Thực hiện lời Chúa truyền dạy, trải qua gần 2000 năm, không ngày nào mà Giáo Hội không cử hành việc bẻ bánh. Không ngày nào mà Giáo Hội không tưởng nhớ Chúa Kitô Tử Nạn - Phục Sinh.

“Tưởng Nhớ” trong bí tích Thánh Thể không là nhớ đến người vắng mặt, mà là nhớ đến Đấng có mặt. Nhớ tới Đấng đang đến. Vì thế, chúng ta phải bổ sung chữ “Tưởng Nhớ” bằng chữ “đón tiếp”, vì bất cứ từ ngữ nào cũng đều có giới hạn trước “Mầu Nhiệm Đức Tin” vô cùng trọng đại.

Quả thực, khi cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, có thể đón Chúa Kitô đang đến với chúng ta. Chúng ta tin Chúa Kitô Tử Nạn Phục Sinh đang đến với chúng ta. Cử hành Thánh Thể là tuyên xưng “Chúa đang đến” (Maranatha, Le Seigneur vient), và chúng ta vui mừng đi đón Chúa.

Nếu Chúa không đến, thì Ngài không hiện diện. Và nếu Ngài không hiện diện, chúng ta không thể thông phần với Ngài. Chúng ta có thể ăn bánh và uống chén, nhưng vẫn không thông phần đích thực với Mình và Máu Ngài, và không thể trở nên Một Thân Mình với Ngài.

Vậy Ngài đến từ đâu và đến như thế nào, để chúng ta có thể đón Ngài ?

Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm, ở một nơi nhất định là xứ Palestine. Ngài đã hạ mình chấp nhận mọi giới hạn không gian và thời gian, Ngài đã mặc xác phàm, trở thành một “cá nhân được định vị”. Nếu dừng lại đây, thì ngày nay chúng ta chỉ có thể “tưởng niệm” Ngài theo nghĩa thông thường, nhớ lại một nhân vật lịch sử đáng yêu, với những lời nói và hành động làm cho nhiều người phải ngỡ ngàng, với một sứ điệp yêu thương làm cảm động lòng người, và cuối cùng chết bi thảm khiến cho nhiều người phải khóc. Chúng ta nhớ lại Gương mặt Đức Giêsu và chúng ta ngưỡng mộ con người Đức Giêsu, dù vậy chúng ta không thể đón tiếp Ngài ngày hôm nay.

Nhưng ngày hôm nay Giáo Hội vẫn không ngừng đón tiếp Chúa Kitô, và sung sướùng hạnh phúc khi đón tiếp Ngài, vì Giáo Hội tin Ngài đã Phục Sinh, Ngài là Đấng Chúa đang đến. Ngài đã ra đi về cùng Chúa Cha bằng cái chết thập giá của Ngài. Mặc dù Kinh Thánh dùng nhiều hình ảnh có đặc tính không gian để diễn tả sự Siêu Thăng của Ngài (lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha), hành trình về với Cha của Ngài không mang tính không gian, trái lại còn vượt không gian và thờøi gian.

Về với Cha hay đến với Cha cũng là đến với nhân loại, đến với Hội Thánh, để ởû cùng Hội Thánh “mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Đức Kitô Tử Nạn - Phục Sinh vẫn là Đấng Emmanuel và càng là Đấng Emmanuel hơn nữa : Ngài là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt 1,23).

Ngài là Ngôi Lời đã làm người, và mãi mãi là người, vĩnh viễn là người, là con người viên mãn, là Ađam cánh chung, vì đã phục sinh. Ađam cánh chung không còn là xác khí huyết, mà là Thần Khí Tác Sinh (1 Cr 15,45), nên Ngài có thể đến với chúng ta hôm nay trong Thần Khí. Thực ra, từ khi Ngài chịu đóng đinh thập giá và Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại (Cv 2,23-24 ; 3,13-15 ; 4,10-11), Ngài không ngừng đến với nhân loại chúng ta. (résurrection parousiaque ; x. DURRWELL, La résurrection de Jésus, mystère du salut, Cerf 1976).

Ngài chỉ có thể đến với nhân loại trọn vẹn khi Ngài đã “vượït qua thế gian”. Thế gian luôn luôn là lằn ranh ngăn cản sự hiệp thông trọn vẹn giữa Ngài với chúng ta. Chỉ khi nào về cùng Cha, Ngài mớùi đến với chúng ta cách trọn vẹn, và chúng ta sẽ xem thấy Ngài :

“Một ít nữa, các ngươi sẽ không còn trông thấy Ta,

và lại một ít nữa, các ngươi sẽ xem thấy Ta…

và : vì Ta đi đến cùng Cha” (Ga 16,16. 17).

Vượït Qua đi về cùng Cha là đi đến với nhân loại chúng ta trong Thần Khí, do đó Đức Kitô hiện diện với chúng ta trong Thần Khí ; một sự hiện diện mà mắt phàm không thấy được, nên phải cần dấu chỉ. Sự hiện diện trong Thần Khí nhờ dấu chỉ hữu hình được thần học gọi là “hiện diện nhiệm tích” (présence sacramentelle).

Cử hành mầu nhiệm Thánh Thể là cử hành Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, cũng là đón Đức Kitô Vượt Qua đến với chúng ta, là cử hành sự hiện diện của Ngài, là mừøng Ngài có mặt giữa chúng ta, để chúng ta cùng Vượt Qua với Ngài.

Thông điệp Mysterium Fidei của Đức Phaolô VI nhắc nhở cho chúng ta đặc tính hiện thực của sự hiện diện này. Đó là sự hiện diện bí tích và là sự hiện diện bản thể.

Nhưng dù là hiện diện nhiệm tích, đồng thời là hiện diện bản thể, sự hiện diện của Chúa Kitô vẫn là hiện diện trong Thần Khí. Chính Thần Khí làm cho Ngài hiện diện bản thể cách bí tích. Trong khi cử hành Thánh Lễ, Giáo Hội cùng với Chúa Thánh Thần loan báo Chúa Kitô đến. Trước hết, Chúa Thánh Thần loan báo Chúa Kitô qua việc công bố Lời Chúa của Giáo Hội. Một cách nào đó, Chúa Kitô đến và hiện diện qua Lời Chúa. Nhưng cao điểm của loan báo là “làm cho bản thân Đức Kitô hiện diện”, hay, nếu dùng từ ngữ của Công Đồng Trentô mà Đứùc Phaolô VI lập lại là : “Làm cho Đức Kitô hiện diện bản thể”.

Chúa Thánh Thần Kitô-hóa bánh rượu, làm cho bánh rượu trở nên Mình và Máu Chúa Kitô, khi linh mục, thừa tác viên của Giáo Hội, thay mặt Chúa Kitô đọc lời Truyền Phép. Lời Truyền Phép mà linh mục đọc không là một câu thần chú có một ma lực biến bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô, giống như linh mục có quyền trên Chúa Kitô, khiến Chúa đến thì Ngài phải đến.

Lời Truyền Phép chính là Lời của Chúa Kitô, Lờøi mà Chúa Kitô muốn nói qua môi miệng của linh mục. Chúa Kitô đã chọn một số người để họ lập lại y nguyên “lời truyền phép” của Ngài. Trong câu truyền phép, trên bình diện ngôn ngữ, có một sự đồng hóa nào đó giữa Chúa Kitô và vị linh mục, vì linh mục dùng một đại danh từ số ít, vừa chỉ mình, vừa chỉ Chúa Kitô : “Này là Mình Ta” (tôi) - “Này là Máu Ta” (tôi).

Có thể cho rằng Chúa Kitô đảm nhận lời đọc của linh mục, dù không lẫn lộn với linh mục. Chúa Thánh Thần lấp đầy “khoảng cách” giữa linh mục và Đức Kitô, khiến lời truyền phép trở nên “công hiệu”, làm cho nội dung của lời trở thành hiện thực (langage performatif). Nói cách khác đơn giản hơn, sau khi Truyền Phép, bánh không còn là bánh mà là Mình Thánh Chúa, rượu không còn là rượu mà là Máu Thánh Chúa. Đã có một sự thay đổi ; sự thay đổi ấy là thay đổi bản thể hay “biến thể” (conversio eucharistica : transubstantiatio). Đây là công việc của Chúa Thánh Thần, chứù không là công việc của người phàm, dù người ấy là linh mục. Vì ý thứùc điều đó, Giáo Hội thiết tha khẩn cầu trước lúc linh mục truyền phép :

“Chúng con nài xin Cha đổ ơn Thánh Thần xuống mà, thánh hóa của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”. (Kinh Nguyện Thánh Thể II).

“Lạy Cha, chúng con tha thiết nài xin Cha, cũng nhờ Chúa Thánh Thần, mà thánh hóa của lễ chúng con dâng hiến Cha đây, để trở nên Mình và Máu Đức Giêsu Kitô, Con Cha, Chúa chúng con” (Kinh Nguyện Thánh Thể III).

Lời khẩn cầu trong Kinh Nguyện Thánh Thể IV rõ ràng hơn cả :

“Lạy Cha, xin cho Chúa Thánh Thần đoái thương thánh hóa những của lễ này, để biến thành Mình và Máu Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con”.

Chúa Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện thực sự ở giữa chúng ta, trong hình bánh và rượu. Điều đó không có nghĩa là Đức Kitô không hiện diện thực sự bằng những cách khác, ví dụ hiện diện qua lời Kinh Thánh, hiện diện trong Giáo Hội, hiện diện nơi những người nghèo khổ, hiện diện giữa hai hay ba người họp nhau cầu nguyện (Mt 18,20). Tất cả những cách hiện diện đó đều là hiện diện thực. Có điều khác là : Đức Kitô không đồng hóa với Lời Kinh Thánh, Lờøi Kinh Thánh được đọc lên không là bản thân Đức Kitô ; Đức Kitô cũng không đồng hóa với người nghèo, vì người nghèo không là bản thân Đức Kitô, dù Ngài đã nói trong diễn từ về phán xét cánh chung : “Ta đói các ngươi cho ăn, Ta khát các ngươi cho uống…” (Mt 25,35-36).

Trái lại, nơi bí tích Thánh Thể, sau lời truyền phép, bánh và rượu là Đức Kitô, là bản thân Ngài, là bản thể Ngài, là Mình và Máu Ngài. Trong bí tích Thánh Thể, sự hiện diện của Đức Kitô có một chiều sâu hữu thể mà không nơi nào có. Sự hiện diện đích thựïc và đặc biệt này của Đức Kitô là kết quả của một sự thay đổi (conversio eucharistica) mà Công Đồng Trentô cho rằng từ ngữ “biến thể” (transubstantiatio) phù hợp nhất để diễn tả. Tác động thay đổi này, chính là công việc Chúa Thánh Thần làm khi linh mục đọc lời Truyền Phép.

Trong thập niên 60-70, có một số nhà thần học, thời danh nhất là Schillebeeckx, tung ra những từ ngữ như “biến nghĩa” (transignificatio), “biến đích” (transfinalisatio) để chỉ sự thay đổi này. Và Đứùc Thánh Cha Phaolô VI đã lên tiếng, không phải để lên án hay dẹp bỏ, nhưng là để lưu ý coi chừng các từ ngữ ấy, tự chúng không diễn tả được hết ý nghĩa của sự thay đổi bản thể. Có thể chấp nhận những từ ngữ ấy, với điều kiện chấp nhận là có “biến thể” trước, rồi sự thay đổi ý nghĩa hay mục đích mớùi có (MF 46).

Nói cách khác, tiên vàn phải công nhận rằng sau lời Truyền Phép, bánh không còn là bánh, rượu không còn là rượu, dù bên ngoài, mắt chúng ta vẫn thấy hình bánh hình rượu, sau đó mới có thể khai triển những chiều kích khác, những ý nghĩa khác bổ sung vào, để cho con người ngày nay dễ hiểu và dễ sống mầu nhiệm Thánh Thể hơn (MF 48).

Như vậy là phải công nhận, theo như từ ngữ Thông điệp Mys terium Fidei lấy lại của Công Đồng Trentô, sau khi linh mục truyền phép bánh và rượu, Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô, là Thiên Chúa thật và là người thật, hiện diện đích thực (vere), hiện diện thực tế (realiter), hiện diện bản thể (substantialiter) trên bàn thờ (MF 45).

Để tránh mọi sai lạc, phải tuyên tín lại như Bérenger đã làm theo yêu cầu của Đức Thánh Cha Grégoire VII : “Tôi tin thật lòng và tuyên xưng ngoài miệng rằng bánh và rượu trên bàn thờ, bởi kinh nguyện thánh hiến và các lời lẽ của Đấng Cứu Thế, đã thay đổi bản thể, trở nên thịt đích thực (véritable), riêng (propre), và sống động (vivifiant), và máu của Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô ; và sau truyền phép, là thân xác Đức Kitô sinh bởi Trinh Nữ, đã tự hiến để cứùu độ thế gian, đã bị treo trên thập giá và hiện nay ngự bên hữu Chúa Cha ; là máu Đức Kitô chảy ra từ cạnh sườøn Người. Đức Kitô không những hiện diện qua dấu chỉ và hiệu năng của bí tích, mà còn hiện diện trong bản tính riêng và trong bản thể thực sự của mình. (MF 52).

Nhà thần học Schillebeeckx thì cho rằng phải biết phân biệt tín điều của Công Đồng Trentô về sự hiện diện thực (présence réelle) của Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể làm bốn bình diện khác nhau :

- Thứ nhất là “khẳng định” của Mạc Khải trong Kinh Thánh về sự hiện diện thực của Đức Kitô trong mầu nhiệm Thánh Thể ;

- Thứ hai là khẳng định sự thay đổi bản thể bánh và rượu (conversio totius entis) trở thành Mình và Máu Đức Kitô ;

- Thứ ba là cách trình bày tín điều của thời bấy giờ, dùng triết học kinh viện để diễn tả ;

- Thứ bốn là chính từ ngữ được dùng : chữ “transubstantiatio” được dùng lần đầu vào khoảng năm 1140, lúc bấy giờ chưa được giải thích theo nghĩa triết học Aristote. Vả lại Công Đồng Trentô cũng chỉ đánh giá từ ngữ này là “rất phù hợp” : “Có một sự biến đổi kỳ diệu (conversio mirabiliosa) tất cả bản thể bánh trở nên Mình Đức Kitô, và bản thể rượu thành Máu Đức Kitô. Cái còn lại được gọi là “dạng” (species). Dùng từ ngữ “transubstantiatio” để chỉ sự biến đổi này thì rất phù hợp” (D 1652).

Như vậy, đối với Schillebeeckx, vẫn có quyền trình bày tín điều bằng một loại ngôn ngữ khác, tựa vào một thứ triết học khác phù hợp với thời đại hơn.

Như đã khảo sát, Thông điệp Mysterium Fidei có hơi dè dặt và lưu ý chúng ta phải cẩn thận. Điều đó hợp lý và cần thiết, vì Mầu Nhiệm Thánh Thể là mầu nhiệm trọng tâm của đời sống Giáo Hội, không thể suy tư vội vã chỉ vì lý do làm sao cho hợp thời. Nhưng Thông điệp cũng không hoàn toàn đóng cửa, cấm những suy tư mớùi, ngay cả những suy tư mà Giáo Hội cho là “bất túc” (transfinalisatio, transignificatio). Thông điệp chỉ lưu ý là nên dựa vào Mạc Khải và Truyền Thống muôn đời của Giáo Hội nhiều hơn là những suy tư thuần túy nhân loại.

Thông điệp còn có ưu điểm là nhắc lại những cách hiện diện khác của Chúa Kitô trong Giáo Hội cũng là hiện diện thực, điều đó chứùng tỏ quan điểm của Thông điệp không hoàn toàn “đóng khung” hay “cứùng ngắc” :

- Đức Kitô hiện diện sống động và đích thực trong Giáo Hội cầu nguyện (MF 35)

- Đức Kitô hiện diện thực sự trong Giáo Hội tổ chức và thực hành bác ái (MF 35)

- Đức Kitô hiện diện thực sự trong Giáo Hội loan báo Tin Mừng (MF 36)

- Đức Kitô hiện diện trong Giáo Hội hướng dẫn và điều hành công việc mục vụ (MF 37).

Mục tiêu của việc nhắc lại này nhằm làm nổi bật tính “đặc biệt” của sự hiện diện của Đức Kitô trong mầu nhiệm Thánh Thể. Sự so sánh này làm cho chúng ta tránh được “tư tưởng mơ hồ” về bí tích Thánh Thể, đồng thời không giảm giá trị các thứù sinh hoạt khác trong Giáo Hội. Các sinh hoạt ấy càng có giá trị, khi quy hướng về Mầu Nhiệm Thánh Thể là “Nguồn Mạch và là Chóp Đỉnh” của đờøi sống Giáo Hội, như Công Đồng Vaticanô II khẳng định.

Thông điệp có một khuyết điểm là hơi thiếu “chiều kích Ba Ngôi”, không đặt nặng đủ vai trò của Chúa Thánh Thần, nên còn nhiều chỗ không có sức thuyết phục. Điều này cũng dễ hiểu, vì sắc thái “quy-Kitô” của thần học của Đức Phaolô VI. Thần học này còn phải được bổ sung, nhờ sự tiếp xúc nhiều hơn với Giáo Hội Đông Phương, mà kết quả hiện nay chúng ta đang gặt hái.

Các khuynh hướng thần học mà Thông điệp nhắc tới, đã phản ánh được não trạng của thời đại, nhưng thời bấy giờø vẫn chưa rõ, chưa đạt chất lượng cao. Theo thiển ý của chúng tôi, nếu so sánh xưa với nay, thì ngày xưa người ta nhấn mạnh nhiều đến yếu tố “sacramentum et res” của bí tích Thánh Thể, ngày nay, người ta nhấn mạnh nhiều hơn đến yếu tố “res tantum” (do ảnh hưởng sâu xa của Vatican II).

Khi nói tới ý nghĩa, mục đích của Bánh Thánh Thể, nên định vị suy tư thần học trong phần bàn về “res tantum”, nghĩa là sự sống của người kitô-hữu, đời sống Giáo Hội, để khỏi lẫn lộn và đề ra những khẳng định hàm hồ. Còn vấn đề “biến thể”, trên bình diện thần học, có liên hệ nhiều hơn với yếu tố “sacramentum et res”, nghĩa là chính thực tại Mình và Máu Đức Kitô.

Ngày hôm nay, nếu muốn khai triển nhiều về sự hiện diện của Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể, phải trình bày theo chiều hướng chủ vị nhiều hơn. Sự hiện diện của Chúa Kitô là sự hiện diện chủ vị (présence personnelle), hiện diện của Đấng là Tình Yêu tự hiến : “Này là Mình Ta sẽ bị nộp vì anh em ; …Máu Tân Ước vĩnh cửu sẽ đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội”.

Chúa Kitô hiện diện với chúng ta là những người tin vào Ngài. Ngài đến với chúng ta, và chúng ta đón Ngài trong đức tin (trong Thần Khí). Nếu chúng ta không đón Ngài trong Thần Khí, mà vẫn dừng lại xác phàm, chúng ta không gặp gỡ được Ngài, vì chính Ngài, sau khi đã khẳng định : “Ai không ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53), cũng đã tuyên bố : “Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì” (Ga 6,63).

Nếu thần học trong hai thập niên 60-70 và 70-80 nhấn mạnh nhiều hơn đến yếu tố thứ ba (res tantum) trong Mầu Nhiệm Thánh Thể, thì thần học hôm nay, sắp bước sang năm 2000, với sự hồi sinh của tôn giáo nhiều nơi trên thế giới, phải mạnh dạn trở về với yếu tố thứ hai (res et sacramentum), hãy mạnh dạn giới thiệu, mạnh dạn loan báo Đức Kitô Thánh Thể cho con người hiện đại, để tự họ, họ có thể múc lấy sự sống mà họ luôn khao khát. Hãy mạnh dạn tuyên xưng và làm chứng cho sự hiện diện thực của Chúa Kitô ở giữa lòng thế giới, phải hỗ trợ cho lời mời gọi của Đức Gioan Phaolô II : “Hãy mở cửa cho Đấng Cứu Thế”.

Việc làm này sẽ sâu sắc hơn, nếu được lồng vào thần học về Chúa Ba Ngôi, nhất là Thánh-Linh-Học. Nhân loại hôm nay đang cần gặp Đức Kitô Cứu Thế, nhờ Thần Khí và trong Thần Khí. Đối với người tín hữu, tấm bánh bẻ ra là bằng chứng cho Tình Yêu bao la nhất và cụ thể nhất của Thiên Chúa, mạc khải nơi Đức Kitô, Đấng trở thành lương thực hằng ngày cho mỗi một người chúng ta, lương thực cần thiết để kiến tạo một thế giới mới.