Trang 1 trong 6 123456 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 115

Ðề tài: Giải Thoát Trong Lòng Tay

  1. #1

    Mặc định Giải Thoát Trong Lòng Tay

    GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY
    Một bài giảng khúc chiết về con đường đạt đến giác ngộ

    (Liberation in the Palm of Your Hand-
    Aconcise discourse on the path to enlightenment)
    [hr]

    Pabongka Rinpoche
    Edited by Trijang Rinpoche
    Translated by Michael Richards
    Thích Nữ Trí Hải dịch


    MỤC LỤC
    - Lời giới thiệu
    Pabongka Rinpoche
    Lam-rim
    Lời dẫn nhập của Trijang Ripoche

    - Phần một: Những chuẩn bị sơ khởi
    01. Ngày thứ nhất
    02. Ngày thứ hai
    I. Tính cách vĩ đại của những tác giả nói lên để chứng tỏ nền giáo lý này có một nguồn gốc trong sạch.
    03. Ngày thứ ba
    II. Tính cách vĩ đại của pháp được nói để tăng niềm kính pháp.
    III. Cách thích đáng để giảng dạy và lắng nghe nền giáo lý có hai vĩ đại ấy.
    - Phần hai: Những nghi thức chuẩn bị
    04. Ngày thứ tư
    IV. Thứ tự những chỉ giáo thực thụ
    05. Ngày thứ năm
    a. Thành phần thứ nhất: Kính lễ
    b. Thành phần thứ hai: Cúng dường
    06. Ngày thứ sáu
    c. Thành phần thứ ba: Sám hối tội lỗi
    d. Thành phần thứ tư: Hoan hỉ
    e. Thành phần thứ năm: Thỉnh chuyển pháp luân
    f. Thành phần thứ sáu: Thỉnh cầu ruộng phước đừng nhập Niết bàn
    - Phần ba: Nền tảng của Ðạo lộ
    07. Ngày thứ bảy
    08. Ngày thứ tám
    09. Ngày thứ chín
    10. Ngày thứ mười
    11. Ngày mười một
    12. Ngày mười hai
    13. Ngày mười ba
    - Phần thứ tư: Phạm vi trung bình
    14. Ngày mười bốn
    15. Ngày mười lăm
    - Phần thứ năm: Phạm vi lớn
    16. Ngày mười sáu
    17. Ngày mười bảy
    18. Ngày mười tám
    19. Ngày mười chín
    20. Ngày hai mươi
    21. Ngày hai mươi mốt
    22. Ngày hai mươi hai
    23. Ngày hai mươi ba
    24. Ngày hai mươi bốn
    - Lời cuối sách của Trijang Rinpoche
    - Phụ lục 3
    Ba nòng cốt của Ðạo lộ
    - Phụ lục 4
    Trang hoàng yết hầu những người may mắn
    - Phụ lục 5
    Pháp luyện tâm bảy điểm
    Gia Đình Vô Hình

  2. #2

    Mặc định

    Lời giới thiệu

    Năm 1921, khoảng bẩy trăm tăng ni cư sĩ tụ họp tại am thất Chuzang gần Lhasa để nghe pháp tu Lam-rim do bậc thầy Kyabie Pabongka Rinpoche giảng. Suốt ba tuần lễ kế tiếp họ được hấp thụ những thời pháp nổi tiếng nhất đã từng được giảng ở Tây Tạng.
    Từ ngữ “Lam-rim” có nghĩa là những bước tiến đến giác ngộ. Nó ám chỉ một số giáo lý đã được phát huy tại Tây Tạng trong một ngàn năm qua, dựa trên tác phẩm cô đọng khúc chiết của bậc thầy Atisha người Ấn, nhan đề Dipankàra Shrijnàna (Ngọn Ðèn Soi Ðường) soạn vào khoảng năm 982-1054. Tác phẩm Giải Thoát Thoát Trong Lòng Tay này là tinh túy truyền thống Lam-rim Tây Tạng. Ðối với người Tây phương, sách này đã thành một trong những giáo lý ý nghĩa nhất về Lam-rim.
    Trên hai ngàn năm trăm năm trước, Phật Thích Ca đã trải qua bốn mươi lăm năm giảng dạy giáo lý một cách rộng rãi cho vô số người thuộc nhiều hạng khác nhau. Ngài không thiết kế sẵn những bài giảng, mà tùy theo nhu cầu tâm linh của thính giả. Bởi thế, bất cứ ai khảo cứu toàn bộ tác phẩm của Ðức Phật cũng thấy thực khó tìm cho ra một con đường rõ rệt để áp dụng thực hành. Tầm quan trọng của pháp Lam-rim do Atisha kết tập là, ngài đã sắp xếp lại những lời giảng dạy của đức Phật theo một trât tự hợp lý, vẽ ra một đường lối từng bước một để bất cứ ai muốn theo cũng có thể hiểu và thực hành được, dù người ấy thuộc trình độ nào.
    Không những luận sư Atisha y cứ vào những gì Phật thuyết, mà ngài còn mang theo đến Tây Tạng những giáo lý truyền khẩu còn lưu hành qua một hệ truyền thừa không gián đoạn, cả về lý thuyết (tuệ giác) lẫn thực hành (pháp tu để đạt tuệ giác ấy), truyền từ đức Phật đến hai ngài Di Lặc (Maitreya) và Văn Thù (Manjusri) xuống đến Vô Trước và Long Thụ (Nagarjuna) và nhiều luận sư vĩ đại khác của xứ Ấn cho đến những bậc thầy của luận sư Atisha. Như vậy, không những Atisha đã viết những van bản Lam-rim đầu tiên, mà ngài còn thu thập những giáo lý khẩu truyền vô cùng quan trọng tồn tại đến ngày nay, được giảng dạy cho người tây phương nhờ những vị tu sĩ vĩ đại đương thời như đức Dalai Lama thứ mười bốn.
    Ðồ đệ của Atisha lập thành một tông phái lấy tên là Kadam, phần lớn những truyền thống của phái này được phái Gelug (mũ vàng hay Hoàng mạo) của Phật giáo Tây Tạng hấp thụ. Phái Gelug do Tsongkapa (1357-1419) sáng lập. Nhiều tu sĩ phái Kadam và Gelug viết những luận giải Lam-rim, nổi tiếng là kiệt tác của Tsongkapa nhan đề Những giai đoạn chính của Con đường tu tập (Lam-rim Chen-mo): năm 1921 Pabongka Rinpoche đã giảng dạy dựa trên cơ cấu của tác phẩm này, những bài pháp mà về sau đã được tập hợp thành tác phẩm GIẢI THOÁT TRONG LÒNG TAY. Tuy nhiên, trong khi tác phẩm của Tsongkapa có tính bác học thì tác phẩm của Pabongka lại tập trung nhiều hơn vào việc đáp ứng nhu cầu thực hành cho những hành giả. Tác phẩm này đi vào chi tiết khi bàn các vấn đề như làm thế nào để chuẩn bị cho thiền, pháp Ðạo sư Du già và sự phát bồ đề tâm. Bởi thế sách Giải thoát này là một tác phẩm đặt trọng tâm ở thực hành, phù hợp với những hành giả phương tây trong thời đại này cũng như với Phật tử Tây Tạng sống ở tây phương.
    Trong số những người có mặt tại pháp hội vào năm 1921 là Kyabje Trijang Dorje Chang (1901-1981) một trong những đệ tử thân cận Pabongka Rinpoche, về sau là thầy giáo đạo cho đức Dalai Lama thứ 14 và là bổn sư của nhiều lạt ma thuộc phái mũ vàng (Gelug) đào thoát khỏi Tây Tạng vào năm 1959. Trijang Rinpoche ghi chú những lời giảng dạy của thầy mình, và suốt 37 năm sau đó đã khổ công duyệt lại những ghi chú ấy cho đến khi tác phẩm sẵn sàng để được ấn loát thành tác phẩm Giải thoát trong lòng tay, bằng Tạng ngữ.
    Pabongka Rinpoche có lẽ là vị lạt ma mũ vàng có nhiều ảnh hưởng nhất của thế kỷ này. Ngài nắm giữ tất cả những trường phái quan trọng về kinh giáo và mật điển, và truyền lại cho hầu hết những tu sĩ xuất sắc nhất của Hoàng mạo phái trong hai thế hệ kế tiếp. Bảng kê những bài thuyết giảng khẩu truyền của ngài thật vĩ đại cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Ngài cũng là bổn sư của Kyabje ling Rinpoche (1903-1983), vị phó đạo của đức Dalai Lama thứ 14, và của nhiều bậc tôn sư khác rất được kính nể. Toàn bộ tác phẩm của ngài chiếm mười lăm pho sách lớn, bao gồm mọi khía cạnh giáo lý Phật. Ai đã từng thụ giáo với một vị tu sĩ thuộc Hoàng mạo phái, đều chịu ảnh hưởng của Pabongka Rinpoche. Một tác phẩm tương tự quyển sách này có lẽ sẽ không bao giờ được viết trở lại, vì lẽ đó mà tôi nói sách này là cao điểm của giáo lý thuộc truyền thống Lam-rim.
    Có bốn trường phái chính trong Phật giáo Tây Tạng, trường phái nào cũng có giáo lý Lam-rim riêng, nhưng phái Nyingma, Sakya và Kagyn không nhấn mạnh nhiều đến Lam-rim như phái Gelug. Mặc dù thông thường, trong chương giảng dạy ở các tu viện Hoàng mạo pháp, pháp Lam-rim chỉ được giảng dạy cho các tu sĩ vào giai đoạn thuần thục của họ trên đường tu tập, song với người tây phương, pháp này lại thường được giảng dạy trước tiên. Và đấy là giáo lý mà những bậc thầy thuộc Hoàng mạo phải thường giảng dạy nhiều nhất; nó là sở trường của đức Dalai Lama, của hai vị giáo đạo ngài Serkong Rinpoche, Song Rinpoche, và những vị pháp sư uyên bác như geshe Ngawang Dhargyey, geshe Rabten, geshe Sopa, Lama Thubten Teshe và Lama Thubten Zopa Rinpoche.
    Trong lời Dẫn nhập ngắn gọn của ngài, Kyabje Trijang Rinpoche cho độc giả thấy thực diễm phúc như thế nào để được dự pháp hội năm ấy. Quả thế, sách này là tác phẩm rất hiếm có trong số những kinh sách Tây Tạng, ở chỗ nó là bút ký của một nền giáo lý khẩu truyền chứ không phải là một luận văn. Do vậy, không những chúng ta nhận được một số lời dạy rất quý báu, nghĩa là tinh yếu của tám Lam-rim nòng cốt, mà chúng ta còn thấy được bằng cách nào những lời giảng ấy đã được giảng dạy ở Tây Tạng. Những điểm chi tiết về những nét đặc sắc của giáo lý này có thể tìm thấy trong phần giới thiệu của Trijang Rinpoche vào cuối Ngày thứ Nhất.
    Mỗi chương tương ứng với một ngày giảng dạy, thường khởi đầu bằng một mẫu chuyện ngắn để khơi dậy nơi người nghe một động lực tốt. (Muốn biết qua chi tiết toàn thể tiến trình đưa đến giác ngộ theo cách trình bày trong sách này, xin xem dàn bài trang 5). Trong đây, phần động lực tu tập đã được giản lược, những chương đầu, Ngày thứ Nhất, nói đầy đủ về động cơ và trình bày một cách tuyệt hảo toàn thể pháp Lam-rim. Có thể nói toàn bộ tác phẩm chỉ là một bình giảng về chương này. Pabongka Rinpoche luôn luôn khai thị sự phát bồ đề tâm là cách ý nghĩa nhất để lèo lái cuộc đời ta, và những nhận thức tuần tự được đúc kết trong Ngày thứ Nhất đưa ta đến mục đích ấy. Ở phần cuối sách, ngài nói, “Hãy làm bất cứ gì bạn có thể làm, để chứng tỏ sự giảng dạy của tôi không là công uổng... Nhưng trên hết, hãy làm sao để việc phát bồ đề tâm là pháp tu chính yếu của bạn.
    Những giáo lý này chứa đựng nhiều điều mới mẻ xa lạ, nhất là đối với người tây phương, nhưng nếu kiên trì học hỏi và tư duy, hành giả sẽ được sáng tỏ.
    Ghi chú về bản dịch Anh ngữ:
    Tôi (Michael Richards) đã cố làm cho bản dịch càng dễ đọc càng hay, mà không mất sự chính xác. Tuy nhiên, vì tác giả Trijang Rinpoche vốn là một thi sĩ nổi tiếng, chắc chắn bản dịch này đã mất đi một phần vẻ đẹp của bản văn Tạng ngữ. Dù sao tôi nghĩ tôi cũng đã duy trì được bản chất bình dị tự nhiên của những bài giảng của Pabongka Rinpoche, và đem lại cho bản dịch tính chất trực chỉ đầy năng lực của nguyên tác.
    Ðể giúp độc giả tây phương dễ hiểu, tôi đã trình bày tài liệu này theo một cơ cấu có hệ thống mà bản Tạng ngữ không có. Có tất cả mười một phân đoạn mà nguyên bản không phân chia. Những tiêu đề tóm tắt đại ý được trình bày trong phần Phụ lục 1, có thể xem như một bảng mục lục chi tiết.
    Tôi không dịch tất cả những tiếng Phạn, mà để nguyên từ nào không có tương đương Anh ngữ. Chẳng thà như vậy còn hơn là đặt ra một từ Anh mà có lẽ đối với độc giả còn xa lạ hơn danh từ tiếng Phạn. Vả lại càng ngày càng có nhiều từ Phạn ngữ về Phật học trong các từ điển Anh ngữ.
    Xin chân thành tri ân Bổn sư Gen Rinpoche Geshe Ngawang Dhargyey người đã giảng dạy bản văn này tại Thư viện tàng trữ những tác phẩm và văn khố của Tây Tạng, và đã khẩu truyền cho tôi toàn bộ tác phẩm vào năm 1979. Tôi cũng rất tri ân Amchok Rinpoche, người đã nổ lực làm việc suốt năm năm để duyệt lại toàn bộ tác phẩm, cải thiện bản dịch này với những đề nghị tuyệt hảo. Gala Rinpoche cũng đã giúp tôi khi dịch Ngày thứ 11 và 12 tại Úc vào năm 1980-1981, và Rilbur Rinpoche, một trong số ít những đệ tử còn sống sót của Pabongka Rinpoche, đã cho tôi những hồi ức về bậc thầy của mình; đối với cả hai vị, tôi đều chân thành ghi ân.
    Tôi cũng cảm ơn nhiều bằng hữu và cọng sự ở Dharamsala về sự trợ giúp, khuyến khích và nâng đỡ của họ: Losang Gyatso, lúc bấy giờ là người thông dịch cho Geshe Dhargyey, đã đề nghị tôi dịch sách này; Gyatsho Tshering và các cọng sự tại thư viện Tây Tạng; Jean Pierre Urolixes, Mervyn Stringer cùng tất cả mọi người ở bệnh viện Delek về sự giúp đỡ của họ trong thời gian tôi bị tai nạn giao thông vào năm 1983; cám ơn David Stuart đã lấy lại bản dịch thảo Ngày Chín và Mười từ Jammu, ở đấy bản dịch được hoàn tất sau tại nạn; cảm ơn Cathy Graham và Jeremy Russell đã có những gợi ý quý giá để cải thiện bản thảo; cảm ơn mẹ tôi và cha đã quá cố, những người luôn nâng đỡ tôi: cảm ơn Alan Hanlay, Lisa Heatdh và Michael Perrott; cảm ơn các bạn Keith Kevan và Andy Brennand; và Angela người vợ thân yêu đã san sẻ tất cả những khó nhọc mà công việc lâu dài đem lại. Nàng luôn luôn kiên nhẫn và hy vọng; sự khuyến khích và hy sinh của nàng là vô bờ bến.
    Cuối cùng, tôi xin ghi ơn Eva Van Dam và Robert Beer về những minh họa tuyệt hảo của họ, Gareth Sparham và Trisha Donnelly về cuộc phỏng vấn Rilbur Rinpoche, ghi ơn thầy Sonam Jampa đã viết chỉ mục (Index) và những vị trong nhà xuất bản Widom về ian ấn sách này: Nick Ribush, Robina Courtin, Sarah Thresher, Lydia Muellbaauer và Maurice Walshe.
    Gia Đình Vô Hình

  3. #3

    Mặc định

    Đôi nét về Ngài Pabongka Rinpoche
    Do Rilbur Rinpoche ghi lại
    [hr]
    Pabongka Rinpoche Thầy tôi, người tử tế trong ba cách, người đã giáp mặt thần Heruka, người mà tôi cảm thấy khó nỗi thốt lên danh hiệu Lord Pabongka Vajradhra Dechen Nyingpa Pael Zango, sinh ở miền Bắc Lhasa vào năm 1878. Thân phụ ngài là một quan chức nhỏ nhưng gia đình ngài không giàu lắm.

    Lúc ngài ra chào đời, có ánh sáng chiếu khắp phòng, mặc dù đang đêm tối mịt, và bên ngoài, người ta trông thấy một vị thần hộ mạng đứng trên mái nhà.

    Pabongka Rinpoche là một hóa thân của học gia vĩ đại Jangkya Rolpao Dorje (1717-1786), trong khi trước đấy ngài là tái sinh
    của một vị geshe uyên bác ở tu viện Sera-mae. Ngài nhập viện vào năm lên bảy, theo học chương trình thông thường của tu sĩ, lấy bằng geshe (tiến sĩ Phật học) và theo học hai năm ở Ðại học Mật giáo Gyutoe. Bổn sư của ngài là Dagpo Lama Rinpoche Jampeal Lhuendrub Gyatso, ở Lhoka. Ngài hẳn là một vị bồ tát hóa thân, và Pabongka Rinpoche là đệ tử đầu của ngài. Ngài sống trong một hang động ở Pasang và việc hành trì chính yếu của ngài là bồ đề tâm; thần hộ mạng của ngài là Quán Tự Tại (Avalokitesvara). Ngài thường niệm câu thần chú OM MANI PADME HUM mỗi đêm năm vạn lần. Khi lần đầu gặp Dagpo Rinpoche tại một lễ tsog ở Lhasa, Kyabje Pabongka đã xúc động đến rơi lụy vì niềm kính ngưỡng.
    Xong khóa học, Pabongka Rinpoche viếng thăm Dagpo Lama Rinpoche trong động của ngài, và được đưa đến một nơi nhập thất tu Lam-rim gần đấy. Dagpo Lama Rinpoche cho một đề mục Lam-rim để Pabongka Rinpoche về thiền quán, rồi sau đó trở lại trình bày chỗ mình đã ngộ. Dagpo lại dạy một pháp khác để thiền quán, cứ thế tiếp tục trong mười hai năm (hỏi còn chuyện gì lạ lùng hơn thế!)
    Pabongka có bốn đại đệ tử là Kyabje Ling Rinpoche, Kyabje Trijang Rinpoche, Khangsar Rinpoche và Tathag Ringpoche, một vị nhiếp chính của Tây Tạng. Vị này là thấy giáo đạo chính của đức Dalai Lama khi ngài còn thơ ấu và là người đã thế phát quy y cho ngài
    Tôi sinh ở tỉnh Kham về phía đông Tây Tạng, trong số những vị thầy đầu tiên của tôi có hai vị là đệ tử của Pabongka Rinpoche. Bởi thế tôi lớn lên trong bầu không khí tin tưởng tuyệt đối vào Pabonka như là tin chính đức Phật. Một trong hai vị thầy của tôi có một tấm ảnh của Pabongka Rinpoche đang nhỏ những giọt cam lộ từ giữa hai lông mày. Chính mắt tôi trông thấy chúng, bởi thế, các bạn có thể tưởng tượng tôi sung sướng xiết bao khi cuối cùng tôi được diện kiến ngài.
    Nhưng còn lý do riêng tư khiến tôi đặt hết tin tưởng vào Pabongka Rinpoche. Tôi là con trai duy nhất trong một gia đình khá giả, và mặc dù đức Dalai Lama thứ 13 đã công nhận tôi là một vị lama tái sinh, và Pabongka Rinpoche bảo tôi nên vào tu viện Sera ở Lhasa, cha mẹ tôi không mấy hoan nghênh việc này. Nhưng không bao lâu thì ông chết, và tôi có thể khởi hành đi Lhasa. Bạn không thể nào tưởng tượng nổi sự sung sướng của tôi khi khởi sự cuộc du hành suốt hai tháng trường trên lưng ngựa ấy. Lúc ấy tôi mới mười bốn tuổi, và đi tu quả là chuyện mà một bé trai ở tuổi ấy nên làm. Tôi có cảm tưởng rằng cơ hội đi Lhasa để thụ giới và sống cuộc đời của một bậc chân tu như lời đức Dalai Lama phán dạy, tất cả chuyện đó đều là một phép lạ của Pabongka Rinpoche.
    Khi tôi mới đến Lhasa, Pabongka Rinpoche đang ở Tashi Choeling, một hang động phía trên tu viện Sera. Tôi xin một buổi gặp và ít hôm sau, tôi cùng mẹ tôi và người gia nhân cưỡi ngựa lên núi. Chúng tôi không định trước giờ gặp, nhưng khi chúng tôi vừa lên đến, thì Pabongka đã cho người hầu dọn thức ăn và trà bánh mới làm xong. Ðiều này làm tôi tin chắc Pabongka có thiên nhãn thông, vì ngài cũng là một hiện thân của đấng Kim cương trí (Vajradhara).
    Sau khi ăn xong, tôi đến ra mắt Rinpoche. Tôi nhớ rõ việc này như mới hôm qua. Một cầu thang hẹp dẫn lên căn phòng nhỏ của ngài, ở đấy ngài đang ngồi trên giường. Ngài trông giống như bức ảnh của ngài - mập, thấp người. Ngài bảo, “Ta biết con sẽ đến, và bây giờ chúng ta đã gặp nhau.”Ngài vuốt hai bên má tôi. Khi tôi đang ngồi đấy, thì có một vị tân tiến sĩ (geshe) từ tu viện Sera đi vào dâng cho Rinpoche một đĩa tsampa đặc biệt vốn chỉ làm vào dịp có người lãnh bằng tiến sĩ. Rinpoche nhận xét thật là một điềm lành, khi vị tân tiến sĩ này đến mà có tôi hiện diện ở đấy, và ngài bảo ông ta hãy đổ đầy bát của tôi như đã đổ cho ngài... Bạn cũng có thể tưởng tượng điều ấy làm tôi xúc động đến mức nào.
    Căn phòng hầu như trống trơn. Cái vật lạ lùng nhất là một pho tượng hai tấc Anh bằng vàng ròng của Dagpo Lama Rinpoche, bổn sư Pabongka Rinpoche. Pho tượng được vây quanh bằng nhiều vật cúng dường nhỏ bé. Sau lưng tượng là năm bức tranh (thangka) trình bày linh kiến của Khaedrubje về Tsongkapa sau khi vị này đã viên tịch. Ngoài ra trong phòng chỉ có một chỗ để ngồi uống trà. Tôi cũng có thể nhìn thấy trong góc có một gian phòng nhỏ để thiền, và tôi không ngừng trộm nhìn về phía ấy (tôi chỉ mới là bé trai 14 tuổi, rất tò mò) Rinpoche bảo tôi cứ việc vào nhà xem cho biết. Nó chỉ gồm một tọa cụ và một bàn thờ nhỏ. Rinpoche gọi tên tất cả những tượng trên bàn thờ: từ trái sang phải có thầy Tsongkapa, Heruka, Yamantaka và Paelgon Dramze, một vị hóa thân của thần Mahakala. Dưới những pho tượng ấy bày những đồ cúng.
    Tôi chưa thành tu sĩ, nên Jamyang, người thị giả lâu năm của Rinpoche được sai đi lấy một quyển lịch để định ngày cho tôi xuống tóc, mặc dù tôi chưa mở miệng xin xuất gia gì cả. Rinpoche quả đang cho tôi mọi sự tôi hằng khao khát, và tôi cảm thấy ngài thật quá từ bi. Khi từ giả ngài, lòng tôi sung sướng như bay bổng tận mây xanh.
    Người hầu của Rinpoche là một người có vẻ hung hãn, người ta bảo ông ấy là hóa thân của một vị thần hộ pháp. Một lần, vào dịp Rinpoche du hành xa, ông ta đã phá cái nhà cũ kỹ của thầy mình để xây lại một tư dinh rộng lớn gần bằng tư dinh của đức Dalai Lama. Khi Rinpoche trở về ngài hoàn toàn không hài lòng, bảo: “Tôi chỉ là một ẩn sĩ quèn, đáng lẽ ông không nên xây cho tôi một ngôi nhà như thế này. Tôi không có tiếng tăm, và cốt tủy những gì tôi dạy là sự từ bỏ đời sống xa hoa thế tục. Bởi thế tôi rất lúng túng vì những căn phòng sang trọng này.”
    Tôi thụ giáo Lam-rim với Pabongka Rinpoche nhiều lần. Những người Trung Quốc đã tịch thu hết mọi sổ ghi chú của tôi, nhưng kết quả của lời dạy ấy tôi vẫn còn đeo mang trong mình, một cái gì rất đặc biệt. Mỗi khi nghe ngài dạy tôi lại mong muốn trở thành một thiền sư thực thụ, rút vào một am ẩn cư, bôi tro đầy mặt mà ngồi thiền. Càng lớn cảm giác này càng phai dần trong tôi, và bây giờ thì tôi hoàn toàn không nghĩ gì tới chuyện ấy, nhưng tôi thực tình muốn trở thành một thiền gia chân chính như thầy tôi.
    Thầy làm nhiều pháp quán đảnh như pháp quán đảnh Yamantaka, Heruka và Guhyasamàja. Chính tôi cũng nhận những pháp ấy từ nơi thầy. Tôi thường vào tư thất của thầy để làm những lễ khai đạo quan trọng trong mật giáo, còn thầy thì thường xuống tu viện để giảng dạy cho tất cả mọi người. Thỉnh thoảng thầy lại đi chiêm bái các tu viện. Viếng thăm Pabongka Rinpoche có lẽ cũng giống như thăm viếng Lama Tsongkapa lúc sinh tiền.
    Mỗi khi dạy, ngài thường ngồi suốt tám tiếng đồng hồ không cử động. Khoảng chừng hai ngàn con người tới đó nghe pháp và nhận lễ quán đảnh, với những giáo lý đặc biệt thì số người theo học ít hơn, nhưng khi ngài truyền bồ đề tâm giới thì có tới mười ngàn người hiện diện. Khi ngài làm phép quán đảnh của thần Heruka ngài thường có một vẻ rất lạ lùng. Ðôi mắt ngài mở lớn, long lanh, khiến tôi tưởng như ngài là thần Heruka, một chân dạng ra một chân co lại. Tôi bị kích động mãnh liệt tới nỗi òa khóc như thể đã thấy chính vị thàn Heruka. Thật là chuyện đặc biệt lạ lùng.
    Với tôi, ngài là vị lạt ma quan trọng nhất của Tây Tạng. Ai cũng biết bốn đệ tử chính của ngài vĩ đại tới mức nào. Thế mà ngài lại là thầy của họ. Ngài bỏ nhiều thì giờ nghĩ về ý nghĩa thực tiễn của giáo lý, và thực chứng những giáo lý ấy bằng tim của ngài. Ngài đã thực hành tất cả những gì ngài học gần đến mức dộ viên mãn. Ngài không chỉ nói suông mà cố thực chứng mọi sự. Lại nữa, không bao giờ ngài nổi giận; bất cứ sự giận dữ nào cũng hoàn toàn bị dập tắt bởi bồ đề tâm nơi ngài. Nhiều khi có những hàng dài người đứng chờ ngài ban phép lanh, thế mà Rinpoche vẫn hỏi thăm từng người một, vỗ đầu họ. Ðôi khi ngài cho thuốc. Ngài luôn luôn từ hòa. Tất cả điều này làm cho ngài thật đặc biệt.
    Theo tôi, ngài có hai đức chính yếu; về phương diện mật tông, ngài đã thực chứng và có khả năng hóa hiện là thần Heruka, còn về phương diện kinh điển thì ngài có khả năng giảng Lam-rim.
    Ngay trước khi viên tịch, ngài được mời giảng vắn tắt về Lam-rim ở ngôi chùa của bổn sư ngài, tu viện Dagpo Shidag Ling ở Lhoka. Ngài đã chọn một bản văn ngắn nhan đề “Con đường nhanh” của Panchen Lama thứ hai. Ðấy là bài Lam-rim đầu tiên mà Dagpo Lama Rinpoche đã dạy cho ngài, và ngài nói nó sẽ là bài pháp cuối cùng ngài giảng dạy. Mỗi khi viếng thăm tu viện của bổn sư, Pabongka Rinpoche thường xuống ngựa mỗi khi vừa thấy tòa nhà xuất hiện. Và từ chỗ xuống ngựa, ngài lạy dài cho đến khi tới cổng. Khi rời tu viện thì ngài đi lùi cho tới khi không còn trông thấy bóng. Lần này khi rời tu viện, ngài lạy thêm lần nữa khi ngôi chùa đã khuất dạng, và đến ở lại trong một ngôi nhà lân cận. Hơi đau bụng, ngài lui vào nghỉ đêm. Ngài bảo thị giả đi ra trong khi ngài tụng kinh cầu nguyện, và ngài tụng lớn tiếng hơn lệ thường. Lúc ấy nghe dường như ngài đang giảng về Lam-rim. Khi ngài tụng xong, các người hầu đi vào phòng thì thấy ngài đã chết. Mặc dù rất đỗi bối rối. Thatag Rinpoche cũng sao bảo được chúng tôi phải làm gì. Tất cả chúng tôi đều đau buồn. Di hài của Pabongka Rinpoche được bọc trong lụa thêu và hỏa táng theo nghi thức cổ truyền. Có một bảo tháp thực đẹp được xây lên nhưng người Trung Quốc đã phá hủy. Tuy thế tôi cũng lấy lại được vài xá lợi của ngài, và đã hiến tặng cho tu viện Sera-mae. Ngày nay các bạn có thể đến đấy chiêm ngưỡng xá lợi.
    Ngày nay tôi có thành công phần nào về phương diện học giả, và về phương diện hành giả, tôi cũng là một lama có hạng, song những điều ấy không có gì là quan trọng. Ðiều duy nhất có ý nghĩa đối với tôi, ấy là được làm đệ tử của Pabongka Rinpoche.

    Rilbur Rinpoche (Rilbur Rinpoche, người ghi lại tiểu sử trên đây, sinh tại miền đông Tây Tạng vào năm 1923. Lúc lên năm, ông được đức Dalai Lama 13 nhận ra là hóa thân thứ sáu của Ser-mae Rilbur Rinpoche. Ông vào Ðại học tu viện Sera ở Lhasa năm 14 tuổi, đỗ tiến sĩ Phật học năm 24 tuổi. Ông thiền định, giảng dạy cho đến năm 1959, sau đó chịu áp bức tàn khốc của Trung Quốc trong 21 năm. Năm 1980 ông được phép làm vài hoạt động tôn giáo, và ông đã giúp xây một tháp mới để thờ Pabongka Rinpoche tại Sera, vì Trung Quốc đã phá hủy cái tháp đầu tiên. Sau đó ông sang Ấn sống ở tu viện Namgyal tại Dharamsala.)
    Gia Đình Vô Hình

  4. #4

    Mặc định

    Lam Rim
    Một Chỉ dẫn Sâu sắc, Hoàn toàn Chính xác để Trao truyền Pháp Giải thoát vào Lòng Tay của Bạn,
    Tinh hoa Tư Tưởng của Tsongkapa, bậc
    Tướng quân Chánh Pháp Vô song
    Văn tự ghi lại Một Bài Giảng Khúc Chiết về các Giai Ðoạn Trên Con Ðường đến Giác Ngộ.
    Tinh túy của mọi Kinh điển
    Cô đọng Pháp vũ Cam lồ


    Lời dẫn nhập của Trijang Rinpoche

    Hỡi Lama Lozang Dragpa
    Ngài là một với Thích ca mâu ni và Kim cương trí,
    Tổng thể của mọi nơi nương tựa tuyệt hảo,
    Một mandala toàn vẹn với ba đức nhiệm mầu của Giác ngộ
    Hãy mưa xuống cho chúng con mười triệu
    điều lành
    Ôi hỡi đấng đạo sư của con, Người che chở
    cho con.
    Người với Cỗ xe tối thượng,
    đã chiến thắng cực đoan tìm bình an vị kỷ,
    Người không màng tiện nghi thế tục
    Ðã đề cao Ba vô lậu học
    Và giáo lý của Ðấng Chiến Thắng
    Người mà những thiện sư cao cả không bị hoen ố vì tám chuyện bận tâm của
    thế gian
    (lợi, hại, khen, chê, vinh, nhục, được, thua)
    Ngài chính là suối nguồn của mọi điều lành.
    Mọi lời Thầy nói ra đều là thuốc hay
    Ðể xua tan hàng trăm chứng bệnh;
    Tâm non dại của chúng con thật là những bình chứa nhỏ nhoi
    Ðối với giáo lý bao la của Thầy
    Một nguồn suối diệu pháp ngọt ngào như thế
    Giáo lý vi diệu này mà bị quên lãng
    Thì thực đáng buồn xiết bao
    Ở đây con chỉ ghi lại được một phần nhỏ.


    Trijang Rinpoche Trong quá khứ có vô lượng vi Phật đã xuất hiện, nhưng những chúng sinh vô phúc như tôi đã không đủ xứng đáng để làm đệ tử trực tiếp của đức Thích ca mâu ni, người Che chở tốt nhất, Người nổi bật như một đóa sen trắng muốt trong số ngàn đức Phật vĩ đại những bậc cứu tinh của thời kiếp may mắn này. Trước hết trong quá khứ chúng ta đã phải cố gắng phát khởi thiện tâm dù trong một giây lát, nhờ thế mà ta mới được tái sinh làm một con người. Rồi chúng ta lại được chỉ dạy con đường chân chính không chút lỗi lầm này, con đường sẽ dẫn ta đến trình độ toàn trí, lúc đó ta sẽ đạt giải thoát.
    Nhưng nói tóm lại, tôi đã được cứu vớt nhiều lần thoát khỏi vô số điều xấu ác đủ loại khác nhau, và được đưa tiến đến càng ngày càng vần vô lượng điều vi diệu. Chính bậc đạo sư thánh thiện quang vinh của tôi đã làm việc này. Lòng từ bi của ngài thật là vô bờ bến. Danh hiệu của ngài tôi xin trân trọng nhắc lại vì một mục đích tốt lành - là JetsunJampa Taenzin Trinlae Gyatso Paelzangpo. Mặc dù những người như tôi rất thiếu trưởng thành, thiếu văn hóa và thiếu tính sáng tạo, có một thời tại nơi ẩn cư Chuzang, tôi đã được thưởng thức những giáo lý khẩu truyền của ngài khai thị vào diệu pháp Tối thượng thừa. Ðấy là một thánh địa đã trở nên thiêng liêng nhờ sự hiện diện của nhiều thiền gia vĩ đại.
    Ngài đã khai giảng khóa học khẩu truyền này vào ngày ba mươi tháng bảy năm Con Chim Sắt, 1921 (tức năm Dậu, thuộc hành Kim, theo âm lịch), và kéo dài trong 24 ngày. Mọi người đã phải vất vả lắm mới đến được đấy. Họ đến từ ba tu viện chính ở Lhasa, từ miền Trung Tây Tạng, từ tỉnh Tsang, Amdo và Kham, để thưởng thức vị cam lồ của giáo lý khẩu truyền từ nơi ngài, như những người khát cháy cổ khá khao được nước uống. Có khoảng ba mươi vị lamas và tái sinh lamas, và nhiều vị tinh thông ba tạng giáo điển, tất cả gồm trên bảy trăm người. Giáo lý ngài giảng dạy phối hơp nhiều truyền thống Lam-rim khác nhau - những chặng đường đến giác ngộ. Có hai truyền thống khẩu quyết liên hệ đến bản kinh Ngôn thuyết của đức Văn Thù. Một trong những truyền thống này rất chi li, đã phát triển ở tỉnh miền Trung Tây Tạng; một truyền thống khác thịnh hành ở miền nam. Ngài còn giảng dạy một giáo lý cô đọng, Lam-rim Con Ðường Nhanh; và trong phần Phạm Vi Rộng Lớn nói đến sự đổi địa vị mình với người, ngài dạy cách luyện tâm gồm bảy điểm.
    Mỗi phần của giáo lý được làm cho phong phú thêm bằng những lời chỉ dạy rút từ những giáo lý khẩu truyền bí mật. Mỗi phần đều được minh họa bằng những ẩn dụ, luận lý hình thức, những mẫu chuyện, và những trích dẫn đáng tin cậy. Sự giảng dạy này người sơ học cũng có thể hiểu được một cách dễ dàng, nhưng sự thực hành thì lại dành cho mọi tình độ trí thức và tâm linh. Giáo lý này thật bổ ích vì nó gợi nhiều cảm hứng tốt. Ðôi khi chúng ta phải phì cười đâm ra tỉnh táo hẳn lên, và bừng sống dậy. Ðôi lúc chúng ta phải rơi lụy, khóc ròng. Lại có những lúc ta đâm ra hãi sợ, và cảm thấy muốn hăng hái từ nỏ mọi sự để hoàn toàn dấn mình vào việc thực hành giáo lý. Cái cảm giác muốn từ bỏ này trào dâng mãnh liệt.
    Ðấy những lời giảng dạy của ngài kỳ diệu như thế đấy, phát sinh những cảm xúc tương tự như trên. Làm sao tôi có thể ghi hết lại giấy được! Tuy nhiên thật đáng tiếc biết bao nếu những điểm then chốt trong những lời giảng dạy đầy cảm hứng này phải bị mai một. Ý nghĩ ấy khiến tôi mạnh dạn viết ra quyển sách này. Bậc tôn sư đã khuyên tôi: “Một số những người hiện diện không thể theo dõi hết những lời giảng. Tôi e rằng tôi không tin cậy nổi những lời ghi chú mà mọi người ghi trong lúc nghe. Bởi thế yêu cầu ông hãy ấn hành một quyển sách, để vào trong ấy bất cứ gì ông cảm thấy chắc chắn.”
    Trong tác phẩm này tôi đã ghi lại một cách chân xác những lời dạy của thầy tôi, với hi vọng làm lợi lạc cho những ai muốn tu tập thành công.
    Gia Đình Vô Hình

  5. #5

    Mặc định

    PHẦN MỘT

    NHỮNG CHUẨN BỊ SƠ KHỞI

    NGÀY THỨ NHẤT

    Kyabje Rinpoche, một bậc tướng quân Chánh pháp vô tỷ, đã nói ít lời chuẩn bi cho chúng ta có những động lực thích đáng khi đón nhận những lời giảng dạy tiếp theo. Ngài nói:
    Ðức Tsongkapa bậc đại nhân, bậc Tướng quân chánh pháp của cả ba cõi, đã nói:
    Thân thể vật lý thuận lợi này
    Có giá trị hơn cả viên ngọc như ý.
    Bạn chỉ được nó một lần mà thôi.
    Khó thay được thân người, dễ thay bị mất nó,
    Nó như một làn chớp giữa bầu trời.
    Hãy quán tưởng điều ấy, rồi bạn sẽ thấy
    Mọi hoạt động thế gian chỉ như trấu bị thổi bay
    Và bạn phải nỗ lực ngày đêm
    để rút ra được một ít tinh hoa từ đời sống bạn

    Tôi một ẩn sĩ du già đã tu tập như thế;
    Và bạn, người khát khao giải thoát, cũng nên làm như vậy.
    Từ thời gian vô thủy, chúng ta đã mang không biết bao nhiêu thân xác cho đến ngày nay, nhưng ta đã không rút tỉa được một tinh túy nào từ những thân xác ấy. Không có một kiểu khổ đau nào mà ta chưa từng nếm trải, cũng không có một kiểu hạnh phúc nào mà ta chưa từng thưởng thức. Nhưng dù ta đã có bao nhiêu xác thân đi nữa, ta cũng đã không rút tỉa được chút tinh hoa nào từ nơi chúng. Bây giờ ta đã có được may mắn mang thân người, thì ta nên làm cái gì để rút tỉa ít tinh hoa từ đó. Nếu không suy nghĩ chín chắn, thì ta không cho thân người quý báu này có tầm quan trọng chút nào, ta cũng không tiếc nuối gì khi lãng phí cơ may được sinh làm người. Có lẽ nếu bị mất tiền, chúng ta sẽ tiếc nuối nhiều hơn. Thế mà cái thân người ta đang đang có lại vô vàn quý báu hơn bất cứ viên ngọc như ý nào cả.
    Nếu bạn phải lau chùi một viên bảo châu như ý bằng cách mỗi ngày rửa ba lần, đánh bóng ba lần, rồi đặt trên đỉnh một cái tràng phan của sự chiến thắng, bạn sẽ có được dễ dàng tất cả những sự tốt đẹp của thế gian như đồ ăn mặc ở, vân vân. Bạn có thể được hàng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn viên ngọc như thế, nhưng chúng không thể đem lại cho bạn dù chỉ một điều nhỏ nhất trong những điều bạn có thể thành tựu được nhờ mang thân người trong đời này; bởi vì bạn không thể sử dụng những bảo châu ấy để che chở mình khỏi tái sanh vào các đọa xứ trong đời sau. Nhưng với thân người hiện tại của bạn, bạn có thể tự đề phòng cho khỏi sa đọa vào các cõi xấu ác. Hơn nữa, nếu bạn muốn tái sinh làm Phạm Vương, Ðế Thích, vân vân, bạn cũng có thể làm được điều ấy nhờ thân người hiện tại. Nếu bạn muốn đi đến những cõi tịnh như cõi trời Thắng lạc (Abhirati), cõi Cực lạc (Sukhàvati) cõi Ðâu suất (Tushita), bạn cũng có thể làm được, nhờ cái thân người hiện tại của bạn. Nhưng chưa hết đâu, bởi vì bạn còn có thể đạt đến những trạng thái giải thoát giác ngộ nhờ thân này. Ðiều bạn cần làm là, hãy tóm lấy cơ hội. Ðiều quan trọng hơn cả là nhờ thân tái sinh hiện tại mà bạn có thể đạt tới địa vị Kim cuong trì (hợp nhất giữa thân như huyễn với đại lạc) trong vòng đời ngắn ngủi, ngay trong thời đại suy đồi này; một kết quả thông thường phải mất tới ba a tăng kỳ kiếp mới thành tựu được. Như vậy, được tái sinh làm người còn giá trị hơn cả ngàn tỷ viên ngọc quý.
    Nếu bạn lãng phí cuộc đời này mà bạn đã có được, thì điều ấy còn đáng tiếc hơn là nếu bạn mất đi ngàn viên ngọc báu. Không có sự mất mát nào lớn hơn sự mất mát này; không có sự mù quáng nào hơn sự mù quáng này, không có sự lầm lạc nào hơn sự lầm lạc này. Shantideva có nói:
    Không có sự mê lầm nào tệ hơn
    Nếu không sử dụng thân này để tu tập
    Sau khi đã được thân người như một cơ may hiếm có
    Không có sự mù quáng nào lớn hơn thế nữa.
    Bởi thế bạn phải nỗ lực rút tỉa một ít tinh túy từ cuộc đời này ngay bây giờ. Dù thế nào đi nữa, chắc chắn bạn sẽ phải chết, và bạn không biết được lúc nào thì cái chết đến với mình.
    Hiện tại chúng ta đang theo học Pháp, nhưng trong vòng một trăm năm nữa, không ai trong chúng ta còn sống sót. Trong quá khứ, bậc Ðạo sư của chúng ta là Ðức Phật, nhờ đã tích lũy công đức và trí tuệ trải vô số kiếp mà được thân Kim cương bất hoại. Tuy thế, đối với con mắt phàm thì ngay cả Ngài cũng đã nhập niết bàn. Sau Ngài có nhiều học giả, luận sư, dịch giả và những bậc hiền trí ở Ấn cũng nhưng Tây Tạng, nhưng tất cả các vị ấy cũng đều đã từ giả cuộc đời này. Không còn gì về họ ngoài ra danh hiệu và những gì mà người ta còn nói về họ. Tóm lại là bạn không thể đưa ra một ví dụ nào chứng minh vẫn còn có người được cái chết buông tha. Thế thì làm sao riêng bạn có thể sống hoài không chết? Bạn không hy vọng gì thoát khỏi chết.
    Không những chắc chắn bạn phải chết, mà bạn còn không biết chắc lúc nào thì cái chết đến với bạn. Bạn không biết chắc năm tới bạn còn sống trong thân xác này không, còn mang ba y tỷ kheo không nữa. Vào ngày này năm sau, có thể rằng các bạn đã tái sinh thành một con thú mang lông đội sừng cũng nên. Hoặc các bạn cũng có thể tái sinh làm một ngạ quỷ, phải sống mà không kiếm được một chút gì để ăn, cũng không tìm được một giọt nước uống. Hoặc các bạn cũng có thể tái sinh vào địa ngục, phải chịu đựng những nỗi khổ nóng, lạnh, bị luộc trong nước sôi hay thiêu trong lửa đỏ.
    Tâm bạn vẫn tiếp tục sau khi chết, nên nó phải chấp nhận tái sinh. Chỉ có hai con đường luân chuyển cho tái sinh, đó là đường đi lên các cõi cao và đường đi xuống các đọa xứ. Nếu bạn tái sinh vào Ðịa ngục vô gián, thì bạn phải ở đấy với một thân thể tràn khắp hỏa ngục, không khác gì với hỏa ngục ấy, trong những địa ngục nhẹ hơn, như Ðịa ngục Sống Lại liên tục, thì bạn chết đi sống lại mỗi ngày hàng trăm lần, liên tục chịu những cực hình. Làm sao có thể chịu đựng điều ấy khi mà bàn tay bị bỏng một chút bạn đã không chịu nổi? Ấy vậy mà ta sẽ phải đau đớn như thế đấy, hệt như thân thể hiện tại của ta phải chịu đựng cơn nóng bức. Chúng ta có thể tự hỏi, “Phải chăng khi vào đấy sẽ dễ chịu đựng hơn, nỗi đau đớn không nhiều như ta tưởng?”nhưng không phải thế đâu.
    Nếu tái sinh làm ngạ quỷ, bạn sẽ không kiếm được một giọt nước trải qua nhiều năm. Bây giờ bạn thấy khó chịu nổi một kỳ nhập thất nhịn đói, thì làm sao bạn chịu nổi tái sinh làm ngạ quỷ? Còn tái sinh làm súc sinh, chẳng hạn làm con chó. Bạn hãy xem kỷ những chỗ chó thường ở, cách chúng kiếm ăn, hoặc loại thực phẩm mà chó thường tìm được. Bạn có nghĩ rằng bạn chịu nổi kiểu sống như vậy không? Bạn có thể nghĩ rằng, các đọa xứ thật quá xa vời quá. Nhưng kỳ thực, sở dĩ bạn thấy mình còn xa xôi với các đọa xứ, chỉ là vì bạn đang còn thở được.
    Nếu không suy xét kỹ, thì chúng ta không bao giời ngờ rằng mình có thể đang đi đến các đọa xứ. Chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta có phần nào tuân giữ giới luật, tụng kinh hàng ngày, không vi phạm tội lỗi nào trầm trọng như giết người cướp của. Phiền một nỗi là, ta đã không nhìn sự việc một cách thích đáng. Nghĩ kỹ lai mới thấy rằng ta không có tự do để chọn lựa mình có đi xuống những cõi tái sinh thấp hay không. Ðiều này được định đoạt bởi nghiệp lực của chúng ta. Trong dòng tâm thức của chúng ta, có những nghiệp xấu tốt lẫn lộn. Vào lúc ta chết, thứ nào mạnh hơn trong hai thứ này, sẽ được châm ngòi bằng tham ái và chấp thủ. khi nhìn lại dòng tâm thức của ta xem thói nào mạnh hơn, ta sẽ thấy rằng khuynh hướng bất thiện thắng lướt. Mức độ mạnh yếu được định đoạt bở năng lực của động lực hành động, bởi việc làm, và bởi bước cuối cùng. Như vậy, mặc dù ta có thể nghĩ là mình chỉ làm những điều ác nhỏ nhặt không đáng kể, song kỳ thực sức mạnh của nó rất lớn lao.
    Gia Đình Vô Hình

  6. #6

    Mặc định

    Ta hãy lấy ví dụ. Giả sử bạn la rầy đệ tử. Bạn bị thúc đẩy bởi cơn hằn học (động lực), còn việc làm là, bạn sử dụng những từ ngữ gay gắt nhất làm sao cho họ phải đau đớn. Về giai đoạn cuối là, bạn cảm thấy kiêu hãnh và bản ngã căng phồng lên, thấy mình quan trọng. Ba phần này - động lực, việc làm, bước cuối - thật làtoàn vẹn, không thể nào toàn hảo hơn thế! Hoặc giảkhi bạn giết một con rận. Ðộng lực của bạn là sự thù ghét mãnh liệt. Bạn lăn tròn nó giữa hai ngón tay, hành hạ nó một hồi lâu, rồi cuối cùng mới giết nó. Bước cuối cùng trở nên cao ngạo, cảm thấy mình làm như vậy có lý lắm. Thói ác đã trở thành cường liệt qua ba giai đoạn ấy.
    Chúng ta cứ tưởng đức độ của mình lớn lắm, song kỳ thực nó yếu xìu. Nếu thiện tính nơi ta thực mãnh liệt, thì ba giai đoạn của việc lành - động lực - việc làm, bước cuối tức phần hồi hướng công đức - phải được thực hiện một cách thuần tịnh. Ngược lại sự thanh tịnh là những công đức “do ta làm.” Trước tiên, có động lực thúc đẩy ta hành thiện. Tôi nghĩ hiếm khi chúng ta làm việc lành vì khao khát có được một tái sinh tốt hơn - chỉ một động lực tối thiểu như thế còn không có, nói gì đến động lực tốt nhất, tức bồ đề tâm hướng đến giác ngộ, hay tốt nhì là sự từ bỏ. Ngay từ đầu, chúng ta thường ao ước thành tựu những nguyện vọng liên hệ đến chuyện ăn, mặc ở trong đời này mà thôi. Bất cứ lời nguyện nào ta làm để được mục đích ấy quả thực là tội lỗi. Còn về phần chính hành động, thì mọi việc làm của ta còn có tính cách chiếu lệ; chẳng hạn niệm một chuỗi OM MAI PADME HUM ta cũng không chuyên chú cho hết chuỗi. Hoặc ta ngũ gục hoặc ta suy nghĩ mông lung. Thật khó mà tập trung dù chỉ trong thời gian đọc một lần câu thần chú Một trăm vị chư thiên ở cõi Ðâu suất. Và khi đến giai đoạn hồi hướng, thì ta lại thụt lui, hướng những ước nguyện ta về cuộc đời này. Bởi thế, mặc dù chúng ta tưởng mình làm công đức lớn, kỳ thực những công đức ấy rất yếu ớt.
    Ðôi khi chúng ta không làm công việc một cách thích đáng; khi khác ta lại bỏ qua những động lực và bước cuối; và có những lúc chúng ta không thực hiện một giai đoạn nào trong ba giai đoạn ấy một cách thích đáng cả. Bởi thế chỉ có nghiệp bất thiện trong dòng tâm thức của chúng ta là rất cường liệt mà thôi; chính nó là yếu tố duy nhất có thể làm được khởi động khi ta chết. Và nếu đấy là điều thực sự xảy ra thì chúng ta chỉ còn nước tái sinh vào các đọa xứ, đó là cái chắc. Chúng ta lại bảo, các thầy của chúng ta có khả năng bói toán, ta sẽ xin thầy tiên đoán xem ta sẽ tái sinh về cõi nào. Chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm nếu được thầy tiên đoán sẽ có tái sinh tốt đẹp, và đâm ra lo sợ nếu thầy bảo là xấu lắm. Nhưng làm sao ta có thể đặt tin tưởng vào những chuyện bói khoa ấy? Chúng ta không cần bói bằng xúc xắc, coi thầy, hay xem thiên văn lý số để biết đời sau ta sẽ đi về đâu. Ðấng Ðạo Sư đầy từ mẫn của chúng ta đã tiên đoán cho ta trong Kinh tạng, và ta cũng được nhiều bậc hiền trí uyên bác ở Ấn cũng như Tây Tạng, chỉ bảo cho biết. Chẳng hạn bậc thánh Long Thụ (Nagarjuan) đã nói trong phẩm Chuỗi ngọc quý rằng:
    Từ bất thiện, phát sinh mọi đau khổ và tất cả các đọa xứ.
    Từ đức hạnh phát sinh mọi cõi cao và những tái sinh đầy phúc lạc.
    Chúng ta không thể chắc chắn về những chuyện như kiếp sau mình sẽ đi về đâu. Nhưng bậc Ðạo Sư của chúng ta đã thấy rõ và đã giảng dạy một cách không lầm lẫn. Chúng ta chỉ có thể tin được nhờ suy luận, và ta nên tin tưởng sự công bố chân chính của đức Phật về vấn đề này.
    Bởi thế, nếu điều chắc chắn là ta sẽ bị đọa, thì ngay từ giờ phút này ta phải tìm phương thế gì ngăn chuyện ấy khỏi xảy đến. Nếu thực tình muốn thoát khỏi các đọa xứ, chúng ta phải tìm một chỗ nương tựa che chở cho ta. Như một kẻ tử tội sẽ tìm sự bảo bọc của một quan chức có ảnh hưởng lớn để thoát khỏi tử hình. Nếu ta bị nhiễm ô vì nghiệp ác không thể dung thứ, những tội lỗi ta đã làm thì ta có nguy cơ chịu sự trừng phạt của luật nhân quả nghiệp báo và đi đến các đọa xứ. Ta nên tìm chốn nương tựa là Ba ngôi Báu Phật, Pháp, Tăng, vì chỉ có ba ngôi báu này mới có thể che chở chúng ta khỏi rơi vào đọa xứ. Nhưng tìm nơi nương tựa mà thôi thì chưa đủ, ta phải thay đổi cách hành xử của mình cho hợp với giáo lý về sự quy y. Nếu chư Phật có thể xóa hết tội lỗi nghiệp chướng của chúng ta chẳng hạn bằng cách lấy nước rưới đầu, hay đưa tay dắt dẫn, thì các ngài đã làm vậy từ khuya rồi, chúng ta đâu có còn khổ tới bây giờ. Không, các ngài không thể làm chuyện ấy được. Ðấng Ðạo Sư giảng Pháp, nhưng chính chúng ta phải thay đổi cách hành xử đúng theo luật nhân quả mới được. Một bản kinh có nói:
    Chư Phật không rửa sạch tội lỗi
    Không đưa tay ban phép
    Ðể cho hữu tình bớt khổ đau
    Không trao sự chứng ngộ chân như của ngài cho kẻ khác.
    Ngài giải thoát cho con người bằng giáo lý chân như.
    Ðến đây bạn có thể nghĩ, “Tôi sẽ tìm trú ẩn trong ba ngôi báu để khỏi sa vào đọa xứ, và sẽ áp dụng những phương pháp để khỏi đọa xứ. Tôi sẽ thay đổi cách hành xử để phù hợp với luật nhân quả.” Ðấy là bạn đã khởi lên một động lực ở trình độ Lam-rim thuộc Phạm vi Nhỏ.
    Tuy nhiên, có phải chỉ cần giải thoát khỏi đọa xứ mà thôi chăng? Chưa đủ. Cùng lắm là bạn sẽ leo lên được các cõi trên chừng một hai kiếp, rồi lại rớt trở lại vào những đọa xứ, nơi mà nghiệp ác bắt kịp bạn. Vậy đấy không phải là giải pháp tối hậu, bạn không thể tin cậy vào nó. Quả thế, chúng ta đã bao nhiêu kiếp từng được sinh vào các cõi trời, rồi sau đó lại rơi vào các đọa xứ. Bây giờ chắc chắn ta cũng sẽ lâm vào tình trạng tương tự. Trong những kiếp quá khứ, ta đã từng là Phạm vương, Ðế thích sống trong những cung trời. Ðiều này đã nhiều lần xảy ra, tuy thế chúng ta lại phải từ giả những cõi ấy mà quằn quại trên giường sắt nóng của địa ngục. Chuyện này cũng đã từng nhiều phen tái diễn. Ở các cung trời, chúng ta thưởng thức vị cam lồ của chư thiên; rồi khi rời khỏi cõi ấy, chúng ta phải uống nước đồng sôi trong địa ngục. Chúng ta đã từng hưởng lạc thú với những tiên ông tiên bà, rồi phải sống trong địa ngục vói ngưu đầu ngục tốt vây quanh. Chúng ta được sinh làm vua Chuyển luân cái quản hàng trăm thần dân, rồi lại tái sinh làm những tôi tớ nô tì hạng bét như cỡi lừa và giữ trâu. Có lúc ta được sinh làm thần mặt trời, thần mặt trăng, thân thể chúng ta tỏa ra nhiều ánh sáng tới nổi ta chiếu sáng khắp bốn châu lục địa. Rồi chúng ta tái sinh dưới đáy đại dương, khoảng giữa các châu lục, nơi hoàn toàn tối tăm tới nỗi ngay đến chân tay của ta, ta cũng không nhìn thấy được. Ðại loại như thế. Dù bạn có thành tựu được bao nhiêu phúc lạc thế gian, điều ấy thực không đáng tin cậy, không có một thực chất nào.
    Chúng ta đã kinh qua không biết bao nhiêu là nỗi khổ, nhưng bao lâu chưa thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, thì chúng ta vẫn còn phải chịu đựng dài dài, nhiều khổ đau hơn nữa. Nếu đem chất đống lại một nơi tất cả những phân uế và những thứ dơ dáy mà chúng ta đã ăn trong bao đời kiếp làm thân súc sinh, thì cái đống phân uế ấy có thể là cao hơn núi Tu di, vua các dãy núi. Ấy vậy mà ta còn phải ăn nhiều phân dơ hơn thế nữa, nếu ta chưa thoát khỏi luân hồi. Nếu đem tất cả những cái đầu của ta bị kẻ thù chặt trong kiếp quá khứ mà chất đống lại, thì cái núi đầu ấy còn cao hơn cõi Phạm thiên. Tuy thế nếu ta không chấm dứt vòng luân hồi sinh tử của ta, thì ta còn phải mất nhiều đầu hơn nữa. Trong những tái sinh của ta ở địa ngục trong quá khứ, nước đồng sôi mà ta đã bị uống đem gom lại còn nhiều hơn nước bốn biển, nhưng ta còn phải uống nhiều hơn nếu ta chưa thoát khỏi luân hồi. Nghĩ đến việc cứ phải lang thang mãi không mục đích vì chưa thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, ai mà không lo sầu thống thiết.
    Ngay cả khi được tái sinh làm chư thiên hay loài người cũng chưa hẵn thoát khỏi bản chất của khổ đau. Loài người có cái khổ sinh, già, bệnh, chết, xa lìa những gì ta thân yêu, gần gũi những gì ta khó chịu, mong cầu gì cũng không được toại ý. Loài trời tu la cũng có nỗi khổ bị thương tật què quặt trong khi đánh trận, và luôn luôn khổ vì lòng ganh ghét ray rứt tâm can. Tái sinh ở những cõi trời Dục giới thì có nỗi khổ là, khi năm tướng suy xuất hiện là thấy cái chết gần kề. Chư thiên hai cõi trên (sắc và vô sắc) không có nỗi khổ nào hiện rõ. Tuy thế tự bản chất, họ vẫn ở trong tầm của cái khổ liên hệ đến mọi pháp hữu vi, bởi vì họ chưa đạt đến trình độ tự tại để duy trì trạng thái của mình. Cuối cùng họ sẽ rớt xuống cõi dưới, vậy nên họ cũng không thoát khỏi khổ.
    Nói tóm, bao lâu bạn chưa vĩnh viễn ra khỏi kiếp luân hồi, thì bạn vẫn chưa thoát khỏi bản chất của khổ. Bởi thế cần phải dứt khoát tự giải thoát mình ra khỏi luân hồi, và bạn phải làm chuyện ấy ngay trong đời sống này của bạn.
    Thường chúng ta nói: “Tôi không thể tu kiếp này được.” Và cầu nguyện cho kiếp sau. Nhưng ta có thể làm việc ấy ngay trong đời này. Chúng ta đã được thân người thuận lợi, đây là hình thể vật lý thuận lợi nhất cho việc thực hành chánh pháp. Chúng ta đã gặp được nhiều duyên lành, gặp Giáo lý của Phật, vân vân. Vậy nếu chúng ta không thể đạt giải thoát ngay bây giờ, thì đến khi nào mới đạt?
    Như vậy, bạn có thể nghĩ, dù có sao đi nữa ta phải nhất quyết phải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Và giải thoát chỉ có thể thực hiện nhờ ba vô lậu học. Vì thế, ta sẽ tu học ba môn ấy để giải thoát ra khỏi biển trầm luân rộng lớn này. Ðấy là bạn đã khởi một động lực tu tâm Lam-rim thuộc trình độ phạm vi Trung bình.
    Nhưng cả đến cách khởi tâm này cũng chưa đủ, nếu bạn đã đạt quả chứng Thanh văn, hay Ðộc giác cho riêng mình, bạn cũng chưa hoàn tất những chu cầu của chính bạn, và hầu như chưa có một chút gì lợi ích cho người khác. Ấy bởi vì bạn chưa từ bỏ một vài điều cần phải từ bỏ, như là những chướng ngại che lấp trí giác toàn vẹn và bốn nguyên nhân của vô minh. Chuyện này cũng giống như phải lội qua sông hai lần: mặc dù có thể bạn đã đạt tất cả quả vị tu hành lên A la hán quả trong đạo lộ thanh văn thừa, khi ấy bạn vẫn còn phải phát bồ đề tâm và tu tập các pháp tu căn bản của một Pháp vương tử, khởi đầu tự đạo lộ tích tập công đức của đại thừa. Giống như là khi gia nhập một tu viện, bạn phải tu tập từ địa vị một người phụ bếp trở lên cho đến khi thành tu viện trưởng. Rồi khi gia nhập một tu viện khác, bạn lại phải trở lui về phục vụ trong nhà bếp như cũ.
    Chandragomin viết trong bức Thư Gửi Một Ðệ Tử:
    Họ như những bà con đang mắc kẹt trong biển luân hồi
    Bị rơi vào luồng sóng dữ giữa đại dương;
    Vì trải qua nhiều phen sống chết và tái sinh
    Nên bạn không nhận ra họ, và bạn làm ngơ.
    Bởi thế, bạn thật tệ, nếu chỉ lo thoát lấy mình.
    Nói cách khác, mặc dù chúng ta không thể nhìn nhận được nhau, kỳ thực không có một chúng sinh nào không từng là mẹ của bạn. Vì bạn đã trải qua vô số kiếp tái sinh, nên bạn cũng đã có vô số mẹ. Và lòng thương yêu mà những bà mẹ trong quá khứ trút lên bạn cũng không khác gì lòng thương mà bà mẹ hiện tại dành cho bạn. Không một mảy may khác biệt giữa sự tử tế của mẹ bạn và sự tử tế của mỗi hữu tình.
    Tuy nhiên, có lẽ bạn nghĩ, “tất cả hữu tình không phải mẹ tôi. Nếu họ là mẹ dtôi, thì tôi phải nhìn nhận ra ngay chứ. Thế mà tôi không nhận ra.” Nhưng điều có thể xảy ra là, ngay trong đời hiện tại, cũng có người không nhận ra mẹ mình. Vậy, không thể chỉ vì “không nhận ra” mà bạn có thể bảo là không phải mẹ. Có những người nghĩ rằng, “Mẹ trong các đời trước đã thuộc về quá khứ. Thật không nên nói rằng hiện tại họ vẫn còn là những bà mẹ nhân từ của ta.” Nhưng sự tử tế của những bà mẹ trong quá khứ với những bà mẹ hiện tại đối với bạn thực không có khác nhau chút nào cả. Lòng tử tế vẫn là một, dù bạn nhận một viên ngọc từ người nào năm ngoái hay năm nay. Thời gian của hành vi không làm cho mức độ của lòng tốt ấy có thay đổi. Vậy thì, mọi hữu tình đều có lòng từ mẫn đối với bạn.
    Bạn có thể nỡ nào làm ngơ những bà mẹ từ mẫn của mình đang bị chìm đắm trong biển sinh tử, mà chỉ cầu giải thoát cho riêng mình? Ðiều ấy cũng chẳng khác nào những đứa trẻ đứng trên bờ mà nhảy múa ca hát trong khi mọi người rất thân của chúng, ví dụ mẹ chúng, đã rớt vào một ngọn thủy triều trên biển. Lượn sóng đang cuồn cuộn ra khơi, bà mẹ đang hãi hùng kêu cứu, vậy mà bọn trẻ hoàn toàn bỏ mặc bà. Còn gì tàn nhẫn hơn, đánh khinh hơn thế? Những đợt sóng đại dương được gọi là xoáy nước; điều kinh khủng nhất là khi một con thuyền, chiếc bè hay vật gì khác bị lọt vào đấy, thì chắc chắn nó sẽ bị cuốn hút và chìm nghỉm. Bây giờ bạn dường như không có chút liên hệ nào với mọi hữu tình, những người đã rơi vào xoáy nước trên biển khổ luân hồi. Nhưng kỳ thực, họ đều là những bà mẹ từ bi của bạn, bạn phải báo đáp lòng thương của họ. Ðem thức ăn cho kẻ đói, thức uống cho người khát, tài sản cho người nghèo, thỏa mãn nhu cầu của họ, là bạn trả được ân đức phần nào của họ, nhưng kỳ thực điều ấy không lợi lạc bao nhiêu. Cách hay nhất để trả ơn là làm sao cho họ được hưởng mọi hạnh phúc, thoát khỏi mọi đau khổ. Không cách đền đáp nào tốt hơn thế.
    Với những tư duy trên, bạn có thể khởi lên ý nghĩ, “Mong sao cho những hữu tình này có đủ mọi thứ an lạc.” Ðấy gọi là phát triển tâm từ. Bạn cũng nghĩ, “Mong sao họ thoát khỏi mọi đau khổ” đấy là phát triển tâm bi. Bạn có thể phát tâm vị tha khi bạn nghĩ: “Tôi và chỉ mình tôi phải gánh lấy trách nhiệm thực hiện hai mục tiêu ấy. Tôi sẽ làm việc cho hai cứu cánh ấy.”
    Nhưng, bạn có thể làm những việc ấy ngay từ bây giờ không? Bạn không thể cứu tất cả khổ ban tất cả vui dù cho chỉ một người, nói gì đến tất cả hữu tình. Vậy thì ai có thể? Chư vị Bồ tát trú trong các địa vị thanh tịnh, và các bậc Thanh văn hay Duyên giác có thể lợi lạc hữu tình phần nào, nhưng họ chỉ làm được một ít những gì mà chư Phật có thể làm. Mỗi tia sáng phát từ thân Phật có năng lực đưa vô lượng hữu tình đến trình độ thuần thục, ngay cả đến giải thoát. Chư Phật hóa ra nhiều thân xuất hiện trước mỗi hữu tình. Những thân hình ấy ứng hợp với tính tình, khả năng, ước nguyện và bản năng của các hữu tình ấy. Chư Phật giảng dạy Pháp cho hữu tình bằng chính ngữ ngôn của chúng. Ðây là sơ lược vài khả năng của Phật. Bởi thế chư Phật là những đấng Vô tỉ trong cách các ngài làm việc lợi lạc cho hữu tình.
    Chúng ta có thể thành tựu Phật quả không? Có thể, và muốn đạt quả Phật ta phải có một thân tái sanh thuận lợi. Chúng ta đã được một loại thân tái sanh rất đặc biệt được sinh ra từ bào thai người ở lục địa phương Nam (Nam thiệm bộ châu), ta lại có được sáu giác quan. Ta chỉ còn cần phải lợi dụng cơ hội này đẻ thành tưu Kim cuong trì trong một đời này. Ta dã có được tái sinh thân thuận lợi. Phương tiện để đạt Phật quả là Pháp tối thượng thừa, và giáo lý của Tsongkapa, đấng Chiến thắng thứ hai (sau Phật), về cỗ xe này thật là toàn hảo. Những lời giảng dạy vô cấu của ngài phối hợp vừa kinh giáo vừa mật giáo. Chúng ta đã được gặp giáo lý như thế.
    Tóm lại, chúng ta đã gặp mọi điều kiện thuận lợi, lại không bị một chướng ngại nào. Chúng ta chỉ có thể đi lạc do không nỗ lực đạt thành Phật quả. Không phải là chúng ta sẽ luôn luôn có được thân tái sanh lành mạnh như thế này, luôn luôn gặp được giáo lý như thế này. Có người bảo, “Nay là thời mạt pháp, chúng ta thật đã gặp thời xấu ác.” Nhưng kể từ dòng luân hồi vô thỉ đến nay, ta chưa từng bao giời trải qua một thời gian có nhiều tiềm năng lợi lạc cho ta hơn bây giờ. Không thể có thời nào tốt hơn. Ta chỉ gặp được hoàn cảnh như thế này một lần thôi. Bởi vậy, ta phải tu tập hướng đến một quả Phật, dù bất cứ gì xảy đến.
    Như thế, điều này phải làm bạn phát nguyện: “Tôi sẽ làm mọi sự có thể làm để đạt mục tiêu là sự giác ngộ tối thượng, vì tất cả hữu tình.” Ý nghĩ ấy khơi dậy tâm bồ đề, và như thế là bạn đã khởi động lực tu tập của bạn theo Phạm vi Rộng lớn của Lam-rim. Bạn đã phát tâm bồ đề nếu bạn thực tình cảm nghiệm ý tưởng ấy một cách tự nhiên không có một gượng ép nào trong tâm bạn
    Bạn phải thực hành để đạt thành Phật quả ấy. Và bạn cần thiết phải thực hành như thế nào để thành công. Nhiều người muốn tu nhưng không biết tu cách nào nên đi đến một chõ vắng nào đó, tụng vài câu thần chú, lập ít lời cầu nguyện, ngay cả cố tìm cách chứng được một vài tầng trong chín tầng thiền chứng, nhưng ngoài ra họ không biết làm gì khác. Bạn phải nghiên cứu học hỏi những giáo lý không lỗi lầm, những giáo lý không bỏ sót một chuyện gì trong việc thực hành pháp, thì bạn mới biết được phải làm những gì. Và vua của những giáo lý ấy chính là Lam-rim mô tả những bước đường đi đến giác ngộ. Bởi thế bạn phải khởi lên một động lực như sau: “Tôi sẽ chú ý lắng nghe Lam-rim, rồi thực hành theo đấy.”
    Gia Đình Vô Hình

  7. #7

    Mặc định

    Thông thường, cần yếu là phải khởi đầu mọi sự tu tập bằng một trong những đọng lực nói trên. Nhưng quan trọng hơn nữa, khi bạn nghe giảng về Lam-rim thì những động lực trên chưa đủ. Ít nhất bạn phải bạn phải lắng nghe kèm với một tâm bồ đề gượng ép. Với người đã kinh nghiệm sự phát bồ đề tâm, họ có thể nhớ nghĩ một công thức ngắn gọn như “Vì tất cả chúng sinh” là đủ. Tuy nhiên, điều này không đủ chuyển hóa nội tâm một người sơ cơ. Nếu bạn nghĩ về Lam-rim, khởi từ sự khó khăn muôn vàn để có được thân người thuận lợi, khi ấy tâm bạn sẽ quay về bồ đề tâm. Ðiều này không phải chỉ áp dụng cho việc nghe Lam-rim mà thôi. Những tu sĩ phái Gelugpa chúng tôi mỗi khi tham dự một pháp hội nào, như lễ quán đảnh, lễ khẩu truyền, giảng kinh, hay bất cứ gì khác, chúng tôi thường ôn lại tất cả giai đoạn Lam-rim kể như chuẩn bị để có một động lực đúng. Ngay cả những thời cầu nguyện ngắn cũng phải bao gồm cả ba phạm vi của Lam-rim. Ðây là nét đặc sắc nhất của giáo lý thuộc phái Kadampas ngày xưa và của chúng tôi ngày nay những người thuộc phái Kadampas mới. Bậc tôn sư của tôi đã nói điều này nhiều lần. Các bạn nào muốn nhận trách nhiệm bảo trì nền giáo lý này thì cần phải học tập theo cách ấy. (Tuy nhiên, khi làm lễ quán dảnh cầu sống lâu thì người ta có lệ không nói về vô thường -chết-, vân vân, vì đấy là điềm gở: chỉ nói đến sự được sinh làm thân người thuận lợi này rất khó.)
    Có những người tham dự một thời Pháp mà nghĩ rằng: “Tôi thật may phước được học giáo lý này, nhưng tôi không thể thực hành được. “Có người đi nghe vì bắt chước: “Nếu bạn đi thì tôi cũng đi với cho vui.” Không ai đi nghe pháp để kiếm sống bằng cách đi làm lễ cho các gia chủ. Nhưng việc này có xảy ra với những giáo lý khác, chẳng hạn những phép quán đảnh chính yếu. Khi bạn theo học những giáo lý này, có thể bạn nghĩ mình sẽ có được khả năng tụng thần chú để trừ tà đuổi quỷ, hoặc chữa bệnh, hàng phục ma, có tài sản, có quyền lực, vân vân. Có những người, dù đã học bao nhiều giáo lý Phật, cũng vẫn xem Pháp của ngài như là cái vốn để làm ăn; họ trông giống như những người sắp đi Mông Cổ để đi kinh doanh buôn bán. Những người như thế đã tích lũy vô số tội nghiệp bằng phương tiện Pháp của Phật. Ðức Phật, đấng Ðạo sư của chúng ta, bàn đến những phương tiện để đạt giải thoát và toàn trí. Khai thác lợi dụng những giáo lý ấy vì những mục tiêu thế tục thì chẳng khác nào ép một ông vua đang ngồi trên ngai xuống chùi nhà.
    Bởi thế, nếu bạn tình cờ dường như cũng có những động lực xấu xa tương tự, thì hãy xua đuổi chúng đi; hô triệu một cái tâm bồ đề bất đắc dĩ nỗi lên đi cũng được, rồi nghe pháp. Thôi, chừng ấy cũng đủ để kết thúc phần khởi động lực cho đúng.
    Sau đây sẽ là phần chính của giáo lý.
    Trước hết, Pháp mà bạn sắp tu tập phải là do Phật nói ra, và do những bậc thánh Ấn Ðộ giảng giải. Sự tu tập của bạn phải là pháp tu mà từ đó những bậc hiền trí vĩ đại đã rút tỉa được những tuệ giác và thực chứng; nếu không, một sự giảng dạy có thể được gọi là “sâu xa” mặc dù nó không do Phật thuyết và các bậc học giả hiền trí chưa từng biết tới. Nếu bạn quán tưởng về những thứ giảng dạy kiểu đó thì bạn có nguy cơ sẽ đạt một vài kết quả mà từ trước chưa có ai từng đạt, kể cả chư Phật cũng chưa từng đạt tới! Bởi thế bạn phải xét kỹ cái Pháp mà bạn sẽ dùng làm pháp tu của bạn. Sakya Pandit nói:
    Khi bạn kinh doanh buôn bán
    Như lái ngựa, buôn châu báu, vân vân
    Bạn nghi vấn đủ điều
    Và khám xét mọi mặt
    Tôi đã thấy bạn cần mẫn làm sao
    Với những việc vặt vãnh của đời này
    Những đời tương lai bạn tốt hay xấu
    Ðều tùy thuộc Pháp vi diệu
    Ấy vậy mà bạn xử sự với Pháp ấy
    Như con chó ngồn ngấu đồ ăn:
    Bạn thành kính đón lấy bất cứ gì gặp được
    Mà không xem trước cho kỹ để biết nó chánh hay tà.
    Khi ta mua một con ngựa chảng hạn, ta khám xét nhiều thứ, trước hết là coi bói, và đi hỏi một lô người ngoài. Lấy ví dụ một tu sĩ thông thường khi đi mua một ấm nấu trà. Ông xem xét lại màu sắc, trọng lượng, hình dáng nó thật nhiều lần; sao cho bảo đảm là nó không bị nước, v.v... làm hỏng, và hỏi ý kiến nhiều người. Tuy vậy, nếu không may gặp cái bình xấu thì bất quá cũng chỉ ảnh hưởng đến vài tách trà mà thôi.
    Bạn tra tầm rất kỹ về những chuyện như thế, mặc dù nó chỉ có giá trị nhất thời. Thế mà bạn dường như không tra tầm chú thời gian nào cái Pháp mà bạn phải tu tập, mặc dù điều này là căn bản cho những hy vọng tái sinh của bạn trong tương lai. Ðấy là cách một con chó nuốt trọng thực phẩm vào bụng. Thật sai lầm biết bao! Nếu bạn sai lầm ở bước này, tức là bạn đã tàn hại những hy vọng về đời tương lai của bạn. Bởi thế, bạn cần phải xét kỹ Pháp mà bạn định tu tập, trước khi khởi công tu hành.
    Nếu bạn xét Pháp hiện tại của chúng ta là Lam-rim, bạn sẽ thấy Pháp ấy là tuyệt hảo trong tất cả các pháp. Tính sâu sắc kỳ diệu của mật tông đều xuất xứ từ Lam-rim. Nếu bạn không khai triển ba nồng cốt của đạo lộ (sự từ bỏ, bồ đề tâm và chánh kiến về Tánh không) trong dòng tâm thức bạn, thì bạn không thể giác ngộ ngay trong một đời. Tôi đã nghe nhiều giáo lý được cho là sâu sắc, phát xuất từ tri kiến hay từ những mật điển, những giáo lý được nói là đem lại các năng lực thần thông biến hóa - so với những giáo lý ấy thì quả thực ba điều nòng cốt của đạo lộ không có vẻ gì là một giáo lý hấp dẫn đặc biệt cho lắm.
    Pháp Lam-rim không phải do Rinpoche (Tsongkapa) sáng chế, hay Atisha đặt ra. Hệ truyền thừa của nó bắt nguồn từ chính đức Phật đáng Toàn giác, và chỉ từ nơi Ngài mà thôi nhưng khi bạn hiểu ra rằng có một pháp được gọi là Lam-rim trong khi các pháp khác không có tên gọi ấy, bạn sẽ thấy rằng tất cả mọi kinh điển đều là Lam-rim. Bộ kinh tôn quý Bát nhã Ba la mật là bộ kinh tối thượng trong tất cả kinh điển của đấng Ðạo sư chúng ta. Trong kinh ấy Ngài dạy rõ phần thâm thúy nói về những giai đoạn trên đạo lộ đưa đến trí bát nhã (thực chứng tánh không) mà là cốt lõi của tám muôn bốn gnà pháp; Ngài cũng ám chỉ cái phần rộng rãi của Lam-rim trong những phương pháp của chư Phật. Vậy, đây là nguồn gốc của hệ truyền thừa. Phần rộng rãi này được truyền cho đệ tử trước tiên của Phật là Di Lặc (Maitreya), Di Lặc truyền cho Vô Trước (Asanga). Phần sâu xa của Lam-rim truyền cho Văn Thù (Manjusri) đến Long Thụ (Nàgàrjuna). Ðấy là cách mà truyền thống Lam-rim được tách làm hai - pháp Sâu và pháp Rộng.
    Ðể làm sáng tỏ Lam-rim, Di Lặc đã soạn Năm bộ luận, Vô Trước viết “Năm luận về các trình tự”, Long Thụ viết Sáu luận, vân vân. Như vậy các hệ phái Lam-rim Sâu và Rộng đã truyền xuống cho bậc thánh vô tỉ là Atisha. Ngài nhận hệ phái Rộng từ Suvarnadvìi, và hệ phái Sâu từ Vikyakokila; ngài phối hợp hai hệ phái thành một dòng. Ngài còn kế thừa hệ phái Những Hành Ðộng Uy Mãnh Nhất mà Shantideva hấp thụ của Văn Thù, cùng những hệ phái về mật chú, vân vân. Như thế, những hệ phái mà ngài thừa kế bao gồm cả kinh giáo lẫn mật giáo.
    Atisha soạn tác phẩm “Ngọn đèn soi đường Giác ngộ” tại Tây Tạng. Tác phẩm này phối hợp những điểm then chốt trong toàn bộ giáo lý. Những lời giảng dạy về sau được mang tên “Lam-rim”. Từ thời Atisha, những hệ phái liên hệ tri kiến sâu xa và hành động rộng rãi đã phối hợp thành một dòng duy nhất. Những dòng này lại tách làm ba hệ phái vào thời đại của phái Kadampa: hệ phái Cổ điển, hệ phái Những Giai đoạn của Ðạo lộ, và hệ phái Chỉ giáo (Instruction.) Mỗi hệ phái tập trung vào một khía cạnh khác nhau. Về sau, Je Tsongkapa hấp thụ cả ba hệ phái này từ Namkha Gyaeltsaen ở Lhodrag, vị này là một học giả uyên bác, và từ Chekyab Zangpo, tu viện trưởng của tu viện Dragor. Từ thời ấy trở đi, truyền thống trở lại thành một phái duy nhất.
    Ðức Je Tsongkapa vĩ đại đã làm lễ cầu nguyện với những bậc tiền bối trong hệ truyền thừa của ngài bên tảng đá hình sư tử tại Retreng về phía bắc Lhasa. Pho tượng trình bày bậc thánh với chiếc đầu nghiêng về một phía. Mỗi khi ngài cầu xin trước pho tượng này, ngài liền thấy được những linh ảnh của tất cả những bậc thầy của hệ phái Lam-rim cùng ngài đàm luận về Pháp. Lại nữa, ngài còn thấy những linh ảnh của Atisha, Dromtoenpa, Potowa và Sharawa trong suốt một tháng trời. Ba linh ảnh sau cuối cùng tan thành một với linh ảnh Atishaz, vị này đặt tay trên đầu ngài Tsongkapa mà nói: “Hãy giảng dạy giáo lý này đi, ta sẽ giúp ngươi.” Ðiều này có nghĩa rằng chính Atisha đã xui khiến Tsongkapa viết tác phẩm Những Giai Ðoạn Chính Của Con Ðường Tu Tập. Tsongkapa hoàn tất tác phẩm này đến cuối phần nói về tịnh chỉ. Ðại sĩ Văn Thù (Manjusri) yêu cầu ngài hoàn tất tác phẩm, kết quả là ngài viết thêm chương nói về Tuệ quán đặc biệt. Vậy, ta phải ý thức rằng sách này là một kho tàng của nhiều phép mầu hộ niệm, cho dù ta không biết được những người nào khác dã yêu cầu ngài soạn sách. Ðiều này được ám chỉ trong đoạn bắt đầu: “Nhờ những phép mầu kỳ lạ của các Ðấng Chiến thắng và những Pháp tử của các ngài...”
    Về sau, ngài soạn tác phẩm Những Giai Ðoạn Giữa Của Ðạo Lộ để tóm tắt cốt tủy của vấn đề là không được nói đến trong Những Giai Ðoạn Chính Của Ðường Tu. Tác phẩm này phần lớn bàn về hệ phái khẩu truyền trực tiếp và những hệ phái giảng kinh cổ xưa hơn; cả hai Lam-rim này được cho là bổ túc lẫn nhau với những điểm then chốt khác nhau rút từ những lời dạy truyền khẩu.
    Có lẽ bạn không biết làm sao để thể nhập những bản văn này vào việc tu tập của bạn. Je Rinoche (tức Tsongkapa) nói về sau:
    “Những người thấy không thể nào hiểu nổi làm sao thực hành tất cả giáo lý này, thì nên tham khảo những bản văn ngắn gọn hơn nhiều, chỉ dạy cách tu tập.”
    Bởi thế bạn phải tham khảo những văn bản sau đây. Ðức Dalai Lama thứ Ba - Lama Soenam Gyatso - viết tác phẩm Tình Chất Của Vàng Ròng. Ðức Dalai Lama thứ Năm vĩ đại viết Lam-rim do chính đức Văn Thù nói, kể như một luận giải cho tác phẩm này. Ðức Panchen Lama (Ban thiền lạt ma) - Lozang Chekyi Gyaeltsaen - viết Con Ðường Dễ và Lozang Yeshe (một tái sinh khác của Panchen) soạn luận giải cho sách này với tác phẩm Con Ðường Nhanh. Chính đức Tsongkapa cũng viết ba tác phẩm về Lam-rim: Ðường Lớn, Ðường Trung Bình, Ðường Nhỏ (còn gọi là Những bài Ca từ Kinh nghiệm hay Chứng đạo ca). Ngoài bốn sách giáo lý khúc chiếc của các vị Dalai Lama và Panchen Lama nói trên, Ngagwang Dragpa ở Dagpo còn viết Con Ðường Của Kinh Giáo Vi Diệu. Ðấy là tám giáo lý nổi tiếng nhất về Lam-rim.
    Bạn phải thụ giáo những bài giảng truyền thừa về những kinh văn căn bản này cùng với những luận giải. Chỉ thụ giáo một bài giảng mà thôi thì không đủ. Lại nữa, có đến hai bài giảng về tác phẩm Những Lời Dạy Của Ðức Văn Thuø, một bài chi tiết hơn bài kia. Một trong hai bản văn này được truyền ở tỉnh Trung ương, bản kia truyền ở miền Nam: do vậy có sự phân thành hai phái. Bạn cũng phải thụ giáo riêng rẽ cả hai hệ phái này. Vị quan tể tướng Tagpugpa và các đồ đệ ngài về sau đã đánh giá cao hệ truyền thừa bản văn này. Ngài tuyên bố rằng nếu ngài gặp bản này sớm hơn, thì ngài không phải trải qua nhiều vấn đề nan giải liên hệ những đề mục tu thiền trong Lam-rim. Ðiều này đúng như ngài nói: giáo lý cô đọng của Con Ðường Nhanh, và hai dòng trong tác phẩm Những Lời Dạy Của Ðức Văn Thuø phối hợp lại, làm thành một cái gì sâu sắc vô cùng.
    Khi Ðức Phật đấng Ðạo sư chúng ta giảng dạy, thì không có chuyện phân thành hai hệ phái giảng kinh. Chỉ có về sau, khi giáo lý Ngài không còn hoàn toàn dễ hiểu, thì mới có chuyện giảng kinh tách biệt với thuyết pháp. Những bài giảng nào bàn chi tiết về những từ ngữ trong kinh được gọi là “giảng có bài bản.” Ngược lại sự “giảng gọn” ám chỉ những lời giảng dạy không căn cứ nhiều trên danh từ của kinh văn, mà lại trình bày cốt tủy của giáo lý, thiện xảo như những y sĩ giải phẫu một tử thi trước mặt học trò. Cái cách họ chỉ rõ lục phủ ngũ tạng vân vân, đem lại cho người học một sự dẫn nhập sống động. Trong bài giảng theo kiểu “nói chuyện thân mật”, vị thầy nói kinh nghiệm của riêng mình, cách dạy này cốt gây một ảnh hưởng lớn nhất trên dòng tâm thức của những môn sinh. Còn lối “giảng thực tiễn” là như sau. Môn sinh ở chung trong một nhà nhập thất. Họ được dạy một đề mục để thiền quán. Họ không dạy thêm một đề mục nào nếu chưa đạt một tuệ giác về đề mục trước. Lối giảng dạy này truyền xuống đến chúng ta qua những hệ phái thiền về tuệ quán. Ðấy là những phương pháp tốt nhất để hàng phục dòng tâm thức.
    Giáo lý mà tôi sắp giảng dạy thuộc về loại “nói chuyện thân mật.” Một vài vị hiện diện trong đây cũng khá không may vì chỉ có thời gian theo học giáo lý này một vài làn. Họ cũng ham thích giáo lý này thực, nhưng sau đó họ phải đi con đường của họ. Vì những người này mà tôi sẽ phối hợp Con Ðường Nhanh và hai hệ phái giảng về tác phẩm Những Lời Dạy Của Ðức Văn Thù. Về sau, khi chúng ta đến phần ấy, tôi sẽ đưa ra Bảy điểm tu tâm để đổi địa vị mình với người.
    Tôi không có sự dè dặt nào trong khi giảng giáo lý này. Nó sẽ tạo công đức cho hai nhà quý tộc quá cố mà khóa giảng này được làm lễ tưởng niệm. Và khi tôi giảng dạy Lam-rim, tôi không phải cân nhắc lợi hại đối với bậc thầy hay môn đệ, nhưng tôi phải cân nhắc khi dạy những giáo lý khác, chẳng hạn các pháp quán đảnh. Sự giảng dạy về Lam-rim chỉ có thể đem lại lợi lạc mà thôi.
    Tất cả các bạn, hãy tu kiểu nào bạn có thể tu, và nhớ cầu nguyện cho hai nhà quý tộc quá cố.
    (Kyabje Pabongka Rinpoche khẩu truyền những dòng mở đầu của những văn bản Lam-rim này. Sau đó chúng tôi được giải tán.)
    Gia Đình Vô Hình

  8. #8

    Mặc định

    NGÀY THỨ HAI

    Lama Pabongka Rinpoche mở đầu:
    Ðức Tsongkapa vĩ đại (trong lời Dẫn nhập tác phẩm Ba Nòng Cốt Của Ðạo Lộ) đã viết:
    Tôi sẽ cố giải thích ý nghĩa
    Tinh túy của tất cả kinh điển
    Của Ðấng Chiến Thắng
    Ðạo lộ được tán dương
    Bởi tất cả chư Phật và những pháp tử của ngài
    Ðó là cửa vào cho những người may mắn muốn đạt giải thoát.
    Giáo lý này là tinh túy của tất cả kinh điển Phật thuyết. Trong phần Phạm Vi Nhỏ bạn được thúc dục phải từ bỏ những cõi xấu ác, trong phần Phạm Vi Trung Bình, bạn được thúc dục phải từ bỏ toàn bộ vòng sinh tử luân hồi, vân vân. Nhưng bạn sẽ không làm nổi những việc ấy nếu không dựa vào Lam-rim. Tâm bồ đề tôn quý là con đường mà tất cả chư Phật và các đấng Pháp vương tử (Bồ tát) đều ca ngợi. Cửa vào cho những người mong đạt giải thoát chính là chánh kiến về Tánh không, xa lìa hai cực đoan thường kiến và đoạn kiến. Bạn cũng không thành tựu được điều này nếu không dựa vào hệ thống giáo lý Lam-rim. Bởi thế để đạt thành Phật quả, bạn cần phải phát triển ba nòng cốt ấy của đạo lộ ở trong lòng tâm thức bạn.
    Muốn phát sinh ba nòng cốt này trong tâm thức, bạn phải dựa vào Lam-rim. Bởi thế mà ngay từ đầu, bạn hãy khởi động lực như sau: “Tôi sẽ đạt Phật quả vì lợi lạc cho tất cả hữu tình - và lý do ấy tôi sẽ tham dự buổi nói chuyện thân mật này về Ba phạm vi khác nhau của Lam-rim.” Hãy tập trung tất cả những động lực và hành động của bạn theo chiều hướng những ý tưởng ấy, rồi hãy lắng nghe.
    Và pháp mà các bạn sắp nghe là pháp gì? Ðó là pháp Tối thượng thừa, giáo lý đưa người may mắn đến Phật quả. Ðó là con đường truyền thống của hai vị tiên phong vĩ đại là Long Thụ và Vô Trước. Ðó là tinh hoa tư tưởng của đức Atisha vô song và đức Tsongkapa, Pháp vương của ba cõi. Giáo lý này sâu xa là như vậy đó. Nó có mọi điểm then chốt được tìm thấy trong tinh hoa của tám vạn bốn ngàn kinh điển, nó tổ chức những thực tập tuần tự đưa ta đến giác ngộ.
    Những “câu chuyện thân mật” về những giai đoạn của con đường đến giác ngộ có thể nằm dưới một tiêu đề căn bản: “Giáo lý thực thụ.” Nhưng có những tiêu đề được đưa thêm vào để ấn định bản chất của Lam-rim, những bản kê khác nhau về nó, và thứ tự giảng dạy giáo lý này. Bạn phải quen thuộc với những tiêu đề này để biết chắc cái nào đi với đề mục thiền đặc biệt nào, chúng được giải thích như thế nào, những trích dẫn đưa ra trong những tiêu đề ấy, hệ giáo lý khẩu truyền về chúng, và những chỉ dẫn mà chúng hàm chứa. Nếu không, nghĩa là nếu bạn nghe một giáo lý khơi khơi không có tiêu đề nào cả, thì sẽ khó làm cho những thiền quán trở thành lợi lạc cho dòng tâm thức bạn. Nó sẽ giống như là bạn cố lấy riêng ra xài hoặc trà, hoặc bơ, muối, soda... sau khi chúng đã được bỏ chung một bình. Có nhiều loạt tiêu đề khác nhau - một số dùng cho những Lam-rim ngắn gọn, một số dành cho những bản dài hơn. Bạn nên theo những tiêu đề của giáo lý mà bạn đã hấp thụ.
    Bây giờ tôi sẽ theo phần lớn sự thực hành của tôn sư tôi áp dụng tiêu đề Con Ðường Nhanh. Loạt tiêu đề đặc biệt này được trang điểm bằng nhiều chỉ giáo khẩu truyền. Trước đây nó chưa từng được bút ký, nhưng ngài hết sức cẩn thận khi giảng dạy chúng một cách công khai; và tôi cũng đã được thụ giáo những tiêu đề ấy một mình với thầy. Tôi đã hết sức cẩn thận thu thập chúng lại và viết lên giấy. Những tiêu đề ấy không quá ngắn cũng không quá dài, và có nhiều dáng vẻ độc đáo đã được cho là rất công hiệu.
    Những học giả tu viện Nalanda ưa nói đến ba sự thanh tịnh trước khi giảng pháp:sự thanh tịnh giáo lý khẩu truyền của vị thầy, sự thanh tịnh của dòng tâm thức nơi môn sinh, và sự thanh tịnh của Pháp đang được trình bày. Những học giả của Vikramashìla trong những phần dẫn nhập thường nói đến tính vĩ đại của tác giả, tính vĩ đại của Pháp, và cách lắng nghe giáo lý ấy. Tôi sẽ theo truyền thống sau cùng này.
    Bài giảng về những giai đoạn của con đường đến Giác ngộ có bốn phần chính:
    1. Sự vĩ đại của các tác giả, được nói lên để chứng minh rằng giáo lý này có một nguồn gốc trong sạch.
    2. Sự vĩ đại của Pháp, được nói để tăng niềm tin tưởng đối với giáo lý.
    3. Cách chân chính để giảng và nghe nền giáo lý có hai sự vĩ đại này.
    4. Trình tự theo đó các môn đệ phải được dạy những chỉ dẫn thực thụ.
    Bốn tiêu đề này được tìm thấy trong tác phẩm (của Tsongkapa) Những Giai Ðoạn Lớn Của Con Ðường. Bất kỳ loại Lam-rim nào được trình bày - Con Ðường Dễ, Con Ðường Nhanh, vân vân - bất kể nó được giảng chi tiết đến đâu, truyền thống khẩu truyền nói bạn phải khởi bằng những tiêu đề ấy, nếu không người ta sẽ không phất sinh đầy đủ niềm tin.

    I. TÍNH CÁCH VĨ ÐẠI CỦA NHỮNG TÁC GIẢ NÓI LÊN ÐỂ CHỨNG TỎ NỀN GIÁO LÝ NÀY CÓ MỘT NGUỒN GỐC TRONG SẠCH.
    Như lần trước tôi đã nói, theo truyền thống những học giả Ấn, thì Pháp mà bạn sẽ thực hành phải là do Phật dạy, được giảng giải bởi những bậc học giả hiền trí, và được xử dụng để thiền quán bởi những hành giả uyên bác có thể phát sinh những thực chứng về thần thông và tuệ giác trong dòng tâm thức họ.
    Về phần chúng ta, chúng ta cần nhiều hơn là đức tin, trí tuệ, và kiên trì tinh tấn; nếu ta thực hành một Pháp mà chỉ có vẻ hữu lý, thì ta sẽ không đạt được kết quả nào. Ta đã thấy tận mắt nhiều người vừa trí tuệ vừa kiên nhẫn đã lãng phí thì giờ vô ích kiểu ấy. Hơn nữa, dù một giáo lý có được cho là phát xuất từ những linh kiến sâu xa đến đâu, thì Ba Nòng Cốt Của Ðạo Lộ như tôi đã nói với bạn, vẫn quan trọng hơn các Sàdhanas (những phương pháp đắc quả) và những giáo lý dạy cách chứng các thần thông, bởi vì những thứ này còn không hơn được cả đến một dẫn nhập vào ba quy y.
    Muốn tìm về nguồn của một con sông, bạn cần hải đi trở ngược về lằn ranh tuyết. Cũng thế bạn phải truy tầm một pháp trở lui về Ðức Phật, bậc Thầy của chúng ta. Nếu có thì giờ để bàn chi tiết điều này, tôi sẽ khởi sự bằng đời Ðức Phật và những tiểu sử của những bậc thầy thuộc tất cả các hệ phái, làm thế nào các ngài đã sử dụng con đường này để đạt đến những quả vị cao siêu. Nhưng tôi không đủ thì giờ để bàn dài dòng như thế. Tôi chỉ kể cho các bạn nghe một ít chuyện mà thôi.
    ( Khi ấy Pabongka Dorje Chang (Kim cương trì) kể sơ cho chúng tôi nghe làm thế nào mà có hai hệ truyền thừa từ đức Phật xuống Atìsha; và làm thế nào Atìsha đã phối hợp hai hệ phái thành một dòng. Ngai tiếp:)
    Atìsha viết Ngọn Ðèn Soi Ðường tại Tây Tạng; từ ngữ “Lam-rim” về sau mới xuất hiện. Trong tất cả những tác phẩm về giáo lý Lam-rim như Con Ðường Tối Thượng, Giáo lý Tuần Tự, vân vân, tác phẩm chính về đề tài này - Ngọn Ðèn Soi Ðường - là kiệt tác của ngài. Bởi thế Atìsha gần như là tác giả của những pháp môn ấy. Ngay cả Tsongkapa vĩ đại cũng viết: “Tác giả sách này kỳ thực chính là Atìsha.” Bởi thế đáng tôi phải kể cho các bạn nghe lịch sử chi tiết cuộc đời ngài, song vì ít thì giờ tôi chỉ nói sơ lược.
    Tiểu sử này có ba tiêu đề:
    1. Ngài sinh vào một trong những gia đình quý tộc.
    2. Ngài đã có được những kỳ đức từ thuở ấu thơ.
    3. Sau khi có được những đức ấy, ngài đã làm những việc gì.

    A. ATÌSHA SINH VÀO MỘT GIA ÐÌNH QUÝ TỘC
    Atìsha sinh tại miền đất nổi tiếng đông Ấn bây giờ là Bengal, tại một đô thị lớn có một trăm ngàn hộ dân cư, tổng số dân là ba triệu năm trăm ngàn. Lâu đài của thân phụ ngài được gọi là “Lâu đài của những lá cờ vàng chiến thắng.” Có mười ba ngôi chùa vàng, và hai mươi lăm tràng phan chiến thắng bằng vàng. Gia đình ngài rất giàu có và có thế lực. Thân phụ ngài là vua Kalyànashrì; thân mẫu là Prabhàvatì. Lúc ngài ra đời có nhiều điềm lạ.

    B. NGÀI ÐÃ ÐẠT ÐƯỢC NHỮNG KỲ ÐỨC NGAY TRONG ÐỜI NÀY NHƯ THẾ NÀO
    Khi vị thái tử hài nhi mới mười tám tháng tuỏi, song thân ngài viếng thăm một ngôi đền ở Vikramapuri. Dân chúng sắp hàng hai bên đường để xen thái tử. Ngài trông thấy đám đông và hỏi cha mẹ: “Những người này là ai thế?” Họ trả lời: “Ðấy là thần dân của con.” Hài nhi nhìn mọi người với vẻ thương xót và thốt ra lời kệ:
    Ước gì họ đều như tôi:
    Giàu có, nhiều công đức sáng chói,
    Thừa kế ngai vàng, một thái tử đầy quyền lực.
    Ước sao tất cả họ đều tin theo Diệu Pháp!
    Mọi người rất đỗi kinh ngạc. Khi vào đền, mọi người kể cả cha mẹ ngài đều cầu nguyện không bệnh, sống lâu, giàu có, khỏi sa vào đọa xứ, được sanh lên thượng giới, vân vân. Riêng thái tử lại cầu nguyện như sau:
    Tôi đã được tái sanh làm người
    Một người được ưu đãi
    Giác quan tôi không tì vết
    Tôi gặp được Ba ngôi báu
    Mong sao con luôn luôn kính cẩn
    Ðội trên đầu con Ba ngôi báu
    Kể từ hôm nay, xin Ba ngôi báu làm chỗ nương của con
    Mong sao con đừng bao giờ bị công việc gia đình trói buộc
    Mong sao con có năng khiếu về Pháp
    Ở giữa đại chúng Tăng già.
    Mong sao con cúng dường Tam bảo
    Mà lòng không một chút kiêu căng
    Mong sao con nhìn mọi hữu tình với lòng thương xót.
    Mới mười tám tháng tuổi, vị thái tử hài nhi đã nói đến chuyện quy y và phát tâm bồ đề. Ngài đã làm cho chúng ta tin tưởng ngay từ điểm này trong tiểu sử đời ngài.
    Tác phẩm “Quyển sách của hệ phái Kadampas” cho chúng ta biết về sự phát triển sớm của ngài:
    Khi thái tử lên ba
    Ngài đã giỏi về toán,
    Văn chương và thi phú.
    Khi lên sáu tuổi
    Ngài có thể phân biệt
    Phật pháp, phi Phật pháp.
    Phân biệt Phật pháp với không phải Phật pháp thật là chuyện vô cùng khó khăn. Có lẽ chuyện sau đây sẽ cho bạn vài khái niệm. Có lần Atìsha đã nói: “Ở Ấn Ðộ chỉ có ba người biết phân biệt Phật pháp và phi Phật pháp là Nàropa, Shàntipa và tôi. Naropa đã chết, còn tôi đã đi Tây Tạng. Có thời nào mà xứ Ấn lâm vào một tình thế tệ hơn không?”
    Chính sự kiện Atìsha có thể phân biệt như vậy vào lúc lên sáu, đối với tôi dường như là dấu hiệu chứng tỏ ngài đã uyên bác ngay từ lúc nhỏ.
    Khi ngài mười một tuổi, nhiều công nương công chúa xứng đôi vừa lứa đã tìm đủ nghệ thuật múa hát để quyến rũ ngài; nhưng những cảnh tượng ấy chỉ gợi cho ngài sự gớm ghiếc và xuất ly. Có một cô gái làn da ngăm đen vốn là hóa thân của Tara, đã nói với ngài.
    Thái tử, chớ bị vướng mắc
    Hỡi người diễm phúc, đừng bị vướng
    Nếu một anh hùng như ngươi
    Mà bị tóm trong vũng lầy dục vọng
    Thì cũng như con voi sa lầy.
    Nhưng người mặc áo giáp giới đức thì không chìm đắm.
    Ta hãy suy xét rộng rãi lời nói của nàng. Nàng bảo thái tử đừng vướng mắc trước hết là vào đời này, và thứ đến là vào sinh tử luân hồi nói chung. Ví dụ nàng dùng về con voi sa lầy có nghĩa rằng, vì con voi có thân xác khổng lồ, nên còn khó gỡ mình ra khỏi sình lầy hơn những con vật khác. Nếu những người thông thường mà phạm vài điều quấy, thì chỉ có hại cho bản thân họ chứ không thể phương hại đến sự lan truyền giáo lý. Nhưng nếu tu sĩ vĩ đại hoặc những tái sanh của Lamas mà hành xử sai trái, thì sẽ làm cho sự giảng dạy giáo lý trong vùng ấy mất ảnh hưởng. Nếu những vị này hành xử thích đáng, thì giáo lý ở vùng ấy sẽ thịnh. Lại nữa, với tôi dường như điều ấy muốn nói rằng điều quan trọng nhất là những người lớn như quý vị cần phải đa văn, có đạo dức, từ bi, và quý vị nên giữ gìn những truyền thống Gelugpa thuần tịnh.
    Vị thái tử trả lời rằng những lời yêu cầu của nàng làm cho thái tử rất hài lòng.
    Không lâu sau đó, vua cho một trăm ba mươi kỵ sĩ vây quanh thái tử. Thái tử giả vờ đi thám hiểm núi rừng ở vùng lân cận. Mục đích thực thụ của ngài là tìm một bậc đạo sư. Ngài gặp bà la môn Jitarì đang sống trong một ngọn núi, ông cho thái tử quy y và thọ giới Bồ tát, và cho thái tử biết về Bodhibhàdra ở Nalanda, người có duyên nghiệp với thái tử đời quá khứ. Thái tử liền đi gặp bậc thầy ấy và dâng cúng ngài nhiều ngọc ngà châu báu. Bodhibhàdra rất hoan hỉ. Bậc thầy nhập định và làm phép tịnh hóa ba cửa (thân khẩu ý) cho thái tử. Ngài cũng cho thái tử nhiều lời chỉ giáo liên hệ đến sự phát tâm bồ đề, đoạn giới thiệu thái tử đến bậc thầy Vidyakokila, vị này cũng dạy thái tử về sự phát bồ đề tâm rồi gởi thái tử đến một bậc thầy từ đời trước của thái tử là Avadhutipà.
    Gia Đình Vô Hình

  9. #9

    Mặc định

    Avadhutipà bảo thái tử: “Hãy trở về kinh đô của phụ vương ngày hôm nay. Hãy quán xét những khuyết điểm nơi lối sống của một cư sĩ thế tục.”
    Và thế là thái tử về nhà, khiến cha mẹ ngài rất vui mừng. Họ hỏi: “Con đi đâu thế, hởi Chadragarbha (Nguyệt Tạng). Con có mệt chăng? Có sầu muộn chăng? Ôi thật tốt thay con đã trở về.” Thái tử trả lời:
    Con đã đi tìm thầy học đạo
    Vì thầy là nơi nương tựa quý báu như Phật
    Con đã tìm trong hang núi
    Và những nơi tịch mịch hoang vu
    Nhưng dù đi đến đâu
    Con cũng có thể thấy lỗi lầm của sinh tử.
    Bất cứ người bạn nào con gặp
    Ðều nói cho con nghe những lỗi lầm của sinh tử.
    Mặc dù thế, con vẫn chưa được vừa lòng.
    Xin cho con tự do để quay về với Pháp.
    Cha mẹ thái tử bảo ngài rằng việc sinh tử làm cho ngài đau khổ như thế, thì thái tử nên làm vua rồi tha hồ mà cúng dường Tam Bảo, bố thí cho người nghèo, xây chùa, trai tăng, vân vân. Như vậy ngài sẽ hoàn toàn hạnh phuc. Thái tử trả lời:
    “Con đã thấy nhiều cảnh khổ sinh tử. Con không chút nào bị lôi cuốn vào những cạm bẫy của cuộc đời vua chúa. Cung vàng điện ngọc đối với con không khác nào lao ngục. Những mỹ nữ không khác gì con gái của ma vương. Ba chất ngọt ngào (?) chẳng khác nào thịt chó, mủ và máu. Mặc lụa là trang sức châu báu với đắp một cái mền rách không có gì khác nhau. Con sẽ vào rừng để thiền định. Hôm nay hãy cho con một ít thịt, sữa, mật, đường mía để con đi đến bậc thầy Avadhutìpà.” Ðấy là đại ý những bài ca được hát cho cha mẹ ngài. Những vị này cho phép ngài làm theo ý muốn, và thái tử khởi hành vào rừng cùng với một ngàn kỵ sĩ đi theo.
    Ngài trở thành đồ đệ của Avadhutìpà, người khai thị cho ngài sự phát tâm bồ đề. Ông bảo: “Hãy đi đến chùa Krshnagiri (Hắc sơn) nơi tiên Ràhulagupta đang ở. Ông ấy cũng từng là thầy con trong quá khứ.”
    Bậc thầy Ràhula lúc ấy đang giảng giáo lý mật tông. Khi thấy thái tử đi vào, mặc dù đã biết thái tử đến để cầu Pháp, để thử thách ông tung một luồng sét đánh vào thái tử, rồi đi lên đỉnh núi chỗ có một ngôi tháp Tìrthika màu đen. Các ẩn sĩ tùy tùng hỏi ông người ấy là ai. Ràhula trả lời: “Trong năm trăm năm mươi hai đời tái sinh, ông ấy luôn luôn làm học giả. Bây giờ ông ấy là thái tử sắp nối ngôi vua Pháp ở xứ Bengal là Kalyànashrì. Ông ta không màng tới đời sống vương giả, mà mong muốn thực tập khổ hạnh.”
    Mọi người đều ngạc nhiên. Họ đứng lên mời thái tử gia nhập vào đoàn họ.
    Khi gặp bậc thầy này, Atìsha nói:
    Hỡi đạo sư thánh thiện xin nghe con đây:
    Con đã từ bỏ gia đình
    Con mong đạt giải thoát
    Nhưng con đã sinh vào nhà danh tiếng
    Và có thể trói buộc vào xứ Bengal.
    Con đã tôn thờ những bậc thầy
    Jitàri, Bodhibhadra, Vidyakokila và Avadhutìpà,
    Những bậc đạo sư có thần thông
    Nhưng ngay đến bây giờ, con vẫn chưa thoát khỏi
    Những bổn phận làm vua.
    Nay con được gởi đến Thầy, hỡi bậc Ðạo sư:
    Xin hãy khai thị cho con giáo lý Ðại thừa
    Và sự phát bồ đề tâm,
    Mong sao con thoát khỏi những trói buộc.
    Thái tử tiếp tục năn nỉ vị thầy suốt mười ba ngày. Cuối cùng ông đáp ứng, làm pháp quán đảnh Hevajra cho thái tử và truyền riêng cho ngài tất cả những chỉ giáo. Thái tử được pháp danh trong mật giáo là Jnànaguhyavajra.
    Rồi Ràhula bảo tám vị nam nữ khổ hạnh lỏa thể có nhiều thần thông khủng khiếp rằng: “Hãy đi theo ông ấy về Bengal, làm cho nhà vua đổi ý. Khi thái tử đã được giải thoát khỏi phận sự làm vua, thì hãy đưa ông đến bậc thầy của ông là Avadhutìpà.”
    Bấy giờ thái tử trang phục như thần Heruka, đi vào hoàng cung. Mọi người trông thấy đều nhận ra ngài và rất hoảng sợ. Ngài lang thang suốt ba tháng, hành xử như một người điên. Những tu sĩ khổ hạnh đi theo ngài thì chạy nhảy cùng khắp. Mọi người đều quyết định rằng ngài không còn đủ tư cách để trị vì nữa, và không ai cầm được nước mắt.
    Phụ thân ngài là người buồn sầu nhất. Ông nói:
    Ôi con tôi! Từ khi sinh con ra
    Cha đã thấy con có giá trị phi thường
    Cha những tưởng con sẽ làm phận sự quốc vương của con
    Còn ai hạnh phúc hơn con nữa?
    Sự ẩn cư trong rừng dã tác hại gì đến tâm con như thế?
    Thái tử đáp:
    Thưa cha, nếu con làm vua
    Con chỉ được sống với cha trong đời này
    Nhưng rồi cha con không nhận ra nhau trong những đời sắp tới.
    Thật sai lầm biết bao khi làm một việc
    Không đem lại lợi ích gì mà chỉ có hại.
    Nếu con từ bỏ đời sống vương giả
    Mà thực hành Con đường bảo đảm
    Ðưa đến giải thoát giác ngộ,
    Thì cha con mình sẽ được hạnh phúc
    Trong những đời tương lai
    Bởi thế, cha hãy buông con ra!
    Bà mẹ nói:
    Có ích gì đây? Ta không thuyết phục con nổi
    Nghiệp là cái tiên quyết
    Ðã ném tất cả chúng ta vào tái sanh trong đời.
    Ôi hỡi người con thánh thiện, cứ việc tu pháp gì con cho là tốt nhất,
    Còn mẹ sẽ cầu nguyện được gặp con trong tất cả các đời sau.
    Rồi cha mẹ đều cho phép thái tử xuất gia.
    Thái tử cùng với những tu sĩ khổ hạnh rời cung điện sáng sớm để đi đến nơi ẩn cư trong rừng của bậc thầy Avadhutìphà, ở đấy ngài học Phật của trường phái Trung quán. Atìsha được thụ giáo về những điều vi tế sâu xa của luật nhân quả, từ năm 21 tuổi cho đến năm 29, ngài gần ngang với bậc thầy Avadhutiphà. Vắn tắt là ngài đã thiền quán, chiêm nghiệm về mọi sự mà ngài đã học được. Tác phẩm Quyển Sách Xanh về những Bùa Chú nói: “Ngài đã theo học Avadhutìphà trong bảy năm.”
    Atìsha đáng lẽ đã lên ngôi làm vua, sự nghiệp rực rỡ không thua gì hoàng đế Trung Quốc Li Shi-min, mà hoàng cung có đến mười vạn ngôi nhà với những tràng phan chiến thắng, hai mươi lăm ngàn ao tắm, bảy trăm hai mươi lạc viên, và năm mươi sáu ngàn cây cổ thụ. Ngài cóthể sở hữu ba triệu rưỡi thần dân. Cung điện của ngài được vây quanh với bảy lớp trường thành nối liền bằng ba trăm sáu mươi ba ngôi chùa. Nhưng ngài Atìsha vĩ đại đã hiến mình cho Chánh pháp và đã từ bỏ tất cả những cạm bẫy vô song ấy của vương quyền như thể là người ta nhổ nước bọt vào đống rác. Ðức Phật đấng Ðạo sư của chúng ta cũng đã từng làm như vậy: mặc dù nắm chắc uy quyền của một vị chuyển luân vương trong tay. Ngài đã từ bỏ để xuất gia. Bởi vậy, bạn phải đọc lại một cách say sưa lịch sử của các ngài. Nếu bây giờ có ai bảo chúng ta: “Hãy xả giới hoàn tục, rồi ông sẽ cho làm quận trưởng.” Ta sẽ làm theo ngay không chút do dự. Thế cũng đủ chứng minh tầm mức sự phát tâm của chúng ta.
    Thật khó cho chúng ta từ bỏ những vặt vãnh trong căn phòng nhỏ hẹp của mình, nói gì đến chuyện từ bỏ uy quyền của vương vị. Hãy xem điều này trái ngược với Atìsha, người đã vứt bỏ vương vị xem như đờm dãi, người theo thầy học đạo trải qua bảy năm ròng. Ngài cũng thọ giáo Kim cang thừa với nhiều bậc đạo sư có thần thông khác, trở thành một học giả về tất cả cổ thư và mọi ngành giáo lý. Một hôm ý nghĩ này khởi lên nơi ngài, “Ta rất uyên thâm về mật giáo.” Nhưng ngài liền mất tất cả kiêu mạn khi ngài mộng thấy một số nữ thần (dàkinìs) đưa cho ngài xem nhiều pho sách mật giáo mà ngài chưa từng thấy. Và khi ngài khởi lên tư tưởng, “Ta sẽ đạt những thần thông tối thượng về Ðại thủ ấn (mahàmudrà) ngay trong đời này bằng cách áp dụng một cách hành xử có nhiều tính chất mật giáo hơn nữa” (nghĩa là có vợ), thì đạo sư Ràhulagupta hiện đến với ngài bằng thần thông đi xuyên qua tường vách mà bảo: “Cái gì? Con đã quên chúng sinh rồi sao? Hãy thụ giới ngay. Ðiều này sẽ làm lợi lạc cho nền giáo lý và cho nhiều hữu tình chúng sinh.”
    Khi thần Heruka xuất hiện trước ngài, và cũng yêu cầu như thế. Ngài cũng mộng thấy Ðức Thích Ca Mâu Ni bậc Ðạo sư của chúng ta, và Ðức Di Lặc, bảo ngài phải thụ giới. Ngài thụ giới cụ túc với ngài Shìlaraksha (Giới hộ), một tu viện trưởng thuộc bộ phái Mahàsamgika (Ma ha tăng kỳ vực), người đã đạt giai đoạn Nhẫn trên đạo lộ chuẩn bị. Atìsha được thọ cụ túc giới vào năm 29 tuổi.
    Atìsha đã theo học một trăm năm mươi bảy bậc thầy, học tất cả các học thuật, kinh giáo và mật giáo cùng những bài dạy truyền khẩu liên hệ. Ngài làm một khảo cứu đặc biệt về những điểm then chốt trong Tứ Phần Luật dưới sự hướng dẫn của Dharmarakshita (Pháp hộ), và làm một bộ luận khổng lồ bao gồm một trăm lẽ tám bài tụng trình bày phần của Thắng pháp (Abhidharma) gọi là “Luận Về Những Ðiểm Ðặc Biệt.” Ngài nghe giảng những giáo lý này trong mười hai năm, và nghiên cứu tường tận. Ngài còn am tường tất cả những pháp tu khác nhau của mười tám bộ phái (thuộc bộ phái Vaibhashika - Ðại tỳ bà sa), về những vấn đề như thành phần nào trong tăng chúng phải tịnh thí một phần thực phẩm mình xin được, hoặc thứ nước nào được phép uống, vân vân. Bởi thế ngài trở thành viên ngọc tối thượng của cả mười tám bộ phái Ấn Ðộ.
    Nhưng mặc dù ngài đã học và hành tất cả kinh giáo và mật giáo có thể tìm thấy được vào thời ấy tại Ấn, ngài vẫn không ngừng tự hỏi con đường nào là đường nhanh nhất đến giác ngộ, và Ràhulagupta bậc thầy của ngài, đang ở trong hang động núi Krishnagiri, biết được tâm niệm ngài nhờ tha tâm thông, liền đi đến bảo: “Có gì hay ho trong việc thấy những linh kiến về các thần bảo hộ, làm xuất hiện được nhiều bộ loại chư thần trong những đồ hình, phô diễn được vài thần thông vặt vãnh, hoặc đạt được định vững như núi đá? Hãy luyện tâm người về lòng từ mẫn và tâm bồ đề. Ðức Thiên Thủ Quán Thế Âm là vị bồ tát của lòng từ mẫn, hãy cầu ngài làm thần bảo hộ cho ngươi và phát nguyện làm lợi lạc loài hữu tình cho đến khi cõi sanh tử trống rỗng.”
    Một ngày kia, trong khi Atìsha đang kinh hành quanh Kim cang tòa của Phật tại Bồ đề tràng, ngài nghe cuộc đàm thoại giữa hai pho tượng. Một lần khác, có hai thiếu nữ đã vượt được những giới hạn của thân xác con người, đang nói chuyện trên bầu trời phía nam của Bồ đề tràng. Một cô hỏi: “Muốn giác ngộ cho toàn vẹn và nhanh thì người ta nên tu theo pháp nào?” Cô kia bảo: “Hãy tu luyện tâm bồ đề.” - “Phải đấy, tu bồ đề tâm là phương tiện cao cả nhất.”
    Atìsha đã dừng kinh hành để nghe cuộc đàm thoại, và ghi hết vào lòng như một bình chứa nhận hết nước trút từ bình khác.
    Có lần ngài đang đứng cạnh hàng rào bằng đá do bậc thầy Long Thụ dựng lên, thì nghe ở đấy có một bà già bảo cô gái: “Bất cứ người nào muốn đạt giác ngộ sớm phải tu luyện tâm bồ đề.”
    Một pho tượng Phật ở dưới hành lang của ngôi đại điện tại Bồ đề tràng có lần bảo Atìsha, trong khi ngài đang kinh hành tại đấy: “Hỡi khất sĩ, nếu ngươi muốn giác ngộ sớm, thì hãy tu luyện tâm từ, tâm bi và tâm bồ đề.”
    Một lần khác, khi ngài đi quanh vách đá một am cốc nhỏ, pho tượng Ðức Thích Ca bằng ngà voi nói với ngài: “Hỡi thiền giả, hãy tu luyện tâm bồ đề nếu ngươi muốn sớm đạt toàn giác.”
    Thế là Atìsha tu tập phát triển tâm bồ đề hơn bất cứ lúc nào trước đấy, và vì muốn tu đạt đến trạng thái cao nhất của tâm bồ đề, ngài tự hỏi: “Ai là người nắm giữ toàn bộ giáo lý về điều này nhỉ?” Ngài tra tầm và nhận ra chính Suvarnadvìpi là người nổi tiếng bậc thầy về tâm bồ đề. Ngài dự định đi đến vị ấy (ở Nam Dương) để thụ giáo một cách toàn triêt về bồ đề tâm. Ngài vượt đại dương suốt mười ba tháng trên một con thuyền với vài thương gia đi buôn bán. Khi ấy Kàmadeva, thần dục lạc, vì không chịu nổi sự lan truyền của Phật pháp, muốn ngăn cản tâm bồ đề của Atìsha, nên đã thổi một luồng gió mạnh để làm cho chiếc thuyền xoay quanh, lại hóa một con cá voi lớn án ngữ trước mũi không cho thuyền đi tới, hóa sấm chớp, vân vân, gây khá nhiều rối loạn. Hiền trí Kshitagarbhà xin Atìsha xử dụng thần thông giận dữ. Ngài bèn nhập định quán tưởng thần Yamàtaka màu đỏ hiện ra hàng phục được đám quỷ quấy phá, và cuối cùng đoàn người đến Nam Dương.
    Atìsha đã trở thành một học giả và hành giả vĩ đại. Như ta đã nói, lúc mới mười tám tháng tuổi, ngài đã tự thốt ra những lời chứng tỏ ngài đã am tường về tâm bồ đề. Thế mà ngài vẫn tình nguyện trải qua bao nhiêu gian khổ để đi đến Nam Dương, điều ấy chứng tỏ cho chúng ta thấy trong phái Ðại thừa, không có gì quan trọng cốt cán hơn là bồ đề tâm.
    Atìsha trải qua cuộc hành trình đến mười ba tháng nhưng không bao giờ ngài cởi chiếc áo tu sĩ, dấu hiệu của giới pháp. Ngài không du hành như chúng ta ngày nay. Các tu sĩ bây giờ mỗi khi đi xa, vừa ra khỏi tu viện là đã khoác y phục thế gian, một số người lại còn đeo bao gươm dài vào nữa. Tôi nghĩ có lẽ người ta phải sợ hãi khi trong thấy họ và tự hỏi, “Có phải là bọn cắt cổ người ta chăng?” vậy ta phải nêu gương bằng cách đừng cởi pháp phục, dấu hiệu chứng tỏ ta đã thụ giới cụ túc. Kaedrub Rinpoche nói:
    Thân thể của vị tỷ kheo đẹp là nhờ pháp phục
    Khi nào tu sĩ đã thụ giới
    Mà mặc y phục thế gian
    Lối cư xử ấy làm giáo lý suy tàn.
    Một vài người tuyên bố: “Người ta nên thuần thục từ bên trong” mà không giữ bề ngoài chút nào. Ðiều này không tốt cho giáo lý chung. Mọi hoạt động của tăng chúng cần được thực hiện có giới luật và an tịnh. Xá Lợi Phất đạt đến địa vị kiến đạo là nhờ thấy cung cách của Ashvaji.
    Trở lại chuyện Atìsha đến đảo Nam Dương. Ngài trong thấy một vài thiền giả đệ tử của Suvarnadvipì. Atìsha cùng những đồ đệ của ngài nghỉ ngơi nửa tháng và yêu cầu các thiền giả kể cho nghe câu chuyện về cuộc đời đạo sư Suvarnadvipì. Nếu là chúng ta thì khi đến đấy, chúng ta sẽ đến diện kiến bậc thầy tức khắc; như Atìsha không làm như vậy. Thay vì thế, ngài xem xét cuộc đời của bậc thầy. Ngài nêu một tấm gương cho ta: trước hết ta phải tra tầm về bậc thầy cho đúng cách.
    Một vài người vội vã đi đến bậc thầy Suvarnadvipì và bạch: “Bạch thầy, nhà đại học giả Dìpamkàra Shrijnana, người nổi tiếng nhất khắp vùng Ðông và Tây Ấn, đã vượt biển với bao gian nan suốt mười ba tháng cùng với một trăm hai mươi lăm đồ đệ đã đến để thụ giáo với ngài về Bát nhã, bà Mẹ của tất cả những đấng Chiến thắng. Họ cũng đến để học pháp Ðại thừa về huấn luyện tâm để phát nguyện và khai triển những hình thức tu tập tâm bồ đề.”
    Gia Đình Vô Hình

  10. #10

    Mặc định

    Suvarnadvipì nói: “Kỳ diệu thay một học giả vĩ đại như thế đã đến xứ ta. Chúng ta phải đi chào đón.”
    Khi Atìsha đến gần tòa lâu đài của Suvarnadvipì, ngài và tùy tùng trông thấy từ xa một đám rước đang đến đón mừng, dẫn đầu chính là bạc thầy Suvarnadvipì, theo sau là năm trăm ba mươi tu sĩ. Họ trông như những vị A la hán, mặc ba y có màu sắc thích đáng với tu sĩ, mang theo đồ đựng nước và gậy sắt thực đẹp, có sáu mươi hai sa di theo hầu. Tất cả đoàn gồm năm trăm chín mươi bảy vị đã thụ đại giới. Vừa trông thấy đám rước trang nghiêm ấy, giống y những vi la hán thời Phật, đoàn của Atìsha vô cùng hoan hỉ.
    Rồi những bậc hiền trí tinh thông ngũ minh như Atìsha và Kshitagarbha, và những tỷ kheo thông ba tạng, khởi sự đi đến tư thất của thầy Suvarnadvipì. Họ đều mang dép đúng luật và đắp ba y nhuộm vàng của xứ Kashmir, được phái Mahasamghika ưa chuộng. Ðể mọi người bản xứ có thể tu phước cúng dường, họ mang bát khất thực bằng sắt đã được tu bổ chỉnh tề, và đem theo tất cả dụng cụ đúng luật của tỷ kheo, như bình chứa nước bằng đồng có thể chứa một drona đơn vị đo ở Magadha (Ma kiệt đà), và chiếc gậy bịt sắt mà đức Thế Tôn thường ca ngợi. Tất cả đều đội mão học giả với những chóp mão cùn không nhọn để chứng tỏ sự vắng bóng kiêu mạn. Và tất cả đều thịnh trọng cầm những chiếc phất trần. Cả đoàn gồm một trăm hai mươi lăm vị đi hàng một tháp tùng Atìsha, cách khoảng nhau đúng phép - một dòng người đi toàn hảo như môt cáik ráng cầu vồng ngũ sắc. Mọi sự thật huy hoàng; làm cho chư thiên hoan hỉ mưa hoa xuống cúng dường. Mọi người dân trên quần đảo đều ngạc nhiên tán thán những cung cách của hai bậc đạo sư này, và phát sinh tịnh tín. Atìsha dâng vị thầy một cái bình trong suốt đựng đầy vàng, bạc, xa cừ, san hô, hổ phách. Cử chỉ tốt lành này báo trước ngài sẽ thụ giáo tất cả những chỉ giáo về đào luyện tâm bồ đề, hệt như một cái bình chứa tất cả những gì mà một bình khác trút sang.
    Họ lui về phòng của bậc thầy trong tòa lâu đài với lọng che bằng bạc. Tại đây, bậc thầy Suvarnadvipì đầu tiên dạy họ mười lăm (trong số bảy mươi) đề tài từ tác phẩm của đức Di Lặc “Sự Trang Hoàng Cho Thực Chứng”, kèm theo những chỉ giáo khẩu truyền liên hệ. Bậc thầy ngay tức khắc rất hài lòng với Atìsha, họ cùng nghỉ đêm tại một nơi. Và thế là bắt đầu mười hai năm ròng trong thời gian ấy Atìsha và những môn đệ của ngài thụ giáo toàn bộ những lời giảng dạy về ý nghĩa thâm áo của tôn kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða - “Bà Mẹ Thánh” theo hệ truyền thừa mà Di Lặc truyền cho Vô Trước. Họ cũng nhận những chỉ giáo đặc biệt về sự đào luyện tâm bồ đề nhờ phương pháp đổi địa vị mình với người khác; hệ phái này là từ Ðức Văn Thù truyền xuống Shantideva. Họ học hỏi, quán tưởng, và thiền định về những lời chỉ giáo ấy một cách toàn triệt. Nhờ trao đổi địa vị mình với người, họ đã phát triển tâm bồ đề chân thực trong tâm thức, ở dưới chân bậc thầy.
    Một ngày kia, bậc thầy gọi Atìsha - bây giờ đã làm chủ nền giáo lý - tiên đoán ngài đi Tây Tạng sẽ có nhiều môn đệ.
    Thưa ngài, ngài không nên ở lại đây
    Mà hãy đi về hướng Bắc
    Hướng về phương Bắc, đến Xứ Tuyết

    C. NHỮNG VIỆC NGÀI ÐÃ LÀM SAU KHI CÓ ÐƯỢC NHỮNG SỞ ÐẮC.
    Có hai phần: (1) Ngài làm gì ở Ấn; (2) Ngài làm gì ở Tây Tạng.
    1) TẠI ẤN ÐỘ
    Khi Atìsha trở về Ma kiệt đà (Magadha), ngài sống tại Bồ đề tràng, và đã ba lần ngài đánh bại tranh luận những người theo các tà giáo, đưa họ về chánh pháp. Ngài còn làm sáng nền giáo lý bằng những cách khác nữa. Vua Mahàbala (Ðại lực) đề cử ngài đến cai quản thư viện của tu viện Vikramashìla. Mặc dù Atìsha chính yếu là theo truyền thống đại chúng bộ (Mahasamghika), ngài còn tinh thông những truyền thống của tất cả bộ phái khác; và chỉ vì ngài không có đầu óc bè phái nên đã trở thành viên bảo châu tột đỉnh của tất cả hội chúng ở Ma kiệt đà cũng như khắp xứ Ấn. Ngài được toàn thể công nhận là bậc thầy của toàn bộ giáo lý của ba tạng kinh và bốn loại mật giáo. Còn về sự giảng dạy thì người ta có cảm nghĩ gần như là chính Ðức Phật đã tái thế.

    2) TẠI TÂY TẠNG
    Những giáo lý phổ cập đầu tiên đến Tây Tạng vào lúc bấy giờ đã mai một. Sự truyền bá giáo lý hậu kỳ đã được thịnh hành. Nhưng một số người tập trung vào tạng luật và bỏ qua mật giáo; một số khác thì ngược lại. Kinh giáo và mật giáo trở thành đối chọi nhau như nước với lửa. Nhiều bậc học giả nổi danh từ Ấn đến Tây Tạng, bị viễn ảnh vàng ở đấy dụ dỗ. Họ lừa bịp người bản xứ với nhiều mật điển xấu ác và đầy dục tính. Tình trạng đã hóa thành hết sức khó khăn để gieo rắc nền giáo lý thuần tịnh của đấng Chiến thắng. Quốc vương Tây Tạng bấy giờ là Lhalama Yeshe Oe rất đau lòng trước tình trạng ấy. Vì muốn hoàng truyền nền giáo lý thuần tịnh, ông đã gửi hai mươi mốt sinh viên thông minh của Tây Tạng sang Ấn hầu mong khi họ trở về sẽ thành những bậc hiền trí có thể ích lợi hơn cho dân Tây Tạng. Tất cả họ đều chết chỉ còn lại hai vị Rinchen Zangpo và Legdaen Sherab; cả hai đều trở nên tinh thông giáo lý nhưng vẫn chưa có thể rước Atìsha theo họ về Tây Tạng. Khi về nước, họ yết kiến vua để bàn cách làm thế nào để hòa hợp kinh giáo và mật giáo với cách hành trì và tin tưởng của mọi học giả Ấn. Họ nói: “Những học giả kia không ích lợi gì cho Tây Tạng. Ở Vikramashìla, có một vị tăng dòng dõi vua chúa đã đạt giải thoát. Ngài có danh hiệu là Dipankara Shrijnàna. Nếu bệ hạ mời được vị ấy thì chắc chắn sẽ lợi lạc cho Tây Tạng. “Họ cũng nói rằng tất cả những học giả khác đều đồng ý về điểm này.”
    Lời nói của họ làm cho vua an tâm, nhưng quan trọng hơn nữa là, vua đã phát sinh một lòng tin mãnh liệt không lay chuyển ngay khi vừa nghe đến danh hiệu của ngài. Vua phái Gyatsoen Senge cùng với tám vị khác đi rước Atìsha về. Họ đem nhiều vàng, nhưng họ đã thất bại. Chính vị vua cầu Pháp cũng đi tìm thêm vàng để có thể rước bậc hiền trí ấy về xứ mình.
    Trưởng bộ lạc Garlog biết vị vua đang tìm cách để truyền bá Phật pháp nên bắt cóc nhà vua cầm tù và hăm dọa sẽ giết nếu không bỏ ý định, Jangchub Oe cháu gọi vua bằng chú, đến tìm cách giải thoát cho ngài, nhưng viên tù trưởng nói: “Một là người bỏ ý định rước học giả ấy về nước, và ngươi phải làm nô lệ cho ta, hai là đem một số vàng bằng sức nặng của vua, thì ta mới thả vua về.” Jangchub Oe hứa giao vàng. Ông đưa ra hai trăm lượng vàng mang theo, nhưng người tù trưởng nhất định không chịu. Cuối cùng ông đem tất cả số vàng nặng bằng sức nặng của con người vua trrừ cái đầu. Tù trưởng cũng không bằng lòng, bảo: “Tôi cần cả đầu, tất cả.”
    Jangchub không có cách nào kiếm thêm vàng, nên đến cửa ngục khóc và thưa với nhà vua: “Chú ơi, chú đã sống rất nhân từ, nhưng chú phải là nạn nhân của nghiệp của quá khứ. Nếu cháu cử binh để đánh bại tên tù trưởng này thì sẽ có rất nhiều người chết và cháu sợ chúng sẽ đọa vào cõi thấp xấu. Tên tù trưởng này bảo cháu không được đi mời vị học giả này về, và phải làm nô lệ cho y. Nhưng nếu chúng ta từ bỏ Pháp Phật thì tức đã đầu hàng tên tù trưởng tội lỗi này. Cháu nghĩ là tốt hơn chú hãy kiên trì với chánh pháp. Y bảo cháu phải đem một trọng lượng vàng bằng cả người chú, nhưng cháu chỉ kiếm được số vàng nặng bằng thân thể chú ngoại trừ cái đầu. Y không chịu, nên bây giờ cháu lại ra đi tìm thêm vàng cho đủ số để chuộc chú về. Trong thời gian đó, xin chú hãy nghĩ đến nghiệp quá khứ của chú, cầu xin Ba ngôi báu, và nhất là chú nên dũng cảm mà tạo phước nghiệp.”
    Ðức vua cười lớn mà bảo: “Ta cứ tưởng là cháu đã sống một đời dễ chịu sung túc nên không chịu nỗi gian nan, không có chút can đảm nào. Bây giờ ta mới thấy cháu có thể chấn hưng truyền thống của tổ tiên sau khi ta chết. Cháu đã hành động rất tốt, ta rất hài lòng. Ta nghĩ thật sai lầm nếu ta chết mà chưa thiết lập được một nền chánh pháp không lỗi lầm cho xứ Tây Tạng. Ta đã già, và nếu chưa chết bây giờ thì ta cũng chỉ sống thêm mười năm nữa là cùng. Nếu ta bỏ ra quá nhiều vàng như thế chỉ để sống thêm chừng ấy tuổi, thì thật làm cho Ba ngôi báu cũng thất điên bát đảo. Trong những đời quá khứ của ta trong vòng vô thỉ sinh tử, ta chưa có một lần nào được chết cho chánh pháp. Vậy thì, cháu đừng đưa cho tên tù trưởng một vụn vàng nào cả, thật tốt biết bao nếu ta được chết cho chánh pháp. Mà chúng ta có thể đào đâu ra được số vàng để chuộc cái đầu ta? Hãy đem hết vàng đi Ấn Ðộ, và làm mọi cách cháu có thể làm để thỉnh bậc hiền trí Atìsha về.
    Nếu ngài cho con tiếp kiến, thì hãy trao lại thông điệp này của ta: “Con hy sinh mạng sống vì giáo lý của Phật và của chính ngài. Xin hãy che chở cho con trong những đời còn lại, bằng lòng bi mẫn của ngài. Ý định duy nhất của con là rước ngài về Tây Tạng; và con làm thế chỉ vì mong cho giáo lý Phật được lan truyền khắp xứ. Bởi vậy xin ngài hãy chấp nhận lời yêu cầu của con. Xin hãy gia hộ cho con để chắc chắn chúng ta sẽ gặp gỡ trong những đời vị lai.” Này cháu, cháu hãy quên chú đi, và nghĩ đến những lời dạy của đức Phật.”
    Nhà vua đã yếu, giọng ngài rất đổi thương tâm, nhưng Jangchub có thể tin chắc ngài chỉ nghĩ đến thần dân Tây Tạng, đến giáo lý Phật, và đến Atìsha. Ông bất đắc dĩ phải từ giả người chú thân yêu. Lòng ông thêm can đảm, và ông đã hành động đúng theo ước nguyện của người chú.
    Ở Tây Tạng có nhiều người tin theo rất nhiều tín ngưỡng sống sượng mà họ cho là mật tông. Một vài phái như vậy là Ðạo sư Váy Ðỏ, Hiền trí Váy Xanh vô sỉ, và Mười Tám Khất Sĩ của Artso. Muốn dẹp những người này một cách êm thắm (“dứt đẹp”), vua Jangchub Oe cầu xin Tam Bảo chỉ dẫn cho biết trong đình thần ai là người sẽ thỉnh Atìsha về được. Tất cả những lần xin xăm bói tinh tú đều ám chỉ vị dịch giả tên Nagtso. Vị này khi ấy đang ở Ngôi Chùa Vàng tại Gungtang. Vua triệu vời ông tới Ngari, nhưng sợ ông không chịu sang Ấn, vua bèn mời ông lên trên ngai và tặng ông nhiều quà và bảo: “Ông phải năn nỉ Atìsha, hãy thay ta mà nói với ngài như sau, “Ngài đã được nhiều người ca tụng sự uyên bác, đạo đức, và lòng từ bi của ngài. Tổ tiên tôi, những vị vua trong quá khứ và đình thần, đã thiết lập nền giáo lý của Phật tại vương quốc này. Giáo lý ấy đã trở thành tục lệ, được phát triển, lan rộng. Nhưng hiện tại nền giáo lý của Phật đang lâm vào tình trạng đáng buồn. Một giống nòi quỷ sứ đã đã thắng lướt. Những bậc học giả quá cố chắc sẽ phải rầu rĩ về chuyện này. Cả tôi lẫn chú tôi đã gửi rất nhiều vàng sang xứ Ấn, hao tốn rất nhiều người và của mà vẫn không đưa được ngài về. Vua chúng tôi đã không chịu nổi việc này và đã đích thân đi tìm vàng. Một tộc trưởng ác độc đã cầm tù vua. Nhà vua đã bỏ mạng. Nếu thấy chúng tôi đã tỏ nhiều can đảm như vậy mà ngài vẫn làm cho chúng tôi thất vọng, chúng tôi những chúng sinh ngu muội ở vùng đất Tây Tạng xa xôi này, thì làm sao ngài còn được xem là từ bi và là nơi nương tựa của mọi hữu tình?”
    “Ta còn đây một ngàn bốn trăm lượng vàng. Hãy đem theo mà dâng cho bậc đạo sư và nói: Xứ Tây Tạng chúng tôi giống như đô thị của quỷ đói. Tìm vàng ở xứ tôi chẳng khác nào tìm rận trên con cừu, thật rất khó khăn. Số vàng này là tài sản của toàn thể dân Tây Tạng. Nhưng nếu ngài không chịu đến Tây Tạng, hỡi bậc đạo sư, thì điều đó chứng tỏ người ít từ bi làm sao. Khi ấy chúng tôi không bao giờ biết làm gì để tự cải thiện mình nữa.” Này Ngatso, ông đang nắm giữ tạng Luật. Hãy đích thân kể cho Atìsha câu chuyện của chúng ta. Nếu ngài từ chối, thì hãy trình bày hoàn cảnh thế nào cho ngài hoàn toàn thông cảm.
    Vua khóc nhiều tới nỗi nước mắt vua rơi xuống mặt bàn, xuống bắp vế. Nhà phiên dịch Ngatso, mà tên thực là Tsultrim Gyaelwa, từ trước chưa từng đi đây đi đó, và hoàn toàn không thích phiêu lưu đến vùng đất xa xôi. Nhưng ông ta không nỡ nào nói lên tất cả những điều ấy. Chúng ta có câu ngạn ngữ: “Người nào thấy người khác khóc sẽ khởi sự khóc theo.” Ông chưa từng gặp Yeshe Oe, nhưng biết những gì vua nói là hoàn toàn đúng sự thật. Ông biết vị vua chú đã tiêu phí nhiều vàng, và cả hai chú cháu đã từ bỏ hạnh phúc riêng tư chỉ vì mong muốn hạnh phúc cho thần dân. Vua đã làm cho Ngatso rất xúc động. Ông không thốt được lời nào, toàn thân run lên và mặt ông tràn đầy nước mắt tới nỗi ông không thể nhìn lên vua. Vua yêu cầu ông hãy liều mạng sống và tay chân, nhưng ông không có gì ràng buộc với hạnh phúc cõi đời này, và nói ông sẽ tuân lệnh ra đi.
    Ông nhận một ngàn bốn trăm lượng vàng từ tay nhà vua và bảy vị bộ trưởng, rồi khởi hành đi Ấn Ðộ. Nhà vua tiễn ông một quãng đường dài và bảo: “Này tỷ kheo, ông đang làm việc nhân danh tôi. Ông đang liều cả mạng sống và chân tay, với một sự kiên nhẫn lớn lao ông đang đi đến chốn gây nhiều khó khăn gian khổ cho ông. Khi ông trở về, tôi sẽ đền ơn ông.” Nhà vua đi trở lui một đỗi đường mà bảo: “Hãy cầu nguyện đức Ðại Bi Quán Thế Âm trong khi ông du hành.”
    Khi nhà phiên dịch Nagtso và đoàn tùy tùng đến kinh đô Nepal, họ gặp một người đàn ông cao ráo nói với họ rằng: “Tôi thấy các ngài đi xa vì một sứ mệnh trọng đại. Các ngài sẽ thành công nếu giữa đường cứ niệm: Nam mô Tam Bảo! Cầu xin Chánh pháp vi diệu, suối nguồn của chư Phật trong ba đời, sẽ lan truyền trên Xứ Tuyết. Hành trình các ngài sẽ an ổn nếu các ngài vừa đi vừa niệm như thế.” Ðoàn người lữ hành hỏi ông ta là ai, ông nói: “Rồi đây các ngài sẽ biết.”
    Còn nhiều hóa thân khác nhau của Dromtoenpa (sẽ là cao đồ của Atìsha về sau). Những hóa thân này đã dẹp nhiều nguy hiểm đe dọa Nagtso và đoàn tùy tùng trên đường đi.
    Cuối cùng họ tới cổng Vikramashila. Trên cổng có một điếm canh, và Ngatso hiểu được Tạng ngữ nên gọi xuống qua một khe hở trên điếm canh. Tiếng nói từ bên kia vọng xuống: “Thưa các ông Tây Tạng, các ông từ đâu đến.” Họ trả lời: “Chúng tôi từ vùng thượng Ngari.”
    “Có một người gác cổng. Các ngài cứ giao cho người ấy giữ đồ đạc. Hãy ngũ ngon tại một chỗ trú đêm nào đó. Ngày mai cổng sẽ mở ngay khi trời vừa sáng.”
    Họ đưa số vàng cho con trai người gác cổng cất vào buồng trong, nó nói: “Hãy tin tôi như bản thân. Ðừng lo lắng. Chúc ngủ ngon.”
    Họ nghĩ rằng một bé trai mà biết nói những lời như thế thực không phải người tầm thường, và điều đó làm cho họ an tâm.
    Sáng hôm sau, vừa khi cổng mở, một đứa bé xuất hiện. Nó đội một chiếc mão nhọn và phục sức như một dân du mục Tây Tạng - áo đủ hai lớp len, mang một cái bát bằng gỗ. Em bé hỏi: “Các vị người Tây Tạng này từ đâu đến? Coi các vị đi đường cũng không đến nỗi nào.”
    Ðoàn lữ hành của Nagtso cảm thấy thật ấm lòng khi gặp được một người nói thổ ngữ của dân du mục. Họ trả lời: “Chúng tôi đến từ miền thượng Ngari. Chúng tôi đã có một chuyến hành trình êm xuôi. Cái gì đã đưa bạn đến đây? Bây giờ bạn đi đâu?”
    Ðứa bé trả lời:
    “Cháu cũng người Tây Tạng. Cháu đang đi về Tây Tạng. Những người Tây Tạng chúng ta có thói vào tai ra miệng. Chúng ta quá ngây ngô, không thể giữ một bí mật nào cả. Cho nên chuyện gì quan trọng phải làm thật kín đáo. Gyatsoen Senge đang ở trong khu vực người Tây Tạng. Cứ hỏi lần đường, rồi các ngài sẽ gặp.” Nói xong cậu bé bỏ đi.
    Ðoàn người đi vào một con đường dài, theo con đường ấy và gặp môt ông già trông rất thánh thiện tay cầm chiếc gậy trúc. Ông hỏi: “Các ông từ đâu đến? Có chuyện gì quan trọng khiến các ông đến nơi này?”
    Họ trả lời: “Chúng tôi từ miền thượng Mgari đến đây. Chúng tôi đến để thỉnh ngài Atìsha uyên bác về. Nhà của Gyatsoen Senge ở đâu, thưa cụ?”
    Ông già thánh thiện chống gậy đứng và lăn tròn đôi mắt. “Thằng bé gặp các ông sáng nay nói không sai. Người Tây Tạng không giữ mồm miệng gì cả. Cứ nói toạc mọi sự ra cho mọi người ngoài đường biết hết. Các bạn còn mong làm được việc gì với kiểu thẳng như ruột ngựa ấy! Cũng may mà bạn nói với tôi. Nhưng bây giờ, đừng nói cho ai biết ngoài trừ Atìsha. Tôi sẽ chỉ đường đi đến Gyatsoen Senge.”
    Ông già đi chậm rãi, thế mà Nagtso không tài nào theo kịp. Nagtso trông thấy ông đứng đợi trên ngưỡng cửa lối vao khu vực người Tây Tạng.
    Ông giàbảo: “Những việc trọng đại cần phải làm từ từ. Gấp rút một cách từ từ. Ðiều bạn muốn đang ở một khoảng cách rất xa, bạn phải trèo ngọn núi theo từng bước một. Ðây nhà ông ta đây.”
    Nagtso đi vào và dâng vàng cho Gyatsoen Senge, vị dịch giả. Gyatsoen trông thấy ông liền hỏi: “Ông từ đâu tới?”
    Nagtso kể tỉ mĩ câu chuyện mình.
    Gyatsoen nói: “thì ra bạn đã có lần là đệ tử tôi. Thế mà tôi không nhận ra. Ðừng cho ai biết bạn tới đây để thỉnh Atìsha, mà hãy nói các bạn đến để học. Ở đây co một trưởng lão tên Ratnàkarashànti là người có rất nhiều uy lực, và là thầy của Atìsha. Chớ để ông ta nghi ngờ việc các bạn dự định làm. Bây giờ chúng ta sẽ dâng cúng ông một lượng vàng. Hãy nói với ông: “Chúng tôi đã không mời được học giả nào cả.” Rồi đừng hấp tấp vội vàng gì hết; đừng lo lắng gì hết. Khi thời cơ thuận tiện đến, ta sẽ khéo léo mời Atìsha đến đây.”
    Nagtso và Gyatsoen Senge cùng đi thăm trưởng lão Ratnà và hiến tặng lượng vàng. Nagtso nói chuyện một lát với ông ta, như những gì đã định nói.
    Vị trưởng lão nói: “Thật kỳ diệu, những bậc hiền trí khác không thể nào hàng phục hữu tình được. Ðiều ấy không phải nói quá đáng. Giáo lý Phật đã xuất phát từ xứ Ấn thật đấy, nhưng nếu không có Atìsha thì chúng hữu tình ở đây cũng mòn mõi công đức.” Ông ta còn nói nhiều điều khác.
    Trong một thời gian, họ rất khó mà gặp được Atìsha. Nhưng những hóa thân của Quán Tự Tại đã cung cấp nhiều cơ hội tốt lành cho Atìsha du hành đến Tây Tạng. Vào một ngày, khi không còn vị vua chúa hay học giả nào của Ấn ở quanh quẩn để có thể nghi ngờ chuyện xảy đến, Gyatsoen Senge gọi Nagtso đến và đưa ông vào phòng Atìsha. Họ dâng cúng cho ngài một đồ hình (mandala) về thế giới cao một trượng, vây quanh bằng vàng ròng.
    Gia Đình Vô Hình

  11. #11

    Mặc định

    Dịch giả Gyatsen Senge thay mặt nói về quốc vương xứ Tây Tạng là một vị Bồ tát, và Pháp đã được lan truyền dưới ba triều đại của ba vị pháp vương Songtsean Gampo, Trisong Detsaen, và Raela Saen. Ông kể nào là vua Langdharma đã tàn hại nền giáo lý như thế nào, thế nào vị lama vĩ đại là Gompa Rabseal đã cố bảo tồn Tăng già, làm cho số lượng tăng chúng nhiều thêm. Ông nói về sự hi sinh của vị vua thúc phụ đã làm để rước cho được Atìsha đến Tây Tạng. Ông nói lại thông điệp của Jangchub Oe, và mô tả loại Pháp quái gở đang thắng thế tại Tây Tạng.
    Gyatsoen nói:
    “Bạch đại sĩ, vị Bồ tát vua của xứ Tây Tạng đã phái người này đến gặp ngài. Xin ngài chớ từ chối, bảo để đến sang năm tới sẽ đi. Hãy thương xót xứ Tây Tạng chúng tôi.
    Atìsha nói:
    “Vua xứ Tây Tạng là một vị bồ tát. Ba vị pháp vương là những hóa thân của Bồ tát. Gompa Rabsel cũng là Bồ tát hóa thân, nếu không thế thì ông đã không thể khơi dậy những tàn lửa của nền giáo lý. Những vị vua Tây Tạng đều là Bồ tát. Thật không phải lẽ nếu tôi bất tuân mệnh lệnh của một vị Bồ tát. Tôi cảm thấy hổ thẹn trước vị vua này. Ngài đã tốn nhiều vàng bạc. Những người Tây Tạng các ngài đang lâm vào tình trạng thực đáng thương. Nhưng tôi đang giữ chìa khóa của nhiều ngôi điện thờ trong tu viện này, tôi lại già cả. Tôi có nhiều phận sự phải chu toàn. Ði Tây Tạng thì tôi không còn hi vọng gì về nước lại. Tuy thế tôi sẽ xem xét lại vấn đề này. Bây giờ, các vị cứ giữ lấy số vàng cái đã.” Rồi ngài cho họ lui ra.
    Atìsha xét xem nếu vì lòng thương tưởng những môn đồ Tây Tạng tương lai mà ngài đi đến đấy, thì việc ấy có lợi ích gì cho nền giáo lý của Phật hay không. Ngài cũng xét xem việc này có làm ngài giảm bớt thọ mạng không. Các vị thần linh như Quán Tự Tại, Tara vân vân, đều cho ngài biết nếu ngài ra đi thì điều ấy rất lợi ích cho tất cả hữu tình và cho nền giáo lý. Nhưng ngài cũng sẽ giảm thọ nếu ngài ra đi. Atìsha hỏi giảm thọ bao nhiêu. Thần cho biết, nếu không đi ngài sẽ sống tới chín mươi mốt tuổi, mà đi ngài chỉ sống tới bảy mươi ba, vậy có nghĩa ngài giảm thọ đến gần hai mươi năm. Khi ấy Atìsha nghĩ đến tất cả những lợi lạc của việc đi Tây Tạng, nếu vì thế mà giảm thọ thì cũng không sao. Ý Thức về mục đích nơi ngài thật mãnh liệt tới nỗi ngài không kể gì tới thọ mạng.
    Tuy nhiên, Atìsha lại không muốn đi ngay, vì Tăng chúng ở Ấn và cư sĩ ngoại hộ sẽ bảo rằng nguồn cội giáo lý Phật tại Ấn sẽ đi đến suy tàn. Muốn tránh những lời như vậy, Atìsha đã dùng phương tiện thiện xảo là, thay vì nói với mọi người rằng ngài sắp đi Tây Tạng, ngài lại nói ngài sẽ làm một cuộc du hành rộng rãi chiêm bái Phật tích tại Bồ đề tràng và những nơi thánh địa, đi chỗ này chỗ kia. Dromtoenpa vốn dĩ là một ông vua Pháp chính hiệu, khôn khéo hóa mình làm những thương gia. Không để ai ngờ vực gì cả, họ đã đem theo về Tây Tạng nhiều thánh tượng của đức Manjuvaja (một hóa thân của Guhyasamàja) vân vân, biểu tượng cho những thân Phật, và nhiều kinh điển, biểu tượng cho Lời của đấng giác ngộ. Atìsha đến vị Trưởng lão thầy ngài để hỏi ngài có được phép đi Nepal và Tây Tạng chăng, vì ở những nơi ấy có nhiều bảo tháp và thánh địa đặc biệt ngài muốn viếng thăm cho biết. Vị trưởng lão quan sát thấy Atìsha dường như rất muốn ra đi, và những người Tây Tạng coi bộ cũng nhất quyết rước Atìsha về bằng được, bởi thế ngài cho phép Atìsha ra đi một thời gian. Nagtso vị dịch giả phải hứa đưa Atìsha trở về Ấn trong vòng ba năm tới.
    Thế là Atìsha và đồ đệ rời xứ Ấn để đi đến vương quốc Nepal. Quốc vương Tây Tạng đi đón với ba trăm kỵ sĩ và lễ chào mừng trọng hậu. Người ta kể lại rằng dân chúng địa phương vừa trông thấy ngài đã phát sinh tín tâm thanh tịnh đối với Tam bảo, dòng tâm thức của họ được nhiếp phục.
    (Pabongka Dorje Chang còn nói chi tiết cuộc gặp gỡ của Atìsha và nhà dịch thuật vĩ đại là Richen Zangpo)
    Khi ấy vua Jangchub Oe trình bày với Atìsha như sau. Trong quá khứ ba vị vua Pháp đã chịu đựng bao nhiêu gian khó để thiết lập nền Giáo lý Phật tại phương Bắc xứ Tuyết. Nhưng Langdharma đã phá hoại Phật pháp. Tổ tiên của Jangchub Oe những vị vua pháp ở Ngari, đã tái lập chánh pháp ở Tây Tạng không kể đến mạng sống của họ. Nhưng hiện tại, có nhiều người chỉ chuyên thực hành mật giáo mà bỏ luật. Những người khác thì lại thề chỉ theo luật mà bài xích mật tạng. Kinh giáo và mật giáo được xem là đối nghịch nhau như nước với lửa. Mọi người mạnh ai nấy tu theo kiểu mình ưa thích, và nhất là hai đạo sư Váy đỏ và Váy xanh giảng dạy một thứ lý thuyết chơi bời phóng đãng cho những hành giả tóc dài theo những mật điển xưa cũ. Nền giáo lý đã suy đồi tới nỗi chỉ còn giống như những tiếng bập bẹ vô ý nghĩa. Vua tiếp tục kể lể chi tiết dông dài cho Atìsha nghe, mắt vua đầm đìa những giọt lệ. Ngài nói:
    “Hỡi ngài Atìsha từ bi, bây giờ ngài đừng giảng dạy những giáo lý sâu sắc cao siêu của chánh pháp cho những đồ đệ thiếu văn hóa của ngài tại Tây Tạng. Tôi chỉ xin ngài giảng dạy về luật nhân quả. Lại nữa, xin ngài từ bi giảng dạy một pháp gì không lỗi lầm, dễ thực hành, một pháp mà chính ngài đã tu tập, bao gồm toàn thể chánh đạo, một pháp gì sẽ lợi lạc cho tất cả mọi người Tây Tạng và được nói trong mọi Kinh điển của Ðấng Chiến Thắng - trong kinh giáo, mật giáo và trong các luận giải.
    Lại nữa, thưa ngài, người ta có cần phải thọ giới Biệt giải thoát mới có thể đủ tư cách để thọ giới liên hệ đến bồ đề tâm hay không? Người ta có thể đạt giác ngộ mà không cần phối hợp phương pháp (tức là giới luật-DC chú) và tuệ giác không? Có được phép tham dự một buổi giảng về mật tông mà chưa được làm lễ quán đảnh (khai đạo) hay không? Có được phép trao truyền một lễ khai đạo về tuệ giác thực thụ (nghĩa là, một lễ khai đạo trong đó bậc thầy chỉ định cho đệ tử phải lấy một người nào làm vợ) cho những người đã phát nguyện giữ tịnh giới không? Có được phép làm những pháp thực hành của con đường mật giáo khi chưa từng thọ pháp quán đảnh Kim cang thượng sư không?
    Ðấy chỉ là một số ít trong những câu hỏi vua đặt ra. Atìsha rất hoan hỉ khi nghe những lời ấy, và đã soạn tác phẩm Ngọn Ðèn Soi Ðường Ðến Giác Ngộ. Chỉ trong ba tập ngắn gọn, ngài đã làm sáng tỏ tất cả những tư tưởng trong kinh giáo và mật giáo. Tác phẩm khởi đầu như sau:
    Kính lễ tất cả các đấng Chiến thắng trong ba đời
    Kính lễ Pháp và Tăng
    Theo yêu cầu của Janchub Oe,
    Vị đệ tử thánh thiện của con
    Con sẽ thắp lên Ngọn Ðèn
    Soi Ðường đến Giác ngộ.
    Atìsha không khen đệ tử Janchub Oe là thánh thiện chỉ vì đã cúng dường ngài hậu hỉ, mà đúng hơn vì những lời lẽ ông hỏi về pháp. Bổn sư tôi dạy rằng, chắc chắn Atìsha sẽ không hài lòng chút nào nếu ngài được yêu cầu như sau: ‘Cho tôi một pháp gia trì cao cấp hoặc một phép quán đảnh thứ yếu.’
    Tác phẩm NGỌN ÐÈN SOI ÐƯỜNG bao gồm giải đáp cho những câu hỏi trên. Ngay sau khi nó xuất hiện, những giáo lý quái đản sống sượng tan biến vào nơi từ đó chúng đã đến.
    Atìsha hoằng pháp ở vùng Ngari. Khi ba năm sắp hết, do lời hứa với vị trưởng lão, Dịch giả Nagtso nói, “Bây giờ ta phải trở về Ấn Ðộ”
    Atìsha giả vờ đồng ý, và họ đến Puhreng. Nhưng trước kia Tara đã nhiều lần nói với Atìsha rằng, “Sẽ có lợi ích cho nền giáo lý nhiều nhất nếu ông nhận một đệ tử cư sĩ vĩ đại ở Tây Tạng.” Bây giờ nữ thần Tara nhắc lại nhiều lần, “cư sĩ ấy sẽ đến” bởi thế Atìsha trông đợi. Ngài nói, “Cư sĩ nào đâu, thật bà ấy đã nói dối ta.”
    Một hôm Dromtoenpa xuất hiện trong khi Atìsha đang viếng nhà một thí chủ. Drom đi đến phòng Atìsha và được cho biết ngài đang đến nhà người ngoại hộ và đang trên đường về. Ông nói: “Tôi không thể dính lại đây mà đợi thêm giây lát nào nữa trong khi chưa gặp được bậc hướng đạo sư tâm linh của tôi trong đạo Ðại thừa. Tôi sẽ đi đến nơi ông.” Drom bỏ ra đi, và gặp Atìsha trên một con đường nhỏ. Drom Rinpoche lạy dài rồi gần Atìsha. Ngài đặt tay lên đầu ông và nói những điều chúc lành bằng Phạn ngữ.
    Trong khi Atìsha đang ở nhà người ngoại hộ, ngài bảo: “Tôi cần thêm một phần ăn cho người đệ tử may mắn của tôi.” Và bởi thế ngài đang mang theo thức ăn. Atìsha là một người ăn chay nghiêm ngặt, và bữa ăn ngài khất thực được hôm ấy là những bánh tròn làm bằng bột lúa mạch chiên bơ. Drom ăn bánh lúa mạch, để dành lại chất bơ trong và đổ vào một bình đèn đủ để thắp suốt đêm. Ông đặt đèn ấy bên cạnh chiếc gối của Atìsha, và tương truyền suốt chuỗi ngày còn lại trong đời Atìsha ông đều cúng đèn như vậy. Ðêm ấy Atìsha đã làm phép quán đảnh chính yếu cho Drom và nhận ông làm pháp tử.
    Họ khởi hành từ Puhreng và đi đến Kyirong ở vùng Mangyul, dự tính sẽ đi qua Nepal trên đường về Ấn. Nhưng đường bị phong tỏa vì có cuộc chiến bùng nổ; họ không thể đi thêm nửa. Khi ấy Drom giục Atìsha quay về Tây Tạng, trong khi Nagtso năn nỉ ngài phải về Ấn. Vị dịch giả này cảm thấy buồn rầu vì không thể về lại Ấn Ðộ.
    Atìsha bảo ông: “Ông không cần phải lo lắng quá như vậy. Không phải lỗi tại ông, vì ông không thể nào giữ được lời hứa của mình.”
    Lời ngài nói làm cho Nagtso rất sung sướng; ông bảo: “Vậy thì tốt, chúng ta hãy quay về Tây Tạng.”
    Thế là Atìsha quyết định về Tây Tạng. Ngài không thể tiếp tục hành trình đi Ấn Ðộ, vì đường sá đã bị phong tỏa vào lúc ấy, do hậu quả cọng nghiệp của Tây Tạng.
    Họ gửi một bức thư sang Ấn nói, “Atìsha không thể đi Nepal theo lệnh của Trưởng lão, vì giữa đường gặp đánh nhau. Việc này làm cho chúng tôi phải trở lại Tây Tạng một thời gian nữa. Ngài có thể đợi đến khi chiến cuộc kết thúc rồi sẽ mời Atìsha về chăng? Bởi vì việc này sẽ rất lợi lạc cho tất cả hữu tình, ngài có bằng lòng cho phép Atìsha ở lại Tây Tạng chăng? Trong lúc Atìsha ở Tây Tạng, ông ấy sẽ viết nhiều bộ luận giống như bộ luận gửi kèm theo đây.” Họ gửi bản chép của Atìsha tác phẩm Ngọn Ðèn Soi đường, cùng với nhiều vàng.
    Vào thời ấy, Ấn Ðộ không phải như xứ Tây Tạng chúng ta ngày nay đâu. Những tác phẩm đều phải đệ trình cho một hội đồng học giả, từng tờ một được chuyền cho những vị trong hội đồng này phán đoán giá trị. Tác phẩm nào không lỗi về văn phạm và nội dung thì được gửi lên cho vua xem, và tác giả được thưởng. Chỉ có những tác phẩm này mới được phép xuất bản. Còn những luận án nào có nội dung lầm lạc - mặc dù có thể viết bằng thơ văn bay bướm - thì bị cột vào cái đuôi chó. Con chó được dẫn đi qua các đường phố, khiến cho tác giả và tác phẩm đều bị chọc quê. Nhà vua được yêu cầu đừng cho ấn hành tác phẩm đó. Những trước tác của Atìsha thực không cần phải trải qua một thử thách như vậy; song cũng được đưa đến cho hội đồng học giả. Họ rất đỗi hài lòng, vì tác phẩm ngắn gọn của Atìsha đề cập được một cách súc tích toàn bộ đề tài của tất cả kinh giáo và mật giáo, và căn cứ vào tác phẩm này, người ta có thể tự mình đọc hiểu tất cả kinh điển.
    Những học giả đồng thanh khoái chí tuyên bố: “Không những việc Atìsha đi Tây Tạng có lợi cho Tây Tạng, mà còn rất có lợi cho Ấn Ðộ chúng ta nữa. Nếu ông ấy ở Ấn, ông sẽ không bao giờ viết được một tác phẩm như thế. Vì người Ấn chúng ta minh triết hơn, kiên nhẫn hơn. Ông ấy biết dân Tây Tạng ít minh triết, và thiếu kiên trì, nên đã viết bộ luận ngắn gọn rất ích lợi này.” Họ không tiếc lời ca ngợi việc Atìsha đi Tây Tạng.
    Trưởng lão Ratnàkarashànti viết thư cho đoàn tùy tùng của Atìsha như sau: “Những học giả hiền trí ca ngợi Atìsha như thế đấy, nên tôi phải cho phép ông ta ở lại Tây Tạng, vì điều ấy sẽ lợi lạc cho hữu tình. Tôi chỉ yêu cầu ông ấy viết thêm luận giải về tác phẩm kia, để bù lại sự kiện ông ấy đã không trở về Ấn.” (Tuy nhiên, tác phẩm trình bày trong sách này, bản dịch các lời luận giải tác phẩm Ngọn Ðèn Soi Ðường được cho là chính ngài Atìsha giải, thì tương truyền không phải vậy.)
    Nagtso vô cùng sung sướng khi được bức thư ấy, ông bảo: “Tôi đã gánh một trách nhiệm nặng như núi do Trưởng lão phó thác. Bây giờ tôi đã được nhẹ gánh.”
    Không lâu trước khi Atìsha đi đến tỉnh Trung ương Tây Tạng, Drom Rinpoche viết thư cho những nhân vật quan trọng ở đấy rằng, “Tôi đã khổ công hết sức để rước Atìsha đến tỉnh Trung ương, vậy khi nào quý vị nhận được thư lần tới, thì hãy khởi hành ra đón tiếp ngài tức khắc.” Trong bức thư sau ngài viết: “Yêu cầu những bậc thầy trong tỉnh Trung ương, như là Kawa Khàkya Wangchung, vân vân, hãy khởi hành ngay để đón ngài.” Drom đã trưng ra tên của Kawa như là bậc thầy quan trọng nhất của Tây Tạng.
    Khi khởi hành cuộc đón rước, một người tên Kutoenpa la lớn: “Thế thì tên tôi ở đâu?” Người ta bảo ông: “Ông ở trong số vân vân ấy.” - “Tôi không phải là người để xếp vào hạng vân vân!” Ông nói thế và cố chen lấn đi dẫn đầu đoàn rước. Thế là cả bọn chen giành đi hàng đầu.
    Những thầy Tây Tạng hồi đó thường đội mũ rộng vành, mặc áo choàng thêu, vân vân, xem như dấu hiệu chứng tỏ ta đây là những tu sĩ cao cấp. Vừa khi Atìsha trông thấy họ từ xa tiến lại, ngài nói: “Thôi rồi một lũ ác ma Tây Tạng đã xuất đầu lộ diện rồi đây!” rồi ngài lấy khăn trùm đầu lại. Khi ấy những lạt ma cao cấp bèn xuống ngựa, mặc vào ba y đến gần. Atìsha lấy làm hoan hỉ đón nhận họ.
    Cuối cùng ngài đến tỉnh Trung ương, và làm nhiều việc ở đây để chuyển Bánh xe Chánh pháp. Ngài chứng tỏ là một năng lực lớn đằng sau những lời giảng dạy. Atìsha ở ba năm ở Tsang và các tỉnh trung tâm, tổng cộng mười bảy năm ngài ở Tây Tạng. Những tác phẩm Lịch Sử Phái Kadampas nói ngài ở đây chỉ có mười ba năm, nhưng truyền thống chúng ta kể từ Tsonkapa vĩ đại, thì nói mười bảy năm. Vì ngài đã nói:
    “Nagtso tận tụy với ngài (Atìsha) suốt thời gian hai năm ở Ấn và mười bảy năm ở Tây Tạng. Như thế ông ta đã hầu hạ ngài tận tâm suốt mười chín năm.”
    Lý do chính yếu khiến Janchub Oe cố hết sức để thỉnh Atìsha đến Tây Tạng là để ngài giảng giáo lý, và quan trọng nhất là nền giáo lý của ngài là tác phẩm Ngọn Ðèn Soi Ðường.
    Hành trình đến Tây Tạng của ngài đã được nữ thần Tara tiên đoán. Bậc thầy của ngài là Halakrshna nói:
    “Nếu ông đi Tây Tạng, thì con sẽ giàu hơn cha. Cháu sẽ giàu hơn con. Chắt sẽ giàu hơn cháu. Chít sẽ giàu hơn chắt. Rồi sau đó, tình trạng sẽ lụn bại dần.”
    Ở đây, “Cha” là Atìsha. “Con” là Dromtoenpa, Legdaen Sherab, vân vân. “Chít” là Sangyae Boentoen, Sangyae Gompa, và những người khác cùng thời đại với ông. Câu “sẽ giàu có hơn” có nghĩa là nền giáo lý sẽ được lan truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Atìsha đã làm sống lại những truyền thống giáo lý gần như mai một, và hoằng dương những truyền thống hiếm hoi khác. Ngài đã thanh lọc những giáo lý này khỏi những tư tưởng tà vạy hòa lẫn vào và làm cho do bẩn; bởi thế ngài đã làm cho nền giáo lý tôn quý trở thành vô cấu.
    Nhưng sau đó, trên những đoạn đường, những từng bực của đạo lộ, nền giáo lý lại bị che mờ vì những mật điển vô dụng và những phép điểm đạo nhỏ nhen, làm cho gần như lụn bại.
    Giáo lý về Những Giai Ðoạn Trên Ðường Ðến Giác Ngộ này đã được truyền cho Drom. Drom hỏi, “Tại sao thầy cho những người khác những chỉ giáo về mật tông, còn Lam-rim thì thầy chỉ truyền cho con mà thôi?”
    Atìsha đáp, “Ta không tìm được người nào khác ngoài con ra để phó thác giáo lý ấy.”
    Ngài đã truyền pháp này riêng cho Drom. Drom truyền lại giữa công chúng, nên từ đấy phát sinh ra ba hệ phái. Truyền thống Kadampa cổ điển truyền từ Potawa đến Sharawa. Phái này đề cập những bước đường tiến đến giác ngộ nhờ trung gian những tác phẩm cổ điển vĩ đại. Truyền thống Kadampa Lam-rim được truyền từ Gampopa đến Neuzurpa. Phái này đề cập Lam-rim ngắn gọn, đưa ra những giai đoạn của con đường giác ngộ theo thứ tự của chúng. Truyền thống Kadampa khẩu truyền giáo truyền từ Geshe Chaen Ngawa đến Zhoenue Oe. Phái này đề cập đến những chỉ giáo của các bậc thầy về những giáo lý như tinh túy của mười hai móc xích duyên sinh.
    Những giáo lý nói trên hiện vẫn còn tồn tại nhưng không mang tên cũ. Lối giải thích cổ truyền phát xuất từ Ngagwang Norbu, một người giữ chiếc ngai tu viện trưởng Ganden, nói rằng những người thiên về kiểu học hàn lâm viện nhất thì nên thực hành Lam-rim theo năm đề tài tranh luận chính yếu. Ðây chính là truyền thống Cổ điển. Những người không thực hành cách đó được, nhưng lại có nhận thức sắc bén, có sự kiên trì, thì nên nghiên cứu và quán niệm những Lam-rim lớn và trung bình (của Tsongkapa). Lối thực hành này là truyền thống Kadampa Lam-rim. Những người nào không thể thực hành điều này được thì nên theo một vài chỉ giáo ngắn gọn, như Con Ðường Dễ hay Con Ðường Nhanh. Họ sẽ theo tất cả những phần trong các giai đoạn của Con Ðường. Ðây là truyền thống Kadampa Khẩu giáo. Bậc tôn sư tôi, nơi nương tựa tối thượng của tôi, đã cho tôi các giải thích truyền thống ấy.
    Như tôi đã nói với các bạn, Tsongkapa đã phối hợp cả ba truyền thống ấy thành một dòng. Tôi cũng đã nói Tsongkapa viết những Lam-rim Con Ðường Lớn, Con Ðường Trung Bình, Con Ðường Nhỏ. Ðức Văn Thù xuất hiện nhiều lần trước mặt Tsongkapa, hai vị ấy thiết lập một liên hệ thầy trò. Ðức Văn Thù đã truyền cho Stongkapa vô lượng diệu pháp sâu xa về kinh giáo và mật giáo. Ðiều này có thể tìm thấy trong tiểu sử của Tsongkapa. Bởi thế ta có thể cho rằng Tsongkapa hấp thụ pháp Lam-rim từ Ðức Văn Thù, nhưng chính Tsongkapa thì lại tập trung nỗ lực để phăng manh mối của truyền thống này trở lui về Phật Thích Ca Mâu Ni đức Ðạo Sư của chúng ta. Ngài không bao giờ bảo truyền thống này đến từ một linh kiến nào cả, hay đến từ một hệ truyền thừa nào mới mẽ hơn, vân vân. Ðấy là một trong những điều kỳ diệu về lịch sử đời ngài.
    Gia Đình Vô Hình

  12. #12

    Mặc định

    Khi Tsongkapa viết Những Giai Ðoạn Lớn Của Ðạo Lộ đến đoạn nói về tuệ quán đặc biệt, Ðức Văn Thù đã nói đùa với ngài: “Không phải tất cả điều này đều thuộc về giáo lý ta nói về Ba Ðiều Nòng Cốt của Ðạo lộ hay sao?”
    Tsongkapa thưa với Ðức Văn Thù ngài sẽ viết sách này theo cách như sau: Ngài sẽ lấy Ba Nòng Cốt xem như huyết mạch của con đường, và sử dụng những điều ngài đã bàn trong Ngọn Ðèn Soi Ðường làm khởi điểm. Ngài sẽ lóc hết khỏi nó những chỉ giáo của những phái Kadampa khác. Nhưng Tsongkapa nghĩ rằng cho dù ngài có viết phần nói về tuệ quán đặc biệt trong Lam-rim vĩ đại của ngài, thì điều này cũng không lợi lạc hữu tình bao nhiêu. Ðức Văn Thù lại bảo ngài: “Cứ viết về tuệ quán đặc biệt đi, vì nó sẽ có lợi lạc trung bình cho các hữu tình.”
    Có nhiều chi tiết huyền bí bất khả tư nghì trong tiểu sử của ngài như vậy. Ngang đây đáng lẽ tôi phải nói chi tiết về tiểu sử đức Je Tsongkapa, nhưng chúng ta không có nhiều thì giờ để làm việc ấy. Các bạn nên khảo cứu kỹ về những cuốn tiểu sử đã được viết về ngài.
    Giáo lý của Tsongkapa bao gồm tất cả những lời giảng dạy của Atìsha. Nó cũng chứa đựng những chỉ giáo sâu sắc vô song đặc biệt, nhờ đó chúng ta có thể đạt đến chỗ hợp nhất với bậc Vô-học ngay trong một đời, ở vào thời đại suy đồi này. Những trước tác về Lam-rim của Tsongkapa chứa đựng nhiều điều cực kỳ thâm thúy mà ta không thể tìm thấy ngay cả trong những Lam-rim của những phái Kadampa trong quá khứ. Ta sẽ thấy rõ điều này sau khi đọc những tấc phẩm ấy một cách chi tiết.
    Về Lam-rim, có nhiều hệ phái truyền từ Tsongkapa xuống. Những hệ phái chính nổi tiếng nhất trong số này là tám truyền thống khẩu thuyết liên hệ đến tám giáo lý lớn. Hôm qua chúng ta đã nói điều này. Hai tác phẩm Tính Chất Của Vàng Ròng và Lời Ðức Văn Thù được nói là căn cứ theo kinh mà viết ra. Con Ðường Dễ và Con Ðường Nhanh được nói là liên hệ đến các mật điển.
    Ở đây sẽ nói sơ qua làm thế nào Hệ phái Lời Ðức Văn Thù ở phương nam được truyền thừa. Bản luận giải về quyển này ở phương Nam là bản ngắn hơn trong hai bản luận giải. Ðức Dalai Lama đệ ngũ đề nghị một kiểu giảng ngắn hơn bằng cách đánh dấu vài đoạn trong kinh. Ngài cũng cho một số chỉ giáo khác về các pháp quán tưởng “quy y”, “ruộng phước”, và những pháp quán liên hệ đến nhà tắm, vân vân. Những chỉ giáo này khác hẳn những chỉ giáo của các hệ phái ở tỉnh Trung ương. Ðức Dalai Lama truyền hệ phái Phương Nam cho Lama Purchog Ngagwang Jampa Rinpoche ở Epa, vị này còn truyền cho Lozang Kaetsuen, chức vị tu sĩ chuyên trông coi chỗ ở của Ðức Dalai Lama. Tiểu sử vị này có một chi tiết lạ lùng đặc biệt. Ông có trí thông minh phi thường, và đã sáng chế ra nhiều kiểu giảng dạy giáo lý - khi thì nhiều chi tiết hơn, khi thì ít chi tiết hơn. Ðể giải quyết những rối ren, ông biết cần phải thỉnh vấn ngay Ðức Dalai Lama, vị chúa tể của Pháp. Ông xin một buổi tiếp kiến, và thụ giáo tất cả giáo lý trong chừng một hai tiếng đồng hồ. Ðức Dalai Lama đã cho ông làm tu viện trưởng trong cung Potala. Ông trải qua phần cuối cuộc đời để tu tập ở một nơi cô tịch gọi là Lamrim Choeding, tại đây ông đã đạt đến một trình độ tu hành rất cao.
    Lozang Kaetsuen truyền giáo lý cho Puentsog Gyatso, một học giả uyên bác ở Yerpa, người đã hoàn tất mọi bài giảng thực hành trong vòng ba tháng (xem Ngày thứ nhất) Puentsog Gyatso đã tu tập đến một trình độ phi thường là thực chứng tâm tịnh chỉ và tuệ quán đặc biệt, và đã giảng lại cho nhiều đệ tử ở Yerpa. Ông tu các năng lực thần thông nhờ các phép quán mandala về thân của thần Heruka, và tương truyền phần lớn những tu sĩ thuộc Hệ phái Phương Nam đã theo mẫu mực này.
    Puetsog Gyatso, truyền xuống Lama Kachoe Taendar ở Epa, vị này truyền cho Tu viện trưởng Gedun Jamyang. Gedun Jamyang viết một tác phẩm riêng về hệ phái Phương Nam, vì sợ rằng có một số điểm sai lầm liên hệ đến vấn đề những đoạn nào trong kinh Lời Ðức Văn Thù đã thực sự được đức Ðức Dalai Lama đệ ngũ đánh dấu dành cho Hệ phái Phương Nam. Tác phẩm của ông chỉ lưu hành dưới dạng những bản chép tay cho đến khi Kyabje Drubkang Geleg Gyatso cho làm thành bản gỗ.
    Gelun Jamyang truyền cho Je Ngagwang Tutob; Tutob truyền đến Taem Gyatso đang hoàn tất sự học, ông được cắt phiên làm việc vặc vãnh, và theo truyền thuyết, ông đã đạt chánh kiến về Trung đạo (chánh kiến về Tánh không) trong khi bổ củi. Ông truyền pháp Hệ phái Phương Nam cho Seto Lama Kaeldaen. Seto Lama có chuyện kỳ lạ này trong tiểu sử: Ông hoàn toàn không vướng bận bất cứ thứ gì người ta cúng dường cho ông như tiền, khăn quàng cổ (theo tục lệ Tây Tạng), áo len và những thứ tương tự. Mà ông cũng không cho ai lại những thứ ấy. Ông chỉ liệng chúng vào trong một hang động cạnh chỗ ông ở. Nhiều thế hệ sau đó, người ta lục lọi mới tìm thấy những đồng tiền và len đã bị mối ăn. Sở dĩ ông không cho ai những thứ này vì nghĩ rằng điều ấy về sau có thể làm tăng thói kiêu mạn nơi ông.ư
    Seta Lama truyền giáo lý này cho Lozang Choepel, vị này lại truyền cho Geshe Tubtaen Rabgyae. Mỗi khi Tabtaen tu quán, ông thường tụng những lời cầu nguyện pháp Lam-rim, xong ông giữ im lặng. Những người đến viếng ông tưởng rằng ông ngủ, nhưng kỳ thực ho đang chứng kiến sự tịnh chỉ nhất tâm của ông. Ông truyền hệ phái này cho một tu sĩ tên Jangchub Togme.
    Người này chỉ là một tu sĩ bình thường, không phải một vị geshe - tiến sĩ Phật học, cũng không phải là một lama - thượng tọa. Ông sống trong am ẩn cư Dragri. Hàng ngày sau khi dâng cúng những chiếc bánh theo thường lệ, ông thiền quán theo Lam-rim một cách nhất tâm trên thảm cỏ ngoài am. Ông phát triển tâm từ và tâm bi đến mức độ luôn luôn cảm thấy buồn bã. Hàng ngày những trẻ mục đồng thường giải trí bằng cách lén nhìn ông. Ðối với chúng thì ông có vẻ chỉ là một ông già đang cám cảnh tủi thân khóc một mình.
    Vào thời gian này, Hệ phái Phương Nam của Lời Ðức Văn Thù có nguy cơ suy tàn vì hệ phái giảng kinh chỉ trao cho ông thầy này. Một tu viện trưởng của đại học Dagpo đã hồi hưu tên là Lozang Jinpa - vị này lại là người truyền giới xuất gia cho chính tôn sư tôi - cố truy tầm cho ra những người khác thuộc truyền thống giảng Hệ phái Phương Nam, nhưng khám phá ra rằng chỉ có ông thầy này đã thực thụ thọ pháp ấy mà thôi. Lozang Jinpa hoài nghi ông thầy này, không nghĩ ông có thể giảng kiểu “Nói chuyện thân mật”, nhưng nếu không yêu cầu ông giảng, thì truyền thống sẽ bị gián đoạn.
    Một ngày kia ông đến thăm vị tỷ kheo mà nói: “Bây giờ không có ai nắm giữ truyền thống giảng lời Ðức Văn Thù thuộc Hệ phái Phương Nam. Thực đáng tiếc vô cùng nếu truyền thống này bị gián đoạn. Ông có thể truyền cho tôi chỉ vì để khỏi gián đoạn dòng truyền thừa không? Khi ấy tôi có thể đưa cho ông bài giảng đã được làm cho văn hoa với những trích dẫn trong kinh, và những luận chứng hợp lý.”
    Ông thầy nói: “Làm sao một người như tôi có thể trao truyền được?”
    Ông cứ tiếp tục nói mình không đủ khả năng làm chuyện đó, nhưng cuối cùng ông chịu giảng, thì ông đã chêm vào những chỉ giáo sâu sắc kết quả của kinh nghiệm thân chứng. Je Lozang Jinpa rất đổi kinh ngạc về việc này. Ông nói: “Tôi hổ thẹn bảo ông ta: ‘ thì ra tôi thực sự đến để thụ giáo.’ Và ông ca tụng: “Ông ấy mới chính là một geshe vĩ đại của phái Kadampa thuộc truyền thống Khẩu giáo.”
    Chính Lozang Jimpa cũng đã đạt được tịnh chỉ và tuệ quán đặc biệt, và cũng nhờ thực hành phép quán mandala thân của thần Heruka. Ông sống ở tu viện Bangrim Choede thuộc miền Hạ Dagpo. Je Kalzang Taenzin là em trai ông, về sau ở am thất ẩn cư Lhading thuộc miền Thượng Dagpo. Ông thường mời Lozang viếng thăm Lhading, Lozang không thể đi đến đấy; nhưng một hôm nhập định ông ta thấy mọi chi tiết trong ngoài của am thất. Ông bảo người em trai về sau khi ông này đến thăm: “Tôi đã thấy nơi ẩn cư của chú từ trong ra ngoài.” Ông còn kể những chi tiết như có những cây gì bên phải và bên trái của ngôi nhà. “Và còn một vật trắng thật lớn luôn luôn lay động trên một lan can của ngôi nhà nữa. Cái gì vậy?” Ðó là một cái màn lung lay theo gió; Lozang đã thấy trong khi nhập định.
    Lozang truyền hệ phái này cho em trai Kaelzang Taenzin. Vị này trở thành học giả uyên bác về cả kinh điển lẫn mật điển. Mỗi khi ngài giảng dạy, thường có những luồng ánh sáng luôn đi từ đôi mắt ngài, bao quanh thính chúng đồ đệ. Cuối thời giảng, những luồng ánh sáng ấy lan trở lại vào đôi mắt ngài. Mọi người đều trông thấy nhiều lần như thế. Nhiều người kinh ngạc khi vừa thấy ngài giảng dạy lại vừa thấy ngài tản bộ trên đường kinh hành, vân vân. Ngài có những linh kiến về toàn thể phước điển trong pháp thực hành Cúng dường Ðạo sư. Khi ngài viên tịch trên đỉnh sọ đầu ngài có một hình vẻ kỳ diệu về ruộng phước Cúng dường Ðạo sư. Chiếc sọ này hiện vẫn còn ở am thất Lhading.
    Ngài truyền giáo lý cho Kaelzang Kaedrub, vị này cũng đạt những thần thông nhờ pháp quán Heruka. Và ngài đã trao truyền cho chính tôn sư tôi, người bảo hộ và nơi nương tựa của tôi.
    Ðấy là vắn tắt về sự truyền thừa của Hệ phái Phương Nam đối với Lời Ðức Văn Thù. Các bạn cần xem kỹ chi tiết hơn. Hãy tham khảo những bản tiểu sử đáng tin cậy.
    Bây giờ, về Hệ phái truyền thừa Lời Ðức Văn Thù ở Tỉnh Trung ương, thì Ðức Dalai Lama đệ ngũ truyền cho Jimpa Gyatso, một người giữ ngai tu viện Genden. Cuối cùng hệ phái này truyền đến Lozang Lhuendrub, một người kế vị khác chiếc ngai Ganden. Je Lozang Jimpa đã tiếp nhận truyền thống này nơi ông ta.
    Những bài kiểu “Nói chuyện thân mật” về Con Ðường Nhanh có lịch sử như sau. Vị Panchen lama là Lozang Yeshe, người thấy tất cả, đã đọc bản kinh, nhưng chưa ai từng hỏi ngài bài giảng truyền thừa của hệ phái. Khi về già, mắt ngài bị lòa, và khi có người muốn được truyền khẩu một vài đoạn quan trọng trong kinh, họ phải viết lại bằng chữ thật lớn những đoạn ấy. Bấy giờ học giả uyên bác Lozang Namgyael đang ở am thât Jadrael. Ông đọc tác phẩm Con Ðường Nhanh và nghĩ rằng hậu thế càng sẽ nghèo nàn hơn nếu ông không được truyền thừa hệ phái bài giảng này. Ông bèn quảy hành lý đi đến Tashi Lhuenpo, và bảo người hầu của vị Panchen Lama rằng ông muốn được truyền tất cả tác phẩm của Panchen Lama nói chung; nhưng đặc biệt là bài giảng về Con Ðường Nhanh.
    Lozang Namgyael lúc ấy chỉ là một tu sĩ thường, vậy mà ông đòi hỏi quá đáng, và thị lực của Panchen Lama thì quá yếu. Người hầu hết sức ngạc nhiên và mắng cho Lozang Namgyael mọt trận. Lozang trở về nhưng không thể chịu nổi tình trạng ấy. Ông đến yêu cầu thêm ba lần nữa, nhưng người hầu nhất định không giúp ông. Lozang nói trong cơn tuyệt vọng: “Nghe này, tôi không xin ông giảng dạy! Ông hãy chuyển lời yêu cầu của tôi đến đức Panchen Lama.” Trong khi y vẫn đang tức giận. Ðức Panchen Lama rất sung sướng truyền cho Lozang Namgyael, và suốt buổi giảng dạy, mắt của ông tuyệt đối không sao cả.
    Bậc tôn sư đã kể lại cho tôi nghe câu chuyện này nhiều lần. Tuy nhiên, Lozang Namgyael không được chính thức kể trên danh sách như là một trong những bậc thầy trong hệ phái chúng ta. Hệ phái được xem là truyền cho Purchog Ngawang Jampa, như được nói rõ trong phần tụng đọc chuẩn bị, nhan đề “ Một Sự Trang Hoàng Cho Yết Hầu Những Người May Mắn” (xem ngày thứ sáu)
    Như vậy là tôi đã nói sơ lược về sự vĩ đại của những tác giả, mặc dù chưa nói đến tất cả các Lamas và những môn đệ họ. Nếu đi vào chi tiết, thì có lẽ tôi phải theo hai pho tiểu sử của những bậc thầy các hệ phái do Yeshe Gyaeltsean, một vị giáo đạo của Ðức Dalai Lama viết ra. Ít nhất, trên đây là những gì mà tôn sư tôi đã dạy. Tôi không có thì giờ làm chuyện ấy, nhưng nếu các bạn có bản tiểu sử này, thì nên đọc thường xuyên.
    Khi kết thúc một giảng dạy về cuộc đời các bậc Thánh Tăng, chúng ta cần phải làm sự cầu nguyện như sau:
    Hỡi bậc thầy, mong sao cho con được như thân của thầy
    Mong sao cho quyến thuộc, cuộc đời và hoàn cảnh của con
    Cũng được như của thầy;
    Mong sao cả đến tên con
    Cũng là danh hiệu tối thượng của thầy.
    Chúng ta cũng nên quán tưởng về niềm hỉ lạc mà ta phải cảm thấy (sau khi nghe những cuộc đời ấy.)
    Gia Đình Vô Hình

  13. #13

    Mặc định

    NGÀY THỨ BA

    Shàntideva đã nói:
    Tôi đã được tái sanh làm thân người thuận lợi
    Cái thân người khó được,
    Có thể giúp ta hoàn thành những mục tiêu
    Nếu tôi không rút lợi lạc từ thân này
    Thì làm sao tôi có hy vọng được thừa hưởng
    Một sự tái sinh thuần tịnh như thế này trở lại?
    Nói cách khác, bây giờ khi ta đã được thân người thuận lợi, thì không nên chỉ ham muốn những hạnh phúc thế gian. Cũng không nên chỉ chuyên lo hàng phục kẻ thù, che chở người thân, vân vân; cả đến những thú vật cũng có thể làm những chuyện này. Nếu ta không dùng thời gian còn lại của mình trên đời để thực hành một pháp - một điều chắc chắn lợi lạc cho những đời sau của ta, và khiến ta khác với súc vật - thì thật khó cho chúng ta có những tái sinh như thế này trong tương lai. Bây giờ, một khi ta đã được thân người, thì chúng ta phải thận trọng.
    Muốn làm lợi lạc cho những đời sau chúng ta phải thực hành pháp này, nghĩa là những giai đoạn trên đường đến giác ngộ. Bởi thế bạn phải lấy bồ đề tâm làm động lực tu hành, và khởi tâm: “Tôi sẽ đạt thành Phật quả vì lợi lạc tất cả hữu tình. Bởi thế tôi sẽ lắng nghe giáo lý sâu xa này về những giai đoạn của con đường đến giác ngộ, và thực hành đúng theo đó.” Chỉ sau khi khởi tâm như vậy rồi các bạn mới nên lắng nghe.
    Pháp mà bạn sắp nghe là gì? Ðó là pháp Ðại thừa, Pháp đưa những người may mắn đến quả vị Phật.
    (Rồi Kyabje Pabongka Rinpoche tiếp tục nói một mạch như hôm qua. Ngài tóm tắt bốn tiêu đề mà ngài đã nói, rút về một tiêu đề duy nhất là: “Bài giảng về những Chặng Ðường Ðến Giác Ngộ.” Mặc dù hôm qua chúng tôi đã nghe qua tiêu đề thứ nhất trong bốn tiêu đề, hôm nay ngài cũng nhắc nhở lại rằng giáo lý này được truyền xuống từ đức Thích Ca bậc đạo sư của chúng ta. Ngài cũng nhắc lại rằng rất lâu về sau, nền giáo lý này mới có nhiều hình thức khác nhau, như Lam-rim, những giai đoạn của giáo lý, vân vân. Nhưng tất cả những hình thức giáo lý này đều lấy Ngọn Ðèn Soi Ðường làm bản kinh gốc. Ðiều này được đề cập chi tiết trong những tiểu sử trong các bậc thầy trong những hệ phái Lam-rim.
    Sau khi tóm tắt như thế, ngài nói tiếp:
    Hôm nay tôi sẽ giảng tiêu đề thứ hai:

    II. TÍNH CÁCH VĨ ÐẠI CỦA PHÁP, ÐƯỢC NÓI ÐỂ TĂNG NIỀM KÍNH PHÁP.
    Pháp Lam-rim có bốn sự vĩ đại và ba nét đặc thù để phân biệt với những giáo lý cổ điển khác. Bốn sự vĩ đại là:
    1. Sự vĩ đại giúp bạn nhận ra rằng tất cả những lời dạy đều ăn khớp.
    2. Sự vĩ đại giúp tất cả kinh điển đối với bạn đều trở thành lời chỉ giáo.
    3. Sự vĩ đại giúp bạn dễ dàng khám phá ý thật của Ðấng Chiến thắng.
    4. Sự vĩ đại giúp bạn tự cứu thoát khỏi những tà hạnh tệ nhất.

    A. TÍNH CÁCH VĨ ÐẠI CHO BẠN NHẬN RA RẰNG MỌI GIÁO LÝ ÐỀU ĂN KHỚP
    Giáo lý ở đây chỉ cho kinh điển của Phật thuyết. Luận về Ngọn Ðèn Tuệ của Bhàvaviveka nói:
    “Giáo lý có nghĩa như sau: những kinh điển của đức Thế Tôn dạy không cong quẹo về những điều mà chư thiên và nhân loại nào mong muốn vị cam lồ cần biết, những điều chúng cần từ bỏ, những điều chúng cần làm hiển lộ, và những điều chúng cần quán tưởng.”
    “Nhận ra tất cả giáo lý đều ăn khớp” có nghĩa rằng mỗi người đều phải thực hành những lời dạy ấy để được giác ngộ.
    “Ăn khớp” có nghĩa là hòa điệu. Ðại thừa, Tiểu thừa, Luật và Mật điển, vân vân, có vẻ như đối chọi lẫn nhau trên phượng diện ngôn ngữ văn tự, nhưng tất cả đều là pháp tu chính yếu đưa đến giác ngộ hoặc là một con đường tắt đưa đến giác ngộ. Bởi thế những giáo lý ấy đều ăn khớp với nhau. Giả sử bạn bị sốt nặng. Lúc đầu y sĩ cấm bạn dùng thịt, rượu, vân vân, và bảo: “Những thứ ấy sẽ nguy hiểm cho ông nếu ông không từ bỏ chúng.” Nhưng về sau, khi cơn sốt đã hạ, và yếu tố “phong” quá thạnh nơi con bệnh, thì bác sĩ lại khuyên ăn thịt vân vân. Chỉ có một con bệnh ấy, một y sĩ ấy, mà có hai lời khuyên - lúc đầu cấm thịt, lúc sau khuyên ăn - dường như không ăn khớp nhau. Song kỳ thực không phải như vậy, vì cả hai lời khuyên ấy đều cốt ý chữa lành cùng một con bệnh.
    Tương tự, bạn có thể nghĩ “Tiểu thừa, Ðại thừa, Kinh giáo, Mật giáo, vân vân mỗi thứ cốt dành cho những hạng đệ tử đặc biệt, không phải tất cả giáo lý ấy đều dành cho một người thực hành để đạt giác ngộ.” Nhưng cũng không phải vậy. Một người đang nói cho một người nghe về những pháp tu để giác ngộ. Khi người nghe đang ở trình độ Nhỏ hay Trung bình, thì đầu tiên đức Phật giảng giáo lý tiểu thừa. Vị ấy phải quán vô thường, khổ. Sau khi đã tiến bộ, vị ấy bây giờ ở vào trình độ Phạm Vi Lớn, nên giáo lý Ðại thừa được giảng cho vị ấy. Bây giờ vị ấy thụ giáo về tâm bồ đề, về sáu hạnh ba la mật, vân vân. Và khi vị ấy trở thành một pháp khí thích hợp với mật điển, đức Phật giải thích về Kim cang thừa: hai giai đoạn của Du già tối thượng và những thực hành mật có đôi. Tuy nhiên tất cả những pháp ấy đều thích hợp cho một người như bạn tu để giải thoát. Bởi thế bất cứ một kinh điển nào của Ðấng Chiến thắng cũng thuộc về hoặc là một dòng chính của đạo lộ hoặc là một trong những con đường tẻ của đạo lộ; không một kinh nào của thừa đối với một người tu để đạt tuệ giác.
    Mối bận tâm chính của một bồ tát là làm việc cho lợi ích của tất cả hữu tình. Như vậy bồ tát phải dạy cả ba con đường để hướng dẫn ba hạng đệ tử (Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát) đi đến giải thoát theo cách riêng của họ. Nhưng nếu bồ tát tự mình không biết ba con đường ấy thì không thể dạy lại cho người khác. Dharmakìti (Pháp xứng) nói trong tác phẩm Luận về những Pháp Có Giá Trị rằng: “Những phương tiện để đạt đến những cứu cánh này thật tối nghĩa; thật khó bàn luận về chúng.” Con đường đưa đến sự liễu tri cả ba đạo lộ thuộc ba thừa là cái mà bồ tát cần phải khai triển trong dòng tâm thức của mình để bảo đảm về những con đường khác nhau mới có thể đem đến lợi lạc cho hữu tình. Kinh dạy:
    “Này Tu bồ đề, Bồ tát tu tập tất cả các đạo lộ, dù là đạo lộ Thanh văn, đạo lộ Duyên giác hay đạo lộ bồ tát, Bồ tát liễu tri tất cả đạo lộ.”
    Trong tác phẩm của Maitreya (Di Lặc) nhan đề Trang Hoàng Cho Sự Thực Chứng, chúng ta thấy câu này: “Những người muốn làm việc cho hữu tình thì nên lợi lạc thế gian bằng cách liễu tri các đạo lộ.”
    Một điểm khác: cứu cánh là Phật quả, đấy là một quả vị có được mọi đức tính tốt đẹp, tất cả lỗi lầm đều đã tận trừ. Muốn đạt đến của vị này, con đường đại thừa là phải khiến cho tất cả lỗi lầm của một người đều chấm dứt, làm cho họ thể hiện tất cả đức tính. Bởi vì không có quyển kinh nào mà không trừ diệt một hạng lỗi lầm nào đó, hay khiến tu tập một loại đức tính nào đó, cho nên tất cả kinh điển đều bao hàm Ðại thừa.
    Ta hãy xét vấn đề “tính chất nhất quán của kinh điển” một cách chi tiết. Có hai cách: Thế nào bạn nên hiểu rằng tất cả những giáo lý được truyền lại - nghĩa là những sự trình bày về đề tài chính - đều ăn khớp nhau; và thế nào bạn nên hiểu rằng các pháp được chứng ngộ - nghĩa là bản thân đề tài - đều ăn khớp nhau.
    Ba tạng kinh điển, bốn loại mật điển, vân vân, làm nên kinh và luận giải về kinh. Và như tôi đã giải thích, tất cả đều hợp thành một pháp thực tập nhịp nhàng để đưa một con người tiến đến giác ngộ. Ðây là cách hiểu về “tính nhất quán của tất cả giáo lý được truyền lại.”
    Ðề tài của những giáo lý này là những con đường khác nhau thuộc cả ba phạm vi. Phạm vi nhỏ bao hàm những nhân tố để được tái sinh vào các thượng giới như trời, người. Những nhân tố này chính là đạo đức từ bỏ mười bất thiện hành, vân vân. Phạm vi Trung bình bao hàm những pháp tu đưa đến sự vi diệu của giải thoát - những pháp tu như là từ bỏ hai sự thật đầu (là Khổ và Tập - DC) trong bốn sự thật, và thực hiện hai sự thật cuối cùng (là Diệt và Ðạo - DC) và pháp tu ba vô lậu học. Phạm vi Lớn gồm những pháp tu đưa đến sự vi diệu của toàn trí - những pháp như phát bồ đề tâm, sáu ba la mật, vân vân. Do vậy, tất cả đề tài này lập thành một pháp tu hài hòa đưa hành giả đến giác ngộ, và cần hiểu là hoàn toàn ăn khớp nhau.
    Dromtoenpa, một trong những ông vua về Pháp, nói: “Thầy tôi biết cách xem tất cả những giáo lý như bốn góc của một con đường có bốn mặt.” Ðây là lời chính xác của ngài, nhưng được giải thích nhiều cách. Bốn góc là ba phạm vi với các mật điển là góc thứ bốn. Hoặc, bất kể bạn tung một trong hai con xúc xắc như thế nào, luôn luôn có một mặt tứ (?) xuất hiện; cũng thế, mỗi đề tài thiền quán đều bao hàm toàn thể đạo lộ.
    Ta có thể theo những cách giải thích ấy, nhưng tôn sư tôi, người che chở và nơi nương tựa của tôi, đã dạy:
    “ Khi bạn kéo một góc của chiếc chiếu bốn góc, là bạn đã chuyển được toàn thể chiếc chiếu. Cũng tương tự như thế, đề tài của một quyển kinh nào cùng với những luận giải về kinh ấy, đều đưa đến một pháp thực hành để đạt giác ngộ. Có thể nói là bạn đang kéo một trong bốn góc của pháp thực hành này.”
    Ðây là một lối giải thích rất quan trọng.

    B. TÍNH VĨ ÐẠI KHIẾN MỌI KINH ÐIỂN TRỞ THÀNH NHỮNG LỜI CHỈ GIÁO CHO BẠN
    Nếu bạn chưa gặp hệ thống “Những Giai Ðoạn Trên Ðường Ðến Giác Ngộ” này, thì tất cả kinh điển đối với bạn không thành ra những lời chỉ giáo. Nhưng những chỉ giáo tối thượng là kinh điển của Ðấng Chiến thắng và những luận thư cổ điển vĩ đại bàn về kinh ấy. Trên thế gian chưa từng có một bậc Thầy nào hơn đức Thích Ca Mâu Ni, đấng Thế tôn, đấng Thiện thệ, Người phá hủy toàn triệt tất cả nhiễm ô. Tác phẩm Maitreya (Di Lặc) nhan đề Dòng Tương Tục Vi Diệu Của Ðại Thừa nói:
    Trong thế gian này không học giả nào
    Vượt qua Ðấng Chiến thắng.
    Với toàn trí ngài liễu tri chân như tối thượng
    Và liễu tri vạn pháp; người khác không thể hiểu.
    Bởi thế, đừng thêm bớt bất cứ gì
    Mà bậc Ðại thánh đã để vào kinh điển
    Vì như vậy sẽ phá hoại
    Hệ thống của Thích Ca Mâu Ni
    Và làm hại cho Thánh Pháp
    Ngày nay không ai còn xem kinh điển của Ðấng Chiến thắng - chẳng hạn Lời Ðức Phật được Phiên Dịch- như là một cái gì để thực hành, mà chỉ để tụng vào những buổi lễ. Người ta cũng có nghiên cứu những tác phẩm cổ điển của hai nhà tiên phong (Long Thụ và Vô Trước) giảng giải về những kinh điển này, nhưng chỉ để mà có thể trích dẫn vào những dịp tranh luận. Ngay cả những học giả uyên bác nhất, mỗi khi khởi sự hành thiền cũng không biết làm sao để hội nhập những bản kinh ấy vào sự tu tập của họ, mặc dù đã bỏ cả đời để nghiên cứu và chiêm nghiệm những kinh ấy. Họ đi đến những người nổi tiếng là thiền giả vĩ đại, nhưng thực sự không biết gì cả, hoặc họ học vài pháp tu quán (sadhanas) về cách làm sao để theo dõi những vận hành có ý thức của tâm ý; rồi họ quán về những chuyện ấy một cách nô lệ. Ðức Tsongkapa vĩ đại đã nói:
    Họ nghiên cứu thực nhiều, nhưng vẫn nghèo nàn về Pháp:
    Giai do vì họ không xem kinh điển như những chỉ giáo (để thực hành. DC).
    Nghĩa là, thật tai hại vô cùng nếu không xem kinh điển là những lời chỉ giáo.
    Ví dụ có một tiến sĩ ở tu viện chúng ta đi về thăm quê nhà ở tỉnh Kham. Ông ta xin một vị lama phái Nyingma một lời chỉ giáo để tu tập, rồi thiền quán theo sự chỉ dạy vắn tắt của vị ấy. Vì việc này mà những người địa phương tuyên truyền rằng Pháp của phái Gelugpa chắc chắn chỉ dành để thảo luận, không có cái gì để thực hành. Bởi thế mọi người đều làm ngơ giáo lý của phái Gelugpa. Tôi thấy vị tiến sĩ này đã làm gương xấu, và cho chuyện này thật là đáng buồn.
    Các bạn phải thực hành bất cứ pháp gì mà mình đã hiểu rõ ý nghĩa nhờ học hỏi và quán tưởng; và ý nghĩa của pháp nào bạn đang tu cũng phải được kiểm chứng cho chắc chắn bằng vào sự học quán. Nếu bạn đã chắc chắn về một pháp nhờ học và quán, rồi lại đi thực hành một pháp gì khác, thì cũng giống như chỉ cho một người nào con đường đua, rồi lại sử dụng một mảnh đất khác cho một cuộc đua ngựa của bạn. Những Giai Ðoạn Lớn của Con Ðường là dùng ví dụ ấy. Có lẽ cần giải thích một chút. Bạn sắp tổ chức một cuộc đua ngựa. Bạn chỉ một nơi nào đó, và mọi bảo mọi người: “Ngày mai chỗ này sẽ là con đường ngựa chạy đua.” Thế nhưng vào đúng ngày đua ngựa, bạn lại tổ chức cuộc đua tại một địa điểm khác.
    Vậy, nếu bạn không thể xem kinh điển như những chỉ giáo thực hành, lý do vì bạn đã không nắm vững những giai đoạn của Con đường Ðến giác ngộ. Nhưng khi đã nắm vững, thì cũng sẽ hiểu được rằng tất cả văn hệ cổ điển - như kinh Phật Thuyết chẳng hạn - đều có thể xếp vào khuôn khổ Lam-rim, rằng đấy là những pháp hoàn toàn dành để tu tập.
    Một thời, Ngawang Chogdaen giữ ngai tu viện trưởng Ganden. Sau khi hoàn tất sự huấn luyện ở tu viện, ngài nhận nhiều chỉ giáo từ Jamyang Shaypa - chẳng hạn Ba Nòng Cốt Của Ðạo Lộ của Tsongkapa. Ngài được khai thị vào phương pháp thiền quán về những tư tưởng chứa đựng trong toàn bộ kinh điển và mật điển. Về sau ngài tuyên bố rằng cuối cùng ngài mới hiểu được thời gian ngài nghiên cứu phạm vi rộng lớn của văn học Phật giáo cổ điển hóa và cũng là thời gian ngài học Những Giai Ðoạn Chính Của Con Ðường. Ðiều này chứng tỏ đối với ngài, kinh điển là những chỉ dẫn tu tập.
    Khi nhà đại học giả Lozang Namgyael đang khẩu truyền tác phẩm Bát Nhã Bát Thiên Tụng, thỉnh thoảng ngài lại nói: “Ôi, ước gì ta chưa già quá thế này. Ðấy là điều ta cần nên thiền quán tư duy!”
    Khi bạn hiểu Lam-rim, tất cả mọi thực tập thảo luận trong sân tu viện cũng phải thuộc về Lam-rim: bạn phải xem sự thực tập thảo luận này như một hình thức của sự chỉ giáo về thiền. Giả sử bạn đang thảo luận về đề tài phát bồ đề tâm: bạn sẽ lập tức rút ra những so sánh với chương Phạm Vi Lớn đề cập sự đào luyện tâm bồ đề. Hoặc, bạn sẽ so sánh một thảo luận về Mười Hai Nhân Duyên với Phạm Vi Trung Bình. Hoặc, bạn cũng làm tương tự vói cuộc thỏa luận về những cảnh giới thiền định thuộc về Sắc Giới và những tầng thiền chứng Vô Sắc, và so sánh những thiền này với phần nói về Tâm Tịnh chỉ trong Lam-rim. Ngay cả khi tụng đọc một nghi thức tụng niệm, bạn cũng phải hội nhập được nghi thức ấy vào Lam-rim, bất kể bài tụng ấy rút từ kinh nào.
    Bạn cũng phải làm được việc ấy một cáh sẵn sàng khi tình cờ gặp một trang kinh sách tả tơi trong một điện thờ nằm bên đường. Một lần khi tôi hãy còn bé, tôi trông thấy một trang sách bỏ rơi trong một điện thờ trên con đường xung quanh một tu viện. Trang ấy là một trong những bài ca của đức Dailai Lama thứ bảy, Kaelzang Gyatso.
    Con ong nhỏ trong hoa Ðỗ quyên
    Bay từ đóa hoa rực rỡ này đến đóa hoa khác
    Nó di chuyển nhanh làm sao.
    Bài ca của tôi sẽ giải thích hình ảnh này:
    Nhiều người trong thời mạt pháp
    Có tâm cấu nhiễm và ngụp lặn trong những chuyện tầm thường.
    Hãy nhìn cách chúng phút trước là bạn
    Mà phút sau đã thành kẻ thù.
    Tôi không tìm đâu ra một người bạn kiên cố.
    Nói cách khác, tôi nối kết ngay những kinh nghiệm tôi có khi ở ngôi chánh điện ấy với phần Phạm Vi Trung Bình đề cập nỗi khổ vì tính bất trắc trong cõi luân hồi sinh tử.
    Je Rinpoche (Tsongkapa) hỏi Rinchen Pel, một đại học giả, ý nghĩa của danh từ “Kadam” (nghĩa đen là “chỉ giáo của kinh điển”). Ông trả lời: “Dù chỉ có một chữ N từ trong kinh điển đối với mình cũng như là một lời chỉ giáo không được bỏ qua.”
    Câu trả lời ấy là Je Rinpoche hài lòng tới nỗi ngài ca ngợi trong một buổi giảng dạy công cộng: “Hôm nay một học giả đã khai triển được ý tôi. Ðúng như ông ấy nói.”
    Bởi thế, tất cả kinh điển - cả đến một từ kinh bị bỏ rơi trong chánh điện - đều là những chỉ giáo để hướng dẫn một người đến giác ngộ. Ðiều này áp dụng cho bạn và sự giác ngộ của bạn. Nó có thể là đức Phật và các tác giả khác đã giảng những kinh ấy đặc biệt cho riêng bạn. Một thái độ như thế sẽ đem lại cho bạn niềm tin tuyệt đối vào tất cả kinh điển.
    Jangchub Rinchen một hành giả mật tông nói: “Không ai bảo chúng ta phải tìm những chỉ giáo để đạt giác ngộ trong một tuyển tập những bùa chú - chúng ta phải tìm sự chỉ giáo trong tất cả kinh điển.” Chúng ta phải suy nghĩ cách ấy mới được; những lời này đánh ngay vào gốc rễ. Vậy xem tất cả kinh điển như những chỉ giáo là chuyện nên làm.
    Bạn có thể tự hỏi: “Có thật đầy đủ không nếu ta chỉ học Lam-rim?” Ý nghĩa của kinh và luận đều chứa đựng trong Lam-rim - kể từ đoạn nói về nương tựa một bậc thầy cho đến chương nói về tâm tịnh chỉ. Một pháp Lam-rim thực thụ có thể có một số tiêu đề chi tiết hoặc ngắn gọn. Một ít tiêu đề trong số này đòi hỏi một pháp thiền quán phân tích (như tưởng niệm về Phật, Pháp, Tăng-DC) trong khi một số khác đòi hỏi một pháp thiền định dán chặt (như quán biến xứ hay kasina-DC). Khi bạn đã nắm vững bộ sườn của những tiêu đề này, bạn sẽ biết được loại thiền định nào áp dụng cho mỗi tiêu đề. Với sự hiểu biết này, bạn sẽ sẵn sàng liên kết bất cứ kinh nào bạn gặp với pháp thực hành một đề tài Lam-rim đặc biệt nào đó - điều này chứng tỏ bạn đang xem kinh điển như là những lời chỉ giáo thực hành.
    Sau đây là một ví von dễ hiểu mà bậc thầy tôn qúy của tôi thường đưa ra. Giả sử một người không có chỗ để chứa gạo, lúa mạch, đậu vân vân, và tình cờ y gặp một nắm gạo chẳng hạn. Y không biết phải làm gì với nó và có lẽ sẽ vứt bỏ nó. Cũng thế, nếu bạn chưa nắm được toàn vẹn cơ cấu của đạo lộ, và tình cờ gặp một cuốn kinh, bạn sẽ không nhận thức được rằng mình phải liên hệ kinh ấy với một đề tài Lam-rim. Bạn sẽ không biết làm thế nào để thực hành theo kinh ấy. Nếu bạn đang có gạo, lúa mạch, đậu, mỗi thứ chỉ một cân, mà có thêm được nắm gạo, thì bạn sẽ sung sướng bỏ thêm gạo ấy vào kho lương thực của bạn. Khi bạn đã nắm vững cái sườn của những đề tài thiền quán Lam-rim, bạn sẽ dễ dàng liên kết bất cứ quyển kinh nào với một tiêu đề Lam-rim đặc biệt.
    (Khi ấy Rinpoche giảng chi tiết về cái sự làm thế nào, một bản văn về Lam-rim có toàn bộ sườn của Lam-rim thì có thể dẫn hành giả đi qua Con đường, bất kể độ dài của bản văn ấy. Ngài so sánh điều này với hai căn phòng, một phòng của một viên chức chiùnh phủ, phòng kia của một tu sĩ bình dị: cả hai phòng đều chứa đủ những bàn ghế cần dùng cho mục đích của họ.)
    Lại nữa cần chú ý: có khác nhau giữa nhận thức rằng tất cả kinh điển đều nhất quán, và nhận thức rằng tất cả kinh điển đều là lời chỉ giáo thực hành. Có được nhận thức đầu không nhất thiết có nghĩa là có được nhận thức sau. Nhưng nếu bạn có được nhận thức sau, thì đường nhiên có được nhận thức đầu.

    C. TÍNH VĨ ÐẠI CHO PHÉP BẠN DỄ DÀNG TÌM RA Ý THẬT CỦA PHẬT.
    Những kinh và luận như tôi đã nói, chính là những chỉ giáo thực hành tốt nhất. Tuy nhiên bạn không thể khám phá ra những ý tối hậu của Ðấng Chiến thắng chỉ nhờ đọc những tác phẩm cổ điển vĩ đại ấy, nếu không có một chỉ giáo nào của bậc thầy về những giai đoạn của con đường đưa đến giác ngộ, kể như một cái sườn để tham khảo, mặc dù đề tài của những kinh điển ấy biểu trưng ý tối hậu của Phật. Muốn tự mình khám phá được những ý ấy từ nơi kinh luận, bạn phải nắm lấy kinh luận trong một thời gian dài. Nhưng nhờ Lam-rim, bạn sẽ dễ dàng khám phá ý nghĩa mà không cần phải khổ công như vậy.
    Có lẽ bạn đang tự hỏi: Gì là những ý của Ðấng Chiến thắng? Bậc tôn sư tôi, nơi nương tựa và che chở cho tôi, đã dạy rằng thông thường, những ý ấy được xem là ba phạm vi; nhưng còn quan trọng hơn nữa là, sự cần thiết phải thực hành Ba Nòng Cốt Của Ðạo Loä. Ðiều này chắc chắn đúng. Ðức Tsongkapa vĩ đại đã làm sáng tỏ những ý tối hậu của Ðấng Chiến thắng về Chánh kiến. Trong tác phẩm Ba Nòng Cốt Của Ðạo Lộ, Tsongkapa nói:
    Các tướng do duyên sinh
    Thì không phải là ảo tưởng;
    Nhưng có những người
    Lại hiểu Tánh Không là một cái gì vắng mặt tướng ấy.
    Khi nào bạn còn thấy hai cái đó khác nhau,
    Thì bạn sẽ không bao giờ
    Nhận ra được ý của Ðức Ðạo Sư.
    Gia Đình Vô Hình

  14. #14

    Mặc định

    Ðiều này thực sự có ý nghĩa rằng, bạn chưa hiểu được ý Phật nếu bạn chưa có Chánh kiến. Chính nhờ năng lực của chánh kiến mà cuối cùng bạn mới nắm được ý Phật. Trong cùng bài kệ ấy, Tsongkapa nói: “ý nghĩa tinh túy của mọi kinh điển của Ðấng Chiến thắng...” Ðiều này ám chỉ Nòng cốt từ bỏ. Ngài nói tiếp: “... con đường mà chư Phật và con đường Phật ca ngợi...” Ðiều này ám chỉ Nòng cốt Bồ đề tâm. Cuối cùng ngài nói: “... cửa vào cho những người may mắn muốn giải thoát.” Ðiều này ám chỉ Nòng cốt chánh kiến. Như vậy ngụ ý rằng bạn vẫn cần hai nòng cốt kia, là từ bỏ và tâm bồ đề. Bởi thế, khi bạn dựa vào Lam-rim, bạn sẽ dễ dàng khám phá rằng đề tài của những tác phẩm cổ điển vĩ đại là nhắm đến sự phát triển ba nòng cốt ấy trong dòng tâm thức bạn. Khi ấy bạn sẽ dễ dàng tìm ra ý của Ðấng Chiến thắng.
    Giả sử kinh sách cổ là một biển cả. Ý của Ðấng Chiến thắng - ví dụ ba nòng cốt của đạo lộ - là châu ngọc trong biển ấy; Lam-rim như con thuyền; bậc thầy giảng dạy giáo lý ấy như thuyền trưởng. Mặc dù trong biển có châu báu, nhưng nếu không có thuyền mà bạn đi kiếm châu báu thì bạn chỉ có nước bỏ mạng trong biển. Nếu bạn không sử dụng Lam-rim như chiếc thuyền, thì sẽ rất khó cho bạn khám phá ra ý của Ðấng Chiến thắng, dù cho bạn có tham khảo cổ thư. Bạn phải nương vào một bậc thầy như thuyền trưởng thiện xảo, bước lên con thuyền là Lam-rim, rồi bạn sẽ dễ dàng tìm thấy châu ngọc trong các cổ thư: ý tối hậu của Phật.

    D. TÍNH VĨ ÐẠI GIÚP BẠN TỰ CỨU MÌNH KHỎI NHỮNG TÀ HẠNH ÐỆ NHÂT

    Ở đây, Những Giai Ðoạn Lớn Của Ðạo Lộ và các kinh luận khác đều dạy rõ ràng bạn không nên làm một điều gì sẽ đem lại cho bạn cái nghiệp và sự chướng ngại phát sinh từ nghiệp ấy, kèm theo là sự từ bỏ Pháp. Nhưng nếu bạn chưa để tâm bạn ba vĩ đại đầu trong bốn sự vĩ đại này, thì bạn sẽ luôn luôn làm những phân biệt vặt vãnh khiến bạn kính trọng một pháp này hơn những pháp khác - những phân biệt như Ðại thừa đối với Tiểu thừa, hay Pháp lýthuyết đối với Pháp thực hành.
    Từ bỏ một vài phần của pháp thường phát sinh một dòng tương tục những loại nghiệp xấu nhất, từ đó có những những chướng ngại nghiêm trọng nhất. Kinh Dệt Mọi Pháp Vào Với Nhau nói:
    Này Văn Thù, những chướng ngại phát sinh do cái nghiệp từ bỏ Diệu Pháp thuộc loại rất vi tế. Văn Thù, người ta từ bỏ pháp khi họ xem một vài kinh điển của đức Như Lai là hay, còn vài kinh khác thì rất dở. Bất cứ kẻ nào từ bỏ Pháp thì hậu quả là cũng phỉ báng Phật và nói xấu Tăng. Một người từ bỏ Pháp khi nó tuyên bố: “Kinh này đúng, Kinh kia sai.” Một người từ bỏ Pháp khi nó tuyên bố: “Kinh này dạy cho bồ tát.” hoặc “Kinh này dạy cho Thanh văn.” Một người từ Pháp khi nó tuyên bố: “Pháp này dành cho Ðộc giác.” Một người từ Pháp khi nó tuyên bố: “Ðiều này không phải là một trong những điều mà bồ tát nên tu tập.”
    Từ bỏ Pháp là một hành vi hết sức nguy hại, như kinh Vua của Ðịnh Nhất tâm nói:
    Từ bỏ kinh tạng là một tội lớn hơn nhiều
    So với sự phá hủy tất cả tháp trong Nam Thiệm Bộ Châu.
    Từ bỏ kinh tạng là một tội lớn hơn nhiều
    So với giết một số lượng A la hán nhiều như cát dưới đáy sông Hằng.
    Nếu bạn đã tin chắc về ba vĩ đại đầu trong bốn sự vĩ đại, thì bạn sẽ không làm ngơ bất cứ một giáo lý nào của Ðấng Chiến thắng; bạn sẽ kính trọng ngang nhau tất cả kinh điển, vì tất cả kinh điển đều là những pháp để thực hành. Bạn sẽ thoát khỏi tình trạng xem một vài pháp là hay và vài pháp khác là dỡ, vì điều này là yếu tố trọng đại nhất góp phần vào việc từ bỏ Pháp. Lại nữa, nếu bạn suy nghĩ về những cách làm thế nào để tận tụy với bậc thầy của mình cho thỏa đáng, thì bạn sẽ trừ được những nghiệp chướng mà bạn có thể có đối với bậc thầy ấy. Và khi bạn đã tin chắc vào sự thật vô thường và thân người thuận lợi, thì bạn sẽ an nhiên chấm dứt những ác hành do bám víu vào cuộc đời này. Bạn sẽ chấm dứt những tà hạnh liên hệ đến ngã ái khi bạn theo đề mục thiền định về phát tâm bồ đề. Khi bạn tu tập thiền quán vô ngã, bạn sẽ chấm dứt bám víu vào một cái ngã. Một cách tự nhiên bạn sẽ dừng lại tất cả những lối hành xử tà vạy và phi pháp nhất, nhờ bạn phát triển sự thực chứng từng đề mục thiền quán của Lam-rim.
    Tôi sẽ đưa ra một ví dụ để giải thích làm thế nào mà ba sự vĩ đại đầu tiên giúp tăng tiến sự tu hành của bạn. Giả sử bạn sắp vẽ một bức tranh có tính tôn giáo. Bạn cũng biết là bạn phải chuẩn bị những điều kiện thích nghi như là phòng để vẽ, sơn, cọ v.v... Sự biết này cũng tương tự như nhận thức rằng tất cả kinh điển đều ăn khớp nhau. Bạn phải biết vẽ như thế nào, làm sao để sử dụng những dụng cụ ấy - cũng như bạn phải xem tất cả kinh điển đều là những lời chỉgiáo. Và vẽ cho đẹp là tương tự như khám phá được ý của Phật.
    Bốn sự vĩ đại này thông thường được hiểu theo hai cách: bốn vĩ đại của sự trình bày, nghĩa là danh từ được sử dụng; và bốn vĩ đại của đề tài, tức ý của những danh từ ấy. Kinh điển có bốn vĩ đại liên hệ đến trình bày. Tuy nhiên điều quan trọng hơn nữa là con người lại có bốn vĩ đại liên hệ đến đề tài.
    Ðến đây kết thúc phần bốn vĩ đại. Ngoài bốn vĩ đại này ra Lam-rim còn có ba đặc sắc:
    a) Nó toàn vẹn, vì chứa đựng tất cả đề tài của kinh giáo và mật giáo.
    b) Nó dễ thực hành vì nhấn mạnh những bước điều phục tâm.
    c) Nó thù thắng hơn những truyền thống khác vì chứa đựng những chỉ giáo từ hai bậc đạo sư đã học những truyền thống của hai vị tiên phong.

    E. LAM RIM LÀ TOÀN DIỆN VÌ CHỨA ÐỰNG TẤT CẢ ÐỀ TÀI KINH VÀ MẬT
    Trong khi Lam-rim không thể nào bao gồm tất cả những lời lẽ trong kinh luận, nó lại chứa đựng và giảng dạy tất cả những ý nghĩa nòng cốt của kinh luận. Ngay của một bản văn ngắn nhất của Lam-rim cũng làm được việc này. Toàn bộ ý nghĩa của kinh và luận đều bao hàm trong ba phạm vi của Lam-rim; Lam-rim bao gồm và giảng giải đề tài của toàn thể kinh và luận. Ðức Tsongkapa vĩ đại đã nói như sau trong một thư gửi Lama Umapa:
    “Chỉ giáo này từ Dìpamkàra Shìjnana - Ngọn Ðèn Soi Ðường - dường như chứa đựng mọi lời chỉ giáo của kinh và luận. Nếu người ta biết cách giảng dạy hay nghiên cứu tác phẩm này, thì đấy không những là những chỉ giáo thực hành mà còn là một tổng hợp của tất cả kinh giáo.”
    Những giáo lý các trường phái khác có nhiều bảng kê khác nhau: bốn chỉ giáo về những chuẩn bị tiên quyết như quy y vân vân; giảng dạy vè những pháp tu chính yếu, vân vân. Tuy nhiên, những phái Kadampa tiền kỳ và hậu kỳ của chúng ta ngày nay đều có truyền thống bỏ qua những liệt kê dông dài ấy, và giảng dạy mọi sự theo Lam-rim. Ngọn Ðèn Soi Ðường dạy tổng hợp mọi đề tài kinh điển trong phạm vị ba tập giấy mỏng. Tất cả những bản Lam-rim khác cũng cô đọng mọi đề tài lại như thế, và dùng Ngọn Ðèn Soi Ðường làm bản kinh gốc. Tsongkapa nói:
    Nó cô đọng tinh yếu của mọi kinh điển,
    Qua sự giảng dạy, nghiên cứu Lam-rim
    Dù chỉ một lát,
    Người ta cũng đạt được lợi ích
    Của việc thảo luận và nghiên cứu
    Tất cả nền diệu pháp
    Hãy quán sát ý nghĩa Lam-rim
    Vì đấy là điều chắc chắn để được lớn mạnh trong giáo pháp.
    Nói khác đi, nghiên cứu, quán tưởng, giảng dạy, và thụ giáo một giáo lý Lam-rim chính là nghiên cứu, quán tưởng và học hỏi về ý nghĩa trọn vẹn của tất cả kinh luận. Khi bạn thực hành dù chỉ một chuỗi phản quan thiền định về Lam-rim, thực tập thiền định ấy cũng bao quát tất cả kinh và luận. Nhân vật vĩ đại phái Kadampa là geshe Toelumgpa nói:
    Khi tôi giảng dạy những giai đoạn con đường đến giác ngộ cho bạn, bạn có thể được một hiểu biết khái niệm về tất cả những kinh sách trên thế gian. Tất cả những quyển sách ấy sẽ nghĩ: “Lão thầy tu già tóc hoa râm này đã móc tim ra ra!” và phải run lên trước ý nghĩa ấy.
    Thật vậy, bởi vì nếu có một buổi giảng về Lam-rim tiến hành tốt, thính chúng chú tâm, thì tinh túy của tất cả sách vỡ trên thế gian đều đã được bàn đến trong buổi giảng ấy. Như vậy, một mặt Lam-rim bao hàm ý nghĩa tất cả kinh điển, mặt khác, nó là chìa khóa để mở kinh. Không có sự tóm thâu Pháp yếu nào tốt hơn thế. Bởi vậy mà Geshe Toelumgpa đã nói về sự giảng dạy Lam-rim rằng: “Tôi đã chặt thành từng mảnh con trâu Pháp khổng lồ.”
    Những người căn cơ thấp kém có thể không hiểu được những bản Lam-rim giảng giải chi tiết, nhưng họ vẫn có thể dựa vào một bản Lam-rim ngắn, chứa những giáo lý rõ ràng mà vẫn bao quát toàn bộ sườn của Lam-rim. Giáo lý rõ ràng này cũng vẫn có thể hướng dẫn họ trên đường tu. Nhưng nếu bản văn bỏ ra ngoài dù chỉ một trong những đề mục thiền, thì nó không thể hướng dẫn cho bất cứ ai.
    Hãy lấy ví dụ thức thuốc trị sốt là Camphor 25. Bạn không cần phải đi mua một gói bự đầy đủ từng món một trong 25 món và uống từng món; nếu thứ thuốc ấy đã được bào chế đúng cách, thì dù một viên cũng có thể làm hạ ngay cơn sốt. Nhưng nếu thiếu một trong 25 món thì thuốc ấy sẽ không mà cho bạn hạ nhiệt được, dù bạn có uống thật nhiều vào đi nữa.
    Bây giờ khi bạn đã may phước gặp được nền chỉ giáo tuyệt diệu này, thì bạn phải chuyên môn trong lĩnh vực ấy

    F. LAM RIM DỄ THỰC HÀNH VÌ NHẤN MẠNH NHỮNG BƯỚC ÐIỀU PHỤC TÂM.

    Chúng ta đã từng trải bao nhiêu là đau khổ trong cõi sinh tử luân hồi, và cũng đã lên tột đỉnh hạnh phúc mà cõi sinh tử có thể đem lại. Tất cả những đau khổ và hạnh phúc ấy đều do chính tâm của chúng ta tạo nên. Không có pháp nào tốt để điều phục tâm hơn là Lam-rim; Lam-rim đặc biệt nhấn mạnh những phương tiện để đạt được tâm điều phục. Bởi thế Lam-rim dễ áp dụng cho sự thực hành.

    G. LAM RIM THÙ THẮNG HƠN NHỮNG TRUYỀN THỐNG KHÁC VÌ CHỨA ÐỰNG NHỮNG CHỈ GIÁO TỪ HAI BẬC THẦY ÐÃ ÐƯỢC HỌC CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA HAI BẬC TIÊN PHONG.

    Bậc thầy thuộc trường phái Long Thụ và Vidyakokila; bậc thầy thuộc trường phái Vô Trước là Suvarnadvìpi. Giáo lý này được những chỉ giáo của các vị này làm cho phong phú; và bởi thế mà nó thù thắng hơn là truyền thống khác. Như đức Tsongkapa vĩ đại có nói:
    Những giai đoạn của con đường đến giác ngộ
    Phát xuất từ Long Thụ và Vô Trước -
    Những viên bảo châu tối thượng trong các học giả ở thế gian.
    Mà danh tiếng nổi bật trong loài hữu tình như một cây cờ.
    Ngay cả tác phẩm (của Di Lặc) Trang Hoàng Cho Thực Chứng - cũng không có được ba đặc điểm này. Ngay cả vua của mật điển là Shì Guhyasanmàja (Shhyasamaja Tantra) cũng không có. Hai bản kinh này không chứa đựng tất cả đề tài của kinh và mật, cũng không nhấn mạnh đến việc điều phục tâm.
    Bây giờ, khi bạn đã có đủ diễm phúc để nghiên cứu, quán tưởng và thiền định về Lam-rim với những tính vĩ đại và nét thù đặc ấy, thì bạn không nên thỏa mãn với những chỉ giáo bất toàn vụn vặt. Ðiều thật thiết yếu là bạn phải hết sức nổ lực để đi trên con đường này.
    Ðến đây là xong phần tiêu đề chính thứ hai “Tính vĩ đại của Pháp.”
    Gia Đình Vô Hình

  15. #15

    Mặc định

    III. CÁCH THÍCH ÐÁNG ÐỂ GIẢNG DẠY VÀ LẮNG NGHE NỀN GIÁO LÝ CÓ HAI VĨ ÐẠI ẤY

    Ðây là một tiêu đề rất quan trọng. Ngagwang-Dagpa, một thiền gia vĩ đại ở Dagpo có nói:
    Phần chỉ giáo tiên khởi tốt nhất
    Là dạy về cách nói pháp
    và cách nghe pháp.
    Hãy yêu mến Pháp...
    Nói cách khác, tiêu đề này sẽ định đoạt xem những giáo lý sắp nói có tác động gì trên dòng tâm thức của bạn hay không. Bạn sẽ khó mà chuyển lời giảng của tôi thành quán tưởng và thiền định, nếu bạn hiểu sai tiêu đề này, mà bạn tính nhầm ngày mồng một thì bạn sẽ sai tất cả mọi ngày khác.
    Ở điểm này có ba tiêu đề: (1) Cách lắng nghe các pháp; (2) Cách giảng dạy pháp; (3) Những gì mà thầy và môn đệ nên làm cùng nhau khi kết thúc.

    A. CÁCH NGHE PHÁP
    Ở đây lại có ba tiêu đề phụ: (a) Quán sát sự lợi lạc của việc học pháp; (b) Làm thế nào để chứng tỏ sự kính trọng đối với pháp và người giảng dạy; (c) Cách lắng nghe thực sự.
    1. Quán sát những lợi lạc của việc học Pháp.
    Ðiều quan yếu trước tiên là phải thấy những lợi lạc của việc học pháp, vì chỉ khi ấy bạn mới phát sinh ước muốn học pháp một cách mạnh mẽ. Nếu sự quán tưởng được làm một cách thích đáng, thì bạn sẽ vô cùng sung sướng khi khởi sự học pháp. Trong tác phẩm Những Lời Phật Dạy có nói:
    Nhờ học Pháp, mà bạn hiểu được pháp;
    Nhờ học Pháp, bạn chấm dứt gây tội;
    Nhờ học Pháp, bạn từ bỏ những cái vô nghĩa;
    Nhờ học Pháp, bạn đạt đến Niết bàn.
    Nói cách khác, nhờ sự học pháp mà bạn sẽ biết được tất cả những điểm then chốt để thay đổi kiểu hành xử của bạn. Bạn sẽ hiểu được ý nghĩa của tạng Luật và nhờ vậy bạn sẽ chấm dứt gây tội bằng cách tuân theo tăng thượng Giới học. Bạn sẽ hiểu được ý nghĩa của tạng Kinh, và kết quả là bạn từ bỏ những chuyện vô nghĩa như những giải trí tầm thường, bằng cách tu tập tăng thượng Ðịnh học. Và bạn sẽ hiểu được ý nghĩa của tạng Luận, nhờ vậy bạn từ bỏ những si mê bằng phương tiện tăng thượng Tuệ học. Do vậy sự học pháp của bạn sẽ giúp bạn đạt đến Niết bàn.
    Trong Bản sanh truyện có nói:
    Học là ngọn đèn
    Xua tan bóng đêm
    Là tài sản quý nhất
    Trộm không đoạt được.
    Là khí giới đánh bại kẻ thù -
    Sự ngu tối về mọi sự.
    Học là bạn tốt nhất
    Dạy cho bạn các phương tiện;
    Là một người quyến thuộc
    Không bỏ bạn khi bạn nghèo.
    Là phương thuốc giải sầu
    Không làm hại bạn.
    Là đạo quân công việc tốt
    Phái đi dẹp giặc tà hạnh
    Là vốn tối thượng của danh tiếng và vinh quang.
    Không gì quý hơn là có học
    Khi bạn gặp những người giỏi.
    Bạn sẽ cảm kích những học giả
    Trong bất cứ hội chúng nào.
    Sự học như ngọn đèn xua tan bóng tối vô minh.
    Bậc tôn sư của tôi dạy rằng, khi bạn biết dù một chữ trong mẫu tự là bạn cũng đã xua tan được sự tối tăm liên hệ đến nó. Bạn dã thêm một tí vào cái kho trí tuệ của mình. Cũng thế, khi biết thêm những mẫu tự khác, bạn cũng xua được sự ngu dốt với những mẫu tự này, và dồn thêm vào kho trí tuệ của bạn. Nếu không học chút gì, thì cả đến một chữ A chúng ta cũng không nhận ra được; dù chữ ấy có được viết lớn bằng cả đầu lừa, chúng ta cũng chỉ có nước lắc đầu kinh quái. Các bạn cứ tưởng tượng những người không biết tí chữ nghĩa nào, thì sẽ hiểu lời tôi.
    Bạn càng thêm sự học thì càng bớt được sự ngu dốt. Ánh sáng trí tuệ bạn tăng dần theo tỉ lệ học. Trong Những Lời của Phật chúng ta tìm thấy câu sau:
    Một người có thể rất quen thuộc với một ngôi nhà,
    Nhưng trong bóng tối nó sẽ không thấy gì
    Dù vẫn có đôi mắt
    Cũng vậy, đệ tử Phật không học
    Thì không phân biệt được tội và phúc
    Khi một người có mắt
    Ðem theo cây đèn
    Nó sẽ thấy được hình sắc
    Cũng vậy nhờ có học
    Người ta biết phân biệt phước và tội.
    Nói cách khác, bạn không thể thấy được gì trong một phòng tối om, mặc dù chung quanh bạn có rất nhiều vật và mặc dù mắt bạn mở thật lớn. Cũng tương tự, bạn có thể có con mắt tuệ nhưng không có ngọn đèn học, thì bạn sẽ không biết gì về những điểm cần yếu để thay đổi lối hành xử của bạn cho đúng. Nếu bạn thắp lên một ngọn đèn trong phòng tối, bạn có thể trông thấy mọi sự vật trong đó một cách rõ ràng; như vậy với con mắt tuệ và ngọn đèn học, bạn sẽ hiểu được tất cả hiện tượng.
    Tác phẩm Những Cấp Bực Bồ Tát của Vô Trước có đề cập chi tiết về những lợi lạc này, và nói người ta nên lắng nghe giáo lý với năm thái độ như thế nào. Thái độ thứ nhất là xem giáo lý như con mắt, nhờ con mắt ấy mà bạn phát triển trí tuệ. Rồi bạn xem giáo lý như ánh sáng, nhờ ánh sáng ấy mà con mắt tuệ này thấy được chân lý tương đối (tục đế) và tuyệt đối (chân đế). Bạn nên xem giáo lý như báu vật rất hiếm có trên đời. Xem giáo lý như một cái gì hết sức lợi lạc, nhờ đó mà bạn đạt được quả vị của những đại Bồ tát. Cuối cùng, bạn cũng xem giáo lý như một cái gì hoàn toàn rộng mở vì nó sẽ giúp bạn thành tựu được tâm tịnh chỉ và tuệ quán đặc biệt.
    Sự học của bạn cũng là tài sản tối thượng mà không ai đoạt của bạn được. Những kẻ trộm có thể mang đi những của cải thế gian của bạn, nhưng không thể lấy của bạn Thất Thánh Tài - bảy báu vật của những bậc thánh - nghĩa là sự học vân vân; cũng không thể cướp những đức đa văn, giới, bố thí, vân vân. Ngay cả vào thời vàng son nhất của bạn, những của cải thế tục cũng đem lại cho bạn nhiều cơn nhức đầu, chẳng hạn khi bạn trở về nơi bạn sinh ra, thì bạn đem những tài sản gì theo trong cuộc hành trình? Sự học của bạn thì không thế: bạn có thể đem theo ngay cả khi bạn chết. Bởi thế, điều quan trọng nhất là những tu sĩ khờ khạo chúng ta không nên ao ước những ấm pha trà kiểu cọ hay những bình đồng vân vân.; mà chúng ta nên khát khao bảy châu báu ngọc của bậc Thánh (thất thánh tài.)
    Sự học cũng là người bạn không bao giờ bỏ ta trong lúc hiểm nghèo. Những quyến thuộc thông thường chỉ làm bộ thân thiện với ta khi ta khá giả, còn khi ta gặp vận xui, họ giả vờ không nhận ra ta. Nhưng sự học thì lại là quyến thuộc tốt nhất, vì nó thật sự giúp bạn khi gặp lúc không may, khi bạn bị đau khổ, bệnh, chết v.v...
    Trước khi Tsechogling Rinpoche trở thành thầy giáo đạo cho một trong những vị Dalai Lamas, ông đã có một thời gian rất nghèo. Ông gặp một người chú giữa đường đang đi buôn bán. Ông hỏi người chú một điều gì đó nhưng ông ta giả vờ không nhận ra. Sau khi Rinpoche làm thầy giáo đạo cho đức Ðức Dalai Lama và trở thành một trong những vị có quyền hành cao nhất, thì người chú liền đến nhận bà con.
    Ngày xưa có một người xuất thân nghèo khó, nên không người nào nhận bà con với anh ta. Sau khi làm ăn buôn bán có được chút ít tiền, thì nhiều người đến nhận là có liên hệ máu mủ. Anh ta gọi họ đến đãi một bữa ăn. Anh đặt những đồng tiền trên bàn, quỳ trước những đồng tiền ấy và nói: “Một người không phải chú tôi cũng trở thành chú tôi. Ôi hỡi những đồng tiền khả ái, ta phải lạy các ngươi.” Nói cách khác đi, bạn không thể tin tưởng ngay cả bà con của bạn.
    Nếu ta muốn tìm những quyến thuộc bền lâu, thì tại sao không tìm sự học, sự tu thiền quán?
    Sự học cũng là một phương thuốc chữa bệnh mê lầm, và là một đạo quân chống lại bất thiện. Nó cũng là kho chứa danh xưng và vinh dự tốt nhất; phần thưởng tốt nhất ta có được từ những bậc thánh; là cách tốt nhất để được sự tôn trọng của những bậc hiền trí.
    Truyện Bản sanh cũng nói:
    Người nào có học sẽ phát triển đức tin;
    Sẽ kiên cố và hoan hỉ trong những điều thù thắng;
    Sẽ phát triển trí tuệ, không còn bóng tối ngu si.
    Dù phải cắt thịt mà bán để học cũng đáng.
    Nói cách khác, sự học có vô số điều tốt lành.
    Nhờ sự học, bạn sẽ phát sinh niềm tin vào những đức tính của Ba ngôi báu; bạn sẽ nỗ lực cúng dường chư Phật, vân vân. Lại nữa, vì tin ở định luật nghiệp báo, bạn sẽ vui vẻ thay đổi lối hành xử của mình, vân vân. Bạn sẽ bắt đầu hiểu ra những lỗi lầm của hai đế đầu (khổ và nguồn gốc của khổ), và những đức tính của hai khổ sau (sự chấm dứt khổ và con đường chấm dứt khổ). Như thế bạn luôn luôn hành động hướng về mục tiêu tối hậu là Phật quả.
    “Dù phải cắt thịt mà bán để học cũng đáng.” Thế mà bây giời các bạn được học trong tiện nghi, khỏi phải cắt xả thân thể, thì bạn nên nỗ lực học. Câu thơ trên được đặt vào miệng của bồ tát Chandra, một tiền thân Phật Thích Ca sau khi ngài đã tự đóng một ngàn cái đinh vào thân thể cho dòng kệ Ngài học được.
    Bạn càng chiêm nghiệm nhiều lần thì sự học càng sâu, càng thiền định nhiều thì càng mau phát triển tuệ quán; và bạn sẽ có được trí tuệ.
    Các tu sĩ trẻ tuổi cần phải học năm đề tài thảo luận khi học vào một trong những tu viện lớn. Có một sự khác biệt lớn lao giữa người có học và không học - ngay cả nhận thức của họ về Ba ngôi báu. Bạn có thể phải trông coi vài đứa trẻ. Nếu chính bạn ít học thì bạn không nên giáo dục chúng để lớn lên thành người như bạn. Hãy cho chúng học, rồi trong đời sau bạn cũng sẽ có được trí tuệ như chúng có được trong đời này. Những người liệt tuệ, già cả, vân vân, có thể muốn học những cổ thư vĩ đại, nhưng cái chết sẽ đến gián đoạn sự học của họ trong khi họ chưa ra khỏi được những gì tà giải. Bởi thế những người như vậy không thể nào hoàn tất một số lượng học hỏi lớn lao. Nhưng nếu học một pháp như Lam-rim, họ sẽ có được một vài hiểu biết về toàn bộ con đường. Có lần Tsongkapa đã báo mộng cho Panchen Lama là Lozang Choekyi Gyaeltsen rằng:
    Muốn tự lợi và lợi người,
    Thì đừng bao giờ thỏa mãn với sự học của ngươi.
    Hãy xem những vị bồ tát ở địa vị thứ ba:
    Họ luôn bất mãn với mức học hành của họ
    Các bạn cũng nên như vậy.
    Bất kể người ta suy nghĩ ở một mức độ thấp đến đâu, chắc chắn họ cũng có được một ít thời gian dành cho việc học - chẳng hạn học một bài giảng ngắn gọn về Lam-rim. Làm sao có thể không biết tìm cách thực hiện một việc học giản dị như thế? Làm sao họ có thể sống một cuộc đời quá ít phần Pháp như vậy? Làm sao họ có thể tuyên bố, “Chúng tôi không thuộc hạng mọt sách?” Tại sao, ngay cả ngựa, bò cái và cừu cũng biết làm thế nào để có được phần mình cho công bằng. Các bạn phải học theo trình độ tri thức riêng của mình. Nhưng bất kể bạn học cái gì, dù là một bản văn ngắn gọn hay một bản văn nhiều chi tiết, thì nó cũng phải chứa đựng toàn bộ các đề tài thiền quán, khởi đầu từ sự nương tựa một bậc hướng đạo sư và kết thúc bằng sự tịnh chỉ nhất tâm của bậc Vô học. Nếu một bản văn mà thiếu sót, thì nó sẽ không có toàn bộ các đề tài khác, nó cũng không bù được những thiếu sót ấy. Chuyện ấy cũng giống như trong phòng bạn có hàng trăm tấm thảm trải nền, nhưng lại không có áo quần để mặc; hoặc có hàng trăm bộ y phục mà lại không có thảm trải nhà. Nếu bản văn chỉ dẫn mà đầy đủ, thì nó sẽ dẫn bạn từng bước trên đạo lộ, bất kể nó có nhiều hay ít chi tiết - cũng như cái phòng của ông bộ trưởng và cái cốc của ông thầy tu đều phục vụ được mục đích riêng của mỗi người.

    2. Làm thế nào để tỏ sự kính Pháp và người giảng Pháp
    Kinh Kshitagarbha (Ðịa Tạng?) nói:
    Hãy nghe pháp với niềm kính tín.
    Ðừng nhạo báng chê bai những người giảng;
    Hãy cúng dường những vị giảng Pháp.
    Xem họ như những người ngang hàng với Phật.
    Bạn phải kính lễ những bậc thầy giảng dạy Pháp mỗi khi nghe giáo lý của họ cũng như kính lễ đức Phật đấng đạo sư của chúng ta.
    Tác phẩm Các Ðịa Vị Bồ Tát của Vô Trước nói ta phải lắng nghe không vọng tưởng, tâm không bị tán loạn vì năm sự sẽ được giải thích dưới đây. Ta cũng phải tẩy tâm khỏi phải thói kiêu mạn. Lại có sáu điều cần có khi bạn nghe pháp: (1) thời gian thích hợp; (2) lễ độ; (3) sự tôn trọng; (4) không sân; (5) thực hành giáo lý nghe được; (6) không tìm lỗi trong giáo lý.
    Hãy nói yếu tố đầu tiên:
    - Thời gian thích hợp.
    Vị thầy chỉ nên cho một buổi giảng dạy nếu khi ông cảm thấy sung sướng khi làm việc ấy, nếu ông không bận những việc khác, v.v... Bởi thế, bạn không được yêu cầu thầy giảng hay chỉ nghe giảng lúc nào thuận tiện cho mình, vì điều ấy sẽ chứng tỏ bạn quá tự phụ và ích kỷ. Tiến sĩ Potowa có lần ở tại tu viện Kakag ở cao nguyên tỉnh Trung ương, đang in ấn nhiều kinh sách và rất bực dọc. Có một người đến xin ông ta dạy giáo lý. Ông đứng lên giận dữ đuổi người ấy đi. Người kia vội vàng rút lui. Ðiều này chứng tỏ bạn cần phải thiện xảo về phương diện thời tiết giờ giấc.
    - Người ta chứng tỏ sự lễ độ bằng cách sụp lạy và đứng lên khi có mặt bậc thầy.
    - Tỏ dấu tôn trọng bằng cách rửa tay chân cho thầy.
    - “Không sân” là không đổ quạu khi thầy sai bảo làm việc gì.
    - “Tìm lỗi” nghĩa là phàn nàn. Cũng có nghĩa là khinh bỉ pháp và người dạy, một hành vi do vọng tưởng mê si.
    Người học cũng không nên chú ý năm sự vào nơi vị thầy: thiếu đạo đức, thuộc giai cấp hạ tiện, y phục tồi, nói dỡ hoặc không hay, và xử dụng ngôn ngữ thô tháo. Phải từ bỏ mọi ý niệm coi năm sự ấy là như là những lỗi lầm.

    3. Cách nghe pháp thực thụ
    Có hai phần: (1) từ bỏ những lỗi lầm khiến bạn thành một bình chứa xứng đáng; (2) đào luyện sáu thái độ tốt.
    a. Từ bỏ những lỗi lầm khiến bạn thành một bình chứa xứng đáng
    Ba lỗi ấy là (1) giống như một đồ chứa bị lật úp; (2) giống như một đồ chứa hôi hám; (3) giống như một đồ chứa mà đáy bị rò rỉ.
    Lỗi đồ chứa bị lật úp
    Nếu một cái bình bị lật úp, thì dù có đổ vào đấy bao nhiêu chất uống bổ dưỡng cũng không có một giọt nào vào được bên trong. Bạn có thể ngồi trong hàng thính chúng để nghe pháp, nhưng bạn sẽ không hiểu được chút gì nếu tâm bạn bị phân tán và bạn không để vào lỗ tai những gì đang được nói. Như thế thì đi nghe giảng cũng như không. Bạn phải lắng nghe như một con nai - một sinh vật bị lôi cuốn nhiều bởi âm thanh. Bạn phải đặt hết sự chú ý vào lời giảng dạy. “Ðặt hết sự chú ý” có nghĩa không phải là chỉ để một nữa tâm nghe pháp còn nữa tâm kia lang thang. Có nghĩa là bạn phải theo dõi sự giảng dạy một cách sát nút. Bạn phải làm như con nai bị sự thu hút bởi âm thanh tiếng sáo mà bị người thợ săn bắn trúng nó một cách dễ dàng.
    Lỗi như đồ chứa hôi hám
    Một đồ chứa có thể không bị lật úp, song nếu nó chứa độc dược thì bất cứ gì đổ vào đấy cũng không thể dùng được, mặc dù lúc đầu nó còn tốt lành. Lỗ tai các bạn có thể thu vào mọi sự, nhưng người thì có thể bị thúc đẩy bởi ý muốn tăng thêm sự hiểu biết, người thì muốn lặp lại những gì đã nghe cho người khác, v.v... Nghe vì muốn đạt đến sự bình an cho riêng bạn là một động lực khá lớn hơn những động lực nói trên, song nó vẫn bị xem là có lỗi, giống như đồ chứa hôi hám. Bởi thế bạn phải lắng nghe với tối thiểu là một tâm bồ đề gượng gạo làm động lực.
    Lỗi như đồ chứa bị rò rỉ
    Một bình chứa có thể là không lật úp cũng không hôi hám, song nếu cái đáy bị rò rỉ thì nó không thể chứa được chút nước nào, dù có đổ vào nhiều nước bao nhiêu cũng vậy. Tại bạn có thể thu vào mọi sự, bạn có thể có động lực không lỗi lầm, song nếu bạn không nghe cho thật kỹ thì bạn sẽ quên hết mọi sự ngay sau đó. Thật là khó có thể dùng biện pháp nào cho khỏi quên một bài giảng, bởi thế ta phải dùng một cái gì để giúp trí nhớ, như quyển sách hay một loạt những tiêu đề, chẳng hạn. Ta phải thường xuyên xem lại tài liệu và nghĩ “Ðoạn này giáo lý đã dạy những gì?” Quan trọng hơn nữa, cần phải họp những bạn đồng học mà ôn lại những gì đã nghe.
    Về việc từ bỏ ba lỗi này của đồ chứa, trong một bản kinh Ðức Thế Tôn nhấn mạnh: “Hãy nghe kỹ, nghe cho khéo, và để vào trong tâm.” “Nghe kỹ” ám chỉ từ bỏ lỗi của đồ chứa hôi hám; “nghe cho khéo” từ bỏ đồ chứa bị lật úp; “để vào trong tâm” từ bỏ lỗi của đồ chứa bị rò rỉ ở đáy.
    Vậy, đấy là cách nghe Pháp.
    b. Ðào luyện sáu thái độ tốt.
    Ðó là: (1) thái độ xem mình là con bệnh; (2) thái độ xem Pháp là thuốc; (3) thái độ xem bậc thầy hướng đạo là lương y; (4) thái độ xem việc thực hành pháp giống như chữa bệnh; (5) thái độ xem bậc hướng đạo tâm linh là một bậc thánh thiện như chư Pháp. (6) thái độ mong cho Pháp sẽ tồn tại lâu dài.
    Gia Đình Vô Hình

  16. #16

    Mặc định

    Khởi tâm xem mình là con bệnh
    Cần nhất là phải có thái độ xem mình như bệnh nhân, thì tự nhiên sẽ phát sinh những thái độ kế tiếp. Quán tưởng mình là bệnh nhân có vẻ như là chuyện ngược đời trong khi ta không đau ốm gì cả, nhưng ở đây là muốn nói chúng ta đang bị cái bệnh si mê lầm lạc. Geshe Kamaba nói, một người không đau ốm mà quán tưởng mình bệnh thật là điên, nhưng kỳ thật chúng ta đã nhiễm phải chứng bệnh có ba độc tố (tham, sân, si) trầm trọng kinh niên mặc dù ta không biết đến.
    Chúng ta có thể ngạc nhiên hỏi: “Làm sao có thể tôi bị bệnh mà tôi không biết?” Nhưng khi bạn lên cơn sốt cao, bạn có thể nói nhảm, ca hát vân vân, mà vẫn không cảm thấy đau đớn gì. Vậy chúng ta cũng đang bệnh trầm trọng với những vọng tưởng mê lầm mà ta không biết.
    Bạn cũng có thể hỏi: “Nếu tôi có bệnh, thì tôi phải có những cơn đau nhức khó chịu chứ? Nhưng tôi không đau nhức gì cả.” Kỳ thực thỉnh thoảng bạn có những cơn đau nhức do ba độc tố gây nên. Bạn hỏi, thế là thế nào? Thì đây, ví dụ bạn ra chợ trông thấy một món hàng hấp dẫn bạn song bạn không có tiền để mua. Khi về nhà, bạn hết sức đau khổ không biết làm thế nào đẻ có được món ấy. Ðấy là cơn đau nhức tham luyến. Khi bạn cảm thấy, nghe hay nhớ một chuyện gì khó chịu, - ví dụ một lời nhận xét châm chích - bạn cảm thấy đau khổ không chịu nổi. Ðây là một điển hình của cơn đau nhức do sân hận. Hãy quan sát phần này một cách chi tiết, đi sâu vào thói kiêu mạn, ganh tị, vân vân. Những si mê vọng tưởng là những chứng bệnh kinh niên trầm trọng, đau đớn, khó kham nhẫn.
    Bởi thế, bạn đã mắc phải nhiều chứng bệnh: bệnh tham, bệnh thù hận, bệnh ganh ghét, vân vân. Bạn hết sức cẩn thận để khỏi mắc phải một chứng bệnh thông thường, thế mà những si mê vọng tưởng đủ thứ ấy không làm cho bạn lo lắng mãy may. Shantideva nói trong tác phẩm Hành hạnh Bồ tát rằng:
    Khi bạn bị một bệnh thông thường,
    Bạn còn phải vâng lời thầy thuốc
    Nói gì đến bệnh nguy hiểm hơn trăm lần
    Mà bạn luôn luôn mắc phải, như bệnh tham?
    Chúng ta hết sức lo sợ khi bị một cơn bệnh kéo dài hai ba tháng chưa khỏi. Nhưng chứng bệnh si mê thì chúng ta đã mắc phải từ vô thỉ luân hồi cho đến ngày nay. Chúng ta không thể nào khỏi bệnh nếu ta chưa giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Như Geshe Potowa nói: “Người bệnh không bao giờ khỏe mạnh, người lữ hành không bao giờ đến đích...” Câu này diễn tả thân phận chúng ta một cách tuyệt hảo.
    Khởi tâm xem diệu pháp như thuốc
    Khi bệnh nhân nhận ra mình bị bệnh, thì họ cần tìm thứ thuốc cho đúng bệnh. Vị thuốc duy nhất sẽ làm lắng dịu cơn bệnh si mê chính là diệu pháp của Phật, đây là món thuốc mà bạn phải tìm kiếm.
    Khởi tâm xem vị hướng đạo tâm linh của mình như lương y
    Khi đau ốm mà không có bác sĩ, bạn uống đại vài thứ thuốc, thì bạn có thể lầm lẫn về tình trạng bệnh của mình, - chẳng hạn nó thuộc nhiệt bệnh hay hàn bệnh - và không biết nó đã đến giai đoạn nào. Thứ thuốc bạn dùng có thể không ích gì mà còn nguy hiểm đến tánh mạng. Vậy đương nhiên là bạn rất cần nương tựa vào một vị lương y. Có thể bạn không cần nương tựa vào một vị hướng đạo tâm linh, mà nghỉ rằng: “Xem sách mà tu là đủ rồi.” Nhưng bạn sẽ không phát triển được một thực chứng hay tuệ giác nào chỉ nhờ đọc tụng, thiền quán, vân vân. Dòng tâm thức của bạn sẽ càng ngày càng ăn sâu vào những tập quán của chính nó. Vậy, khi bạn quyết định thực hành Pháp, thì phải nghiêm túc nương tựa vào một bậc hướng đạo sư như nương tựa vào một y sĩ. Khi bị bệnh bạn rất sung sướng gặp thầy thuốc giỏi. Bạn sẽ lắng nghe những gì lương y bảo bạn; và vì lòng kính trọng, bạn đối xử với y sĩ ấy rất lễ độ. Bạn cũng phải có thái độ tương tự như thế, khi bạn tìm ra một hướng đạo tâm linh. Trong tác phẩm Tóm Tắt Những Ðức Tính Quý Báu có nói:
    Như vậy, những người trí khát khao đạt giác ngộ
    Thì hay nên hoàn toàn chế ngự thói kiêu mạn của mình
    Cũng như những con bệnh muốn khỏi bệnh
    Phải tùy thuận thầy thuốc, người tìm đạo
    Phải kiên trì nương tựa vào một vị hướng đạo tâm linh.
    Khởi tâm nghĩ chuyện cần thực tập sẽ chữa khỏi bệnh
    Thuốc là cái giúp con bệnh, nhưng có khi bạn không theo lời thầy thuốc, thay vì uống thuốc thầy dặn thì bạn lại để nó một bên giường. Nếu bạn không khỏi bệnh thì không thể trách thầy thuốc, vì bạn chưa hề dùng thuốc.
    Vị hướng đạo tâm linh giống như một lương y, nhưng nếu sau khi nghe thật nhiều lời chỉ giáo - giống như thuốc để chữa bệnh si mê- mà bạn không thực hành thì cũng không có lợi gì cho dòng tâm thức bạn, dù lời chỉ giáo ấy hay ho đến đâu đi nữa. Bạn không nên chê bậc đạo sư, chê Pháp. Lỗi là ở nơi chính bạn. Kinh Tam Muội Vương có nói:
    Sau khi kiên trì tìm kiếm, con bệnh đã tìm được
    Một thầy thuốc thông minh tài giỏi.
    Vị này thương xót nhìn bệnh nhân mà nói:
    “Hãy uống cái này,” và ông cho thuốc.
    Nhưng con bệnh không uống thuốc quý báu có thể chữa lành ấy.
    Ðừng trách lương y;
    Thuốc cũng không có lỗi
    (nếu bệnh không lành.)
    Cũng thế, với những người đã thụ giới trong Giáo pháp này.
    Họ có thể biết đầy đủ Mười sức mạnh, các tầng thiền định, mười khả năng.
    Nhưng vẫn không nỗ lực để thiền quán
    Thì làm sao đạt được Niết bàn?
    Ta đã dạy các ngài diệu pháp
    Nếu ngươi không áp dụng tốt những gì đã học
    Thì cũng như con bệnh cứ để thuốc trong tủ
    Và nghĩ rằng: “Thuốc này không thể chữa bệnh tôi.”
    Shantideva nói trong tác phẩm Hành bồ tát Hạnh như sau:
    Hãy xử dụng thuốc bằng cách uống vào thân thể bạn
    Danh từ không mà thôi thì chẳng làm được cái gì.
    Thử hỏi người bệnh làm sao khỏi bệnh
    Chi bằng cách đọc cái toa thuốc?
    Bởi thế, bạn có thuốc chưa đủ, muốn khỏi bệnh bạn phải uống nó một cách thích đáng, và theo chỉ dẫn của y sĩ. Bạn phải áp dụng sự hiểu biết của bạn ý nghĩa của lời dạy khẩu truyền trong việc chữa bệnh vô minh, và áp dụng những lời dạy ấy vào thực hành. Trong tác phẩm của Tsongkapa Những Giai Ðoạn Ðoạn Chính của Ðạo Lộ chúng ta tìm thấy câu sau:
    Nhờ học mà có hiểu; nhưng hiểu rồi thì phải thực hành. Bởi thế điều thiết yếu là hãy áp dụng những gì ta đã học, càng nhiều càng tốt.
    Kinh Khuyên Hành Hạnh Vị Tha nói như sau về những người có thói quen nhận thật nhiều lời dạy và quán đảnh nhưng không thực hành gì cả:
    Vỏ cây mía không có nước
    Vị ngọt cây mía nằm bên trong.
    Người nhai vỏ mía
    Thì không tìm được vị mía
    Chỉ nói suông giống như vỏ mía
    Suy tư ý nghĩa mới là vị ngọt.
    Nói cách khác đi, những người ấy giống người ăn mía mà chi nhai vỏ thì không biết gì mùi vị cây mía.
    Họ cũng như người đi xem tuồng
    Như người ca tụng những diễn viên
    Họ đã mất cái cốt yếu
    Ðấy là những nguy hiểm
    Của sự chuyên ký danh ngôn.
    Lại nữa, họ cũng như người bắt chước những diễn viên trên sân khấu. Bạn không nên tu tập bằng chỉ có học mà thôi; bạn cần phải áp dụng những gì đã học vào thực hành., họ cũng như người bắt chước những diễn viên trên sân khấu. Bạn không nên tu tập bằng chỉ có học mà thôi; bạn cần phải áp dụng những gì đã học vào thực hành. Nếu không thế thì sự học Pháp càng làm cho bạn thêm khó trị chứ chẳng ích gì. Học nhiều mà không hành được gọi là “nguyên nhân để trở thành vô bổ đối với Pháp.” Lúc đầu mới học, thiền định dường như ít lợi lạc gì cho tâm thức. Nhưng sự học sẽ không có ảnh hưởng gì nếu sau đó bạn không suy tư thiền quán về những gì đã học. Cuối cùng bạn sẽ sinh bệnh về những giáo lý, dù cho phần truyền khẩu đặc biệt của giáo lý có sâu xa đến đâu. Như thế là việc học của bạn không có chút lợi lạc nào cho dòng tâm thức bạn. Bạn trở nên “lờn Pháp,” Pháp không có hiệu nghiệm gì đối với bạn. Bậc thầy Vararuchi nói trong tác phẩm Một Trăm Bài Kệ rằng:
    Vị tỷ kheo đã cởi áo tu
    Người phụ nữ đã bỏ ba đời chồng
    Kẻ du côn vừa thoát bẩy -
    Ba hạng người đó thì phải biết khôn lanh!
    Phái Kadampa xưa có câu:
    Pháp có thể làm cho kẻ tội lỗi quy phục
    Nhưng không thể lay chuyển kẻ lờn Pháp.
    Dầu có thể làm mềm một tấm da thú
    Nhưng không làm nao núng chỗ da đã chai.
    Nói cách khác, đấy là điều tệ hại nhất có thể xảy ra đến người học thật nhiều (về Lam-rim) mà không thực hành. những người đã học các giáo lý khác mà không ăn thua gì, có thể được nhiếp phục nhờ pháp Lam-rim. Nhưng nếu họ chai lì đối với pháp Lam-rim, thì họ hết phương cứu chữa. Bởi thế các bạn phải ý thức điều này.
    Hãy học những gì bạn sẽ thực hành, và hãy liên kết những gì bạn học vào với dòng tâm thức bạn. Dromtoenpa, ông vua về Pháp, đã nói như sau về sự phối hợp học, chiêm nghiệm và thiền quán:
    Càng học, tôi càng chiêm nghiệm về thiền quán.
    Càng chiêm nghiệm, tôi càng tăng sự học và thiền.
    Càng thiền quán, tôi càng tăng sự học và chiêm nghiệm.
    Từ một căn bản, tôi tăng cả ba,
    Như vậy tôi biết cách xem Pháp là con đường tu tập của mình.
    Tôi một hành giả Kadampa không làm việc nửa vời
    Người mang đai da lớn thường bị lầm
    Ai hiểu rõ điều này mới đúng hành giả Kadampa.
    Nếu những người cùi với tay chân dị dạng chỉ uống thuốc một hai lần, thì tình trạng của họ sẽ không thay đổi; họ càng phải uống thuốc thật mạnh trải qua một thời gian dài. Từ vô thỉ chúng ta đã nhiễm chứng bệnh vô minh trầm kha độc hại, cho nên thật không thấm vào đâu nếu chúng ta chỉ thực hành ý nghĩa của lời chỉ giáo một hai lần mà thôi. Chúng ta phải làm việc với những giáo lý ấy một cách nghiêm túc và kiên trì như giòng nước chảy. Bậc thầy Chandragomin nói:
    Tâm ta đã luôn luôn bị mù quáng
    Bởi căn bệnh kinh niên kéo dài;
    Làm sao một bệnh cùi đã co quắp chân tay
    Có thể thấm thuốc chút nào
    Nếu nó chỉ uống một hai lần rồi bỏ.
    Ta cần phải thực hành ngay những gì đã học, như Geshe Chaen Ngawa. Ngài đang đọc một chương Luật tạng nói về da thuộc và da sống; và thấy rằng luật cấm một tỷ kheo đã thọ giới không được dùng da thú. Tình cờ lúc ấy ngài đang ngồi trên một tấm da thú. Ngài lập tức bỏ nó ra. Rồi khi đọc tiếp ngài thấy luật này có thể “khai” tại các xứ xa xôi (biên địa), ở đấy các vị tỷ kheo được phép sử dụng da thú. Khi ấy ngài mới lấy lại tấm da để trải ngồi.
    Khởi tâm nghĩ tưởng thầy mình như Phật
    Con người đầu tiên giảng dạy Pháp cho chúng ta là Ðức Phật, đấng Ðạo sư đã khai thị con đường và kết quả của sự đi trên con đường ấy. Ngài đã giảng dạy một cách thích đáng, dạy cho ta thay đổi lối hành xử của mình. Giáo lý ấy thuần tịnh không chút lầm lỗi. Như thế, Ngài là người có thẩm quyền về Pháp. Vậy nên mỗi khi nhớ lại sự kiện này về Ðức Phật, ta phải nghĩ, “Làm sao sự giảng dạy của Ngài về Pháp có thể lầm lẫn được?” đi xa hơn ta có thể nói rằng một bậc thánh giảng dạy theo đúng truyền thống ấy cũng chính là một vị Phật. Khi ấy ta nên nghĩ rằng: “Thầy ta, người thánh thiện này, chính là một hóa thân của Ðức Thích Ca Như Lai.”
    Khởi tâm mong cho truyền thống pháp này tồn tại dài lâu
    Sau khi nghe pháp, cần phải có thái độ mong mỏi như sau: “Thật kỳ diệu thay nếu nền giáo lý của Ðấng Chiến thắng sẽ tồn tại dài trên thế gian này!”
    Năm thái độ đầu là để nhớ tưởng lòng từ bi của Ðức Như Lai. Thái độ thứ sáu cuối cùng là để báo đền ân đức ấy.
    Lắng nghe diệu pháp là điều cốt tủy. Lý do đi nghe Pháp là để gây một áp lực tác động trên dòng tâm thức bạn, nếu tâm bạn vẫn ù lì như cũ. Nhưng nếu sau khi nghe giáo lý mà bạn vẫn không thay đổi chút nào, thì quả giáo lý ấy không tuyệt đối không có ích lợi gì cho bạn, dù sự giảng dạy thật thâm thúy sâu xa, và bạn đã nghe rất chăm chú. Hãy lấy ví dụ: Bạn phải nhìn vào gương để thấy mặt mình có sạch hay không, rồi mới có thể tẩy hết vết dơ mà bạn thấy trên mặt. Bạn xét dòng tâm thức của bạn trong tấm gương Pháp, lắng nghe Pháp xem Pháp ấy nói tâm bạn có những khuyết điểm gì. Nếu bạn tìm thấy khuyết điểm nào, bạn cảm thấy buồn bã nghĩ: “Tâm ta đến thế rồi sao?” Và khi ấy bạn sẽ cố tìm mọi cách có thể, để tẩy trừ những khuyết điểm. Bản Sanh Truyện nói:
    Gia Đình Vô Hình

  17. #17

    Mặc định

    Khi thấy được những hành vi xấu ác của tôi
    Một cách rõ ràng trong tấm gương Pháp
    Tâm tôi bị ray rứt vô cùng.
    Bây giờ tôi xin quay về với Pháp.
    Sudàsaputra đã nói với thái tử Chandra như trên. Câu chuyện về thái tử là tấm gương cho tất cả chúng ta.
    Khi Ðức Thế Tôn còn ở trên đạo lộ của bậc Hữu học, Ngài tái sanh làm bồ tát là thái tử Chandra. Có một người tên Sudàsaputra chuyên môn giết người để ăn thịt. Một ngày kia, thái tử đi vào rừng, gặp một người bà la môn đa văn tiến lại. Khi thái tử đang thọ giáo một bài pháp với người này, thì bổng họ nghe một tiếng động lớn. Những người hầu được phái đi xem có chuyện gì xảy ra, và họ biết Sudàsaputra đang tiến lại.
    Những cận vệ của thái tử nói: “Sudàsaputra ăn thịt người. Y là một kẻ đáng sợ; quân đội chúng ta đã rút lui mặc dù có nhiều ngựa, voi và xe. Bây giờ chúng ta phải làm sao? Ðã đến lúc ta phải đối đầu với tên ấy.”
    Ý nghĩ ấy làm cho thái tử thích thú, nên mặc những lời năn nỉ của vợ con quyến thuộc, ngài vẫn tiến đến nơi có cuộc náo loạn xảy ra. Thái tử thấy Sudàsaputra đang lồng lộng rượt theo đạo quân nhà vua, gươm và mộc dơ cao. Nhưng thái tử không ngần ngại sợ hãi, ngài nói: “Tôi là thái tử Chandra. Hãy đến với tôi.”
    Sudàsaputra vừa chạy lại phía thái tử vừa nói: “ Ngươi chính là người mà ta đang cần!” tên ăn thịt người vác thái tử lên vai mà chạy về sào huyệt của y. Nơi ấy đầy những bộ xương người; máu loang đỏ đất, không gian đầy những tiếng kêu ghê rợn của những loài cầm thú ăn thịt hung hãn như chồn, chim thứu, và chim quạ. Sào huyệt thì đen thui vì khói của những thây bị nướng. Sudàsaputra đặt thái tử xuống để nghỉ. Mắt y không rời tấm thân xinh đẹp của ngài.
    Thái tử nghĩ, “Ta chưa có dịp cúng dường cho vị bà la môn đa văn ấy về bài pháp mà ta đã nghe được trong khu rừng.” Ý nghĩ ấy làm cho thái tử khóc.
    Sudàsaputra bảo: “Nín đi, Ngươi, thái tử Chandra, vốn nổi tiếng gan dạ. Thế thì thật lạ bây giờ ngươi phải khóc khi rơi vào tay ta. Người ta bảo rằng gan dạ cũng vô ích khi trải qua sự đau khổ; sự học không giúp ích gì khi đau đớn. Ai bị đòn cũng phải co rúm lại. Bây giờ ta mới thấy lời nói này quả thật không sai. Hãy nói thật đi, có phải ngươi sợ vì ta sắp giết ngươi không? Có phải ngươi sợ phải xa lìa những bạn bè thân quyến vợ con cha mẹ không? Nói thật đi, tại sao ngài khóc?
    Thái tử trả lời: “Tôi đang thọ giáo với một bà la môn mà chưa thể cúng dường ông ta được. Hãy để cho tôi đến cúng dường ông ấy chút gì, rồi tôi nhất định trở lại đây với ông.”
    Sudàsaputra nói: “Chuyện đó không thể có được, dù ngươi nói gì đi nữa. Sau khi đã thoát khỏi hàm thần chết, ai còn dại gì trở lại nạp mạng?”
    “Tôi đã hứa sẽ trở lại mà? Tôi là thái tử Chandra, tôi tôn trọng sự thật như chính bản thân của tôi.”
    “Ta không tin ngươi đâu, nhưng ta sẳn sàng làm thí nghiệm. Thôi ngươi hãy trở về đi, rồi ta sẽ xem ngươi có tôn trọng lời hứa thật không. Hãy đi về hoàn tất những công chuyện gì của ngươi với lão bà la môn ấy đi, rồi mau trở lại đây. Ta sẽ nhóm lữa sẳn chờ để quay thịt nhà ngươi.”
    Thái tử trở về nhà đem bốn ngàn vàng đem tặng người bà la môn để trả cho ông ta bốn câu kệ ông đã đọc. Thân phụ thái tử tìm hết cách ngăn cản, nhưng vô hiệu; thái tử vẫn đi đến sào huyệt của tên ăn thịt người.
    Thái tử nói: “Ông có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy tôi đi từ xa. Nào bây giờ ông có thể ăn thịt tôi đi.”
    Sudàsaputra nói: “Ta biết đã đến lúc ăn thịt nhà ngươi. Nhưng ngọn lửa hãy còn nhiều khói, nếu nướng nhà ngươi bây giờ thì hôi khói lắm, chẳng còn mùi vị gì. Vậy trong lúc chờ đợi, hãy nói ta nghe người bà la môn đã nói cái gì mà nhà ngươi quý giá đến thế? Ta muốn thái tử hãy nói lại cho ta nghe với.”
    Thái tử nói: “Người bà la môn hùng biện đã nói làm cách nào để phân biệt pháp với phi pháp. Nhưng lối hành xử của ông còn tệ hơn là quỷ ăn thịt người. Sự học có ích lợi gì cho ông đâu?”
    Sudàsaputra không chịu nổi lời nhận xét ấy. “Im đi! Bọn vua chúa các ngươi cũng dùng khí giới giết hại thú vật chớ bộ. Ðiều này dĩ nhiên cũng trái với chánh pháp.”
    Thái tử trả lời: “những ông vua giết thú vật là trái với chánh pháp; nhưng ăn thịt người lại càng tệ hơn. Con người quý hơn muôn vật. Và nếu ăn xác người chết cái chết tự nhiên đã là sai quấy, thì làm sao việc giết người để ăn thịt đã là đúng pháp được?”
    Khi ấy Sudàsaputra nói: “Bạn đã không học được gì từ nơi kinh điển khi bạn trở lại tôi.”
    “Tôi đã trở lại vì lời hứa, như vậy tôi đã học nhiều từ kinh điển.”
    “Những người khác khi rơi vào nanh vuốt của tôi đều rất sợ hãi; nhưng bạn đã tỏ ra thật anh hùng. Bạn không mất bình tĩnh cũng không sợ chết.”
    Thái tử nói: “Những người ấy tràn trề hối hận vì họ đã phạm tội. Nhưng tôi đã không nhớ đã làm gì quấy, nên tôi không sợ. Tôi đến nạp mình cho ngài, cứ ăn thịt tôi đi.”
    Lúc ấy kẻ ăn thịt người đã phát sinh tịnh tín đối với thái tử. Mắt y đẩm lệ và lông tóc dựng ngược, y sợ hãi nhìn thái tử và thú hết tội lỗi của mình. Y nói: “Cố ý xúc phạm một người như ngài thì chẳng khác nào như uống độc dược mạnh. Xin ngài hãy dạy cho tôi những gì như người bà la môn đã dạy ngài.” Y cũng thốt lên bài kệ đã trích dân ở trên:
    Khi thấy được những hành vi xấu ác của tôi
    Một cách rõ ràng trong tấm gương Pháp
    Tâm tôi bị ray rứt vô cùng.
    Bây giờ tôi xin quay về với Pháp.
    Thái tử Chandra thấy kẻ ăn thịt người đã trở thành một pháp khí thích hợp để chứa đựng chánh pháp, nên bảo y:
    Hãy uống những giọt cam lồ chánh pháp
    Trong khi ngồi trên một chiếc ghế thấp
    Cung cách ngươi đã được đìều phục một cách kỳ diệu
    Mắt ngươi chiếu sáng niềm vui
    Hãy phát sinh niềm tôn kính,,
    Nhất tâm lắng nghe những lời này
    Như một con bệnh chú tâm lắng nghe thầy thuốc.
    Và hãy rút ra từ lời dạy nguồn cảm hứng vô cấu
    Hãy lắng nghe với niềm cung kính Pháp.
    Khi ấy Sudàsaputra cởi chiếc áo choàng trải ra trên tảng đá để mời thái tử ngồi, đoạn ông ngồi trước mặt thái tử thưa: “Hỡi người thánh thiện, xin giảng dạy cho tôi.”
    Thái tử Chandra bắt đầu:
    Dù có bao nhiêu tham dục,
    Bạn chỉ cần gặp bậc thánh một lần.
    Không cần quen biết vị ấy lâu ngày
    Ðiều ấy vẫn làm cho tâm bạn kiên cố.
    Vân vân. Bằng sự giảng Pháp, thái tử đã làm cho tâm của Sudàsaputra được điều phục. Ðể đền ơn, Sudàsaputra hiến tặng cho thái tử chín mươi mốt ông vua mà y đã bắt càm tù để ăn thịt. Y phát nguyện hành trì chánh hạnh và từ đấy trở đi sẽ từ bỏ sát sanh và ăn thịt người.
    Bởi thế, khi nghe pháp, bạn luôn luôn phải thăm dò tâm mình. Nếu làm thế tâm thức bạn sẽ được điều phục, dù một tâm thức hoang dã như Sudàsaputra. Nhưng nếu trong lúc nghe pháp mà tâm bạn vẫn trơ lì bất động, thì bạn sẽ không rút được lợi lạc nào, dù bậc thầy có giỏi bao nhiêu, dù lời chỉ giáo có sâu xa cách mấy
    Trong khi nghe Pháp có nhiều người tự hỏi: “Cái gì ông thầy nói mà ta chưa biết, chưa học?” Nghe pháp kiểu đó thì không có lợi gì cả.
    Một số người lại chỉ chú ý đến những mẫu chuyện lý thú, và không xem trọng, những lời chỉ giáo sâu xa. Ví dụ như sau. Khi Kaelzang Gyatso, vị Ðức Dalai Lama thứ bảy thuyết giảng về Lam-rim, người ta nghe có một người nhận xét: “Hôm nay mình biết thêm một tin tức mới. Ðức Ðức Dalai Lama kể cho chúng ta nghe rằng cái pháo đài ở quận Paenpo còn có tên là pháo đài Mayi Cha.”
    Lại có những người vừa nghe pháp vừa kiểm chứng xem những lời giảng của vị thầy có hợp với kinh hay không. Lama Tsechogling Rinpoche, một thầy giáo đạo cho một trong những vì Ðức Dalai Lama, đã nói: “Ngày nay các đệ tử dường như muốn kiểm chứng sự chính xác của vị thầy. Nghe pháp kiểu đó thì không bao giờ được cái gì cả. Ðiều quan trọng nhất là bạn phải thăm dò tâm bạn trong khi nghe pháp. Khi những bậc thầy giảng pháp, thì họ không quan tâm chuyện có lầm lỗi gì hay không, mà giảng pháp cốt yếu là một phương tiện để điều phục tâm ý của đệ tử.
    Người đệ tử không nên nghe pháp bằng những cách như trên, bất cứ gì vị thầy nói đều phải xem như một thử thách đối với mình mới được. Hãy nghe pháp chỉ chỉ cốt để điều phục tâm ý bạn. Nếu làm thế, bạn sẽ phát triển được những thực chứng đầu tiên ngay trong buổi giảng. Ðây là một điều không xảy ra khi vị thầy đến thăm trú xứ bạn và bạn dâng cho thầy một tách trà, dù cho vị ấy là một lạt ma thuyết giảng từ một pháp tòa thật cao. Dù bạn nghiên cứu một mình những gì bạn học cũng sẽ không có ảnh hưởng lớn bằng khi nghe giáo lý.
    Bất cứ gì Geshe Potowa giảng dạy cũng làm cho những người nghe được lợi lạc, dù là ngài chỉ nói chuyện về chim chóc. Cũng có một học giả vĩ đại khác tên là Geshe Choekyi Oezer, nhưng giảng dạy của ngài không lợi lạc cho tâm người nghe, mặc dù rất sâu rộng. Có người nói lại điều này cho Potowa nghe. Ngài nói: “Tất cả những lời giảng dạy của ngài đều tuyệt hảo, nhưng có sự khác biệt giữa hai lối giảng.” Người ta xin ngài giải thích khác nhau chỗ nào, Potowa nói: “Ngài ấy giảng dạy để thông tin những sự kiện, còn tất cả pháp tôi nói đều hướng về nội tâm. Ðó là sự khác nhau.”
    Tiến sĩ Choekyi nghe thế liền đến xin thọ giáo với ngài. Những lời dạy của ngài đã chứng tỏ rất lợi lạc cho vị này mặc dù không một điều gì ngài nói mà vị học giả chưa biết đến. Về sau ông bảo: “Tôi hiểu được những điều gì mà trước đây tôi chưa từng hiểu.”
    Chúng ta nên làm như Geshe Dromtoenpa nói:
    “Tôi sẽ nói những bậc đạo sư trong Ðại thừa có nghĩa gì. Họ đem lại cho người nghe nhiều tri kiến; họ dạy những pháp thực tiễn giúp người ta thực hành sau khi nghe giảng dạy. Và họ chỉ nói những gì có lợi lạc trực tiếp.
    Câu “sau khi nghe giảng dạy” được giải thích nhiều cách. Theo lời giảng khẩu truyền của bậc tôn sư tôi, thì nó có nghĩa rằng, dù bạn giảng dạy bất cứ giáo lý gì, nó cũng phải lợi lạc cho dòng tâm thức của người đệ tử sau khi sự giảng dạy chấm dứt.
    Loạt tiêu đề đặc biệt này chứa đựng những chỉ giáo về làm cách nào để nghe những giáo lý của đường tu. Như tôi đã nói, bất cứ lỗi lầm nào ở giai đoạn này rất tai hại, như khi tính nhầm ngày mồng một thì cũng nhầm luôn những ngày khác cho đến rằm. Dù có thọ giáo những pháp sâu xa rộng rãi đến đâu, bạn cũng biến thành con ma trong Phật pháp, nghe pháp bạn nghe được chỉ tổ tăng thêm vọng tưởng nơi bạn mà thôi. Tôi nghĩ chuyện này thật quá quen thuộc. Các bạn phải thận trọng.
    Gia Đình Vô Hình

  18. #18

    Mặc định

    B. CÁCH GIẢNG DẠY PHÁP
    Có bốn phần (a) nghĩ về những lợi lạc của việc giảng dạy pháp; (b) kính pháp và bậc thầy giảng pháp; (c) cần nghĩ và làm gì trong khi giảng dạy; (d) khác nhau giữa những người bạn nên dạy và những người bạn không nên dạy.
    1. Nghĩ về những lợi lạc của việc giảng Pháp
    Ðiều cố yếu là người giảng pháp không nên biến sự bố thí Pháp thành một cái gì do vô minh làm động lực Vasubandhu (Thế Thân) nói:
    Ðừng để hành vi bố thí Pháp trở thành một hành vi ngu si.
    Hãy giảng dạy kinh điển thuần tịnh một cách như pháp.
    Nếu bạn dạy với hy vọng được cúng dường, cung kính, được nổi tiếng là học giả, vân vân, thì sự giảng dạy của bạn thay vì lợi lạc lại rất có hại. Bạn còn mất bớt công đức nữa. Vậy, bạn chỉ nên vì lòng bi mẫn mà giảng pháp, vì muốn lợi lạc cho đệ tử, ngay cả không kể tới hậu quả nghiệp mà bạn có thể đón nhận do sự giảng dạy của bạn. Chuzang Lama Rinpoche Yeshe Gyatso nói:
    Tôi nghe lỏm ông ta giảng dạy
    Và làm phép quán đảnh;
    Ông ấy làm mọi sự tốt
    Nhưng ông ta làm cho tôi ngao ngán
    Tột đáy sâu của tim tôi
    Khi ông hăng hái
    Yêu cầu đóng góp tiền bạc.
    Nói cách khác, điều này không được xảy ra. Sự giảng dạy là tốt nhất khi giảng sư không màng gì đến sự cúng dường vật thực.
    Kinh Lời Khuyên Hành Vị Tha đề cập đến hai mươi lợi ích:
    Này Di Lặc, một sự Pháp thí không nhằm được cung kính cúng dường, có hai mươi lợi ích: Một, ta sẽ có trí nhớ tốt; hai biết phân biệt; ba thông minh; bốn kiên trì, năm có trí tuệ; sáu sẽ đạt xuất trí; bảy bớt chấp thủ; tám bớt sân; chín bớt si; mười ma không thắng nổi; mười một được Phật thương tưởng; mười hai được phi nhân phù hộ; mười ba chư thiên hỗ trợ sự sáng suốt; mười bốn kẻ thù không làm hại được; mười lăm không bị xa lìa thân quyến; mười sáu lời nói có sức mạnh; mười bảy được sự vô úy; mười tám tâm hồn thoải mái; mười chín được những học giả ca ngợi; hai mươi hành vi bố thí pháp ấy sẽ trở nên đáng nhớ.
    Ðầu tiên “có trí nhớ tốt” nghĩa là ta sẽ không quên Pháp. “Biết phân biệt” là niềm xác tín có được do những hình thức thiền định tối hậu. “Thông minh” ám chỉ niềm tin có được do những phép quán thông thường. “Kiên trì” có nghĩa là không thể bị lay chuyển. “Có trí tuệ” ám chỉ thế tục trí đạt được trong đạo lộ tích tập và chuẩn bị; “xuất thế trí” là trí đạt được trong những đạo lộ kiến đạo và thiền quán.
    Sáu trong hai mươi lợi lạc này là kết quả tương ứng với nguyên nhân đầu tiên. Bốn lợi lạc khác là do những trạng thái tách rời states of separation. Sáu lợi lạc là y báo, và có một quả do sự thuần thục của nghiệp (xem ngày thứ mười ba, trang...)
    (Pabongka Rinpoche nói nhiều về chi tiết đề tài này).
    Những lợi ích khác được nói trong Kinh do Ugra Thỉnh Vấn, trong đó nói dù một vị tỷ kheo chỉ bố thí một câu Pháp cũng có nhiều công đức hơn một cư sĩ bố thí vô số của cải vật chất.
    Các bạn nên ghi nhớ những lợi lạc này trong tâm, và bạn sẽ mong muốn giảng Pháp và cảm thấy rằng nói Pháp đã là một nguồn vui cho chính bạn. Ðây không chỉ là những lợi ích do sự giảng Pháp đem lại khi ngồi trên một pháp tòa thật cao; mà những vị thầy dạy cho đệ tử cũng không lợi lạc như thế. Lại nữa, khi bạn đọc một bản kinh, hãy tưởng tượng rằng mình đang đọc cho thính chúng trời, rồng, phi nhân, vân vân đang ở quanh mình. Bạn cũng sẽ được lợi lạc tương tự nếu như làm như thế. Khi bạn muốn học thuộc lòng một bản kinh bạn cũng làm như vậy. Bạn cũng được lợi lạc do nói chuyện pháp thoại với những người khác bằng cách dạy cho họ những điểm nòng cốt để thay đổi cách cư xử của mình. Nhưng có điều khác nhau cần để ý là, bạn có phải là bậc thầy của người nghe bạn hay không.
    2. Kính Pháp và người giảng Pháp
    Ngagwang Dragpa ở Dagpo nói: “Ðức Phật đấng Ðạo sư chúng ta đã dựng ngai Phật tòa cho chính ngài giảng dạy về Bà Mẹ của Chư Phật.” Nghĩa là khi đức Thế Tôn dạy kinh Bát nhã, Ngài đã làm ngai pháp cho Ngài bằng chính bàn tay Ngài, những bàn tay mang đủ tướng quý của một đức Phật và đẹp như nhánh cây bằng vàng ròng. Vì Pháp đã gợi sự quý trọng của ngay cả chư Phật như thế nên quả thực chúng ta phải hết sức tôn kính khi nói và nghe Pháp ấy.
    Trong đại hội đầu tiên để kết tập kinh điển, A nan và nhiều vị tụng đọc khác nhau đã được ngồi trên một chồng năm trăm tấm y vàng do những vị A la hán khác cúng, để tỏ dấu tôn trọng Pháp. (Ở đây tôi phải nói thêm rằng, ba tấm y của tỷ kheo do Phật chế định, thế mà ngày nay có người sử dụng để lau chùi hoặc để làm gối dựa, đó là điều rất sai quấy.)
    Pháp phải được tôn quý vì tính vĩ đại của Pháp. Ta lại phải nhớ những đức của bậc Ðạo sư và lòng từ bi của ngài, để khởi phát niềm kính trọng.
    3. Phải nghĩ và làm những gì trong khi giảng dạy pháp
    a. Phải nghĩ gì
    Ngagwang Dragpa ở Dagpo nói:
    Từ bỏ tính bủn xỉn, tự kiêu,
    Hôn trầm trong lúc dạy, bàn lỗi của người,
    Trì hoãn việc giảng dạy, và lòng ganh tị.
    Hãy có lòng thương tín đồ và giảng dạy cho đúng pháp
    Bằng cách duy trì năm thái độ
    Hay nghĩ hạnh này sẽ đem lại cho bạn hỉ lạc.
    Nghĩa là bạn không được giữ lại những điểm then chốt của giáo lý, vì đấy là một kiểu bủn xỉn về pháp. Trong khi giảng pháp, bạn không nên tự ca tụng mình như nói: “Trong quá khứ tôi đã làm điều này điều kia vân vân.” Bạn cũng không được lừ đừ ngũ gục trong khi nói pháp. Không nên bàn lỗi của người khác với động lực là tham hoặc sân. Không nên lười biếng trì hoãn việc giảng dạy vì không muốn giảng. Và bạn nên từ bỏ lòng ganh tị khởi lên vì nghi ngờ người khác được lên chức.
    Bạn phải có lòng từ bi đối với những người nghe pháp, và giữ năm thái độ. Năm thái độ này cũng giống như sáu điều trên, trừ cái điều rằng sự chuyên cần thực hành Pháp sẽ chữa lành bạn. Nghĩa là năm thái độ như sau: họ là những con bệnh, Pháp là thuốc, bạn là y sĩ, vân vân. Rồi bạn nên nghĩ rằng công đức phát sinh do sự giảng Pháp với năm thái độ như trên sẽ đem lại hạnh phúc cho bạn.
    Sở dĩ bỏ điều thứ sáu vì nó áp dụng cho người nghe pháp hơn là người giảng dạy.
    b. Phải làm gì trong khi giảng dạy
    Trước hết, nên tắm rửa sạch sẽ; dáng dấp của bạn phải chỉnh tề, y phục mới. Ngồi trên một pháp tòa cao. Cung cách bạn phải vui hòa. Giảng dạy bằng ví dụ, trích dẫn, và biện luận để làm rõ ý nghĩa.
    Tuy vậy, tôi rất bối rối và khổ sở khi ngồi trên tòa cao này, trong khi những vị lạt ma cao cấp tái sinh đang ngồi chỗ thấp. Nhưng tôi phải ngồi đây vì lòng thượng tôn sự vĩ đại của chánh pháp. Quả thật là điều kỳ diệu khi tục lệ này không mai một ở các tỉnh miền Trung và ở vùng Tsang. Nếu tục lệ này không còn, và vị giảng sư ngồi ở chỗ thấp trong khi giảng pháp, thì người ta sẽ lấy làm lạ khi ông ta bảo, “Tôi đã hấp thụ dòng truyền thừa này từ nhiều vị lạt ma vĩ đại,” như có câu chuyện đã kể.
    “Cung cách vui hòa” là bạn nên mĩm cười với thính giả khi bạn giảng. Longdoe Lama Rinpoche trái lại thường cầm la rầy đệ tử và cầm roi hăm dọa trong khi ngài giảng dạy.
    Nếu bạn lẫn lộn thứ tự những tiêu đề, thì sự giảng pháp của bạn sẽ hỗn độn như một cái tổ quạ. Nếu bạn bỏ qua những điểm khó mà chỉ giảng dạy những tài liệu dễ, thì giáo lý bạn nói chỉ như hồ cháo dành cho người già ăn. Những giảng sư không am tường ý nghĩa sâu xa của giáo lý mà phải đoán mò để giảng thì chẳng khác nào người mù phải chống gậy. Ðiều này thật không tốt.
    Bậc tôn sư tôi, nơi nương tựa tối thượng của tôi, đã dạy cho tôi như sau. Khi sắp giảng dạy, ta phải khởi một động cơ cho đúng pháp trong lúc bước từ phòng riêng ra giảng đường. Hãy quán tưởng tất cả những vị tổ sư trong truyền thống của bạn đang an vị trên pháp tòa dành cho bạn, hết vị này đến vị khác. Hãy đảnh lễ pháp tòa ba lạy. Quán tưởng những vị tổ tan biến vào một vị là vị thầy bổn sư của bạn; và khi bạn bước lên pháp tòa thì quán tưởng vị bổn sư của của bạn thể nhập vào trong bạn. Rồi khi bạn ngồi xuống, hãy búng tay mà niệm một bài kệ vô thường như:
    Như ngọn đèn dầu leo lét
    Không kéo dài bao lâu
    Hạnh phúc cũng hư ảo
    Mong manh như giọt nước
    Như chiêm bao, như chớp nhoáng,
    Hoặc như một ngày qua;
    Như thế đấy là các pháp hữu vi.
    Bạn nên nghĩ: “Ðây chỉ là vài phút ngắn ngũi, một cái gì thật vô thường.” Bạn phải chế ngự bất cứ cảm giác hãnh diện nào bạn có thể có, nếu không, bạn có thể phát sanh tâm kiêu mạn khi ngồi trên pháp tòa, và nghĩ rằng “Bây giờ, ta thật là một nhân vật quan trọng.”
    Người ta nói với bạn nên tụng chú để đuổi quỷ, nhưng theo truyền thống, chúng tôi tụng bát nhã tâm kinh và vỗ tay ba lần. Je Drubkang Geleg Gyatso thường theo truyền thống tán tụng sáu điều để chuẩn bị. Quả thế, khi giảng dạy Lam-rim, ngài áp dụng phương pháp tụng rất chậm lễ dẫn nhập này. Nhiều người xin ngài giảm bớt nghi thức chuẩn bị, vì nó kéo dài thời gian giảng pháp, nhưng ngài trả lời: “Sự thành tựu của buổi giảng hoàn toàn tùy thuộc vào nghi thức chuẩn bị này,” và bởi thế ngài không rút ngắn.
    Như tôi đã nói, bạn có thể phát sinh thực chứng Lam-rim ở mức đầu tiên trong buổi nghe giảng. Nhưng bạn phải tạo cơ hội cho sự thực chứng ấy, và điều này tùy thuộc vào sự tích tập công đức và trí tuệ sơ khởi của bạn, vào sự thanh lọc chướng ngại, vào sự cầu nguyện v.v... Ðây là tư tưởng đằng sau sự thực hành những nghi lễ chuẩn bị trong một thời gian giảng pháp. Trong lúc thực hành những nghi thức này, bạn không nên trải qua suốt buổi để tâm lang thang mắt nhìn dáo dác, miệng lẩm nhẩm thần chú một cách máy móc. Hãy thực hành nghiêm túc sự tích tập công đức này, sự thanh lọc bản thân và sự cầu nguyện này, sự thanh lọc bản thân và sự cầu nguyện này, vì nó quan trọng để phát sinh một vài tuệ quán đi sâu vào những đề tài thiền định trong phạm vi bạn tham dự buổi học pháp.
    Bây giờ hãy trở lại việc làm cách nào để điều khiển một buổi giảng dạy giáo lý. Sau khi cúng dường một madala (đồ hình) của vũ trụ (xem Ngày Thứ Năm trang...), hãy đưa quyển kinh lên đầu (tỏ dấu kính trọng và ban phước) và lại khởi động lực. Hãy cầu xin rằng những gì bạn sắp làm lợi lạc cho dòng tâm thức của những người nghe bạn. Drubkang Geleg Gyatso thường làm sự cầu nguyện như thế không những lúc ông đặt quyển kinh trên đầu và cả những lúc ông đội mão.
    Phần đông đều biết khi sắp giảng pháp thường có chút ít thay đổi trong bài kệ quy y. Bài này thường như sau:
    Cho đến khi giác ngộ, con xin quay về
    Nương tựa Phật, Pháp và Tăng
    Với công đức con có được
    Nhờ bố thí, vân vân.
    Mong sao con đạt Phật quả vì tất cả chúng sinh.
    Vị giảng sư nói: “Với công đức con có được do hành vi bố thí pháp...” trong khi những đệ tử thì nói: “Với công đức con có được khi nghe Pháp...”
    Một điều khác tôi muốn nói là, có truyền thống đọc lớn bản kinh văn về Lam-rim sắp giảng ngày hôm ấy. Tốt nhất là chính giảng sư đọc mỗi ngày, hoặc vài ngày; sau đó đệ tử chính của vị ấy có thể làm thay.
    Trong khi giảng pháp, bạn nên tưởng tượng trời, rồng và phi nhân vân vân đến nghe. Bạn nên làm dáng điệu như đang thuyết pháp cho họ và đọc bài:
    Chư thiên a tu la
    Và dược xoa, vân vân,
    Ai đến nghe Phật pháp
    Tất cả hãy hết lòng
    Hộ trì Phật pháp ấy,
    Bằng cách thường tinh tấn
    Thực hành lời Phật dạy.
    Ai đến đây nghe Pháp
    Hoặc ở trên mặt đất
    Hoặc ở trong hư không,
    Với thế giới loài người,
    Hãy thường khởi từ tâm,
    Bản thân thì ngày đêm
    Sống đúng với Phật pháp.
    Nguyện cầu mọi thế giới
    Luôn luôn được an ổn
    Bằng cách phước và trí
    Ðều đem làm lợi người,
    Ðể bao nhiêu vọng nghiệp
    Ðều được tiêu tan cả
    Siêu thoát mọi khổ đau
    Quy về đại niết bàn,
    Hãy xoa khắp cơ thể
    Bằng hương thơm giữ giới
    Lại mặc cho cơ thể
    Bằng y phục thiền định
    Thì hoa đẹp bồ đề
    Làm rực rỡ tất cả
    Bất cứ ở nơi nào
    Cũng thường được an lạc.
    (Theo bản dịch HT Trí Quang)
    Dĩ nhiên là chư thiên không thể ngồi trên đất, bởi thế giảng sư quán tưởng mình đang cho phép họ cứ ở giữa không trung và lắng nghe, những người lãnh trọng trách bảo trì chánh pháp hãy nhớ kỹ truyền thống này.
    4. Khác nhau giữa người nào bạn nên dạy người nào không nên
    Nói chung, như Luật đã dạy, “Không nên giảng dạy cái gì người ta chưa yêu cầu mình giảng.” Nói cách khác là thực không đúng pháp nếu mà bạn dạy một điều mà bạn chưa cầu xin. Hơn nữa, bạn cũng không nên nhận lời ngay khi người ta yêu cầu. Vì đức khiêm tốn bạn phải nói: “Ðề tài này tôi không am hiểu lắm, tôi không kham giảng dạy” hoặc “ Làm sao tôi có thể giảng dạy cho những người vĩ đại như quý vị?” Bạn phải thử thách lòng ngưỡng chánh pháp của người ta; và chỉ khi nào bạn chắc chắn họ là pháp khí thích hợp thì bạn mới nên giảng pháp cho họ. Kinh Tam Muội Vương nói:
    Này Prakàska, trước hãy nói với chúng rằng:
    “Tôi không được học.”
    Rồi, nếu bạn có biết, có tài
    Thì hãy nói: “Làm sao tôi có thể nói chuyện này
    Trước những con người vĩ đại như chư vị?”
    Tuy nhiên, vì một lý do cấp bách nào đó, đôi khi bạn buộc lòng phải dạy cho vài người một điều gì mặc dù họ không yêu cầu. Je Tsongkapa nói: “Nếu bạn biết họ là pháp khí xứng đáng để dạy, thì có thể giảng dạy cho họ dù họ không yêu cầu.”
    Người ta bảo bạn còn phải tuân theo 26 điều đề ra trong luật tạng, như không được nói pháp cho người đang ngồi trong khi bạn đang đứng, hoặc cho người đang nằm, hoặc cho người đang ngồi chỗ cao hơn bạn, vân vân.
    Ðến đây, chúng ta đi đến tiêu đề chính thứ ba là:

    C. ÐIỀU GÌ CẢ THẦY LẪN TRÒ CÙNG NÊN LÀM CUỐI THỜI GIẢNG
    Sau khi dâng một mandala tạ ơn, giảng sư và thính giả nên hồi hướng công đức, cầu cho giáo lý được lưu tuyền và cho chính mình được giác ngộ hoàn toàn, bằng cách tụng bài cầu nguyện của Lam-rim (trích trong tác phẩm của Tsongkapa, Những Giai Ðoạn Lớn Của Ðạo Lộ, xem trang....). Sau buổi giảng, không nên mạnh ai nấy ùa ra cửa, mà nên từ từ đi ra từng người, làm như thế là không muốn rời giảng sư và buổi giảng.
    Gia Đình Vô Hình

  19. #19

    Mặc định

    NGÀY THỨ TƯ
    Pabongka Dorie Chang khởi sự ngày giảng dạy với lời giáo đầu như sau:
    Chandrakìrti nói:
    Bây giờ, khi bạn có tự do,
    Gặp hoàn cảnh thuận tiện
    Nhưng nếu bạn không lợi dụng
    Lại để cho mất tự do
    Bằng cách rơi vào các đọa xứ
    Thì khi ấy ai sẽ kéo bạn lên?
    Nói cách khác, bây giờ ta đã thoát khỏi những cảnh tái sanh bất hạnh, có được thân người thuận lợi, nên chúng ta có được tự do để học Pháp. Nhưng nếu chúng ta không lợi dụng hoàn cảnh này để đạt niềm hy vọng vĩnh cửu của ra, thì ta sẽ trở lại vào các đọa xứ nơi đó ngay một tiếng “Pháp” ta cũng không có may mắn để nghe. Nếu ta rơi vào một đọa xứ như vậy, thì ai có thể kéo chúng ta ra khỏi? Bởi thế, ngay khi còn tự do, ta phải cố thành đạt niềm hy vọng vĩnh cửu của mình, dù gì xảy ra cũng mặc.
    Chỉ sau khi khởi động cơ như thế rồi bạn mới nên nghe pháp. Và cái Pháp mà bạn sắp nghe là pháp gì? Đó là pháp Tối thượng thừa, nền giáo lý đưa những người may mắn đến Phật quả.
    Sau khi nhập đề như thế Pabongka Rinpoche nhắc lại cho chúng tôi những tiêu đề mà chúng ta đã bàn cho đến điểm này trong bài giảng. Ngài cũng ôn lại sơ lược những gì đã nói hôm qua. Rồi ngài bắt đầu bài giảng chính thức của ngày hôm ấy.

    VI. THỨ TỰ NHỮNG CHỈ GIÁO THỰC THỤ
    Có những tiêu đề phụ như sau: (1) Căn bản của đạo lộ: tận tụy với một vị hướng đạo tâm linh; (2) sự huấn luyện tuần tự thích đáng mà bạn phải theo sau khi bắt đầu nương tựa một bậc thầy.
    Những tiêu đề này rút từ tác phẩm của Tsongkapa, giảng dạy một trong những điểm cốt yếu của sự tu hành. Danh từ “căn bản của đạo lộ” có ý nghĩa như sau. Tất cả lá quả của cây đều do gốc cây mà có. Tất cả tuệ quán và thực chứng - từ sự đạt được cái khó được là thân người thuận lợi cho đến sự nhất tâm của bậc Vô học đều xuất phát từ một điều duy nhất là sự tận tụy với một bậc thầy hướng đạo tâm linh. Giới từ “sau khi” trong câu trên chỉ rõ hành vi nào nên làm trước tiên: chúng ta sẽ nhận được tất cả những quả chứng cho đến định nhất tâm của bậc Vô học A la hán nếu ngay từ đầu, ta có sự tận tụy đúng pháp đối với một bậc thầy.
    Ba tiêu đề chính đầu tiên mà chúng ta đã bàn cũng được tìm thấy trong Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ. Những tiêu đề sau đây có khác, chúng được rút ra từ những bài giảng ngắn gọn.

    A. CĂN BẢN CỦA ĐẠO LỘ: TẬN TỤY VỚI THẦY
    Có hai thứ đoạn chính: (1) phải làm gì trong những thời thiền quán của chúng ta; và (2) phải làm gì giữa thời thiền quán.
    Một điểm hết sức quan trọng được nêu lên khi đưa ra hai tiêu đề này, một tiêu đề cho những thời thiền định và một tiêu đề cho thời gian khoảng giữa các thời thiền. Toàn thể hoạt động hàng ngày của một người có thể chia thành những gì xảy ra trong thời thiền định, và những gì xảy ra ngoài thời thiền. Như vậy, bất cứ thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp nào của bạn cũng xảy ra trong hoặc ngoài thời thiền định. Nếu bạn làm cho cả hai giai đoạn ấy đều có lợi ích, thì trọn ngày đều lợi ích. Hãy nói rộng điều này ra thành những thời kỳ hàng tháng, hàng năm, vân vân, thì trọn cuộc đời bạn trở nên có ý nghĩa. Đây là điểm cốt yếu.
    1. Phải làm gì trong các thời thiền định
    Tiêu đề này có ba bước: (1) nghi lễ chuẩn bị; (2) làm thế nào để theo phần chính của thời thiền; (3) những gì phải làm trong phần cuối của thời thiền.
    Thật là điều sai lầm nếu không chú ý đến nghi lễ chuẩn bị. Nếu bạn muốn chế một tách trà ngon chẳng hạn, thì bạn phải xem chuyện mua trà là quan trọng. Cũng thế, nếu bạn muốn có những kinh nghiệm tâm linh trong giai đoạn chính của thời thiền định, thì trước hết bạn phải thực hành những nghi lễ chuẩn bị cho đúng pháp.
    1.1. Nghi lễ chuẩn bị
    Có sáu việc: (1) lau nhà sạch sẽ và bày biện những biểu tượng thân giác ngộ, khẩu giác ngộ, ý giác ngộ; (2) kiếm đồ cúng một cách lương thiện và bày biện cho đẹp mắt; (3) ngồi theo thế ngồi (gồm bảy sắc thái của Tỳ lô giá na trên một tọa cụ; sau đó bạn đọc lời quy y, phát tâm bồ đề, vân vân, trong một tâm trạng đặc biệt thành khẩn; (4) cầu ruộng phước; (5) dâng lời cầu nguyện bảy phần và một madala thế giới - những hành trì này chứa tất cả những then chốt của sự tích tập công đức và thanh lọc bản thân; (6) nhưng cầu xin tiếp theo phần giáo huấn truyền khẩu được làm để bảo đảm rằng dòng tâm thức của bạn đã thấm nhuần thiền định.
    1.1.1. Lau sạch nhà và bày những biểu tượng thân khẩu ý giác ngộ.
    Đạo sự Suvarnadvìpi theo tiểu sử về đời ngài, thường tự lau chùi nhà cửa. Nguồn gốc tập tục này là do một kinh dạy: “Vị bồ tát ngồi kiết già trong một khung cảnh sạch sẽ.”
    Lý do bạn phải lau nhà là như sau: Khi bậc thầy của bạn, hay một viên quan nào tới thăm bạn, phải chăng bạn sẽ quét nhà sạch để cung đón? Cũng vậy, khi bạn thỉnh đấng Đạo sư và những pháp tử của ngài vào nhà (trong thời thiền quán của bạn) thì bạn phải lau nhà sạch sẽ để tỏ lòng kính ngưỡng.
    Không có lợi ích gì n ếu bạn làm việc ấy với những động cơ giống như bạn vệ sinh của các tự viện lớn như cung Potala, Sera, Drepung; những người làm vì mưu cầu hạnh phúc cho chính mình hoặc để làm cho người khác tán thán. Thay vì thế, bạn nên nghĩ rằng bạn làm vì tôn trọng phước điền, những bậc thánh mà bạn sẽ thỉnh vào phòng trước khi bạn theo một đề tài thiền quán Lam-rim; bạn sẽ thực hành pháp quán ấy để thành Phật vì lợi ích của tất cả hữu tình. Sẽ rất lợi lạc nếu bạn nghỉ tưởng như thế.
    Có kinh nói tới năm lợi ích: Tâm bạn sẽ sáng suốt; tâm người sẽ sáng suốt; làm chư thiên hoan hỉ; có được cái nghiệp đẹp đẽ; kiếp sau tái sanh lên thượng giới. Thầy tôi dạy rằng, các vị trời thường viếng cõi người và hộ trì cho những người thực hành đúng pháp. Nhưng nếu bạn không lau nhà, chư thiên không hoan hỉ và không hộ trì cho bạn, vì họ tránh những chỗ không sạch. Việc làm sạch nhà cửa còn làm vui các bậc thầy của bạn, chư Phật, v.v… chứ không chỉ làm cho chư thiên hoan hỉ mà thôi.
    Bạn sẽ “có được cái nghiệp đẹp đẽ,” điều này không những ám chỉ cái đẹp vật lý mà còn ám chỉ đạo đức trong sạch. Đạo đức trong sach không làm cho thân thể đẹp, nhưng đối với chư Phật và Bồ tát thì đấy là cái gì đẹp nhất. Đức Tsongkapa vĩ đại có nói
    Những người biết phân biệt pháp mặc áo khiêm cung
    Đây là đạo đức, không phải hàng đẹp
    Biện tài, trang hoàng cổ họ, không phải chuỗi anh lạc
    Bậc thầy là ngọc quý, không phải ngọc nào khác.
    “Được sanh lên thượng giới” phải hiểu là các cõi Phật.
    Bậc thánh Chùdapantaka (Chu lợi bàn đà dà) chứng quả A la hán nhờ lau nhà. Tôi sẽ kể cho các bạn câu chuyện về ngài.
    Trong thành Xá vệ ngày xưa có một người bà la môn sanh đứa con nào cũng chết khi vừa mới chào đời. Có một bà già lân cận bảo: “Lúc nào có đứa nữa, thì hãy gọi tôi.” Sau đó người bà la môn sinh một bé trai, ông liền gọi bà già. Bà bảo ông ta tắm rửa cho đứa bé, quàng cho nó một tấm vải trắng và nhét bơ đầy miệng rồi giao nó cho một cô gái săn sóc. Bà lại bảo người bà la môn nhờ cô gái ẳm thằng bé đến nơi ngã tư đại lộ và phải kính lễ khi gặp một vị sa môn bà la môn nào đó đi qua mà nói: “Hài nhi này xin đảnh lễ dưới chân thánh giả.” Nếu đứa trẻ sống được thì hãy chờ mặt trời lặn hãy đem nó về; nếu nó chết thì hãy quăng bỏ nó.
    Cô gái là kẻ có lương tâm, cô ngồi suốt ngày giữa ngã tư đại lộ. Đầu tiên có vài du sĩ ngoại đạo đi qua, cô gái làm theo mệnh lệnh bà già. Những du sĩ nói: “Mong cho hài nhi này sống, trường thọ, và ước nguyện của cha mẹ nó được thành.”
    Sau đó vài vị tỷ kheo đi qua, họ cũng chú tụng tương tự như trên. Cô gái bèn đem đứa bé đến Kỳ Viên tịnh xá. Nàng gặp Đức Phật đang đi khất thực, và Phật cũng làm như mấy người kia, nhưng nói thêm rằng: “Mong cho cha mẹ của nó thành tựu những ước nguyện đúng pháp.”
    Khi mặt trời lặn, cô gái thấy đứa bé còn sống nên đem về nhà. Nó được đặt tên là Mahapanthaka (Đại Lộ) vì đã được đưa ra giữa đường cái. Đại lộ lớn lên thành một học giả tinh thông kinh điển Vệ Đà và dạy cho một trăm đứa trẻ bà la môn.
    Người cha có thêm một đứa con trai khác, ông cũng gọi bà già và cũng được khuyên như lần trước. Nhưng lần này họ lại giao đứa bé cho một cô gái làm biếng; cô chỉ bế nó ra đứng tại một đường hẽm. Không có một vị sa môn bà la môn nào đi qua. Đức Phật biết rằng biết rằng sẽ không bậc thánh nào sử dụng con đường ấy, nên Ngài đích thân đi đến, vì Ngài vốn luôn luôn đêm ngày săn sóc cho các hữu tình. Cô gái đảnh lễ, và Ngài nói lời ban phước như lần trước. Nàng mang hài nhi về nhà khi thấy nó còn sống. Nó được đặt tên là Chùdapanthaka (Đường Nhỏ). Khi lớn lên nó cố học đạo. Nó tập đọc những tiếng như siddham, nhưng nó chỉ đọc đường âm sid thì nó quên âm dham, mà khi nó nhớ âm dham thì nó quên sid. Thầy của Đường Nhỏ bảo người cha rằng: “Tôi còn phải dạy nhiều trẻ khác. Tôi không thể dạy cho nó.”
    Đường nhỏ được gửi đến học tụng kinh Vệ Đà với một người chuyên về kinh điển ấy. Trước tiên thầy dạy nó hai âm om bhu. Nó đọc được âm om thì quên âm bhu và ngược lại. Thầy nó phải tuyệt vọng về nó. Ông bảo người cha: “Thằng Đại Lộ con lớn của ông chỉ cần dạy một chút xíu là biết liền, còn thằng Đường Nhỏ này thì tôi chịu. Tôi không thể dạy nó; tôi còn nhiều trẻ con phải dạy.”
    Bởi vậy mà cái tên Đường Nhỏ đã hóa thành nghĩa bóng là u mê đần độn, ngu nhất trong những người ngu, nhỏ nhất trong những cái nhỏ.
    Về sau khi cha mẹ chết, Đại Lộ quy y theo Phật và đi tu thành tỷ kheo, thành một bậc hiền trí, chứng quả A lan hán. Đường Nhỏ tiêu hết gia tài xong cũng đi theo anh. Đại Lộ quán sát xem em mình có chút duyên gì với Phật pháp không, và thấy rằng chính mình có thể giúp em khai phát tiềm năng Phật tính, bởi thế ông cho Đường Nhỏ xuất gia thụ giới làm chú tiểu.
    Trong ba tháng kế tiếp. Đường Nhỏ bỏ hết thì giờ chỉ để học một bài kệ.
    Thanh tịnh thân, khẩu, ý.
    Lìa dục nhiễm thế gian.
    Thường nhớ nghĩ chuyên cần.
    Tránh ác pháp đau khổ.
    Bọn giữ bò trong khu vực nghe lỏm bài kệ ấy cũng đã thuộc lòng, thế mà đường nhỏ không thể nào thuộc nổi.
    Bậc thánh Đại Lộ suy nghĩ: “Làm sao điều phục Đường Nhỏ? Nên ca tụng nó hay làm nhục?” Ngài thấy rằng nhục mạ Đường Nhỏ là cách điều phục hiệu nghiệm nhất, bởi thế ngài nhiếc mắng Đường Nhỏ, túm lấy cổ áo của y mà lôi ra khỏi cổng tinh xá Kỳ Viên.
    Đại Lộ nói: “Người là kẻ ngu đần nhất trong những kẻ ngu đần. Cho ngươi xuất gia làm gì? Đứng đó.”
    Đường Nhỏ nghĩ: “Bây giờ mình hết làm tu sĩ rồi, mình cũng không còn là một người bà la môn nữa rồi.” Và ông khóc lóc thảm thiết.
    Động lòng từ mẫn, Đấng Đạo sư chúng ta đi đến bên Đường Nhỏ và hỏi:
    “Này Đường Nhỏ tại sao con khóc?”
    “Thầy con đã mắng nhiếc chê bai con đủ điều.”
    Đức Phật bảo:
    Cái gì kẻ ngu ca tụng
    Thì bị hiền trí chê bai.
    Thà bị hiền trí chê bai
    Hơn được kẻ ngu khen ngợi.
    Này con, thầy con đã không chịu gian khổ suốt ba a tăng kỳ kiếp để thực hành sáu hạnh ba la mật. Ông ta không làm ra những bài kệ cho con học, mà chính ta đã làm. Vậy Như Lai không dạy cho con đọc được hay sao?”
    Đường Nhỏ nói: “Thầy ôi, con là kẻ ngu nhất trong đám ngu, nhỏ nhất trong bọn nhỏ. Làm sao con có thể học đạo được?”
    Đức đạo sư trả lời:
    Kẻ ngu biết mình ngu
    Đích thật là hiền trí
    Ngu tự cho mình trí
    Mới thật là chí ngu.
    Phật cho Đường Nhỏ mấy lời này để nó học thuộc: “Từ bỏ bụi dơ, từ bỏ cấu uế.” Nhưng ôi thôi, chừng ấy cũng quá nhiều đối với Đường Nhỏ. Đức Phật nghĩ, “Ta sẽ thanh lọc nghiệp của y.” Và Ngài nói: “Này Đường Nhỏ, ngươi có thể chùi giày cho các tỷ kheo không?” Đường Nhỏ nói: “Ồ thầy, chuyện ấy con làm được.” Đức Phật bảo. “Vậy con hãy chùi sạch giày dép cho các tỷ kheo. Và này các tỷ kheo, các ông hãy để cho Đường Nhỏ làm công việc ấy, để y có thể sạch nghiệp chướng. Các ông hãy tụng những lời ấy để cho y học.”
    Gia Đình Vô Hình

  20. #20

    Mặc định

    Khi Đường Nhỏ học xong, Phật bảo ông: “Bây giờ con không phải chùi giày cho các vị tỷ kheo nữa. Hãy vừa lau quét chùa vừa đọc câu ấy.” Do thần lực của Phật nữa cái nền bên trái ông vừa lau xong, thì nửa bên phải lại dơ. Lau nữa bên phải xong thì nữa bên trái lại đầy bụi dơ như cũ. Nhưng Đường Nhỏ vẫn kiên trì, và trong lúc lau quét, tất cả nghiệp chướng ông được thanh lọc. Khi ấy ý nghĩ này khởi lên nơi ông: “Bậc đạo sư, ‘hãy từ bỏ bụi dơ, hãy gột rửa cấu uế’ là ngài muốn nói cấu uế nội tâm hay ở ngoài? Và tâm ông khởi lên bài kệ sau đây,mà ông chưa từng nghe trước đấy:
    Tham ái là cấu uế, không phải bụi;
    Cấu uế là chỉ cho tham ái, không phải bụi
    Bậc trí tẩy trừ loại cấu uế này,
    Thận trọng tuân giữ giáo huấn của đấng Thiện Thệ.
    Sân hận là cấu uế, không phải bụi,
    Cấu uế là chỉ cho sân, không phải bụi
    Bậc trí tẩy trừ loại cấu uế này.
    Thận trọng tuân giữ giáo huấn của đấng Thiện Thệ.
    Si mê là cấu uế, không phải bụi…
    vân vân. Ông đi sâu và những bài kệ ấy, và nhờ thiền định ông đạt quả vị A la hán.
    Trong kinh, bài kệ ấy như sau, theo những bản nghi thức chuẩn bị và chỉ giáo truyền khẩu:
    “Cấu uế” không phải là bụi trên đất
    Mà đấy là cấu uế tham ái.
    Khi thực hành thì bài kệ này dễ hiểu hơn, nhưng ta cũng nên trở lui về nguồn gốc của nó.
    Khi ấy đức Phật tuyên bố cho chúng tăng biết những đức hạnh của Đường Nhỏ và bảo: “Này A Nan, hãy nói với Đường Nhỏ đi giáo giới cho tỷ kheo ni, và đến bảo ni chúng rằng, từ nay Đường Nhỏ sẽ là giáo thọ sư của họ.”
    Đường Nhỏ biết Đức Phật đã công bố những đức hạnh của mình, nên ông hứa sẽ tuân lệnh đi giáo giới cho tỷ kheo ni.
    Các tỷ kheo ni vô cùng kinh ngạc trước tin ấy, họ nói: “Hãy xem bọn nữ lưu chúng ta bị chọc quê như thế đấy. Ông ta học một bài kệ ba tháng không thuộc, làm sao lại đi giáo giới cho chúng ta những người tinh thông ba tạng?”
    Sau đó một cô đề nghị: “Chúng ta sẽ làm cái gì để từ nay về sau khỏi phải chịu những kẻ ngu ngốc như thế.” Mười hai người họp lại làm một cái tòa giảng thật cao, nhưng không có bực cấp nào để bước lên cả. Những người khác thì đi vào đại thành Xá Vệ loan báo với dân cư rằng: “Ngày mai có bậc giáo thọ sư của chúng ta đến viếng thăm. Vị này là một trong những bậc thánh lớn nhất trong hàng Thanh văn. Chúng ta sẽ nghe Pháp do vị ấy giảng. Người nào chưa đến vị kiến đạo phải đến nghe, nếu không sẽ trôi lăn lâu dài trong sinh tử.”
    Hàng trăm ngàn người đến nghe giảng. Một số đi để giải trí, một số khác đi để kiếm công đức. Hôm ấy Đường Nhỏ ra đi khất thực. Sau khi tất cả đã ăn xong ngồi thiền, ông dẫn những tỷ kheo còn lại trong chùa cùng đến chỗ an cư mùa mưa của ni chúng, nơi ông phải đến để giáo giới. Khi đến gần pháp tòa, thấy nó quá cao, ông nghĩ, “Hoặc là họ quá kính trọng ta, hoặc họ muốn thử ta. “Ông nhập định quán tưởng thì biết là họ muốn thử. Đường Nhỏ duỗi cánh tay ra như một con voi đưa ra cái vòi để hạ pháp tòa ấy xuống. Một vài người trông thấy điều này, một số không thấy. Ông ngồi trên tòa rồi lại nhập định. Đường Nhỏ thăng lên hư không và thi triển bốn thứ thần thông tại mỗi nơi trong bốn nơi chính đông, tây, nam, bắc. Những thần thông được thâu hồi lại vào người ông, và bây giờ pháp tòa được nâng đỡ bằng bốn con sư tử.
    Ông bắt đầu giảng: “Thưa các chị, tôi mất ba tháng để học một bài kệ. Bây giờ tôi sẽ giảng ý nghĩa ấy trong bảy ngày bảy đêm liên tiếp. Đức Thế Tôn đã dạy: “Đừng để thân, khẩu, ý của ngươi phạm vào lỗi.” Ấy là ngài dạy cho chúng ta từ bỏ mười tà hạnh. Khi ngài nói “lìa nhiễm dục thế gian” thì thế gian ở đây ám chỉ là năm thủ uẩn. “Nhiễm” ám chỉ tham, sân, si làm nhiễm ô năm uẩn ấy.
    Ông chỉ mới dạy ý nghĩa chi tiết của nữa bài kệ, mà đã có mười hai ngàn người thấy được chân lý. Một số người chứng được bốn quả thánh là Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Có người thành Thanh văn, Độc giác. Cũng có người vào Đại thừa; mỗi hạng đều mong mỏi đạt đến kết quả giác ngộ thuộc hạng của mình, như quả A la hán tiểu thừa hay A la hán đại thừa. Hầu hết đều phát sinh tịnh tín đối với Tam Bảo.
    Khi Đường Nhỏ trở về Kỳ Viên, đấng Đạo sư tuyên bố: Trong số những đệ tử Thanh văn của ta thì Chu lợi bàn đà dà (Đường Nhỏ) là người đệ nhất về hạnh giáo hóa mọi người.
    Bởi vậy thật sai lầm nếu nghĩ chỉ có ngồi thiền mới có giá trị, còn những việc khác như quét nhà là không có giá trị. Ngay cả gia chủ Cấp Cô Độc, người dâng cúng khu vườn cho Phật làm Kỳ Viên làm tịnh xá, cũng thường tới quét chùa hàng ngày. Một hôm ông quá bận không đến được, và trong chùa cũng không ai quét, thì chính đức Đạo sư đã thân hành cầm chỗi quét với cánh tay như vàng ròng của Ngài.
    Thầy tôi thường kể rằng những thân tái sanh khác nhau của đức Dalai Lama thường hành nghi thức chuẩn bị thiền định bằng cách quét nhà tới nỗi đã mòn nhiều cây chổi chỉ còn như cái đuôi lừa. Những cây chỗi được cất giữ với những cán chổi bọc vải vàng để làm kỷ niệm về những di vật của Đức Dalai Lama. Đây là một chi tiết thực quan trọng trong tiểu sử của ngài; chứng tỏ những kẻ sơ học như chúng ta cần phải xem trọng những việc có vẻ tầm thường như thế.
    Tốt nhất, là quét phòng trước khi ngồi thiền, dù phòng cần quét hay không. Ít nhất bạn cũng quét phòng ở của bạn mỗi ngày. Và trong mỗi trường hợp, và khởi những động lực tốt như tôi đã nói ở trên. Hãy tưởng như mình đang quét sạch những cấu uế chướng ngại cho dòng tâm thức của chính mình và của người khác. Tưởng tượng những nhát chổi đang làm sạch, làm cho thanh tịnh, làm cho thuần thục, khiến cho căn phòng bạn trở thành một cõi Phật. Bạn nên tụng đọc một bài gì trong lúc quét nhà, như Đường Nhỏ đã làm: “từ bỏ bụi bặm, từ bỏ cấu uế,” hoặc tốt hơn nữa là bài kệ:
    Tham ái là cấu uế, không phải bụi
    Cấu uế là tên chỉ tham ái, không phải bụi
    Bậc trí tẩy trừ loại cấu uế này,
    Tuân theo lời dạy của đấng Thiện thệ.
    Lập lại bài kệ, thay chữ “tham ái” bằng “sân nhuế” rồi bằng “ngu si.” Khi bạn đang chuyên tu pháp môn thờ thầy (tận tụy với bậc hướng đạo tâm linh) thì nên đọc bài kệ thành: Cấu uế là thiếu đức tin (nơi thầy), không phải bụi…” Quả thế bạn có thể xem cấu uế là bất cứ gì, kể cả sự chấp thủ đối đãi nhị nguyên. Bạn phải biết thay đổi bài tụng cho thích hợp với pháp tu đặc biệt nào mà bạn đang thực tập trong lúc đó.
    Nếu bạn quá già, bệnh, không tự quét nhà được, thì hãy sai một đệ tử quét thay, nhưng trong lúc ấy bạn phải đọc tụng và quán tưởng như trên.
    Chiều sâu của động lực cũng rất quan trọng đối với lợi ích bạn có được trong từng nhát chổi mà bạn quét.
    Bạn hãy đặt bốn tảng đá ngoài phòng mình và tưởng tượng đó là Tứ thiên vương. Hoặc cũng chỉ có thể đặt một tảng đá biểu tượng cho bốn vị thiên vương. Hoặc quán tưởng một tảng đá duy nhất là Vaishravana (Hộ quốc thiên vương?). Người ta nói làm những phép quán ấy rất có lợi, vì bạn sẽ không bị một chướng ngại nào cả, và giới của bạn sẽ được thanh tịnh. Nếu bạn ở trong một tu viện lớn, thì có thể bất tiện nếu để ngoài cửa phòng bốn tảng đá. Vậy bạn có thể quán bốn bức tường ngoài phòng bạn là Tứ thiên vương; truyền thống khẩu thuyết này xuất phát từ Purchog Ngagwang Jampa.
    Bây giờ, chúng ta hãy quay sang sự trưng bày những biểu tượng thân ý giác ngộ. Các pháp quán Đạo sư, quán chư Thiên v.v… phải theo cùng một thứ tự như trong pháp quán Phước điền (xem ngày thứ Năm). Tuy nhiên bạn có thể thay đổi chút ít nếu những vật cúng không để lên bàn thờ được. Nhiều người cho rằng sẽ có hiệu quả hơn nếu cầu trước thần Hộ pháp, Thiên vương, và những phi nhân có thể lực, v.v…, họ cho là thờ những vị này linh ứng hơn thờ tượng Phật. Tôi đã gặp trường hợp này nhiều lần. Dấu hiệu này chứng tỏ những người ấy chưa chân chánh quy y: hành vi “quay về nương tựa Bụt” không thấm nhuần trong tâm thức họ. Nhiều người lại dành một chỗ ngồi vinh dự cho bất cứ một tượng gì làm bằng vàng, bạc, đồng, còn tượng đất sét thì đặt chỗ thấp nhất. Đấy là những dấu hiệu họ chỉ xem những hình tượng này như là những thứ tài sản vật chất. Lại cũng không nên sắp những hình tượng bằng tranh vẽ theo thứ tự thời gian. Có người con treo tranh Phật trên tấm màn để làm cửa. Thật là sai lầm biết bao. Họ là những người ngủ nằm trở chân chỉa về hướng tượng Phật, bồ tát. Điều đó chứng tỏ sự bất kính tệ nhất, một dấu hiệu rõ ràng họ chưa từng “quay về nơi nương tựa” gì cả. Có những người xem tranh tượng cũ kỹ và hư rách giống như đồ phế thải, đem để vào một bàn thờ bỏ hoang nào đó. Người ta bảo làm như vậy cũng giống như đem phước ra khỏi nhà bạn. Bạn phải xem những tượng, tranh Phật, Bồ tát giống như bản thân các vị ấy.
    Có thể bạn không có nhiều biểu tượng của thân khẩu ý giác ngộ như vậy, nhưng để tượng trưng thân giác ngộ bạn nhất định phải có hình tượng của một bậc đạo sư là Đức Thích Ca Mâu Ni, để nhớ đến Ngài, và của Je Tsongkapa để nhớ đến bậc thầy của bạn. Một bản kinh ngắn hay một bản Lam-rim có thể làm biểu tượng cho ngữ giác ngộ. Một tsatsa (mảnh đất sét hình tháp) có thể làm biểu tượng cho ý giác ngộ. Nếu bạn có chùy kim cang và chuông, thì nên dùng làm biểu tượng của ý giác ngộ. Nhiều người xem chùy kim cang và chuông như những dụng cụ của chư thiên, nhưng kỳ thực nó tượng trưng cho ý giác ngộ. Thật là một sai lầm lớn nếu bạn xem nhẹ chùy kim cương và chuông.
    Bạn không cần phải ngày nào cũng lập bàn thờ, nhưng phải xem những biểu tượng trên bàn thờ ấy như thật, thì mới hoàn tất tiêu đề này.
    Thật sai lầm nếu vì ngày nào bạn cũng thấy những hình tượng ấy trong phòng mà bạn đâm ra lờn mặt. Mỗi khi chiêm ngưỡng hình tượng, bạn lại được thấm nhuần thêm những bản năng mãnh liệt phi thường. Có người bảo chiêm ngưỡng một tượng Phật lợi lạc gấp mười sáu lần nhìn Phật thật, Kinh Sen Trắng có nói:
    Người nhìn hình ảnh đấng thiện thệ trên tường
    Dù trong lúc tâm đang giận dữ
    Cuối cùng cũng sẽ được gặp mười triệu Đức Phật.
    Thật sự Kinh nói: “Cúng dường tượng Phật ..” còn cái câu tôi trích dẫn là theo khẩu truyền. Nếu nhìn Đức Phật trong lúc giận dữ mà còn lợi lạc như thế, thì đủ biết chiêm ngưỡng tượng Phật với đức tin còn lợi lạc biết bao. Bậc thánh tăng Xá Lợi Phất là một trong hai đệ tử của Phật luôn luôn ở cạnh Phật. Tương truyền đấy là quả báo của một hành vi ngài đã làm trong một đời trước, lúc ngài chiêm ngưỡng một bức h ọa hình Phật với tâm tràn đầy hỉ lạc lạ lùng.
    Trong đời ấy, ngài Xá Lợi Phất làm một sứ giả. Một hôm ngài vào ở lại đêm trong một ngôi chùa. Trong khi ngồi khâu lại đôi giày dưới ánh đèn thật sáng, ngài trông thấy một tranh họa hình Phật trên bức tường đối diện. Ngài thầm nghỉ, “Ôi một con người tuyệt diệu làm sao! Ta muốn gặp đích thân người ấy.” Ngài cầu nguyện trong tâm, và kết quả là về sau ngài trở thành vị đại đệ tử của Phật.
    Bây giờ chúng ta thấy những tượng Phật làm bằng đất sét, đồng, vân vân, nhưng khi đạt đến sự nhất tâm trong định gọi là “Pháp Lưu” (Dòng Pháp) chúng ta sẽ trông thấy những hóa thân của Phật (nirmanakàya) tuyệt diệu. Và khi ta đạt đến địa vị thứ nhất trong mười địa vị Bồ tát thfi chúng ta sẽ gặp được những Báo thân (sambhogakàya) của Phật. Bởi thế một điều vô cùng quan trọng là phải xem tượng Phật như là Phật thật.
    1.1.2. Kiếm đồ cúng dường hợp pháp và bày biện đẹp mắt.
    “Hợp pháp” đây có nghĩa là không có hai việc: sự lường gạt liên hệ đến vật phẩm dâng cúng, và những động lực xảo trá để có được phẩm vật ấy.
    “Sự lường gạt liên hệ đến phẩm vật dâng cúng” có nghĩa là bạn đã vi phạm một việc quấy trong khi kiếm phẩm vật dể dâng cúng; như một người xuất gia thụ giới có được phẩm vật nhờ năm thứ tà mạng, hay một cư sĩ được phẩm vật nhờ sát sinh, đong thiếu, hoặc bằng một phương tiện xấu xa nào khác.
    Tốt hơn là đừng dâng cúng bằng những phẩm vật như thế. Phạn ngữ gọi đồ cúng là “puja” có nghĩa “làm hài lòng.” Vậy phẩm vật bạn cúng phải do Đấng Chiến thắng và các pháp tử của ngài vui lòng mối được. Làm sao các ngài vui lòng nếu bạn đem dâng cúng những loại phẩm vật như thế? Tuy nhiên, nếu bạn lỡ được những phẩm vật cúng thuộc loại ấy, thì cũng nên đem cúng Phật để tịnh hóa tội lỗi do sự tìm cầu chúng (một cách trái phép.)
    Năm tà mạng là: nịnh hót, ám chỉ, cho để nhận (thả tép câu cá), làm áp lực trên người khác, và giả trang thiền tướng.
    “Nịnh hót” là như sau. Bạn khen ngợi thí chủ với hi vọng họ sẽ cho bạn một thứ gì. Nếu họ cho bạn thứ ấy thật, thì hành vi nịnh hót ấy trở thành tà mạng. Nhưng nếu bạn khen chân thành, không một động lực như trên, thì không phải là tà mạng, dù họ có cho bạn phẩm vật.
    “Ám chỉ” là như nói với thí chủ: “Bây giờ tôi có trà và bơ, nhưng không có nhiều ngũ cốc,” với hy vọng được cúng. Hoặc nói: “Bột lúa mạch mà thí chủ cho tôi năm ngoái đã giúp tôi rất nhiều.” Nói cách khác, bạn ám chỉ rằng bạn đang càn ngũ côc hay bột lúa mạch. Nhưng nếu bạn nói những lời trên một cách vô tư không có hậu ý, thì không phải là “ám chỉ.”
    “Cho để nhận” là cho một vật vặt vãnh để nhận được thứ tốt hơn. Ví dụ bạn đem cho một khăn quàng lễ hay một bình trà, để họ đền đáp lại bạn hoặc thay bạn cúng dường tu viện. Ngày nay ta gọi là “mắc mồi vào lưỡi câu.” Người ngày nay rất dễ vi phạm vào những tà mạng này. Nhưng nếu bạn làm quà cho thí chủ một cách chân thật không có động lực như trên, “thì không gọi là tà mạng, dù họ có cho bạn lại một cái gì.
    “Làm áp lực” là quấy rầy người nào để buộc họ cho bạn một cái gì họ không muốn cho, hoặc khiến họ cho bạn một vật mà họ sắp đem cho người khác. Hoặc nói những lời như: “Thí chủ X đã cho tôi trà và bơ thực ngon.” Nhưng nếu muốn nói chân thành không có động cơ muốn nhận tặng phẩm sau đó, thì không phải là tà mạng kiểu “làm áp lực.”
    “Giả trang thiền tướng” thì trong khi ở phòng riêng thì buông lung phóng túng, mà trước mắt cư sĩ thì làm như một tỷ kheo rất tuân giữ giới luật, với hy vọng họ cúng dường bạn vì đức hạnh ấy. Nhưng nếu bạn không có động lực như trên, mà cư xử đàng hoàng ngược lại với lúc ở một mình chỉ vì nghĩ “không nên làm cho cư sĩ này mất tín tâm” thì không phải là “giả trang thiền tướng.”
    Một điểm nữa là: Nếu những người đã xuất gia thụ giới như chúng ta mà vi phạm những điều cấm liên hệ đến ba lời nguyện ta đã làm, và được vật nhờ buôn bán, thì chúng ta sẽ bị quả báo nặng nề khi đem vật ấy mà dâng cúng.
    Gia Đình Vô Hình

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •