kết quả từ 1 tới 15 trên 15

Ðề tài: Thủ Tục Khấn Khi vào Nhà mới (( chỉ giùm Đệ ))

  1. #1

    Mặc định Thủ Tục Khấn Khi vào Nhà mới (( chỉ giùm Đệ ))

    trả là sau bao lần suy đi tính lại!! đệ quyết định dọn ra ở riêng!! và sau này tính sẽ tu thiền !! thường thì thanh niên thời đại mới người ta ko để ý mấy cái chyuện rườm rà!!! nhưng đệ thì khác!!! có thờ có thiêng có kiêng có lành!!! rất mong các chư vị huynh đệ tỷ mụi cho đệ bít thủ tục cúng thổ địa công công khi xin vào nhà mới như thế nào (( nhà đệ đi thuê và đệ ko ở vn )) nó có khác so với vn mình ko!!

    đệ xin đa tạ mọi người nhiều :love_struck::love_struck::love_struck::love_struc k:

  2. #2

    Mặc định

    Bạn nên trai giới thiết lễ tụng Kinh Thiên Địa Bát Dương này ba biến khi dọn vào nhà mới thì được lợi lộc rất lớn vì có các vị thiện thần theo ủng hộ, nội gia quyến đều được khương ninh trường thọ, phước đức đầy đủ.

    KINH THIÊN ĐỊA BÁT DƯƠNG

    Đường Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh phụng chiếu dịch
    Việt Dịch: Cư Sĩ Thanh Tâm




    PHẦN THỨ NHỨT: TRONG PHÁP HỘI THÀNH TỰU

    Tôi nghe như vầy: Thuở nọ, Phật ở trong một ngôi nhà rộng lớn tại ngoài thành Tỳ Gia Ly Đạt Ma, khai hội thuyết pháp. Có mười phương đàn việt đều theo tới nghe pháp và cả hàng Bồ tát cùng bốn chúng vây quanh đông đủ.



    PHẦN THỨ HAI: MỞ BÀY CÁC VIỆC CHÁNH KIẾN


    Khi ấy Bồ tát Vô Ngại cũng ở trong đại chúng từ chỗ ngồi đứng dậy đi tới trước Phật quì gối chấp tay mà bạch rằng: Ngưỡng bạch Đức Thế Tôn, chúng sanh ở trong cõi Nam Diêm Phù Đề này từ đời vô thủy tới nay cùng nhau sanh đổi qua lại nối tiếp hoài chẳng dứt, nhưng xét thấy trong nhân loại hạng người học thức thì ít, kẻ dốt nát thì nhiều; người tu hành niệm Phật thì ít, hạng mê tín chuyên cầu tà thần thì nhiều; người trì trai giữ giới thì ít, chúng lợi dưỡng phá giới thì nhiều; bực tinh tấn tu hành thì ít, hạng biếng nhác dải đải thì nhiều; người thông minh trí huệ thì ít, kẻ ngu si đần độn thì nhiều; người sống lâu thì ít, kẻ chết yểu thì nhiều; người tịnh tâm thiền định thì ít, kẻ vọng động tán loạn thì nhiều; người giàu sang thì ít, kẻ nghèo hèn thì nhiều; người nho nhã dịu dàng thì ít, kẻ cang cường hung dữ thì nhiều; người chân chánh ngay thẳng thì ít, bọn a dua nịnh bợ thì nhiều; người trong sạch thì ít, kẻ tham lam thì nhiều; người có tâm rộng rải bố thí thì ít, kẻ gian giảo bỏn xẻn thì nhiều; người tín cẩn thành thật thì ít, kẻ giả dối quỉ quyệt thì nhiều. Bởi vậy khiến nên tình đời thấp hèn bạc bẽo, luật pháp khắc nghiệt, sưu cao thuế nặng, trăm họ nghèo khổ, thời kỳ khuẩn bách, làm chẳng đủ sống. Nguyên do chỉ vì mê tín trái ngược, nên mới phải chịu những cảnh khổ dường ấy.

    Cúi xin đức Thế Tôn mở lòng từ bi thương xót những kẻ tà kiến, diễn giải các pháp chánh kiến cho chúng nghe, khiến được tỏ ngộ, bỏ tà theo chánh, hầu thoát khỏi các nạn khổ kia. Phật khen: Ông luận như vậy hay lắm!

    Này Bồ tát Vô Ngại, ông có tâm đại từ bi nên mới vì các người tà kiến kia mà cầu thỉnh Như Lai nói pháp chánh kiến, thật phước đức ấy không thể kể xiết. Ông nên chú ý nghe cho rõ và ghi nhớ lấy. Tôi nay vì ông mà phân rõ Kinh Thiên Địa Bát Dương này.

    Kinh này không phải chỉ riêng tôi nói đâu, mà các đức Phật đời quá khứ đã nói; đời vị lai, chư Phật cũng sẽ nói và đời hiện tại, chư Phật đương nói.

    Như trong khoảng trời đất, duy chỉ có con người là cao quí và khôn ngoan hơn muon vật. Luận về chữ Nhân ấy là chân, vì tâm con người không hề tưởng quấy và tự mình chỉ làm những việc chân chánh. Bởi thế nên mới chiết tự chữ Nhân là người như sau: Nét phẩy bên trái là chân, còn nét mác bên phải là chánh, thường làm những việc chân chánh nên mới được gọi là người. Nên biết người hay mở rộng mối Đạo, còn Đạo khá làm cho con người thuần nhã. Phải giữ đúng theo qui tắc của người và Đạo thìsẽ làm nên đạo Thánh.

    Phật lại kêu Vô Ngại Bồ tát mà nói: Thân người khó được mà nay tất cả chúng sanh đã được thân người rồi, sao không chịu tu nhân tích đức mà lại bỏ việc chân chánh, làm điều giả dối, gây biết bao nhiêu nghiệp ác để đến khi thân mạng chết rồi thần hồn phải sa đọa trong biển khổ, đau đớn trăm bề. Bằng hết thảy người đời nghe Kinh này, sanh lòng tin kính làm theo, không hề trái nghịch thì sẽ thoát khỏi hết tai nạn và được ra khỏi biển khổ, vì có các vị thiện thần gia hộ, không có việc chi ngăn trở, mà lại được sống lâu, không bao giờ chết yểu.

    Nguyên do nơi tấm lòng tin chân chánh, nên mới được phước như vậy. Còn nếu ai biên chép Kinh này thọ trì đọc tụng, y theo chánh pháp mà tu hành thì công đức của người ấy vô lượng vô biên, không biết đâu mà tính kể cho xiết, đến ngày lâm chung người ấy sẽ chứng được quả Phật.

    Phật lại bảo: Này Bồ tát Vô Ngại, như có người nào kiến thức sai lầm thường hay tin bậy, tất nhiên phải bị nạn tà ma ngoại đạo, các loài quỉ ly mị vọng lượng cũng như các loài chim cú chim ụt kêu lên những tiếng quái ác, lại thêm ác quỉ ác thần cùng tranh nhau đến làm náo loạn cả trong nhà, khiến cho xào xáo bệnh hoạn, sưng phù nhức nhối, chịu đủ chứng bệnh đau đớn khổ sở, không ngày giờ nào được yên ổn.

    Bằng muốn hết tai nạn kia, cần phải thỉnh vị chân tu đạo đức giúp tụng Kinh này ba biến thì những hung thần ác quỉ ấy thảy đều tiêu diệt mà bệnh cũng khỏi ngay, thân thể lành mạnh, bình phục như xưa. Ấy là nhờ công đức tụng Kinh Bát Dương này mà được chuyển họa thành phước vậy.

    Bằng có người nào quá nhiều dâm dục, sân độc, ngu si, tham lam, ganh ghét, nhưng khi nghe thấy Kinh này liền phát tâm chánh tín cúng dường, nguyện tụng ba biến thì các tật xấu kể trên thảy đều biến mất, rồi nhân đó phát tâm từ bi hỷ xả, sau sẽ chứng được quả Phật.

    Lại nữa, Bồ tát Vô Ngại, bằng có thiện nam tín nữ nào muốn làm bất cứ công việc chi, trước cần tụng Kinh này ba biến, rồi sau mới làm, như: đắp nền xây tường, dựng nên nhà cửa, hoặc làm nhà phía nam, nhà phía bắc, xưởng bên đông, xưởng bên tây, nhà bếp, nhà khách, cửa ngõ, đào giếng, đóng cối xay, cối giã, làm kho tàng, chuồng trại nuôi các loài súc vật, v.v... Hoặc cất nhằm các phương hướng xung phạm tới Nhựt Du, Nguyệt Sát, Tướng Quân cùng Thái Tuế, Huỳnh Phan, Báo Vĩ, Ngũ Thổ, Địa Kỳ, Thanh Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Huyền Vũ, hoặc phạm ngày giờ xung khắc như sáu ngày giáp, mười hai giờ địa chi cùng là Thổ Úy, Phục Long. Tất cả hung thần ác quỉ cảm thấy oai lực của Kinh nên thảy đều ẩn trốn, lánh xa đi bốn phương, tiêu tan hình bóng, chẳng dám nhiễu hại nữa. Công việc làm được tốt lành, hưởng phước vô lượng.

    Nếu có thiện nam tín nữ nào y theo lời Phật dạy mà thi hành thì sau khi xây cất nhà cửa xong rồi, tất nhiên gia đạo được bình an lâu dài, lại thêm giàu sang vinh hiển, chẳng cần nhọc sức mưu cầu mà tự nhiên cũng có của cải đem tới.

    Như có người nào đi buôn bán phương xa, hoặc làm quan phó nhậm, cùng tùng quân nhập ngũ mà tụng Kinh Bát Dương này ba biến thì đều được an lành, nhà cửa hưng thạnh, bực người cao sang, con cháu vinh hiển, cha hiền con thảo, trai trung gái trinh, anh nhường em kính, vợ chồng hòa thuận, hết lòng hiếu kính phụng dưỡng song thân, các điều ước nguyện đều được thỏa mãn.

    Bằng có người nào bị quan quyền giam giữ, hoặc bị giặc cướp bắt đi, nên để hết tâm thành tụng Kinh này ba biến thì tức khắc tai qua nạn khỏi.

    Còn như có người thiện nam tín nữ nào thường thọ trì đọc tụng cùng giúp người biên chép Kinh Bát Dương này thì người ấy dầu rủi sa trong nước lửa cũng khỏi bị chìm đắm thiêu đốt, hoặc ở trong núi rừng có nhiều hùm sói thú dữ, chúng nó thấy bóng người tụng Kinh Bát Dương thì đều lánh xa không bao giờ dám hại đến tánh mạng, vì người ấy có các vị thiện thần theo hộ vệ, chẳng những thế mà sau còn chứng được quả Phật nữa.

    Hoặc có người nào miệng lưỡi xảo quyệt hay nói gian dối, thêu dệt, đâm thọc, thô tục, mà người ấy tự biết lỗi chừa bỏ, chuyên đọc tụng Kinh này thì tiêu hết bốn lỗi trước, lại được tài biện thuyết không hề ngăn ngại, rồi sau cũng chứng được quả Phật.

    Này các thiện nam tín nữ, phàm cha mẹ có tội, đến ngày lâm chung, chắc phải đọa vào địa ngục chịu trăm phần khổ não, nếu được con cháu thành tâm tụng Kinh này bảy biến thì cha mẹ thoát khỏi khổ ở địa ngục, thần hồn được sanh lên thiên đường, gặp phật nghe pháp, chứng được pháp nhẫn vô sanh trọn nên Phật đạo.

    Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Kiếp quá khứ, dưới thời đức Phật Tỳ Bà Thi giáo hóa, có hàng nam nữ cư sĩ không hề tin bọn tà sư ngoại đạo mà chỉ tin theo Phật pháp, ra công biên chép Kinh Bát Dương và thường thọ trì đọc tụng Kinh này, muốn làm việc chi thì cứ làm, không cần bói toán, coi ngày lựa giờ chi cả, cứ giữ một lòng tin chân chánh, lại thường làm việc bố thí, cúng dường bình đẳng, nên mới được thân vô lậu, làm nên đạo Bồ tát, rồi sau chứng được quả Phật, hiệu là Phổ Quang Như Lai, thành bực Chánh Giác, kiếp tên Đại Mãn, nước gọi Vô Biên. Nhân dân trong nước ấy đều có tâm chánh tín, tu hành theo hạnh Bồ tát nên mới được hưởng phước báo tốt đẹp như vậy. Ấy cũng do oai lực trì tụng Kinh Bát Dương này.

    Lại nữa Bồ tát Vô Ngại, trong cõi Diêm Phù Đề, chỗ nào có để Kinh Bát Dương này thì đều có tám vị Bồ tát, các vị phạm thiên vương cùng hết thảy thần linh đồng vây xung quanh ủng hộ Kinh ấy. Cho nên người trì tụng Kinh này cần phải sắm sửa hương hoa cúng dường như cúng Phật vậy.

    Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Bằng có thiện nam tín nữ nào giúp các người đời, diễn nói Kinh này, giải rõ cho họ hiểu thấu được thực tướng, thông suốt lý cao sâu huyền diệu, thì liền biết được chân lý của tâm mình, tâm Phật và tâm Pháp. Hiểu biết được lý ấy rồi, tức nhiên trí huệ đầy đủ, sáu căn thanh tịnh.

    Mắt thường thấy biết bao nhiêu là than sắc, song nhờ trí huệ liền nhận biết các than sắc ấy đều thuộc về lý không thật (giả tạm), mà cái không thật kia tạo nên thân sắc này, cho đến thọ tưởng hành thức cũng đều thuộc về lý không thật. Đó tức là Diệu Sắc Thân Như Lai.

    Tai thường nghe biết bao nhiêu là thứ tiếng, song nhờ trí huệ liền nhận biết các thứ tiếng ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên tiếng nói này. Đó tức là Diệu Âm Thinh Như Lai.

    Mũi thường ngửi biết bao nhiêu là mùi hương, song nhờ trí huệ liền nhận biết các mùi hương ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên mùi hương này. Đó tức là Hương Tích Như Lai.

    Lưỡi thường nếm biết bao nhiêu là mùi vị, song nhờ trí huệ liền nhận biết các mùi vị ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên mùi vị này. Đó tức là Pháp Hỷ Như Lai.

    Thân thường cảm thấy biết bao nhiêu là sự đụng chạm êm dịu, song nhờ trí huệ liền nhận biết các sự đụng chạm êm dịu đó đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên sự đụng chạm này. Đó tức là Trí Thắng Như Lai.

    Ý con người thường suy nghĩ phân biệt biết bao nhiêu là việc, song nhờ trí huệ liền nhận biết các việc ấy đều thuộc về lý không thật, mà cái không thật kia tạo nên các việc này. Đó tức là Pháp Minh Như Lai.

    Bằng có thiện nam tín nữ nào thấy sáu căn đều hiển hiện trong nhân gian. Nếu miệng mình nói những điều lành thì nghiệp lành càng thêm nhiều, rồi sẽ làm nên Phật đạo. Còn miệng nói những điều độc ác thì nghiệp ác càng thêm nhiều, ắt phải đọa vào địa ngục.

    Phật bảo Bồ tát Vô Ngại: Về chân lý của việc lành việc ác rất rõ ràng, chẳng nên không tin. Ông nên hiểu thân tâm con người, thật là pháp khí của Phật.

    Cũng như 12 bộ Đại Tạng Kinh đã có từ đời vô thủy đến nay mà tụng hoài vẫn không hết và không hề hao tổn chút nào. Kinh tạng của Như Lai duy có những bực thức tâm kiến tánh mới tỏ biết mà thôi, còn các bực thinh văn, phàm phu làm sao hiểu thấu được.

    Phật lại bảo Bồ tát Vô Ngại nữa rằng:

    Bằng có người nào đọc tụng kinh này mà tỏ ngộ được thực tướng, tức biết thân tâm này chính thật là pháp khí của phật. Còn như người nào say mê đàng dục lạc, không tỉnh giấc mộng hồn, chẳng biết thân tâm mình là căn bổn của Phật pháp, chắc người đó phải trôi nổi trong sáu nẻo luân hồi, đọa đày trong ba đường dữ, đắm chìm liên mien trong biển khổ, không được nghe đến danh từ Phật pháp.

    Lúc đó, có năm trăm vị thiên tử ở trong đại chúng nghe Phật thuyết pháp rồi đều chứng được pháp Nhãn Tịnh, rất đổi vui mừng, liền phát nguyện sẽ tu tới quả vị Phật.



    PHẦN THỨ BA: GIẢI RÕ CHÁNH ĐẠO VỀ VIỆC SANH TỬ TẨN TÁNG


    Bồ tát Vô Ngại lại bạch Phật rằng:

    Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, tất cả người đời đều lấy việc sanh tử là quan trọng, nhưng khi sanh chẳng lựa ngày, hễ tới giờ thì sanh; còn khi chết cũng không lựa ngày, hễ tới giờ thì chết, cớ sao việc tẩn liệm an táng lại phải chọn ngày lành giờ tốt rồi mới tẩn liệm an táng? Nhưng sau khi tẩn liệm an táng rồi thì chỉ thấy tai họa đem tới, phần nhiều con cháu thường nghèo hèn khốn khổ, chứ ít thấy giàu sang vinh hiển. Thỉnh cầu đức Thế Tôn mở lượng từ bi thương xót các người mê tối kia, giảng rõ chánh pháp nhân duyên sanh tử do đâu mà có, khiến cho họ được tỉnh ngộ trở về với chánh đạo, không còn làm những việc sai lầm như trước nữa.

    Phật nói: Lành thay, tốt thay! Ông thật có lòng thương những người mê tối ấy mà cầu hỏi Như Lai về việc sanh tử cùng phép tẩn táng. Vậy ông hãy chú ý mà nghe, tôi nay vì ông mà nói rõ về chân lý của trí huệ và chánh pháp của đại đạo.

    Luận về cái thể trời đất rộng lớn, còn mặt trời mặt trăng vẫn luôn tỏ sáng thì năm tháng ngày giờ đều tốt, không có chi là khác lạ cả.

    Này Bồ tát Vô Ngại, xưa kia ông Nhân Vương Bồ tát có tấm lòng từ bi rộng lớn, thương xót người đời không khác nào cha mẹ thương con, nên mới giáng sanh xuống cõi trần làm vị nhân chủ, cũng như cha mẹ nhân dân.

    Đó rồi mới thuận theo người đời mà dạy bày ra phong tục, làm lịch để biết tính năm tháng ngày giờ, ban truyền trong thiên hạ, cho biết mỗi năm có bốn mùa tám tiết, rồi còn phân ra những ngày trực bình, trực mãn, trực thành, trực thâu, trực khai, trực trừ, trực chấp, trực nguy, trực phá, trực định, trực bế, trực kiên. Những người ngu tối không biết xét theo chân lý mà dùng, lại nhè tin theo văn tự, nên không tránh được tai họa. Chẳng những thế, lại còn rước bọn tà sư về nhà vẽ bùa yểm trấn, nói năng hoang đàng, bày đặt cúng cầu tà thần, lễ tế ngạ quỉ. Làm như thế chỉ gây thêm tội lỗi, rồi tự mình phải chịu lo phiền khổ não.

    Mấy người như vậy chẳng những gây tai họa cho mình mà còn mắc tội trái nghịch chánh lý của trời đất, thành thử không khác nào bỏ ánh sáng của mặt trời mặt trăng mà chui vào chỗ tối, trái hẳn với chánh đạo rộng lớn. Không những thế, lại còn thường kiếm coi kinh sách của tà sư ngoại đạo, đó mới thật là trái ngược vậy.

    Phật lại kêu Bồ tát Vô Ngại mà nói: Ông nên khuyên những thiện nam tín nữ là lúc gần sanh, nên tụng Kinh Bát Dương này ba biến thì sẽ sanh được dễ dàng và rất tốt lành, đứa con ấy sẽ được thông minh trí huệ, đầy đủ phước đức, không sợ chết yểu. Còn trong lúc gần chết, cũng nên tụng Kinh Bát Dương này ba biến thì sẽ được tốt lành không có việc chi làm cho tổn hại cả.

    Này Bồ tát Vô Ngại, ngày nào cũng tốt, tháng nào cũng tốt, cho đến năm nào cũng đều tốt cả. Chẳng có năm tháng ngày giờ nào mà không tốt. Bởi vậy, hễ lo việc tẩn liệm an táng rồi, nên tức thời tụng Kinh Bát Dương này bảy biến rất là tốt lành, không những vong nhân được hưởng phước rất nhiều mà con cháu cũng được giàu sang sống lâu, đến khi lâm chung đều nên Phật đạo.

    Lại nữa Bồ tát Vô Ngại, như chỗ đất mai táng đó, chẳng cần phân Đông Tây Nam Bắc làm gì, thấy cuộc đất ấy được yên ổn, người đời bằng lòng vui thích thì quỉ thần cũng ưng thuận vui thích, nhưng cốt yếu phải tụng Kinh Bát Dương này ba biến rồi sẽ mai táng, xây cất phần mộ, tuyệt nhiên không có tai họa gì cả mà gia đình thân quyến lại giàu sang, thật rất tốt lành.

    Khi đó, đức Thế Tôn muốn nhắc lại nghĩa trên, nên mới nói kệ rằng:

    Ngày nào tính việc cũng đều tốt,

    Giờ nào tẩn táng cũng đều hay,

    Sanh tử cần phải tụng kinh này,

    Thật rất tốt lành nhiều lợi ích.

    Tháng nào cũng là tháng lành hết,

    Năm nào cũng là năm tốt cả,

    Tụng kinh rồi mới lo tẩn táng,

    Muôn đời sung sướng hưởng vinh hoa.

    Lúc ấy trong đại chúng có bảy ngàn muon người nghe Phật thuyết pháp xong, thì long dạ mở mang sáng suốt, bỏ tà theo chánh, vì nhờ nghe pháp của Phật dạy mà dứt hẳn lòng nghi hoặc, cùng đều phát tâm rộng lớn, nguyện sẽ tu đến bực Phật.



    PHẦN THỨ TƯ: LUẬN VỀ VIỆC CƯỚI GẢ Ở ĐỜI

    Lúc bấy giờ, Bồ tát Vô Ngại lại bạch Phật rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, tất cả người đời đều lấy sự cưới gả làm nghĩa than tình, nhưng trước đó, họ còn so đôi tuổi coi có hợp, rồi mới chọn ngày giờ tốt, làm lễ cưới hỏi, nhưng sau ngày thành hôn, thường nhận thấy vợ chồng ăn ở hòa thuận, giàu sang, sống lâu thì ít; còn gặp cảnh nghèo khổ, sanh ly tử biệt thì nhiều.

    Tất cả sự mê tín lựa chọn đó, tại sao kết cuộc lại sai khác như vậy? Ngưỡng cầu đức Thế Tôn dạy rõ về vấn đề đó để chúng tôi được hết sự nghi ngờ.

    Phật nói: Các ông hãy chú ý nghe cho rõ lời ta giải đây. Luận trong trời đất về âm dương cần phải tương đối. Như mặt trời hợp khí âm, mặt trăng hợp khí dương, nước hợp âm, lửa hợp dương, trai hợp âm, gái hợp dương. Ấy là khí trời đất hòa hợp, nên hết thảy cỏ cây đều nương theo khí âm dương mà sanh sôi nẩy nở. Mặt trời mặt trăng xây vần thuận theo bốn mùa tám tiết, mưa nắng điều hòa, tất cả muôn loài mới tồn tại. Trai gái hòa hợp mới sanh sản ra con cháu. Đó là lẽ thường của trời đất, cũng là lý tự nhiên và cũng là vấn đề cần thiết ở đời vậy.

    Này Bồ tát Vô Ngại, những hạng người thiếu học mê tối chẳng biết phân biệt tà chánh, nên tin theo thầy tà bày đặt bói toán để cầu sự tốt lành mà họ lại không chịu làm những việc lành, chỉ cứ gây ra toàn nghiệp ác! Chẳng những khi sanh tiền bị tai họa liên miên mà tới khi mạng chung, họ ít tránh khỏi sa đọa vào ba đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Trong bọn họ, nếu ai được trở lại làm người thì rất ít, ít như chút đất dính nơi đầu móng tay; còn những người bị sa đọa vào ba đường dữ thì rất nhiều, nhiều như đất nơi đại địa vậy.

    Lại nữa, Bồ tát Vô Ngại, những người được trở lại làm người tin theo chánh pháp tu hành chỉ có một số ít, ít như chút đất dính nơi đầu móng tay; còn hạng người mê tín, chuyên gây nghiệp ác thì lại rất nhiều, nhiều như đất nơi đại địa vậy.

    Này Bồ tát Vô Ngại, nếu người đời muốn kết hôn nhơn, chẳng cần phải coi mạng thủy mạng hỏa khắc nhau hay bào thai niên mạng chẳng hợp làm chi, duy chỉ cần coi trong bộ sách Lộc Mạng để biết rõ phước đức của đôi bên nhiều ít, rồi nương theo đó mà kết làm quyến thuộc, song đến ngày cưới, phải tụng kinh này ba biến rồi mới thành thân thì mọi việc đều tốt lành cả, nào cửa cao nhà rộng, hưởng cảnh giàu sang.

    Còn con cháu đều làm nên danh phận, thông minh sang suốt lại thêm tài năng tột chúng, biết ăn ở hiếu thuận kính nhường, thật rất tốt đẹp, không hề có nạn thương vong yểu tử, phước đức đầy đủ. Tất cả về sau đều thành Phật đạo.

    Khi ấy có tám vị Bồ tát nương nhờ oai thần của Phật mà chứng được phép Đại Tổng Trì đều phát nguyện thường ở trong thế gian đồng sanh chung lộn với người đời, đem hết tài năng phá bọn tà giáo để lập lại nền chánh đạo, hầu cứu độ tất cả bốn loài tu tới bực giải thoát.

    Danh hiệu tám vị Bồ tát kể ra như sau:

    1. Bạt Đà Bà La Bồ tát lậu tận hòa.

    2. La Lân Na Kiệt Bồ tát lậu tận hòa.

    3. Kiều Việt Đẩu Bồ tát lậu tận hòa.

    4. Na La Diên Bồ tát lậu tận hòa.

    5. Tu Di Thâm Bồ tát lậu tận hòa.

    6. Nhâm Kỳ Đạt Bồ tát lậu tận hòa.

    7. Hòa Luân Điều Bồ tát lậu tận hòa.

    8. Vô Duyên Quan Bồ tát lậu tận hòa.

    Lúc đó, tám vị Bồ tát đều bạch Phật rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, chúng tôi nhân trước kia nhờ được chư Phật truyền dạy cho phép thần chú đà la ni, nay chúng tôi định đọc thần chú ấy để ủng hộ những người thọ trì đọc tụng Kinh Bát Dương, tuyệt nhiên không có chi lo sợ. Vì thần lực của chú ấy khiến cho hết thảy những loài hung dữ không dám thương tổn đến những vị nào tụng kinh này.

    Ngay lúc ấy, tám vị Bồ tát đồng ra đứng trước Phật mà tụng chú rằng:

    “A dà ni, a dà ni, a tỳ la, mạn lệ, mạn đa lệ, xà lê.”

    Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, bằng có kẻ hung dữ nào muốn đến làm phiền vị đang tụng Kinh Bát Dương, hễ nghe chúng tôi đọc thần chú này, tức thì đầu kẻ ấy sẽ bể ra làm bảy mảnh như nhánh cây A lê vậy.



    PHẦN THỨ NĂM: CHỈ RÕ VỀ TÊN KINH

    Lúc bấy giờ, Bồ tát Vô Biên Thân liền từ chỗ ngồi đứng dậy đi tới trước Phật, quỳ gối chấp tay mà bạch rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, duyên cớ nào tên Kinh lại kêu là Bát Dương? Thỉnh cầu đức Thế Tôn giải rõ cho chúng tôi được hiểu nghĩa lý, khiến cho tất cả được tỏ ngộ bổn tâm, thấu rõ tri kiến của Phật, hầu đoạn trừ hết lòng nghi hoặc.

    Phật bảo Bồ tát Vô Biên Thân rằng: Lành thay lời ông vừa hỏi! Các ông hãy lóng nghe cho rõ, nay tôi sẽ vì đại chúng mà giải rõ nghĩa lý Kinh Bát Dương này.

    Chữ BÁT có nghĩa là phân chia rành rẽ. Còn chữ DƯƠNG thì có nghĩa là giải rõ cái lý đại thừa thành phật. Hiểu thấu được lý ấy thì mới hay phân rành được nhân duyên của tám thức, không có chỗ nào là không thấu hiểu.

    Phật lại nói: Dùng tám thức ấy làm bề ngang, còn chữ Dương Minh làm bề dọc. Ngang dọc phù hợp với nhau tức thành bộ kinh giáo, cho nên mới kêu là Kinh Bát Dương.

    Tám thức ấy là:

    1. Con mắt thấy liền nhận biết sắc tốt hay xấu.

    2. Lỗ tai nghe liền nhận biết tiếng lành hay dữ.

    3. Lỗ mũi ngửi liền nhận biết mùi thơm hay hôi.

    4. Cuống lưỡi nếm liền nhận biết vị mặn hay lạt.

    5. Cái thân đụng tới vật gì liền nhận biết vật ấy mềm hay cứng.

    6. Cái ý biết phân biệt tất cả mọi thứ.

    7. Cái thức Hàm tàng chứa đầy đủ các thứ hột giống.

    8. Còn thức A lại da thì bao trùm hết thảy.

    Như vậy là phân chia rành rẽ cội gốc của tám thức, có chi đâu mà không thấu hiểu. Phải biết hai con mắt thật là Quang Minh Thiên, mà trong Quang Minh Thiên đó, liền hiện ra đức Nhựt Nguyệt Quang Minh Thế Tôn. Hai lỗ tai thật là Thinh Văn Thiên, mà trong Thinh Văn Thiên đó, liền hiện ra đức Vô Lượng Thinh Như Lai.

    Hai lỗ mũi thật là Phật Hương Thiên, mà trong Phật Hương Thiên đó, liền hiện ra đức Hương Tích Như Lai. Cái cuống lưỡi thật là Pháp Vị Thiên, mà trong Pháp Vị Thiên đó, liền hiện ra đức Pháp Hỷ Như Lai.

    Cái thân thật là Tỳ Lô Giá Na Thiên, mà trong Tỳ Lô Giá Na Thiên đó, liền hiện ra đức Thành Tựu Tỳ Lô Giá Na Phật. Người nào tự thấy trong tâm mình có Cảnh Tượng Phật thì liền hiện ra đức Phật Tỳ Lô Giá Na Quang Minh.

    Cái ý thật là Vô Phân Biệt Thiên, mà trong Vô Phân Biệt Thiên đó, liền hiện ra đức Bất Động Như Lai. Cái tâm thật là Pháp Giới Thiên, mà trong Pháp Giới Thiên đó, liền hiện ra đức Không Vương Như Lai.

    Cái thức Hàm tàng thật là Thức Thiên nên mới diễn nói ra Kinh A Hàm và bộ Kinh Đại Bát Nhã Niết Bàn. Còn cái thức A lại da thật là rộng lớn nên mới diễn nói ra bộ Kinh Đại Trí Độ luận và bộ Kinh Lăng Già luận.

    Này Bồ tát Vô Biên Thân, ông nên hiểu: Phật tức là Pháp, mà Pháp cũng tức là Phật, hiệp lại làm một thể tướng liền hiện ra đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai.

    Trong khi Phật nói Kinh Bát Dương này thì hết thảy núi sông đất bằng cùng sáu phương đều chuyển động và lại có ánh sang rực rỡ chiếu khắp trời đất lồng lộng mênh mông không thể kể xiết, tất cả những chỗ tối tăm đều đồng loạt tỏ sáng, cho đến tất cả địa ngục cũng đều tiêu mất, tất cả tội nhân đều được thoát khổ.

    Khi ấy trong đại chúng, có tám muôn tám ngàn vị bồ tát đồng thời chứng quả Phật và cùng chung một hiệu là Không Vương Như Lai, kiếp kêu Ly Cấu.

    Còn một vị Phật xuất thế độ đời bấy giờ tên hiệu là Vô Biên. Hết thảy nhân dân trong kiếp đó đều được quả vị Bồ tát. Vì những người ấy đồng cương quyết tu theo sáu pháp ba la mật, không có lòng phân chia ghen ghét, nên chứng được bực Vô Tranh Tam Muội.

    Có sáu muôn sáu ngàn vị tỳ khưu, tỳ khưu ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ đều chứng được pháp Đại tổng trì, nên hiểu thấu được lý nhứt thừa của Phật.

    Cũng trong hội đó, có vô số hàng trời, rồng, quỉ dạ xoa, thần càn thát bà, thần a tu la, thần ca hầu la, thần khẩn na la, thần ma hầu la dà cùng hàng người và hạng không phải người đều chứng được pháp Nhãn Tịnh, dốc lòng tu hạnh Bồ tát.



    PHẦN THỨ SÁU: LỜI PHÚ CHÚC

    Phật kêu Bồ tát Vô Biên Thân mà nói: Bằng có người nào được làm quan thăng chức, cùng ngày dọn về ở nhà mới, phải trai giới thiết lễ tụng kinh này ba biến thì được lợi lộc rất lớn vì có các vị thiện thần theo ủng hộ, nên nội gia quyến đều được khương ninh trường thọ, phước đức đầy đủ.

    Này Bồ tát Vô Biên Thân! Bằng có thiện nam tín nữ nào phát tâm tụng kinh này một biến thì cũng được phước như tụng hết thảy các bộ kinh một biến. Còn như biên chép kinh này một quyển thì công đức cũng bằng biên chép hết thảy các bộ kinh khác. Kể về công đức thì rất rộng lớn như cõi hư không, chẳng biết đâu là bờ bến mà đo lường được, rồi sau đó, các người ấy cũng đều được thành quả Phật.

    Phật lại bảo Bồ tát Vô Biên Thân: Bằng trong chúng sanh, có người nào không tin chánh pháp của Phật, chấp tâm tà kiến, vừa nghe Kinh Bát Dương này đã buông lời phỉ báng, bảo kinh ấy không phải Phật nói.

    Người ấy trong lúc sanh tiền phải mang bệnh cùi, lở lói đầy người, máu mủ cùng khắp, dơ bẩn tanh hôi, ai trông thấy cũng nhờm gớm.

    Chẳng những thế mà bệnh còn hành cho tới ngày chết, rồi thần hồn phải đọa ngay vào Vô gián địa ngục. Cái ngục này quanh năm suốt tháng bốn bề đều có lửa cháy đỏ rực, trên táp xuống, dưới bốc lên, nóng như thiêu đốt. Lại còn bị quỉ sứ hành hình, lấy giáo nhọn đinh ba đâm nát thân thể, còn cho uống nước đồng sôi làm cho gân xương đều tan nát rã rời. Vì nghiệp báo chưa hết, nên lại được hoàn hình để chịu hành tội, một ngày một đêm chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần. Cứ đành phải chịu cực hình đau khổ như thế, không có giây phút nào ngừng.

    Vì bọn đó không tin chánh pháp, phỉ bang chân kinh, nên mới bị quả báo như vậy!

    Phật vì những người mắc tội đó, nên mới nói bài kệ này:

    Thân này vốn tự nhiên mà có,

    Năm vóc cũng tự nhiên đầy đủ,

    Thân lớn cứ tự nhiên lớn lên,

    Còn già vẫn tự nhiên già lần.

    Sanh ắt tự nhiên phải sanh ra,

    Chết hẳn tự nhiên phải chết mà,

    Muốn cầu sống lâu cũng không được,

    Mà mong chết sớm cũng không xong.

    Sự khổ sự vui do mình tạo,

    Điều tà điều chánh tự mình theo,

    Định muốn khởi làm công việc chi,

    Chí thành tụng kinh chẳng coi bói.

    Ngàn đời muôn kiếp gieo giống lành,

    Chứng đạo bồ đề chuyển pháp luân.



    PHẦN THỨ BẢY: CHỨNG NGỘ LÝ NHIỆM MẦU

    Khi Phật nói kinh này rồi, tất cả đại chúng đều khen xưa nay chưa từng được nghe pháp này. Nay Phật nói cho nghe pháp huyền diệu, nên tâm trí được mở mang trong sáng, vui mừng hớn hở đều hiện bày ra sắc tướng Phật mà chẳng phải tướng Phật vì là không chấp tướng. Thấu được chỗ tri kiến của Phật và tỏ ngộ chỗ tri kiến của Phật mà không chấp sự thấu hiểu và tỏ ngộ đó, và cũng không chấp một pháp nào cả. Như thế mới hiểu được cái vui của cõi niết bàn.

    Khi ấy đức Thế Tôn muốn nhắc lại những lời mầu nhiệm trên, nên nói bài kệ này:

    Thân tướng tốt, sáu căn trọn đủ,

    Muôn ức người lành đã được sanh,

    Hăng hái chuyên làm hạnh bố thí,

    Làm người chẳng xẻn cũng không tham.

    Phụ nữ được nghe pháp này rồi,

    Phát tâm hớn hở rất vui mừng,

    Ngày sau thoát khỏi thân phụ nữ,

    Tái sanh ắt được làm nam tử.

    Các thứ đao binh chẳng hại đặng,

    Độc trùng thú dữ cũng lánh xa,

    Quan quyền cho chí phường giặc cướp,

    Muốn hại người đó cũng không xong.

    Người đời trông thấy đều kính mến,

    Trăm ngàn tai nạn đều tiêu hết,

    Trước sau rốt ráo chẳng bị hại,

    Trai gái ai ai tụng Kinh này,

    Thì được phước đức như trên nói.


    PHẦN THỨ TÁM: PHỤNG HÀNH THỦ HỘI


    Khi bấy giờ, các vị Bồ tát cùng Bồ tát Di Lặc và bốn vị Đại thiên vương đồng bạch Phật rằng: Ngưỡng bạch đức Thế Tôn, chúng tôi cùng nhau phát nguyện ủng hộ Kinh Bát Dương thần chú và xin gắng sức cứu giúp bảo hộ những người nào chí thành tụng kinh này, dầu có mắc bệnh tật chi đi nữa, cũng khiến cho được lành mạnh hết. Rồi đó, các vị Bồ tát cùng ông Xá Lợi Phất và các vị tỳ khưu, tỳ khưu ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, hiệp với hàng trời, rồng, quỉ, thần, a tu la, và chuyển luân thánh vương đồng vui mừng đứng lên đảnh lễ Phật và nguyện để hết lòng tin làm theo chánh pháp của Phật đã dạy.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  3. #3

    Mặc định

    vậy còn cái nào khác ví dụ mua hao quả gì và khấn gì nữa ko các huynh đệ tỷ muội!!!

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi voe Xem Bài Gởi
    vậy còn cái nào khác ví dụ mua hao quả gì và khấn gì nữa ko các huynh đệ tỷ muội!!!
    Bạn ra hiệu sách mua cuốn "Văn khấn cổ truyền Việt Nam" là đầy đủ hết

  5. #5

    Mặc định

    nếu đã tu thiền thiết nghĩ bạn là đệ tử Phật thì nên chỉ thờ một bát nhang Phật thôi, còn thổ công hay gia tiên thì khỏi đi, bạn tu hành tốt quỷ thần khác ủng hộ, còn gia tiên, sau 49 ngày đi đầu thai rồi lấy ai về mà ngự, nên việc mua cuốn khấn nôm kia là không cần thiết và bạn còn ở nước ngoài nữa, mua sao được, mua làm gì? Trong kinh sách Phật phổ thông có lễ an vị Phật đó, bạn nhờ sư thầy xem sao? và trên 4rum còn nhiều cao minh, sẽ giúp bạn, mình chả biết gì, mình chỉ biết mời sư thầy về giúp thôi.
    Tín Đạo chứ không tín Người Hành Đạo.

  6. #6

    Mặc định

    cám ơn chư vị huynh đài!! thực sự thì mình chưa tu thiền đây mới là dự định!!! vì bị ảnh hưởng của Ngoại và Mami mình!! còn như nhờ sư thầy thì khó lắm!! vì bên mình đâu có dze như ở vn :( đi mấy trăm cây số mới có 1 Ngôi chùa!!

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi nghiemducmanh Xem Bài Gởi
    Kinh thiên địa bát dương là kinh bịa đặt. Đức Phật có bao giờ dạy âm dương ngũ hành đâu?
    Bạn nên thận trọng trước khi lộng ngôn bừa bãi. Tin hay không thì tùy bạn, nhưng không nên phỉ báng kẽo sau này phải lãnh quả báo ác.

    Bằng trong chúng sanh, có người nào không tin chánh pháp của Phật, chấp tâm tà kiến, vừa nghe Kinh Bát Dương này đã buông lời phỉ báng, bảo kinh ấy không phải Phật nói.

    Người ấy trong lúc sanh tiền phải mang bệnh cùi, lở lói đầy người, máu mủ cùng khắp, dơ bẩn tanh hôi, ai trông thấy cũng nhờm gớm.

    Chẳng những thế mà bệnh còn hành cho tới ngày chết, rồi thần hồn phải đọa ngay vào Vô Gián địa ngục. Cái ngục này quanh năm suốt tháng bốn bề đều có lửa cháy đỏ rực, trên táp xuống, dưới bốc lên, nóng như thiêu đốt. Lại còn bị quỉ sứ hành hình, lấy giáo nhọn đinh ba đâm nát thân thể, còn cho uống nước đồng sôi làm cho gân xương đều tan nát rã rời. Vì nghiệp báo chưa hết, nên lại được hoàn hình để chịu hành tội, một ngày một đêm chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần. Cứ đành phải chịu cực hình đau khổ như thế, không có giây phút nào ngừng.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  8. #8

    Mặc định

    Bạn chủ thớt nên đi tìm hẳn một vị thầy mà bạn đã theo lâu và bạn chắc chắn là thầy thật rồi xin vị đó chúc phúc là được. Không phải lúc nào cũng phải làm lễ. Bạn không nên nhờ những thầy mà bạn không biết rõ, cũng đừng nên làm các nghi lễ mà bạn không hiểu rõ cách nó hoạt động vì làm thế thì đôi lúc họa còn nhiều hơn phúc.

  9. #9

    Mặc định

    thật ra thì mình sống độc thân!!! thấy mọi người vào nhà mới hay mua hoa quả rồi khấn!! mình thì ko giõ lắm lên mới hỏi các chư vị xem có cách nào đơn giản và khấn gì ko!! đơn giản là ví dụ khấn thổ địa cho xin nhập trạch chẳng hạn!! và khấn thế nào đại khái vậy!!

  10. #10

    Mặc định

    VĂN KHẤN THỔ CÔNG
    。。。
    _Nam Mô A Di Đà Phật
    _Kính lạy 10phương Tam Bảo,chư đại Bồ Tát,Hộ Pháp,Thánh Tăng
    _Kính lạy Ngũ phương Long Mạch,Tiền-Hậu Chủ Tài Thần
    Thành Hoàng bản Thổ,Thổ Địa Đại Vương,Long mạch Thổ Thần
    _Kính lạy Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần quân...
    _Hôm nay ngày...
    _Kim thần tín chủ ngụ tại...
    _Kính thiết kim ngân, lễ vật hiến cúng Thành Hoàng bản Thổ, Thổ Điạ Đại Vương cập chư vị Tôn Thần đồng lai hợp toạ.
    ...

  11. #11

    Mặc định

    ( tiếp )
    _Tiên hiến hương, thứ hiến hoa, nhất tuần thượng thực, khuyên ẩm tửu
    _Nhị tuần thượng thực khuyên ẩm tửu
    _Tam tuần thượng thực khuyên ẩm tửu. Tửu hiến tam tuần
    _Cập cam kỳ cốc vô, minh đăng tài mã, nguyện kỳ nạp thụ, chứng giám tâm thành phù trì tín chủ... gia nội bình an, lộc tài vượng tiến.
    _Tín chủ đầu thành cẩn duy phụng hiến.
    ___ Kính cáo ! ___

  12. #12

    Mặc định

    Người và thần mỗi loài một cảnh giới, người có cảnh giới của người, thần có cảnh giới của thần. Con người sinh ra, tồn tại, cư trú trên mặt đất này tức là mặt đất này chính là cảnh giới của con người. Con người bằng nỗ lực của chính mình, kiếm tiền xây nhà, mua nhà, có liên quan gì tới thần thánh? Cớ sao khi vào nhà của mình, quyền sở hữu của mình mà phải xin phép thánh thần? Trừ khi có duyên nợ tương báo với người âm hoặc nhà xây đè lên mộ phần của người âm thì mới có những chuyện kỳ lạ xảy ra chứ còn việc nhà của con người thì con người cứ sinh sống, không liên quan gì đến thần thánh.
    Nao nao trăng thiên cổ
    Quạnh quạnh hồi chuông khuya
    Áo thiền mây lãng đãng
    Chân mộng ý không lìa

  13. #13

    Mặc định

    NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
    NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
    (Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm)
    TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN:
    Án lam tóa ha. (3 lần)
    TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN:
    Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)
    (Chủ lễ thắp ba cây hương quỳ ngay thẳng cầm hương ngang trán niệm bài cúng hương).
    CÚNG HƯƠNG
    Nguyện thử diệu hương vân,
    Biến mãn thập phương giới,
    Cúng dường nhứt thiết Phật,
    Tôn pháp chư Bồ tát,
    Vô biên Thanh văn chúng,
    Cập nhứt thiết Thánh Hiền,
    Duyên khởi quang minh đài,
    Xứng tánh tác Phật sự,
    Phổ huân chư chúng sanh,
    Giai phát Bồ đề tâm,
    Viễn ly chư vọng nghiệp,
    Viên thành Vô thượng đạo.
    (Xá 3 xá rồi tùy ý cầu nguyện việc gì, hãy chí thành tác bạch như sau)
    KỲ NGUYỆN
    Tứ bát đoan nghiêm vi diệu tướng
    Tam kỳ quả mãn kiếp tu lai
    Diện như mãn nguyệt mục như liên
    Thiên thượng nhân gian hàm cung kỉnh.
    Như Lai đức tướng, nan tận tán dương, kim hữu đệ tử (tên họ và pháp danh) cầu (cầu nguyện việc gì hãy nói rõ ra) cung đối Phật tiền, hào tướng quang trung, phù thùy minh chứng.
    (Ðứng dậy cắm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm bài tán dương Phật bảo như sau. Nếu đông người thì các chúng đều đọc)
    TÁN PHẬT
    Pháp vương Vô thượng tôn
    Tam giới vô luân thất
    Thiên nhơn chi Ðạo sư
    Tứ sanh chi Từ phụ
    Ư nhứt niệm quy y
    Năng diệt tam kỳ nghiệp
    Xưng dương nhược tán thán
    Ức kiếp mạc năng tận.
    QUÁN TƯỞNG
    Năng lễ, sở lễ tánh không tịch,
    Cảm ứng đạo giao nan tư nghì,
    Ngã thử đạo tràng như Ðế châu,
    Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
    Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
    Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
    Đảnh Lễ
    - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam bảo. (1 lạy)
    - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta bà Giáo chủ Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Ðại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Ðại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ pháp Chư tôn Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)
    - Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới Ðại từ Ðại bi A Di Ðà Phật, Ðại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Ðại nguyện Ðịa Tạng vương Bồ tát, Thanh tịnh Ðại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)
    (Ðứng ngay ngắn, vô chuông mõ và đồng tụng):
    TÁN DƯƠNG CHI
    Dương chi tịnh thủy,
    Biến sái tam thiên,
    Tánh không bát đức lợi nhơn thiên,
    Pháp giới quảng tăng diên…
    Diệt tội tiêu khiên,
    Hỏa diệm hóa Hồng liên.
    Nam mô Thanh Lương Ðịa Bồ tát. (3 lần)
    BÀI TỰA CHÚ LĂNG NGHIÊM
    Nam mô Lăng Nghiêm Hội thượng Phật Bồ tát. (3 lần)
    Diệu trạm tổng trì bất động tôn,
    Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hi hữu,
    Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng.
    Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân,
    Nguyện kim đắc quả thành bảo vương,
    Hườn độ như thị hằng sa chúng,
    Tương thử thâm tâm phụng trần sát,
    Thị tắc danh vi báo Phật ân,
    Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh,
    Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập,
    Như nhứt chúng sanh vị thành Phật,
    Chung bất ư thử thủ nê hoàn.
    Ðại hùng đại lực đại Từ bi,
    Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc,
    Linh ngã tảo đăng Vô thượng giác,
    Ư thập phương giới tọa đạo tràng;
    Thuấn nhã đa tánh khả tiêu vong,
    Thước ca ra tâm vô động chuyển.
    Nam mô thường trụ thập phương Phật.
    Nam mô thường trụ thập phương Pháp.
    Nam mô thường trụ thập phương Tăng.
    Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    Nam mô Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm.
    Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
    Nam mô Kim Cang Tạng Bồ tát.
    Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bá bảo quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bá bảo quang minh, nhứt nhứt quang minh, giai biến thị hiện, thập hằng hà sa, Kim Cang mật tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới, đại chúng ngưỡng quan, úy ái kiêm bảo, cầu Phật ai hựu, nhứt tâm thính Phật, vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú:
    Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha. (3 lần)
    (Câu này tụng 3 lần)
    Bồ tát liểu đầu Cam lồ thủy
    Năng linh nhứt đích biến thập phương
    Tinh chuyên cấu uế tịnh quyên trừ
    Linh thử đạo tràng tất thanh tịnh.
    Nam mô Cam Lồ Vương Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
    Giáo hữu mật ngôn cẩn đương trì tụng
    CHÚ ÐẠI BI
    Nam mô Ðại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
    Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni.
    Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ Bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha.
    Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
    Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha.
    Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha.
    TÁN PHẬT
    Phật thân thanh tịnh tợ lưu ly,
    Phật diện du như mãn nguyệt huy,
    Phật tại thế gian thường cứu khổ
    Phật tâm vô xứ bất từ bi.
    Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (30 lần)
    Nam mô Ðương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. (3 lần)
    Nam mô Cực Lạc Thế Giới A Di Ðà Phật. (3 lần)
    Nam mô Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ tát. (3 lần)
    Nam mô Ðạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ tát. (3 lần)
    (Toàn thể đều tụng Tâm Kinh)
    MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ÐA TÂM KINH
    Quán Tự Tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách.
    Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
    Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố, không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thinh hương, vị, xúc, pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ đề Tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.
    Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố, đắc A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề. Cố tri Bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thế khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú. Tức thuyết chú viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha.
    Nguyện trú kiết tường, dạ kiết tường
    Trú dạ lục thời hằng kiết tường
    Nhứt thiết thời trung kiết tường giả
    Nguyện chư Thượng sư ai nhiếp thọ.
    Nguyện trú kiết tường, dạ kiết tường
    Trú dạ lục thời hằng kiết tường
    Nhứt thiết thời trung kiết tường giả
    Nguyện chư Tam bảo ai nhiếp thọ.
    Nguyện trú kiết tường, dạ kiết tường
    Trú dạ lục thời hằng kiết tường
    Nhứt thiết thời trung kiết tường giả
    Nguyện chư Hộ Pháp thường ủng hộ.
    Nam mô Tiêu tai giáng kiết tường Bồ tát. (3 lần)
    BÀI SÁM NGUYỆN
    Ngưỡng nguyện Bổn sư Vô Lượng Thọ
    Quán Âm, Thế Chí, Thánh Hiền Tăng
    Ðồng triển oai quang phổ chiếu lâm
    Cọng tứ minh gia hàm cứu bạt.
    Vô thỉ kim sanh chư tội chướng
    Lục căn tam nghiệp chúng khiên vưu
    Nhứt niệm viên quang tội tánh không
    Ðẳng đồng pháp giới hàm thanh tịnh.
    HỒI HƯỚNG
    An vị công đức thù thắng hạnh,
    Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
    Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
    Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
    Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
    Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
    Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
    Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
    Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ trung,
    Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu,
    Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
    Bất thối Bồ tát vi bạn lữ.
    Nguyện dĩ thử công đức,
    Phổ cập ư nhứt thiết,
    Ngã đẳng dữ chúng sanh,
    Giai cộng thành Phật đạo.
    PHỤC NGUYỆN
    Nam mô A Di Ðà Phật.
    Hiện tiền chư Phật tử…. đẳng, thân xu khương thới, mạng vị bình an, tứ thời vô tiêm tiểu chi tai, bát tiết hữu trùng lai chi khánh. Phổ nguyện: gia đình hưng thạnh, quyến thuộc tăng phước hoàn duyên, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo.
    (Ðồng niệm)
    Nam mô A Di Ðà Phật.
    TAM QUY Y
    Tự quy y Phật,
    Đương nguyện chúng sanh,
    Thể giải đại đạo,
    Phát Vô thượng tâm. (1 lạy)
    Tự quy y Pháp,
    Đương nguyện chúng sanh,
    Thâm nhập kinh tạng,
    Trí huệ như hải. (1 lạy)
    Tự quy y Tăng,
    Đương nguyện chúng sanh,
    Thống lý đại chúng,
    Nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
    Hòa Nam Thánh Chúng
    Tín Đạo chứ không tín Người Hành Đạo.

  14. #14

    Mặc định

    Bạn cũng không có bát hương thì đốt hương trầm cũng được, mình nghĩ quan trọng Phật tại tâm, không có bàn thờ Phật cũng không sao, có là tốt, nhưng mình nghĩ bạn nên thỉnh tượng hay tranh Phật để chúng ta luôn quán tưởng đến hình ảnh Ngài, hàng ngày lễ bái,...
    Tín Đạo chứ không tín Người Hành Đạo.

  15. #15

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi voe Xem Bài Gởi
    thật ra thì mình sống độc thân!!! thấy mọi người vào nhà mới hay mua hoa quả rồi khấn!! mình thì ko giõ lắm lên mới hỏi các chư vị xem có cách nào đơn giản và khấn gì ko!! đơn giản là ví dụ khấn thổ địa cho xin nhập trạch chẳng hạn!! và khấn thế nào đại khái vậy!!
    hậu quả tai hại của việc phát triển tư tưởng của phật đây làm cho con người lương thiện thế này hướng vào điều bất thiện vì tin vào mấy ông thầy rởm nếu việc khấn vái để xin sỏ mà được quả thật không có gì lãi bằng vài đồng bạc mà ích lợi to lớn vô cùng thử hỏi ai còn phấn đấu lao động cơ cực nữa bạn cú ngẫm xem ở đời cứ lợi mình thì hại người ai cũng muốn hưởng vượt quá sức lao động mình bỏ ra thì nhân quả có công bằng không

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Hành trình một linh hồn
    By TuTam in forum Thông thiên học
    Trả lời: 33
    Bài mới gởi: 18-10-2013, 02:27 PM
  2. Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 24-06-2011, 10:10 PM
  3. bí ẩn ngôi nhà hoang
    By __LINH__ in forum Chuyện Ma, Quỉ
    Trả lời: 96
    Bài mới gởi: 30-04-2011, 12:36 PM
  4. TỬ VI KIẾM TÔNG-KIM HẠC
    By thaiduong162 in forum Tử Vi
    Trả lời: 34
    Bài mới gởi: 30-04-2011, 10:20 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •