh gọi là tự địa, tự giới), mà tu tập để đạt đến bốn quả vị ấy. Hễ đoạn trừ mê lầm được chứng nào thì chứng quả đến chứng ấy, chứ không phải chờ sanh qua thế gian khác mới chứng quả kia đâu.
    Khi chứng đến quả Tu đà hoàn thì gọi "Kiến đạo sở đoạn". Ở đây, ý thức đã tương ứng với Huệ tâm sở, sáng suốt, trực nhận đạo lý một cách rõ ràng. Còn các vị sau, thuộc về "Tu đạo sở đoạn", nghĩa là sau khi đã gội rửa các chủng tử mê lầm (tư hoăc) của A lại da thức mới chứng được. Do sự dứt trừ phiền não sâu hay cạn đó, mà diệu dụng của mỗi quả vị khác nhau.
    Ở địa vị "Kiến đạo sở đoạn" là thành tựu được năm phép thần thông (công dụng tự tại không bị chướng ngại).
    a) Thiên nhãn thông: Nhãn lực soi thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế gian bao la hiện tại.
    b) Thiên nhĩ thông: Nhĩ lực nghe khắp mọi nơi, đủ các tiếng tăm đồng loại và dị loại.
    c) Tha tâm thông: Tâm lực biết được tâm niệm, sở cầu của kẻ khác.
    d) Túc mạng thông: Trí lực hay biết các kiếp trước của mình.
    đ) Thần túc thông: Có hai nghĩa: một là được thần thông tự tại như ý muốn, hai là trong giây lát muốn đi đâu liền được như ý muốn, không bị sự vật hữu hình làm chướng ngại.
    Năm phép thần thông nầy, tuy có đặc biệt hơn nhân loại nhiều, song chưa phải là điểm quan trọng của người tu hành cầu giải thoát. Ðiểm quan trọng nhất của người tu giải thoát là "Lậu tận thông". Lậu tận thông là được trí tuệ thông suốt cả ba đời, không còn bị các phiền não hữu lậu làm ngăn ngại, nghĩa là giải thoát sanh tử. Chỉ những vị A La Hán mới được qủa nầy.

  8. #8

    Mặc định

    Thành quả tối hậu của Diệt Ðế Là Niết bàn
    Kinh Niết Bàn dạy: "Các phiền não diệt gọi là Niết Bàn, xa lìa các pháp hữu vi cũng gọi là Niết Bàn".
    Nhìn chung quan điểm về niếp bàn của 2 phái tiểu và đại thừa là giống nhau tuy nhiên cách phân chia có đôi chút khác biệt.
    Quan Điểm Niết Bàn Của Tiểu Thừa:
    Niết Bàn có nhiều nghĩa như sau: Niết là ra khỏi; Bàn là rừng mê, Niết Bàn là khỏi rừng mê. Niết là chẳng; Bàn là dệt. Còn phiền não thì còn dệt ra sanh tử, không phiền não thì không còn dệt ra sanh tử. Vậy Niết Bàn là không dệt ra sanh tử luân hồi. Chữ Bàn cũng có nghĩa là không ngăn ngại. Niết Bàn còn có nhiêu nghĩa khác nữa, song tóm lại không ngoài ba nghĩa: Bất sanh, giải thoát, tịch diệt. Bất sanh, nghĩa là không sanh ra, không sanh các thứ mê lầm tội lỗi. Giải thoát, nghĩa là thoát ra ngoài sự ràng buộc, không mắc vào các huyễn ngã, huyễn pháp. Tịch diệt, nghĩa là vắng lặng, dứt sạch. Vắng lặng, an lành, dứt sạch tất cả nguồn gốc mê lầm.
    Theo định nghĩa của chữ Niết Bàn nầy, thì bốn quả vị thánh đều gọi Niết Bàn. Song vì đã hoàn toán hay chưa hoàn toàn mà chia ra làm hai thứ:
    1. Hữu dư y Niết Bàn: (Niết Bàn chưa hoàn toàn). Từ quả vị thứ nhất Tu đà hoàn đến quả vị thứ ba A na hàm, tuy đã đoạn trừ tập nhân phiền não, những chưa tuyệt diệt, tuy đã vắng lặng an vui, nhưng chưa viên mãn, tuy an vui chưa hoàn toán, vì phiền não và báo thân phiền não còn sót lại, nên gọi là Niết Bàn hữu dư y. Vì phiền não còn sót lại nên phải chịu quả báo sanh tử trong năm bảy đời; song ngã chấp đã phục, nên ở trong sanh tử mà vẫn được tự tại, chứ không bị ràng buộc như chúng sinh.
    2. Vô dư y Niết Bàn: (Niết Bàn hoàn toàn). Ðến quả vị A La Hán, đã đoạn hết phiền não, diệt hết câu sanh ngã chấp, nên hoàn toán giải thoát cả khổ nhân lẫn khổ quả. Sự sanh tử không còn buộc ràng vị nầy được nữa, nên gọi là Niết Bàn vô dư y. Ðây là quả vị cao tột của hàng Thanh văn. Ðến đây ngọn lửa dục vọng đã hoàn toàn tắt hết, và trí vô ngại hiện ra một cách đầy đủ, không khi nào còn trở lại tâm khởi chấp ngã nữa. Vì thế, nên được tự tại giải thoát ngoài vòng ba cõi: Dục, Sắc, và Vô sắc giới.
    Quan Điểm Niết Bàn Của Ðại Thừa: Niết Bàn của Ðại Thừa có hai loại:
    1. Vô trụ xư Niết Bàn: Ðây là Niết Bàn của các vị Bồ Tát. Các A La Hán, do tu nhân giải thoát mà chứng được quả giải thoát; nhưng chưa biết nguồn gốc của nhân quả, còn chấp có thực pháp phải tu, quả vị phải chứng, nên chưa được hoàn toàn tự tại. Các vị Bồ Tát thì trái lại, đã hiểu rõ "Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức", pháp tánh bình đẳng như như; không thấy một pháp gì cố định, một vật gì chắc thật, biệt lập chỉ thấy chúng là những hình ảnh giả dối, do đối đãi với thức tâm, tạo thành bởi thức tâm. Các vị Bồ Tát không có tâm địa đảo điển sai lầm, không gán cho sự vật một giá trị nhứt định, như tốt, xấu, khổ, vui, nên không sanh ra những thái độ oán, thân, bỉ, thử, ưa, ghét. hễ có tri kiến sai lầm đó, là bị chướng ngại khổ đau. Các vị ấy tu hành chứng theo sự tánh bình đẳng, đem tâm hòa đồng cùng sự vật mà làm việc lợi tha. Tuy làm việc lợi tha, mà vẫn ở trong chánh quán. Quán các phép như huyễn như hóa, không có thật sanh tử, không có thật Niết Bàn, không bao giờ trụ trước (vô trụ). Do đó, Bồ Tát thường ra vào sanh tử lấy pháp lục độ để độ sanh, mà vẫn ở trong Niết Bàn tự tại.
    2. Tánh tịnh Niết Bàn: Ðây là một thứ Niết Bàn tự tánh thường vắng lặng mà thườg sáng suốt, thường sáng suốt mà thường vắng lặng ra ngoài tâm lượng hẹp hòi của phàm phu và trí thức hữu hạn của Nhị thừa, ngoại đạo. Nó thường bộc lộ sáng suốt nơi chư Phật, mà vẫn thường sẵn có nơi mọi loài chúng sinh. Trong kinh có khi gọi đó là Phật tánh, là chơn tâm, là Như lai tạng v.v...
    Niết Bàn của Phật cũng không phải là một cảnh thiên đường như người đời và các ngoại đạo thường ca tụng. Nguyên nhân của sự hiểu lầm này là do tập quán xem Phật Giáo cũng như các "thần đạo" khác. Trước khi Phật giáng thế, trong kinh Vệ đà (véda) của ngoại đạo ở Ấn độ, cũng từng dùng danh từ Niết Bàn với nhiều định nghĩa khác nhau, tùy theo trình độ hiểu biết cao thấp của họ. Có đạo cho chết rồi mất hẳn là Niết Bàn; có đạo cho cõi trời của Dục giới là Niết Bàn; có đạo cho chứng được tánh không tham ái ở cõi Sơ thiền là Niết Bàn; có đạo cho các định cảnh Không vô biên xứ; Phi phi tưởng xứ ở cõi trời Vô sắc là Niết Bàn.
    Nhưng, với đạo Phật những nơi ấy còn ở trong vòng tam giới luân hồi. Bởi ở đó chưa diệt được hết lòng chấp ngã, chấp pháp, còn sống chết theo vọng tưởng sanh diệt, chứ chưa được rốt ráo như Niết Bàn của Phật.

  9. #9

    Mặc định

    diễn đàn nên có những bài giảng giải như vậy giúp cho toàn thể đại chúng tham khảo, tìm hiểu Phật pháp ....những kẻ ngạo mạng, bất tin Chánh pháp, buông lời dèm pha dị nghị gây chia rẽ hòa hợp tăng đoàn, đại chúng thì nên tự hổ thẹn mà biến đi dùm ...Nam mô A di đà Phật!

  10. #10
    Lục Đẳng Avatar của Dieudiem
    Gia nhập
    Nov 2011
    Nơi cư ngụ
    Đơn sơ nhà gỗ !
    Bài gởi
    13,103

    Mặc định Những bài

    @ Nomamepas post các bài rất hay ,dành cho những ai muốn tìm hiểu về chánh pháp,cho những ai muốn khởi đầu tu tập...cám ơn bạn !


    SÁM NGUYỆN AN TỊNH
    ------------ ❉ ------------

    Cõi Niết Bàn thênh thang tuệ chiếu
    Vắng lặng mà chiếu diệu Tam Thiên
    Lục thông thư thái hiện tiền :
    Thiên Nhãn Thông suốt ba ngàn cõi Tâm.

    Thiên Nhĩ Thông nghe ròng pháp giới.
    Túc Mạng Thông biết tới xưa , sau
    “Chuyện muôn xưa thảy làu làu
    Chuyện muôn sau thảy thông đầu tỏ đuôi”.

    Tha Tâm Thông lòng người sâu biển,
    Mọi lòng người hiển hiện trong gương.
    Mảy may chiếu kiến tỏ tường
    Thần Túc Thông vượt mười phương một lèo.

    Lậu Tận Thông trăm điều nhơ bẩn
    Thảy không còn thoáng cợn trong Tâm
    Trắng trong tinh sạch cõi mầu
    Cõi vô dư ấy mười phân vẹn mười.

    Giới - Định - Tuệ tuyệt vời tam học
    Từ Giới sinh hạt ngọc Định thiền
    Định thiền sinh Tuệ vô biên
    Văn - Tư - Tu Tuệ trang nghiêm Niết Bàn.

    Văn Tuệ nương lời vàng đức Phật
    Chỉ đường vào diệu mật Tâm Linh
    Văn Tư Bát Nhã quang minh
    Ngón tay ai trỏ cho mình vầng trăng.

    Tư Tuệ dùng trí năng suy nghĩ
    Để lần mò chân lý như như
    Cuối cùng Tu Tuệ là Tu
    Là hành để chứng nghiệm từ bản thân,

    Để như thị bản thân ngã chứng
    Thay vì rằng như thị ngã văn
    Tự mình sáng lấy vầng trăng
    Tự mình thực chứng gương hằng Như Lai.

    Tam học chuyển luân khai Bát Nhã
    Đưa ta về diệu ngã Tâm Linh
    Thường lạc ngã tịnh như nhiên
    Tứ đức Ba La Mật uyên nguyên lòng.

    Thường đức ấy tánh Không tịch tĩnh
    Thường hằng như thể tánh chân như.
    Lạc là vui chuốc vô ưu
    Cái vui tự tại Đại Từ Đại Bi.

    Ngã là đức Vô Vi Phật tướng
    Là pháp thân vô lượng vô biên.
    Là niềm thường trụ như nhiên
    Tịch là tánh thể uyên nguyên siêu trần...

    Cầu chánh đạo mở mang nhân thế
    Khắp nhân hoàn Chân Đế duy thông
    Một vào Tục Đế thong dong
    Suốt soi trăm thức lục hồng thế gian.

    Hai vào bước thênh thang Đạo đế
    Suốt lẽ huyền xuất thế gian xinh.
    Duy thông túc đạo chi tình
    Một Tâm khéo đạt viên minh toát vời.

    Nhị đế đã thảnh thơi thông suốt
    Cả Tam Thân liền được hiển bày.
    Ngoài Báo Thân của mình đây
    Cái Tâm xương thịt mặt mày thế gian,

    Cái Nhân Thân có làng có nước
    Có mẹ cha đời trước đời sau
    Có thăng trầm, có bể dâu
    Sinh Lão Bệnh Tử thốt câu vô thường.

    Ngoài cái Báo Thân đương hiện hữu
    Còn một thân vô lậu, vô sinh
    Là Pháp Thân của chính mình
    Như Lai thường trụ quang minh diệu kì.

    Từ nơi Pháp Thân kia thánh giả
    Còn phát huy đạo quả ấn thân
    Dùng năng lực của tinh thần
    Mà tùy duyên ứng hiện danh cứu đời.

    Tam Thân khéo mười mươi tự tại
    Khéo tùy duyên vô ngại Đại Bi
    Khéo du hí , khéo thuận tùy
    Độ tha, tự độ phát huy Tam Thừa.

    Một là Thanh Văn Thừa - những bậc
    Tuân theo lời đức Phật bổn sư
    Nương Tứ Diệu Đế mà tu
    Đắc La Hán Quả , an cư Niết Bàn.

    Duyên Giác Thừa hành trang Duyên Khởi
    Nương Thập Nhị Nhân Duyên tới vô sanh
    Một Tâm rũ sạch duyên tình
    Quả Bích Chi Phật sẵn dành cho ai.

    Bồ Tát Thừa một mai chứng ngộ
    Nhờ nương theo Lục độ tu hành:
    Một là Bố thí quần sanh.
    Hai là trì giới giữ mình trong veo.

    Ba là Nhẫn nhục theo gương Phật,
    Nhẫn nhục Ba La Mật vui vầy
    Nhục mà nhẫn được mới hay
    Vô sanh pháp nhẫn vương mây chín tầng.

    Bốn là Tinh tiến gần thực tướng
    Để gặp mình vô thượng như nhiên.
    Năm là Thiền định trang nghiêm
    Để trong Định tỏa uyên nguyên thái hòa.

    Sáu là Trí tuệ Ba La Mật
    Để bờ kia chân thật quê hương
    Nơi vui tịnh lạc ngã thường
    Nơi tịch diệt bất nhị gương trăng rằm.

    (Huỳnh Uy Dũng)
    *BI QUAN LÀ TÂM TRẠNG,LẠC QUAN LÀ Ý CHÍ !

  11. #11

    Mặc định

    Ðạo Ðế: Con đường diệt khổ. Cũng là phần tinh túy nhất của Phật môn
    Để bước vào con đường đạo đế, 1 lần nữa chúng ta phải nhìn nhận lại sự thật, ở đây 1 lần nữa Đức Phật giảng nói cho chúng ta về pháp để thấy sự thật đó là: Bốn món Niệm xứ (Tứ Niệm Xứ)
    Khi đã nhận biết sự thật, Đức Phật lại dạy 6 pháp sau để chúng ta tinh tấn tu học:
    1. Bốn món Chánh cần (Tứ Chánh cần), 2. Bốn món Như ý túc (Tứ Như ý túc), 3. Năm Căn (ngũ Căn), 4. Năm Lực (Ngũ Lực), 5. Bảy phần Bồ đề (Thất Bồ đề phần), 6. Tám phần Chánh đạo (Bát Chánh đạo phần).
    Gọi chung là 37 phẩm chợ đạo.
    Tứ Niệm Xứ
    TỨ là bốn; NIỆM là hằng nhớ nghĩ; XỨ là nơi chốn. tứ Niệm Xứ là bốn chữ, bốn điều mà người tu hành thường để tâm nhớ nghĩ đến.
    1.Quán thân bất tịnh: là quán thân không tịnh sạch.
    Xưa ở Ấn độ, khi một hành giả muốn quán sát thân bất tịnh, thì tìm đến khu rừng người ta bỏ xác người chết, gọi là thi lâm để quán theo lối" Cửu tưởng quán" của Phật dạy: Phép quán này gồm các giai đoạn như sau:
    a) Trướng tưởng: Ngày đầu ở gần bên cạnh thây chết, quán thây sình trướng to lên.
    b) Thanh ứ tưởng: Ngày thứ hai quán thây bị gió nắng xanh xám.
    c) Hoại tưởng: Ngày thứ ba quán thây bị rã nát.
    d) Huyết đồ tưởng: Ngày thứ tư, quán thây máu thịt rơi rớt lai láng.
    đ) Nồng lãnh tưởng: Ngày thứ năm, quán thây chết da thịt rục rã.
    e) Hám tưởng: Ngày thứ sáu, quán chim thú đến mổ ăn thây.
    ê) Tán tưởng: Ngày thứ bảy, quán sau khi chim thú ăn, gân xương, đầu mình, tay chân chia tan nát vỡ.
    g) Cốt tưởng: Ngày thứ tám, quán huyết thịt đã hết, chỉ còn bộ xương trắng bừa bãi.
    h) Thiêu tưởng: Ngày thứ chín, quán bộ xương trắng đốt cháy thành tro đất.
    “Cuộc đời rồi chẳng còn chi
    Ruộng vườn nhà cửa có gì của ta
    Trắng tay lòng mẹ sinh ra
    Một hơi vĩnh biệt cũng là tay không”
    2. Quán tâm vô thường: “Vô thường” nghĩa là biến dịch, thay đổi, không cố định, vạn vật không đứng yên một chỗ mà nó biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác rồi tan rã. Quán Tâm vô thường là quán sát tâm thức luôn luôn sanh diệt không thường trụ, nghĩa là cái tướng của tự tâm chúng ta luôn luôn đổi thay, không thường. Cái tướng của tự tâm là gì? Chính là cái phân biệt, hiểu biết hằng ngày, cái thức.
    3. Quán pháp vô ngã: Quán sát các pháp không có chủ thể.
    Pháp ở đây chỉ cho tất cả mọi sự vật trên đời: hữu hình lẫn vô hình. Ngã là cái riêng, là ông chủ tự tướng của mình. Từ cái tâm chấp cho các pháp đều có tự tướng riêng biệt nên mới sanh ra niệm phân biệt, quý trọng hay khinh rẽ, ích kỷ hại nhau, tranh chấp lẫn nhau. Mê lầm không nhận ra được sự giả dối của sự vật. Pháp thế gian có hình tướng nhưng không có chủ thể riêng của nó. Tất cả các pháp đều do duyên giả hợp lại mà có. Các pháp làm nhân duyên cho nhau nhưng không có tự tướng nhất định.
    Tâm duyên với cảnh, cảnh duyên với tâm, vạn pháp hiện ra, đâu có cái gì riêng một mình thật có tự tướng, đều vô ngã cả. Sáu trần nhờ có sáu căn mà có hình tướng, sáu căn nhờ có sáu trần mà có tác dụng. Không có sáu trần thì không có sáu căn, không có sáu căn thì cũng không có sáu trần.
    Trong kinh Lăng Nghiên có câu: "Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh, nhân duyên biệt ly, hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: các nhân duyên nhóm họp thì giả dối có sanh, các nhân duyên chia rẽ, thì giả dối có hoại diệt. Vậy: tất cả các pháp làm nhân duyên cho nhau, chứ không có tự tướng. Không có tự tướng, tức là "vô ngã".
    4. Quán thọ thị khổ: Thọ là chịu, nhận lãnh. Thọ thị khổ nghĩa là có nhận lãnh là có khổ. Quán thọ thị khổ là Quán sát sự thọ lãnh của thân tâm là khổ. Phật dạy: hễ có lãnh thọ thì có khổ; càng lãnh thọ nhiều thì càng khổ lắm. càng ít lãnh thọ, thì khổ đau càng ít. Quán thọ thị khổ mục đích đối trị bệnh tham.
    Đến đây rõ ràng ta thấy cửa giải thoát đã rộng mở chúng ta chỉ việc ung dung bước vào nữa thôi. Thật vậy như trước chúng ta đã biết "đời là bể khổ" với mười nhân khổ, bởi ta tưởng đó là ta nên không sao cắt trừ được, nay Phật dạy tứ niệm xứ, quán thân bất tịnh ta biết thân là gốc khổ nhưng thân đâu phải là ta chỉ là ngũ uẩn hợp thành vậy nên gốc khổ có thể cắt, lại nữa quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, quán thọ thị khổ để thấy cái tâm thường ngày cũng không phải là ta, vậy mười nhân khổ cũng không phải là ta nên có thể diệt trừ 10 nhân khổ. Vậy nói cánh cửa giải thoát đã rộng mở! Chúng ta tiếp tục tìm hiểu các Pháp...
    Tứ Chánh Cần
    Tứ Chánh cần là bốn phép siêng năng Tinh tấn hợp với chánh đạo.
    Quan Niệm Về Ðiều Dữ Và Ðiều Lành Trong Ðạo Phật
    Những điều dữ là những điều nghịch với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.
    Những điều lành là những điều bao giờ cũng hợp với từ bi, bình đẳng, trí tuệ và chân lý.
    1. Tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sanh: cố gắng ngăn chặn những điều ác làm hại từ bi, hỉ, xả phát sinh.
    2. Tinh tấn dứt trừ những điều ác đã phát sanh: cố gắng dứt trừ những điều ác làm hại từ bi, hỉ xả, đã phát sinh.
    3. Tinh tấn làm phát sanh những điều lành chưa phát sanh: tinh tấn gieo trồng những nhân lành từ, bi, hỉ, xả.
    4. Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sanh: tinh tấn phát triển những nhân lành từ, bi, hỉ, xả, đã phát sinh.
    Tứ Như Ý Túc
    Tứ Như ý túc là bốn phép thiền định. Nói cho rõ đó là bốn phương tiện giúp chúng ta thành tựu chánh định, vì thế nên cũng gọi là định pháp. "Như ý" là được như ý mình muốn. "Túc" là chân, có nghĩa nương tựa mà cũng có nghĩa là đầy đủ. Tứ Như ý túc, có nghĩa là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định, thần thông được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình.
    1. Dục như ý túc: Dục là mong muốn. Dục như ý túc là có tâm ham muốn tu tập các pháp lành thì được như ý. Người Phật tử mong muốn được thành đạt pháp thiền định mình đang tu, để tiến lên chứng các Thánh quả. Thứ mong muốn này rất cần cho người tu hành. Diệt dục tức là dục vọng, diệt những phần ham muốn xấu.
    2. Tinh tấn như ý túc: Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào pháp mình đang tu. Tinh tấn như ý túc là do tinh tấn mà tu tập các pháp lành được như ý.
    3. Nhất tâm như ý túc: Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, không bao giờ tán loạn. Nhất tâm như ý túc là nhứt tâm chuyên chú vào pháp lành thì được như ý. Phật có dạy: "như người chứa nước, khéo giữ bờ đê, người tu hành giữ nước trí tuệ cũng vậy, phải khéo tu thiền định, chớ cho tán động".
    4. Quán như ý túc: Quán nghĩa là dùng trí tuệ sáng suốt quán sát pháp mình đang tu. Quán trí ấy do định mà phát sanh, trí ấy là tịnh trí. Vì tịnh cho nên nó có thể như thật thông đạt chân lý của các pháp.
    Ngũ Căn
    1. Tín căn: là lòng tin mạnh mẽ vững chắc. Vì lòng tin của người Phật tử khởi từ trí xét đoán. Bởi thế nên nó vô cùng vững chắc, mãnh liệt. Chính nó là căn bản phát sinh các hạnh lành, Phật dạy: "Tin là mẹ vô lượng của công đức". Là Phật tử cần:
    a.Tin Phật: Phật tử tin Phật là đấng giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
    b.Tin pháp: Phật tử tin pháp Phật là chân lý dẫn tới sự giác ngộ, giải thoát.
    c.Tin Tăng: Phật tử tin tăng là những người thay Phật dẫn dắt chúng sinh trên đường tu.
    2. Tấn căn: Tấn là tinh tấn. Tấn căn là sự dũng mãnh tinh tấn trên bước đường tu tập không bao giờ thối lui. Tinh tấn có ba thứ:
    a.Bị giáp tinh tấn: Nghĩa là mang áo giáp tinh tấn. Tức là người Phật tử phải vững vàng không sợ gian nan, hiểm nguy, thử thách.
    b.Gia hạnh tinh tấn: Nghĩa là luôn luôn gắng sức không bao giờ dừng nghĩ trên bước đường đi đến giải thoát.
    c.Vô hỷ túc tinh tấn: Vô hỷ túc tinh tấn nghĩa là không vui sướng tự mãn, khi có chứng ngộ nhất định không lấy đó làm tự mãn mà phải tiếp tục với mục đích cuối cùng là giải thoát.
    3. Niệm căn: Niệm là ghi nhớ. Ghi nhớ những gì?
    a) Thứ nhất niệm thí: nghĩa là nhớ tu bố thí.
    b) Thứ hai niệm giới: nghĩa là nhớ trì tịnh giới để đoạn trừ các phiền não nghiệp chướng, tăng trưởng mọi hạnh lành. Giới có ba thứ:
    -Nhiếp luật nghi giới: Những giới để ngăn cấm các hạnh nghiệp thô xấu, đoạn diệt các nghiệp chướng nơi thân tâm.
    -Nhiếp thiện pháp giới: Những quy điều đúng pháp và lợi ích, người thực hành theo nó, có thể thành tựu tất cả pháp lành.
    -Nhiêu ích hữu tình giới: Những điều luật làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh.
    c) Thứ ba niệm thiền: Luận Nhiếp Ðại Thừa có nói: "Thiền niệm trụ là an trụ bốn món thiền định". Vậy niệm thiền là nhớ tu các niệm thiền định, để gạn sạch tất cả phiền não, thể chứng chân như:
    4. Ðịnh căn: Ðịnh hay tịnh lự do dịch nghĩa chữ Phạn là Dhyana (Thiền na). Ðịnh là lắng tâm yên tịnh, chuyên chú vào chánh pháp, để suy đạt thật nghĩa của nó. Theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, định có thể chia làm ba bậc:
    a.An trụ định: Ðể tâm an trụ vào định cảnh, không cho tán động, do đó phiến não được tiêu trừ.
    b.Dẫn phát định: Do đoạn sạch phiền não nên được phát sanh sáu món thần thông là các công đức thù thắng.
    c.Thành sở tác sự định: Do đã phát khởi được các công đức, thần thông, nên thường làm lợi ích cho tất cả chúng sanh; cứu độ chúng sanh giải thoát sanh tử, chứng được Niết Bàn.
    5. Huệ căn: Huệ là trí huệ sáng suốt, thâm nhập được chân tướng của vạn pháp. Trí huệ ấy không có sự phân biệt, vì phân biệt là tác dụng của vọng thức, là mê lầm. Cũng theo Luận Nhiếp Ðại Thừa, trí huệ có ba thứ:
    a.Vô phân biệt gia hạnh huệ: Quán trí nầy không còn thấy có phân biệt, nhưng còn có gia hạnh, nghĩa là còn phải dụng công tu hành, để thành tựu hoàn toàn vô phân biệt trí. Vì thế, nên gọi là " vô phân biệt gia hạnh huệ".
    b.Vô phân biệt huệ: Trí huệ nầy không có sự phân biệt, mà không cần phải gia hạnh vì đã thuần phục. Do không phân biệt nên không có mê vọng. Nhờ trí huệ này, người tu hành được tự tại thể chứng nhân như.
    c.Vô phân biệt hậu đắc huệ: Hay hậu đắc trí, nghĩa là trí huệ có được sau khi đã chứng được chân như. Trí huệ này hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa của các pháp. Chư Phật nhờ hậu đắc trí nầy mà thi tác vô lượng công đức, để cứu độ chúng sanh.
    Ngũ Lực
    Ngũ lực tức là năm năng lực vĩ đại, năm thần lực do Ngũ căn sinh ra.
    1. Tín lực: tức là thần lực của đức tin, hay sức mạnh lớn lao, vi diệu do tín căn phát sinh.
    2. Tấn lực: tức thần lực của đức tinh tấn, hay sức mạnh bất thối chuyển, kiên cố, có thể sang bằng mọi trở lực, sức mạnh này do tấn căn phát sinh.
    3. Niệm lực: tức là thần lực của sự ghi nhớ, hay sức mạnh lớn lao bền chắc của niệm căn.
    4. Ðịnh lực: tức thần lực của sự tập trung tư tưởng hay sức mạnh vĩ đại của định căn.
    5. Huệ lực: tức thần lực của trí huệ hay sức mạnh vô biên của huệ căn.
    Thất Bồ Ðề Phần
    Bồ đề do phiên âm chữ Phạn Boddhi mà ra. Người Trung hoa dịch là Giác đạo, hay đạo quả gíac ngộ. Phần là từng phần, từng loại. Thất Bồ đề phần là bảy pháp tu tập tuần tự hướng đến đạo quả vô thường Bồ đề.
    Nó cũng có tên là Thất giác chi. "Giác: tức là Bồ đề, còn "Chi" tức cũng như phần vậy. Thất giác chi tức là bảy phương tiện đi đến đích giác ngộ.
    1. Trạch pháp: Trạch là lựa chọn; Pháp là pháp môn, là phương pháp tu hành. Trạch pháp là dùng trí huệ để lựa chọn pháp lành để tu, pháp dữ để tránh. Ðức Phật có dạy: "Hãy dùng trí huệ suy nghiệm, giải trạch các pháp, rồi sẽ tín thọ, thật hành theo".
    2. Tinh tấn: khi đã lựa chọn được pháp môn chân chính để tu rồi, thì phải tinh tấn tu tập.
    3. Hỷ: Nghĩa là hoan hỷ. Nhờ tinh tấn tu hành, nên đoạn trừ được dần phiền não thành tựu vô lượng công đức, do đó, sanh tâm hoan hỷ và phấn chí tu hành.
    4. Khinh an: Khinh là nhẹ nhàng. An là an ổn. Nhờ sự tinh tiến tu tập nên thân tâm được thanh tịnh; do đó người tu hành cảm thấy nhẹ nhàng, khoan khoái.
    5. Niệm: nghĩa là thường ghi nhớ chánh pháp để thực hành.
    6. Định: Nghĩa là tâm chuyên chú, tập trung vào pháp mình đang tu.
    7. Xả: Nghĩa là bỏ ra ngoài không vướng bận. Kinh Kim Cang sớ có nói: "Người tu hành phải như người nương thuyền qua sông, khi thuyền đã cập bến, nếu ta không bỏ nó để lên bờ, thì đừng hòng đến đâu và biết gì được. Người muốn thành đấng siêu việt tự tại, cần phải từ trước khước mọi đắm say".
    Bát Chánh Ðạo là tám con đường đạo chân chánh.
    1. Chánh kiến: Chánh là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Chánh kiến hay Chánh tri kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách ngay thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan.
    2. Chánh tư duy: Tư duy là suy nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải.
    3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ là lời nói chân thật, công bình, ngay thẳng và hợp lý.
    Ngày xưa, trước khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi: Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người đời sau gặp nhiều sách vở ngoại đạo không sao phân biệt với kinh Phật , như thế, biết tin theo lời nào tu?
    Phật dạy: Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu.
    4. Chánh nghiệp: Nghiệp nghĩa là hành động tạo tác. Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi ích cho người lẫn vật.
    5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình.
    6. Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng năng làm việc chánh nghĩa, lợi lạc cho mình cũng như cho người và vật.
    7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ. Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu. Chánh niệm có hai phần:
    a) Chánh ức niệm: là nghĩ nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân tổ quốc, ân chúng sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền.
    b) Chánh quán niệm: là dùng tâm từ bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương yêu và quyết ra tay cứu độ.
    8. Chánh định: Chánh định là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người. Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng để quan sát những vấn đề chính sau đây:
    a.Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) để trừ tham dục, sai ái.
    b.Quán từ bi (từ bi quán) là quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng không khác, để mở rộng lòng thương yêu, cứu độ chúng sinh.
    c.Quán nhân duyên: (nhân duyên quán) là quán vạn Pháp đều do nhân duyên là vô thường.
    d.Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán) nghĩa là phân biệt và quán tưởng sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có "ngã, pháp" ngõ hầu diêt trừ ngã chấp, pháp chấp.
    e.Quán hơi thở: (sổ tức quán) nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.
    Kết Luận: 37 phẩm trợ đạo trên đây là cốt tủy tu tập của đạo Phật. Từ 37 phẩm trợ đạo này mà phát sinh ra 84000 pháp để phù hợp với mọi căn cơ của chúng sinh. Ở những phần sau sẽ xin được bàn rộng thêm về các pháp tu căn bản.
    Last edited by Nonamepas; 06-09-2013 at 10:21 AM.
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  12. #12

    Mặc định

    Lợi danh phú quý chẳng cầu
    Nhất tâm NIỆM PHẬT - KHỔ ĐAU giã từ!

  13. #13

    Mặc định

    Nhân sinh quan Phật giáo – Thuyết 12 nhân duyên
    Thập nhị nhân duyên: hay còn gọi là thuyết Duyên khởi, bao gồm 12 thành phần. Thuyết này chỉ rõ là mọi hiện tượng, vạn vật đều dựa vào nhau mà sinh khởi, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, làm thành một vòng tròn. Các yếu tố này làm cho loài hữu tình cứ mãi vướng mắc trong Luân hồi .
    Trong kinh Tương Ưng Bộ II, Ðức Phật đã thuyết về mười hai nhân duyên như sau:
    "Do vô minh, có hành sinh; do hành, có thức sinh; do thức, có danh sắc sinh; do danh sắc, có lục căn sinh; do lục căn, có xúc sinh; do xúc, có thọ sinh, do thọ, có ái sinh; do ái, có thủ sinh; do thủ, có hữu sinh; do hữu, có sinh sinh; do sinh sinh, có lão tử sinh, sầu, bi, khỗ, ưu, não sinh, hay toàn bộ khỗ uẩn sinh. Ðây gọi là Duyên khởi".
    "Do đoạn diệt tham ái, vô minh một cách hoàn toàn, hành diệt; do hành diệt nên thức diệt; do thức diệt nên danh sắc diệt; ...; do sinh diệt nên lão tử, sầu bi, khỗ, ưu, não diệt. Như vậy là toàn bộ khỗ uẩn đoạn diệt. Này các Tỷ kheo, như vậy gọi là đoạn diệt".
    Mười hai nhân duyên cụ thể như sau:
    1. Vô minh: là trạng thái bị che khuất, không nhìn thấy toàn thể, hoặc không nhìn thấy rõ, không hiểu rõ đối với những sự vật quá vi tế, hoặc quá to lớn, từ đó phát sinh mê lầm. Vô minh là điều kiện căn bản để phát sinh thế giới, vũ trụ, vạn vật, bởi vì nếu không có vô minh, mê muội, bị che khuất, không thấy rõ, thì tất cả chỉ là không.
    2. Vô minh sinh Hành: Hành là chạy, hoạt động, vận động, chuyển động. Nếu không có vô minh thì bản thể của vũ trụ, vạn vật là hư không trống rỗng, bất động, bất sinh, bất diệt. Chính vô minh tạo điều kiện cho vũ trụ thành lập và hoạt động, bởi vì vô minh là cơ chế sinh ra ảo tưởng và chuyển động là điều kiện tiên quyết để tạo ra ảo tưởng.
    3. Hành sinh Thức: Thức là phân biệt. Chuyển động tạo ra phân cực. Có chuyển động mới tạo ra không gian và thời gian. Hành hay chuyển động tạo ra sự khác nhau của các cặp phạm trù mâu thuẫn như sáng tối …Hành là cơ chế tạo ra sai biệt và phân biệt sẽ tạo ra thế giới.
    4. Thức sinh Danh Sắc, Danh là tên gọi, sắc là vật chất, sự vật. Danh sắc là toàn bộ tâm lí và vật lí của loài người quan niệm. Phật giáo gọi chung tất cả danh sắc là Pháp.
    5. Danh sắc sinh Lục Căn Danh sắc tác động khiến cho cơ thể của loài hữu tình phát triển thành sáu cơ quan để phân biệt cho rõ ràng (gồm: mắt , tai, mũi, lưỡi, thân, ý );
    6. Lục căn tiếp xúc với Lục Trần nên Xúc sinh, (Lục trần bao gồm sắc là hình thể, thanh là âm thanh, hương là mùi, vị là cảm giác do lưỡi tiếp thu, xúc là cảm giác do thân thể tiếp thu, pháp là sự vật do ý thức nhận biết) tức các đối tượng bên ngoài, sinh ra Xúc tức cảm xúc, cảm giác. Đây là sự quan hệ giữa bên trong và bên ngoài của một chúng sinh. Sự tiếp xúc này sinh ra Xúc hay còn gọi là lục thức tức là 6 cách nhận biết.
    7. Xúc sinh Thọ là cảm nhận, cảm giác của chúng sinh với thế giới bên ngoài, đó là thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc cọ sát, và tri thức tổng hợp. Từ đó có nhận định, đánh giá : đẹp xấu, êm tai hay chói tai, thơm hay hôi thúi, ngọt bùi hay cay đắng, mềm mại trơn láng hay thô cứng sần sùi, đáng yêu hay đáng ghét.
    8. Thọ sinh Ái. Từ nhận định, đánh giá, ghi nhớ của ý thức sinh ra tham ái, ham muốn. Nếu không đạt được những điều ham muốn hay gặp nghịch cảnh thì nó cảm thấy Khổ.
    9. Ái sinh Thủ là ghi nhớ, nắm giữ, chiếm lấy làm của riêng hay đặc tính riêng có cho mình, hình thành một cá tính gọi là Ngã.
    10. Thủ dẫn đến Hữu là lưu giữ trong ký ức, trong A-lại-da thức (tạo thành vết trong A-Lại-Da-Thức muôn kiếp không mờ). Tất cả thông tin về bản ngã và tri kiến về thế giới, vũ trụ được chứa trong Tàng thức hay còn gọi là A-lại-da thức.
    11. Hữu dẫn đến Sinh. Bản thể của Tâm là không, là vô hạn, vô thuỷ vô chung, nhưng khi đã phân cực, phân biệt thành có, thành hữu hạn thì bắt đầu có sự sinh khởi. Theo thuyết âm dương ngũ hành thì vô vực sinh thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh trùng quái, trùng quái sinh vạn vật, vạn vật tương thôi sinh sản vô biên.
    12. Sinh sinh ra Lão tử vì có Sinh nên có lão tử, có hoại diệt. Nhưng chết không phải là hết mà là để tái sinh trong một kiếp khác rồi lại tiếp tục vô minh …. Cái vòng tròn luẩn quẩn sinh diệt đó gọi là luân hồi.
    Từ thuyết 12 nhân duyên có những luận kêt luận sau:
    1. Không có 1 đấng thần linh nào tạo ra hiện hữu, mà tất cả đều là do vô minh mà có.
    2. Không có một Thần Linh, một Đấng Tối Cao nào chi phối vận mệnh con người, ngoại trừ hành vi thiện hay bất thiện của chính chúng sanh đó.
    3. Không thể quan niệm được điểm khởi thủy và điểm kết của đời sống ngày nào duyên sanh còn tạo.
    4. Cho ta thấy được Vô Ngã trong mọi bản thể chúng sanh và không có một linh hồn thường kiến, như một quan kiến sai lầm của hầu hết thế nhân thường nghĩ. Ví dụ ở trần thế làm quan chết xuống âm phủ vẫn làm quan.
    5. Vấn đề Tái Sinh của chúng sanh trong sự tiếp diễn qua từng đời sống mới, chỉ là một sự tiến triển không ngừng của Danh và Sắc (Tâm và Thân).
    6. Giáo lý này tiêu điểm mà mỗi người học Phật cần phải thông hiểu, để đưa đến nhận thức hoàn toàn về Khổ, nguyên nhân Khổ, Diệt Khổ, con đường dẫn đến Diệt Khổ (Tứ Diệu Đế).
    Có nhiều tài liệu cho rằng thập nhị nhân duyên đã được nhiều người tự ngộ ra không thông qua Phật giảng, và những vị tự ngộ được thuyết này còn được gọi là Độc giác hay Bích Chi Phật quả vị cũng rất cao được cho là ở giữa A La Hán và Phật, còn những vị chứng ngộ thuyết thông qua Phật giảng thì chứng Duyên Giác, tu theo thập nhị nhân duyên còn được gọi là duyên giác thừa (cỗ xe tới ngộ lý nhân duyên).
    Last edited by Nonamepas; 07-09-2013 at 03:53 PM.
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  14. #14

    Mặc định

    Thiền – Thanh gươm báu chặt đứt mọi phiền não
    Như trên chúng ta đã biết phần nào nội dung cốt tủy của Phật Pháp, nhưng đây mới chỉ là hiểu phần nào, chưa phải là ngộ, việc hành theo thông thường ắt hẳn sẽ dẫn đến giải thoát giác ngộ. Tuy nhiên chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm về các phương tiện khác để đến với giác ngộ dễ dàng hơn, chúng ta đều đã biết đức Phật đã nhờ 1 phương tiện mà đi đến giác ngộ tuyệt đối đó là thiền, trong quá trình tu tập đức Phật đã dành thời gian cho thiền nhiều hơn hết mọi thời gian cho bất kỳ gì khác. Vậy có thể khẳng định thiền là phương tiện chính để Đức Phật giác ngộ. Sau đây ta sẽ tìm hiểu xem thiền trong đạo Phật khác thiền ngoại đạo như nào và sự tương ứng của thiền của Phật với 37 phẩm trợ đạo ra sao, để 1 lần nữa thấy rằng tất cả các pháp tu nhà phật đều là sản phẩm của tứ diệu đế và 37 phẩm trợ đạo và được thống nhất trong mỗi Pháp tu.
    Đầu tiên chúng ta cùng thống nhất thiền là gì? Thiền tự thân nó lại gắn liền với Pháp, và người hành thiền lại gắn liền với các quả ngộ khác nhau, vậy nên việc định nghĩa thiền cho chính xác thật nan giải, về định nghĩa thiền có nhiều định nghĩa, ở đây xin đưa ra 1 định nghĩa đơn giản nhất nhằm từ đó phân chia và tiếp cận tìm hiểu thiền dễ dàng hơn.
    Định nghĩa thiền: “Thiền là nhất tâm vào đề mục”
    Như vậy ta thấy thiền không nhất thiết là ngồi, đi đứng nằm ngồi đều có thể là thiền cả mà cũng đều có thể không phải là thiền. Thiền là phương tiện nhưng khi kết hợp với pháp thì trở thành các Pháp tu tương ứng.
    Về thiền có thể tạm phân chia 2 nhánh thiền Đạo Phật và thiền ngoại Đạo.
    Thiền Đạo Phật được hiểu là thiền do Phật hay những vị đắc đạo Phật phát minh ra với vai trò như 1 pháp hành với mục đích và kết quả là giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
    Như chúng ta đều đã biết, thiền đã có từ rất lâu trước thời Phật tại thế, vì vậy Đức Phật không phát minh ra thiền mà chỉ Phát minh ra thiền giải thoát, vượt trên mọi loại thiền của ngoại đạo.
    Trước khi nói về thiền ngoại đạo chúng ta cũng cần thống nhất đôi chút về quan điểm ngoại đạo để thấy tâm bình đẳng của Phật Pháp. Nhà Phật định nghĩa rất rõ: Ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Như thế, dù cho người xuất gia theo Phật mà chỉ một bề hướng ngoại cầu mong cũng gọi là ngoại đạo. Bất cứ một pháp tu nào chỉ trông cậy bên ngoài, tìm kiếm bên ngoài đều gọi là ngoại đạo. Vì chủ trương nhà Phật, người tu phải "minh tâm kiến tánh" mới thành Phật. Tâm tánh đâu phải việc bên ngoài, nếu tìm bên ngoài là trái tông chỉ nhà Phật, nên gọi là ngoại đạo. Như vậy nhà phật đối với ngoại đạo không hề có ý chống đối hay coi thường, mà chỉ là phân rõ cái cầu khác nhau của Pháp hành.
    Thiền ngoại đạo được hiểu là những phương pháp thiền với mục đích và kết quả hướng tới là thần thông và thân thể.
    Hai tiêu chuẩn ấy trái hẳn với đạo Phật. Đạo Phật chủ trương tu để mở mang trí tuệ thấy được chân lý, không cần sự mầu nhiệm. Có trí tuệ liền thấy tất cả giả tướng ở thế gian đều là vô thường, dù cố dụng công bảo vệ duy trì mấy, rốt cuộc cũng hoại diệt. Cái giả mà cố giữ là si mê. Thiền đạo Phật thấy tất cả pháp duyên hợp hư giả, thể nó là không, nhận ra chân tánh bất sanh bất diệt, nên trái hẳn các pháp thiền ngoại đạo.
    Thiền ngoại đạo tu chóng kết quả, có thần thông, song chỉ là cái dụng tạm thời, không phải con đường giải thoát sanh tử. Trong nhà Thiền đạo Phật dạy: "Thà là ngàn năm không ngộ, không để một phút sai lầm". Tại sao? Bởi vì tu theo thiền ngoại đạo không gieo nhân giác ngộ, quả giác ngộ càng không. Lại nữa đã đi đường ngoại thì sức mạnh ấy sẽ dẫn đi mãi mãi, biết bao giờ được hồi tâm tỉnh giác. Vì thế người Phật tử phải thận trọng khi tu học theo một pháp thiền nào. Dù người dạy có nói cao siêu mầu nhiệm mấy đi nữa, đối chiếu với kinh Phật không hợp, nhất định không nên theo. Chính vì đa số Phật tử hiện nay ham tu chứng nên đã tu theo thiền ngoại đạo khá nhiều. Với lòng chân thật của mình, mong quí vị xét thật kỹ trong việc tu hành hiện nay, đừng để sai lầm về sau hối hận đã muộn. Dù người ấy xuất gia tu theo đạo Phật, thờ đức Phật mà dạy không đúng kinh điển Phật, xin chớ vội tin.
    Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy.Ngài A-Nan trong kinh Lăng nghiêm về các lối thiền ngoại đạo:
    " ..A-Nan! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn lòng dâm, thì quyết đọa vào ma đạo, bực thượng thành ma chúa, bực trung thành ma dân bực hạ làm ma nữ. Vì gốc của nó là dâm, thì làm sao khỏi sanh tử luân hồi được?. "
    ‘’...A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn đoạn tâm sát hại, thì chỉ đoạ vào thần đạo; bực thượng thành đại lực quỉ, bực trung làm phi hành dạ xoa và các quỉ tướng soái, bực hạ làm địa hành La sát và các quỉ thần...’’
    ‘’...A-Nan ! Nếu ông tu thiền định mà không đoạn trừ tâm trộm cướp thì quyết đọa vào tà đạo; bực thượng thành loài yêu tinh, bực trung làm ma quỉ, bực hạ làm người tà bị các tà ma nhập (đồng bóng)...’’.
    Phần sau sẽ tìm hiểu đại khái về các phép tu thiền ngoại đạo.
    (Xin chân thành cảm ơn các tác giả mà mình đã sử dụng tài liệu để tổng hợp lên bài viết này)

    Phật Pháp cao siêu rất nhiệm màu.
    Muôn đời khó gặp dễ hay đâu.
    Hôm nay con biết xin vâng giữ.
    Chân lý Như Lai nguyện hiểu sâu.
    Last edited by Nonamepas; 08-09-2013 at 09:52 PM.
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  15. #15

    Mặc định

    ùa, thấy quen quen, hình như mấy cái này giống giống cái mình đã đọc qua ở đâu đó rồi. Bạn chủ topic trích dẫn nhớ dẫn nguồn nhé.

  16. #16

    Mặc định

    Chào bạn Fengtum! Phần Phi lộ mình đã nói rõ mình chỉ là người tổng hợp lại thôi! sức đâu mình tự viết được! nếu bạn làm khoa học thì bạn sẽ biết cách làm khoa học của chúng ta bây giờ chỉ đơn giản là sự tổng hợp tốt. mấy hôm trước mình có gửi mail cho bạn love tam Linh để thêm dòng cảm ơn vào trong phần Phi lộ của mình nhưng chưa thấy hồi âm! tài liệu mình tổng hợp tất cả là trên 7 nghìn trang, mình cắt xén thêm bớt còn trên 500 trang.
    Mình cũng đang phân vân vì những tài liệu về sau thì sự pha chộn càng nhiều! Vì cách mình tổng hợp như trên nên nguồn và tác giả không còn (thật thiếu sót) có lẽ nếu bạn Love tam Linh không hồi âm thì mình sẽ thêm dòng cảm ơn các tác giả chung chung vào cuối mỗi bài! bạn góp ý rất đúng mình thật thiếu sót, xin cảm ơn bạn rất nhiều!
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  17. #17

    Mặc định

    tổng hợp và phân tích cộng với ứng dụng thực tiễn nữa bạn à. Khoa học luôn luôn có tính ứng dụng và luôn feedback để nâng cao hiệu quả ứng dụng.

    nếu bạn k phân tích nó và đưa ra quan điểm của mình thì có khác gì vào google gõ chữ phật vào đấy rồi enter đâu ?

  18. #18

    Mặc định

    Khoa học là chân lý của ngày nay và ứng dụng là sản phẩm của khoa học, vì vậy ứng dụng phải dựa theo sự tiến bộ của khoa học để thay đổi phù hợp với khoa học! Vì khoa học là chân lý của ngày nay nên đối với nó càng không có chỗ cho quan điểm! việc phân tích là của mỗi người, nếu hiểu khoa học rồi thì khỏi phải phân tích nếu chưa hiểu thì phân tích, việc này tùy thuộc nhận thức mỗi người!
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  19. #19

    Mặc định

    Sơ lược các pháp tu thiền của ngoại đạo:
    Xin tạm chia thiền ngoại đạo như sau:
    Xét về cách luyện có thể tạm chia
    1- Thiền chuyển luân xa: Thiền này hành giả dẫn điển theo các đường kinh lạc, vòng vòng như vậy là chuyển luân xa.
    2- Thiền xuất hồn: Hành giả mở các khiếu huyệt trên thân rồi xuất hồn bay đi học đạo với các bậc thầy chưa từng biết, sau đó tự thực hành. Thiền này có hai cái hại: Cái hại thứ nhất là khi mở huyệt đạo để xuất hồn, có người mở không khéo phát điên. Cái hại thứ hai là xuất hồn bay đi học đạo, ai nói là minh sư liền theo, không giảng trạch chánh tà nên dễ bị yêu ma đánh lừa.
    3- Thiền thai tức: Hành giả thở vô, giữ khí tại đan điền một lúc rồi mới thở ra, lâu ngày bụng dưới lớn dần như người nữ có thai, nên gọi là thiền thai tức.
    4- Thiền luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần: Hành giả luyện tinh hóa thành khí, luyện khí hóa thành thần. Đây là lối tu tiên, đưa người đạt được thần thông du hí khắp mọi nơi.
    Phật dạy các đệ tử: ‘’ngộ được đạo thì tự nhiên sẽ có các thần thông. Nếu được thần thông mà chưa ngộ được đạo thì thần thông ấy có khi bị mất’’.
    5- Thiền Yoga hay Du già: Thiền này có nhiều cách tu, trọng tâm thiền này luyện cho cơ thể khỏe mạnh. Du già cũng gọi là thuật luyện khí của Ấn độ, gần giống thuật luyện khí của đạo Tiên. Theo thuyết Du già trong thân thể con người có rất nhiều huyệt; trong số ấy có bảy huyệt từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt ấy nằm dài theo xương sống, và có một đường lên một đường xuống thông nhau. Vì sự si mê và các thứ dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị chướng ngại, khiến cho cái ‘’chơn quả’’ từ dưới ‘’hỏa hậu’’ không thể lên được. Nhất là vì thân thể không luyện tập, xương sống bị cong đi, các huyệt do đó bị bế tắc. Vậy muốn cho hoả hậu (tức là cái thần lực trong con người) được thông qua các huyệt, lên tới đỉnh đầu thì phải chú tâm luyện cho xương sống giản ra, các khớp xương được thông và thẳng.
    Xét về nương tựa nơi thế lực siêu nhiên có thể tạm chia
    1. Thiền theo yêu ma quỷ quái: Đọc các loại sách xưa, chúng ta thường nghe nói đến các loại cầm thú như: bạch xà, chồn cáo, qui, khỉ, vượn...tu luyện lâu năm trong rừng sâu núi thẳm, cuối cùng củng có những phép thần thông, biến hóa. Nhưng mục đích của chúng là cầu cho được nhiều phép tắc để được gần phụ nữ, nhiễu hại nhơn dân, hớp hồn hớp vía người lương thiện, để thỏa mãn thú tánh. Đó là những loài yêu tinh quỷ quái, các loài thú, nếu tu luyện lâu năm cũng có thể phép thuật hơn người. Nhưng bởi chúng thiếu lòng nhân, thiếu thiện tâm cho nên phép thuật càng cao cường bao nhiêu càng gây tai họa bấy nhiêu.
    Chúng ta cũng thường nghe thầy phù thủy luyện thiên linh cái. Họ cũng tập trung tư tưởng, luyện phép nhất tâm, và khi thành công cũng sai được âm binh bộ hạ, được ma quỷ mách bảo cho các việc quá khứ, vị lai ...mà cũng tác oai, tác oai không ít. Đó cũng là do tu thiền, nhưng kết quả là có hại cho mình và xã hội.
    3. ỨNG KHẨU THIỀN: Phái nầy hiện nay có quá nhiều chia ra đủ hình thức, do trình độ mê tín như cầu Phật Mẫu, Đại Thánh, Thiên Tiên hay lên Đồng, cầu Bóng, nhập xác, dụng am miếu, không ngoài ứng khẩu cơ bút.
    4. THẦN QUYỀN THIỀN Môn nầy thuộc về Thiền Thần Thánh phái, chủ về linh thiêng quyền phép, cho nên tín chủ phải thành tâm cầu khẩn, mong thần thánh phò hộ nhỏ phước cho, lại thường hay tế lễ trâu bò xây cất Chùa Thánh to lớn, tùy theo xứ sở địa phương, trình độ cúng tế. Còn các nơi luyện Gồng, luyện Ngãi, xăm nơi mình, ở Thái Lan dụng Võ Thiền tu võ đạo, ở Việt Nam tu tại núi Thất Sơn nhiếp dụng Tinh Khí Thần.
    5. NHÂN THIÊN THIỀN Phái Thiền nầy hiện nay các nước ưa chuộng đang nghiên cứu. Đa số các bậc Trí Thức hướng thượng suy tầm trong hai lối : Lối thứ nhất Dưỡng Thần, nuôi thân chữa bệnh, dụng Thiền Tọa tiếp Thiên Điện, xuất hồn huân tập tinh hoa thần thức tạo thành căn bản đoạt quả THÁNH THÔNG gọi là Tinh Khí Thần làm cho Thần Thức giao cảm với cõi Trời. Còn một lối thời dụng Thiền Tọa nghiên cứu Đạo Phật cốt TRI KIẾN SIÊU HÌNH. Hiện nay ở Việt Nam có phái THÔNG THIÊN HỌC.
    6.Thiền của đạo Tiên: Tiên Đạo tùy theo căn tánh, đức tánh, trình độ, suy tưởng, định tưởng không ngoài THANH, THÔ, TẾ, NHỊ để tu tập thiền tọa. Cho nên tu Tiên đắc quả có thứ bậc. Pháp Môn Tiên Đạo Thiền duy nhất định tưởng, huân tập các pháp thanh cao, đẹp đẽ, lấy bỏ, lựa chọn, thanh lọc rồi mới nhiếp thu tu luyện. Các bậc tu Tiên Đạo Thiền phần nhiều ưa thích lên non hoặc nơi lâm sơn cùng cốc, vẫn có bậc chán đời xa lánh trần tục lên non tìm Tôn Sư để tu luyện. Bậc tu Tiên kể ra thời nầy cũng hiếm. Chỉ có bậc tu Phật lầm hướng tu hoặc chưa chu đáo lối tu nên chi càng tín thành tin Phật bao nhiêu mà sai đường hướng vẫn bị tu cầu hữu lậu Phước Báo Nhân Thiên sa vào Tiên Đạo.
    (Xin chân thành cảm ơn các tác giả mà kẻ hậu học đã sử dụng tài liệu để tổng hợp lên bài viết này)
    Nhờ trừ được hết buông lung
    Những người hiền trí sẽ không lo gì:
    - Tựa như bậc thánh hiền kia
    Lên đài trí tuệ nhìn về dưới chân
    Thấy bao nhiêu kẻ ngu đần
    Trăm bề đau khổ, bội phần lo âu,
    - Tựa người leo tới núi cao
    Cúi nhìn muôn vật lao xao dưới ghềnh
    Đắm chìm trong chốn vô minh.
    Kinh Pháp Cú.
    Last edited by Nonamepas; 14-09-2013 at 05:39 PM.
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

  20. #20

    Mặc định

    Giải lao nha mấy đạo hữu.
    Mời trà!

    Tôi muốn mời anh uống chén trà
    Dẫu rằng vị chát thấm vào ta
    Dẫu đời lẫn lộn nhiều chua chát
    Thì vị trà đây vẫn đậm đà

    Tôi muốn mời em uống chén trà
    Hương thoang thoảng mát ngát mùi hoa
    Quên đi quanh quẩn đời pha tạp
    Để giử tình riêng lại với ta

    Ta hãy cùng nhau uống chén trà
    Của thời mở cửa lắm phôi pha
    Đồng tiền đen bạc không mua được
    Tình đẹp hòa trong 1 chén trà
    https://www.facebook.com/groups/2350138305138741/?ref=share

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 12
    Bài mới gởi: 20-03-2014, 08:09 AM
  2. NGUYÊN THỦY PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
    By phanquanbt in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 18-02-2013, 08:36 PM
  3. Tìm kinh!
    By Nhất Niệm in forum Đạo Phật
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 22-10-2012, 09:14 PM
  4. BỬU SƠN KỲ HƯƠNG - TÁC GIẢ VƯƠNG KIM
    By vankhuc in forum Bửu Sơn Kỳ Hương
    Trả lời: 9
    Bài mới gởi: 22-07-2012, 04:47 PM
  5. BÀ LA MÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
    By aptruong in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 19-01-2011, 12:58 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •