Trang 1 trong 2 12 Cuối cùngCuối cùng
kết quả từ 1 tới 20 trên 26

Ðề tài: 48 Lời Nguyện của Đức Phật A Di Đà

  1. #1

    Mặc định 48 Lời Nguyện của Đức Phật A Di Đà

    48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà

    Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải
    Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

    1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    2. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    3. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân màu vàng ròng thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    4. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi sắc thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    5. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng biết túc mạng, tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    6. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhãn, tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    7. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    8. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được tha tâm trí, tối thiểu là biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    9. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thần túc, tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    10. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    11. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    12. Giả sử khi tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    13. Giả sử khi tôi thành Phật, thọ mạng có hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    14. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng Thanh Văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều thành bực Duyên Giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    15. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    16. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi mà còn nghe danh từ bất thiện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    17. Giả sử khi tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    18. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    19. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương phát Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.


    20. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    21. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    22. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    23. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    24. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    25. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng thể diễn nói nhứt thiết trí thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    26. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi chẳng được thân Kim Cương Na la diên thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    27. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn và tất cả vạn vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc đặc biệt lạ lùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu là có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    28. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi, nhẫn đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết đạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    29. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    30. Giả sử khi tôi thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    31. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    32. Giả sử khi tôi thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    33. Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh tôi chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhơn. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    34. Giả sử khi tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi mà chẳng được Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    35. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    36. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    37. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ Tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    38. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợi tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
    39. Giả sử khi tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ Kheo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    40. Giả sử khi tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    41. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    42. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    43. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    44. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ Tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    45. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được phổ đẳng tam muội, an trụ trong tam muội nầy đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    46. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    47. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

    48. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

  2. #2

    Mặc định

    Dù biết rồi, đọc đi đọc lại càng tốt

    Trong quyển Phật lục do trần trọng Kim viết, 48 nguyện này bị xáo trộn lung tung, nội dung nhiều điều thiếu lời làm ý sai

  3. #3
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Đạo hữu nào muốn xem cả hình minh họa thì vào đây :
    http://www.thegioivohinh.com/diendan...i+%C4%91%C3%A0
    A Di Đà Phật.
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  4. #4

    Mặc định

    Đại nguyện thứ mười tám, rất nhiều tài liệu biên dịch sai lạc.

    Nhiều tài liệu ghi là "Nếu vướng tội ngũ nghịch thì không được vãng sinh". Nói thế là không đúng với sự thật, là không hiểu Ngài và pháp của Ngài.

    Phải hiểu rằng: "Nếu vướng tội ngũ nghịch, hủy báng chánh pháp mà thành tâm sám hối, niệm hồng danh Adiđà vẫn vãng sinh Cực Lạc" mới chính xác.

    Đầy đủ là:

    18. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

  5. #5
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Có những tội có thể sám hối được, tội ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hoại hòa hợp Tăng) thì dù có sám hối cũng phải chịu quá báo rất nặng, khó tái sinh về thế giới an lành.
    A Di Đà Phật.
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  6. #6

    Mặc định

    Tuy trọng tội vô gián, ngũ nghịch cũng không thể thắng công đức Xưng Danh. Thanh bảo kiếm là danh hiệu Đức Adiđà, hễ trì niệm thì ma duyên không gần được. Thường xưng niệm thì tội chướng tiêu diệt.

    Lấy người Niệm Phật mà thí dụ cho hoa sen thì hoa sen là nghĩa không ô nhiễm. Danh hiệu của Bổn Nguyện Thanh Tịnh (Nam Mô Adiđà Phật) thì sự dơ bẩn của thập ác, ngũ nghịch không thể làm ô nhiễm được, nên mới thí dụ như thế.

    Hạng tội chướng nặng nề, ngu si ám độn đi nữa, nếu chịu trì danh thì sẽ được vãng sinh vì đó là Bổn Nguyện của Đức Phật Adiđà vậy. Tội chướng nặng nề cũng đừng mặc cảm, vì ngũ nghịch, thập ác cũng được vãng sinh. Dù mười niệm hay một niệm đi nữa, hễ chí tâm thì Phật lai nghinh.

    Không để ý đến thiện ác của bản thân, chỉ một lòng cầu vãng sinh mà Niệm Phật. Đó gọi là tha lực Niệm Phật.

    Cho rằng bản thân bị tội chướng khó được vãng sinh là điều sai lầm lớn.

    Chẳng cần để ý là tâm mình thiện hay ác, tội chướng nặng hay nhẹ mà chỉ nên dùng miệng xưng Nam Mô Adiđà Phật và phát khởi cái tâm quyết định "Nương nhờ Phật thệ nguyện chắc chắn vãng sinh".

    Tuy tạo ngũ nghịch mà được nghe danh hiệu của đức Phật Adiđà thì hỏa xa (cảnh địa ngục) tự nhiên biến mất, liên đài hiện đến lai nghinh.

    Người tội chướng nặng nề không có phương tiện gì khác để giải thoát, do xưng danh hiệu được vãng sinh Cực lạc. Đó là nhờ vào Di Đà nguyện lực.

    Tuy biết rằng "dù tội ngũ nghịch cũng không chướng ngại vãng sinh" nhưng phải cẩn thận ngay cả tội nhỏ cũng chớ phạm. Phật Adiđà tuy không bỏ rơi kẻ ác nhưng người ưa tạo ác nghiệp thì chẳng phải là đệ tử của Phật.

    Đức Phật Adiđà thương xót hết thảy chúng sinh, dù thiện hay ác, Ngài đều cứu độ. Nhưng thấy người lành thì Ngài vui, thấy kẻ ác thì Ngài buồn.

    Hễ có tín tâm thì tội lớn cũng diệt, không có tín tâm thì tội nhỏ vẫn còn. Nên hổ thẹn là mình không có tín tâm.

    (Trích trong cuốn Di Đà siêu thế nguyện, 37 pháp hành Bồ Tát đạo)

    Tu pháp Adiđà cần phải có niềm tin tuyệt đối, phát nguyện vãng sinh cõi Ngài, niệm hồng danh Adiđà nhất định vãng sinh.

    Không hiểu Ngài, không tin Ngài, làm sao Ngài độ cho được, làm sao vãng sanh Tây phương Cực lạc được.

  7. #7

    Mặc định

    Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân

    LỜI MỞ ĐẦU

    Trong thời đại hiện nay và nhất là đối với hàng cư sĩ tại gia, Niệm Phật có thể nói là con đường tất yếu để ra khỏi sinh-tử. Đây là Pháp Môn Tha Lực duy nhất trong Phật Pháp mà điểm then chốt là tin tưởng tuyệt đối vào Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà.

    Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà là dùng Danh Hiệu của Ngài để cứu độ tất cả chúng sanh. Không hiểu rõ lý nầy, người ta thường cho rằng Xưng-Danh là để cho hạng hạ căn không đủ căn cơ để tu những pháp môn như Quán Thật Tướng, Quán Tưởng, Quán Tượng, v.v… Và khi tu Niệm Phật thì phần nhiều đều mang tâm niệm tự lực, vẫn cứ trông cậy vào sức mình để được vãng sinh. Đó là Tự Lực Niệm Phật. Bởi thế, tu rất nhọc nhằn mà cũng không chắc là mình có được vãng sinh hay không. Những ngộ nhận nầy chính dịch giả cũng mắc phải. Hơn một năm trước đây, may mắn thay, gặp được tác phẩm Pháp Nhiên Ngữ Đăng Lục. Như kẻ mù được sáng, người sắp chết đuối gặp phao. Hốt nhiên tín tâm phát khởi, nhận ra lý Tha Lực Niệm Phật. Từ đây, Niệm Phật trở thành một niềm vui không thể nghĩ bàn, vãng sinh Cực Lạc là điều chắc chắn chứ không cần đến lúc lâm chung. Do đó, xin chọn những pháp ngữ tinh yếu của Ngài để dâng tặng người hữu duyên.

    Xin nguyện rằng hễ ai đọc đến, đều phát khởi tín tâm, niệm Phật mà được vãng sinh Cực Lạc.

    TIỂU SỬ NGÀI PHÁP NHIÊN THƯỢNG NHÂN

    Pháp Nhiên Thượng Nhân là Khai Tổ của Tông Tịnh Độ Nhật Bản. Ngài sinh năm 1133. Thân phụ của ngài là một vị quan thời đó. Do đã quá tứ tuần mà vẫn chưa có con nối dõi, nên cha mẹ Ngài đã trai giới thanh tịnh rồi vào chùa tụng kinh 7 ngày đêm để xin Phật gia hộ. Đến đêm thứ bảy, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, mẹ Ngài thấy một lão tăng đưa cho bà một con dao dùng để cạo đầu người xuất gia, bảo bà nuốt. Sau đó bà hoài thai. Cha Ngài đã đoán rằng sẽ sinh con trai và sau này xuất gia làm một Đại sư lỗi lạc. Từ khi mang thai Ngài, thân tâm của mẹ ngài trở nên an lạc lạ thường, bà phát tâm ăn chay trường và thâm tín Tam Bảo.

    Khi đản sinh Ngài, có hai luồng hào quang ở trên không chiếu xuống, tiếng chuông lảnh lót. Đầu Ngài vuông vắn có góc, mắt hai tròng, tướng mạo phi phàm.

    Năm Ngài lên chín, phụ thân ngài bị địch quân sát hại. Trước khi qua đời kêu Ngài đến và dạy rằng : “Nầy con! Đây là túc nghiệp của cha, tuyệt đối không nên ôm hận báo thù. Hãy nhớ rằng oán không thể diệt oán. Nếu mang cái tâm báo thù thì đời đời kiếp kiếp sẽ giết hại lẫn nhau không bao giờ dứt. Mình biết đau thì người khác cũng biết tiếc mạng sống. Con sau này thành nhân hãy cầu vãng sanh Cực Lạc, lợi lạc bình đẳng cho người và mình!”. Dặn dò xong xuôi cha ngài lớn tiếng niệm Phật mà an ổn qua đời.

    Năm 14 tuổi, tuân theo di ngôn của thân phụ, ngài xuất gia với Pháp sư Giác Quán ở chùa Bồ Đề tại quê nhà. Ngài huệ giải mẫn tiệp, nhất văn thiên ngộ. Pháp sư Giác Quán thấy Ngài khí lượng bất phàm, không nỡ đề Ngài bị mai một, nên đưa Ngài lên Tỷ Duệ Sơn - một tự viện nổi tiếng ở kinh đô - để tham học với Pháp sư Nguyên Quang.

    Đến ở Tỷ Duệ Sơn không bao lâu thì Pháp sư Nguyên Quang bảo rằng: “Đây là tuấn mã. Không thể để uống phí ở đây!” Rồi đưa ngài đến A-xà-lê Hoàng-viên, một bậc Tông sư của Tông Thiên Thai thời đó. Vừa thấy Ngài Tổ Hoàng Viên đã nói rằng: “Hồi hôm ta nằm mộng, thấy một vầng trăng tròn chiếu vào chùa. Phải chăng đây là điềm lành báo trước”. Rồi thu nhận Ngài làm đệ tử, bấy giờ Ngài mới 15 tuổi. Chưa đầy 3 năm sau, Ngài đã thấu triệt tất cả những áo diệu của giáo pháp Thiên-Thai. Tổ Hoàng-Viên đã có ý trao truyền Tổ vị cho Ngài. Nhưng Ngài không muốn bị ràng buộc bởi danh lợi nên quyết tâm ra đi. Năm 18 tuổi, Ngài ẩn tu ở núi Hắc Cốc, tham học với Hòa Thượng Duệ Không, một bậc Tông Tượng của Mật Tông thời bấy giờ. Thấy Ngài khí độ phi phàm, dù rằng tuổi còn nhỏ mà không cần phải sách lệ, nên đặt pháp hiệu cho Ngài là Pháp Nhiên (có nghĩa là “Pháp vốn như vậy”), và pháp danh là Nguyên Không (lấy chữ “Nguyên” của Đại sư Nguyên Quang và chữ “Không” của Đại sư Duệ Không). Tại đây Ngài được truyền thụ Viên Thừa Đại Giới và Du Già Bí Pháp.

    Không những thông tuệ, Ngài còn rất hiếu học. Tất cả Kinh, Luật, Luận đều được Ngài duyệt đọc cẩn thận. Ngài còn nghiên cứu tường tận về mọi tông phái. Không những thế, Ngài lại đọc khắp bách gia của cả Trung Hoa lẫn Nhật Bản. Ngài từng nói rằng: “Bất cứ kinh điển hay sách vở gì, hễ tôi đọc qua vài lần là tự nhiên thấu triệt, không cần phải suy nghĩ”. Bởi thế, Ngài tinh thông mọi Tông pháp mà không cần phải học với ai cả. Ngài duyệt đọc Đại Tạng cả thảy 5 lần và được đương thời tôn xưng là Trí Huệ Đệ Nhất.

    Về phương diện tu hành, Ngài cũng có rất nhiều chứng nghiệm. Có lần Ngài nhập thất 21 ngày tu Pháp Hoa Tam Muội, cảm đức Phổ Hiền cưỡi voi trắng đến chứng minh, Sơn Vương Thần Tướng hiện hình thủ hộ. Khi Ngài duyệt đọc kinh Hoa Nghiêm, có con rắn nhỏ màu xanh nằm khoanh trên bàn. Thị giả Tín Không thấy vậy rất sợ hãi, dùng cây đem rắn ra ngoài. Khi trở vào lại thấy nằm nguyên ở chỗ cũ. Đêm đó Tín Không nằm mộng thấy một con rồng lớn đến bảo rằng: “Tôi là Long Thần thủ hộ kinh Hoa Nghiêm, xin đừng sợ hãi”.

    Mỗi lần Ngài nhập thất tu Chân-ngôn Mật-quán là cảm ứng các điềm lành như liên hoa, bảo châu, yết ma và v.v… hiện ra. Rất nhiều lần Ngài đọc kinh ban đêm mà không cần đốt đèn. Ánh sánh phát ra từ trán của Ngài hoặc từ trong thất. Những điều lạ thường như trên, kể ra không xiết. Nhưng dù vậy Ngài vẫn còn băn khoăn chưa thật sự an tâm. Trong cả Đại Tạng Kinh, Ngài hâm mộ nhất là Bộ “Quán Kinh Sớ” của Tổ Thiện Đạo. Ngài đọc đi đọc lại nhiều lần và bỗng nhiên ngộ được ý chỉ DI-ĐÀ SIÊU-THẾ NGUYỆN. Ngài vô cùng hoan hỷ, chẳng khác gì trong đêm tối mà gặp được minh đăng. Ngài lập tức xả bỏ tất cả những pháp môn đã và đang tu, rồi nhập thất chuyên tu Tịnh Độ, Niệm Phật, có đêm Ngài nằm mộng thấy Đại sư Thiện Đạo đến bảo với Ngài rằng: “Tôi là sư Thiện-Đạo đời Đường. Ông có thể hoằng dương Chuyên tu Niệm Phật, nên tôi đến để chứng minh. Từ nay ông có thể hoằng pháp thịnh hóa khắp cả bốn phương”.

    Năm 43 tuổi, Ngài rời Hắc Cốc đến trụ tích ở Đông Cát Thủy và khai sáng Tông Tịnh Độ. Trước đó tuy có không ít người Niệm Phật, nhưng không có Tông Tịnh Độ riêng biệt. Từ đây Tông Tịnh Độ xuất hiện và liên tục truyền thừa cho đến thời hiện đại ở Nhật Bản. Đây là một điểm đặc sắc cần lưu ý, vì ở Trung Hoa không hề có Tông Tịnh Độ, và dĩ nhiên không có sự kế thừa. Các Đại sư hoằng dương Tịnh Độ ở Trung Hoa có tính cách tự phát và chỉ ở trong đời của các Ngài mà thôi. Từ khi Ngài khai xướng Tông Tịnh Độ, những cảm ứng linh dị cũng nhiều không kể xiết. Xin kể đôi điều để tăng lòng kính tín.

    Đương thời Tể tướng Đằng Nguyên Kiêm Thực rất ngưỡng mộ Thượng Nhân. Có lần thỉnh ngài vào điện Nguyệt Luân để tham vấn về Tịnh Tông Yếu nghĩa, giảng xong Ngài từ biệt ra về, khi đi đến cây cầu ở trước điện, tể tướng quỳ lạy dưới đất không cầm được nước mắt, giây lâu mới quay lại hỏi các người tùy tùng: “Vừa rồi các người có thấy Thượng Nhân trên đầu có hào quang, dưới chân có hoa sen đỡ rời khỏi mặt đất, hình dáng giống như Đức Đại Thế Chí hay không?”. Có người thấy, có người không. Từ đó cầu này được đặt tên là cầu Viên Quang.

    Có lần cử hành Niệm Phật thất 21 ngày ở Chùa Linh Sơn. Vào nửa đêm ngày thứ 5, có vài người thấy Đức Đại Thế Chí cùng với đại chúng kinh hành Niệm Phật nên vội đảnh lễ. Giây lát ngước lên thì hình Đức Đại Thế Chí biến thành hình Thượng Nhân. Do đó mới biết rằng ngài là hóa thân của Đức Đại Thế Chí.

    Từ khi Thượng Nhân sáng lập Tông Tịnh Độ thì cơ hóa độ thịnh hành vô cùng. Từ vua chúa công khanh cho đến hạng dân giả đều qui ngưỡng Ngài. Và hẳn nhiên cũng không thiếu kẻ ganh ghét Ngài. Do lỗi lầm của đệ tử, Ngài bị vu cáo và phải bị đi đày một thời gian ngắn. Nhưng Ngài vẫn an nhiên dạy Đạo cho bất cứ ai đến tham vấn mà không hề phân biệt. Cũng nhờ lần đi đày này mà nhiều người có dịp gặp Ngài và được vãng sanh.

    Ngài vãng sanh vào lúc giữa trưa ngày 25 tháng 2 năm 80 tuổi (1212). Trước đó vài ngày, ngài nói với các đệ tử:

    “ Tiền thân của Thầy là một vị tăng ở bên Thiên Trúc (Ấn độ cổ thời), thường tu hạnh đầu đà. Nay đến chốn này học Thiên Thai Tông, sau rốt mở Tịnh Độ Tông, hoằng dương Niệm Phật.”

    Đệ tử Thế Quán hỏi: Thưa Thầy! Là vị nào?

    Ngài đáp: Là ông Xá-Lợi-Phất.

    Lại có đệ tử khác hỏi: Thầy nay có vãng sanh về Thế-giới Cực-Lạc không?

    Ngài đáp: Thầy vốn là người của Cực Lạc thì dĩ nhiên trở về Cực Lạc.

    Các đệ tử thiết trí tượng Đức Phật A Di Đà và xin Ngài chiêm ngưỡng. Ngài lấy tay chỉ lên không mà nói rằng: “Phật hiện Chân thân kìa, các con có thấy không? Thầy mười mấy năm nay thường thấy Chân thân của Phật, Bồ Tát và Cực Lạc Trang Nghiêm, nhưng tuyệt đối không nói với ai. Nay sắp lâm chung, nên không ngại gì mà không nói cho các con biết”.

    Ngày 22 các đệ tử đều đi nghỉ hết, chỉ còn một mình Thế Quán hầu Ngài. Có một người đàn bà đi xe đến và xin được gặp riêng Thượng Nhân. Hai người đàm đạo rất lâu. Khi bà ra về, Thế Quán rất lấy làm lạ nên mới đi theo sau, nhưng chẳng bao xa thì bà đột nhiên biến mất. Thế Quán vào hỏi Thượng Nhân. Ngài đáp: “Bà đó là phu nhân Vi Đề Hy!”.

    Từ ngày 23 cho đến ngày 25, Ngài lớn tiếng Niệm Phật cùng với đại chúng để kết duyên lần cuối. Đến giữa trưa ngày 25, ngài đắp y Tăng già lê, đầu Bắc diện Tây (nằm nghiêng bên phải, mặt quay về phía Tây) tụng bài kệ sau rồi an nhiên thị-tịch, thế-thọ 80, tăng lạp 66.

    “ Quang-minh biến-chiếu,

    Niệm-Phật chúng-sanh

    Nhiếp-thu bất-xả”.

    (Tạm dịch: Ánh sáng chiếu khắp mười phương thế giới. Thu nhiếp chẳng rời chúng sanh Niệm Phật).

    Trước khi Ngài thị tịch 5 ngày (ngày 20) mây ngũ sắc giống như tranh Phật che phủ chùa, khiến cho tất cả đại chúng được thấy đều rơi lệ. Các đệ tử nói rằng: “Đã có mây lành hiện ra thì Thầy sắp vãng sinh rồi ”. Ngài bảo: “Lành thay! Những người được thấy nghe hẳn sẽ tăng trưởng tín tâm!”.

    Sau khi Ngài vãng sinh 16 năm, các đệ tử mở kháp đá đựng di thể của Ngài thì toàn thân vẫn như cũ, dung mạo từ hòa. Đệ tử tăng tục hơn ngàn người hộ tống di hài Ngài về Tây Giao làm lễ trà tỳ. Trong khi làm lễ, mây lành hiện ra, hương thơm phảng phất trên các cây tùng nên từ đó nơi này có tên là “Tử Vân Tùng”, hiện nay là chùa Quang Minh. Tác phẩm quan trọng nhất của ngài là TUYỂN TRẠCH BỔN - NGUYỆN NIỆM PHẬT TẬP 4 đang được chuyển dịch sang Việt ngữ.

    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

    CÁC HẠNH VÃNG SANH, NIỆM PHẬT ĐỆ NHẤT

    1) Thánh Đạo Môn tuy thâm diệu, nhưng thời điểm và căn cơ chẳng tương ứng. Tịnh Độ Môn hình như là nông cạn, nhưng thời điểm và căn cơ đều tương ứng. Thời Mạt Pháp một vạn năm, các kinh điển khác đều tiêu diệt, chỉ còn pháp môn niệm Phật A Di Đà để cứu độ chúng sanh.

    2) Tông Tịnh Độ siêu hơn các tông. Hạnh Niệm Phật siêu hơn các hạnh. Bởi vì thâu nhiếp tất cả các cơ vậy.

    3) Chẳng luận có tội hay vô tội, chẳng kể là trì giới hay phá giới, nếu căn cứ vào thời điểm và căn cơ thì chỉ có pháp môn Tịnh Độ (Hạnh Niệm Phật) là yếu pháp để thoát khỏi sinh tử trong đời này.

    4) Để đời này thoát khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Để được vãng sinh Tịnh Độ, không gì hơn Niệm Phật.

    5) Tu Niệm Phật để cầu vãng sinh Tịnh Độ, thì tương ứng với tâm của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà. Tu các hạnh khác để cầu vãng sanh Tịnh Độ thì mâu thuẫn với tâm của Đức Thích Ca, Đức A Di Đà.

    6) Để được vãng sinh cõi Cực Lạc, thì dù diệu hạnh gì chăng nữa cũng không hơn niệm Phật. Vì sao thế? Vì niệm Phật là hạnh tương ưng với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà vậy.

    7) Ngoài niệm Phật, tất cả hạnh khác đều chẳng tương ưng với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà. Bởi vậy, tuy là diệu hạnh cũng không bằng niệm Phật. Muốn được sinh sang cõi nước đó, nên thuận theo Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà.

    8) Niệm Phật là hạnh tương ưng với Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà, nên mười phương hằng sa chư Phật đều chứng thành. Các hạnh khác chẳng tương ưng Bổn Nguyện, nên chư Phật chẳng chứng thành. Bởi thế nên thường niệm Phật để mười phương chư Phật hộ niệm.

    9) Kinh QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ chép rằng: “Quang minh soi chiếu khắp mười phương thế giới, thâu nhiếp không rời các chúng sinh niệm Phật ”. Quang minh của Đức A Di Đà chỉ soi chiếu người niệm Phật, chẳng soi chiếu người tu các hạnh khác. Bởi thế người cầu sinh sang cõi Cực Lạc phải biết Niệm Phật là trọng yếu.

    10) Bổn Nguyện thâm trọng sau năm kiếp tư duy chép trong kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ là: “Chẳng kể thiện hay ác, chẳng quản trì giới hay phá giới, chẳng tính tại gia hay xuất gia, chẳng luận có trí hay không có trí. Chỉ pháp Đại Bi Bình Đẳng, nay đã thành Phật ”. Trụ vào cái Tâm Tha Lực ( nguyện lực của Đức A Di Đà) mà Niệm Phật thì chỉ trong khoảnh khắc, đã được dự vào sự nhiếp thọ của Đức Phật A Di Đà.

    11) Niệm Phật không có hình thức. Ngoài việc xưng Danh hiệu, không có hình thức. Ngoài việc xưng Danh hiệu, không có hình thức gì cả.

    12) Niệm Phật hoàn toàn không có hình thức. Chỉ cần biết rằng: “Hễ xưng Danh hiệu Đức Phật A Di Đà thì được sinh sang cõi Cực Lạc ”, do đó chí tâm niệm Phật để cầu vãng sinh.

    13) Niệm Phật lấy không hình thức làm hình thức. Chỉ biết rằng thường niệm Phật thì đến lúc lâm chung nhất định Phật lai nghinh mà vãng sinh sang cõi Cực Lạc.

    14) Vấn đề niệm Phật tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng xưng Lục Tự Hồng Danh ( NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ) thì đã bao hàm tất cả.

    15) Niệm Phật chẳng phải là quán Pháp Thân Phật, chẳng phải là quán tướng hảo của Phật. Chỉ một lòng chuyên xưng danh hiệu Đức A Di Đà, đó là niệm Phật.

    16) Chỉ biết rằng: “Bổn Nguyện của Đức A Di Đà chẳng hư dối, hễ xưng niệm danh hiệu của Ngài thì nhất định được vãng sinh”. Ngoài ra không cần nghĩ gì khác.

    17) Tất cả căn cơ cứ tùy theo thiên tính mà niệm Phật để vãng sinh. Cái thân hiện nay do túc nghiệp đời trước mà có, nên trong đời này không thể thay đổi. Như người nữ mà muốn đổi thành người nam trong đời này thì không thể được.

    Cứ tùy theo thiên tính mà niệm Phật. Người trí thì lấy trí mà niệm Phật vãng sinh. Người ngu thì dùng ngu mà niệm Phật vãng sinh. Có đạo tâm cũng niệm Phật vãng sinh. Không đạo tâm cũng niệm Phật vãng sinh. Người có tà kiến cũng niệm Phật vãng sinh.

    Hàng phú quý, hạng bần cùng, người tham lam, kẻ tánh nóng, bậc có từ bi, hạng không có từ bi, do BỔN NGUYỆN KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ, hễ niệm Phật thì đều được vãng sinh.

    18) Hỏi: Người xuất gia niệm Phật với người tại gia niệm Phật hơn kém ra sao? Đáp: Người xuất gia niệm Phật với người tại gia niệm Phật công đức bằng nhau không có hơn kém. Hỏi: Chỗ này quả thật tôi không hiểu. Vì sao người xuất gia không gần đàn bà, ăn chay trường mà niệm Phật, do đó rất đáng quý. Người tại gia thường hay nghĩ đến sắc dục, ăn thịt uống rượu mà niệm Phật, hẳn nhiên là thấp kém. Làm sao mà bằng nhau được? Đáp. Công đức bằng nhau không có hơn kém. Vì sao vậy? Người không biết BỔN NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ mới có nghi vấn này!

    19) Anh Cát Đằng (một đệ tử tại gia thuộc hạng hạ lưu của Ngài) cũng mong Phật cứu độ mà niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Pháp Nhiên nầy cũng mong Phật cứu độ mà niệm NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. Hai bên hoàn toàn không khác gì nhau.

    20) Niệm Phật của Pháp Nhiên nầy với niệm Phật của anh Cát Đằng hoàn toàn như nhau. Nếu cho rằng không giống nhau, là hoàn toàn không biết ý nghĩa của niệm Phật vậy. Như lấy gấm vóc mà gói vàng ròng, hoặc lấy vải dơ mà gói vàng thì cũng là vàng ròng cả.

    21) Hỏi: Niệm Phật khi tâm thanh tịnh với niệm Phật khi tâm động hơn kém ra sao?

    Đáp: Công Đức bằng nhau, không có gì sai khác!

    22) Hỏi: Tôi tuy niệm Phật mà tâm cứ tán loạn không biết làm sao đây?

    Đáp: Chuyện đó thì Pháp Nhiên nầy cũng làm không nổi!

    23) Tâm của hạng phàm phu làm sao mà không tán loạn được. Cũng chính vì thế mới gọi là Pháp Môn Dễ Tu.

    24) Đã sinh làm người trong cõi dục giới tâm địa nầy thì tâm đều tán loạn cả. Nếu bảo rằng phải bỏ cái tâm tán loạn mới vãng sinh được thì thật là vô lý.

    Tán tâm niệm Phật mà được vãng sinh, đó là chỗ đáng quý của BỔN NGUYỆN vậy.

    25) Chẳng phải thanh tịnh cái tâm của mình, trừ đi nghiệp chướng nầy rồi mới niệm Phật, mà do thường niệm Phật thì tội chướng tiêu diệt.

    26) Dù trọng tội vô gián (ngũ nghịch) cũng không thể thắng công đức xưng Danh. Thanh bảo kiếm là Danh hiệu Đức A Di Đà, hễ trì niệm thì ma duyên không gần được. Thường xưng niệm Danh hiệu Ngài thì tội chướng tiêu diệt.

    27) Trong khi niệm Phật mà tâm vọng động là thông bệnh của tất cả hạng phàm phu. Nhưng hễ có chí nguyện vãng sinh mà Niệm Phật thì tuyệt đối không chướng ngại. Ví như chỗ thâm tình của cha con, dù có bất hòa đôi chút, thì chỗ thâm tình đó vẫn không thay đổi, vẫn là cha con.

    28) Lấy người Niệm Phật mà thí dụ cho hoa sen, vì hoa sen là nghĩa không ô nhiễm. Đối với Danh hiệu của Bổn Nguyện Thanh Tịnh (NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT) thì sự dơ bẩn của thập ác, ngũ nghịch không thể làm ô nhiễm được nên mới thí dụ như thế.

    29) Không cần để ý đến vọng niệm, tán loạn… mà chỉ chuyên cần xưng Danh hiệu. Nếu thường xưng Danh hiệu thì do công đức của Phật Danh, vọng niệm tự dừng, tán loạn tự yên, tam nghiệp (thân, khẩu, ý) tự điều hòa, nguyện tâm tự phát. Bởi thế:

    “ Khi nguyện tâm còn yếu, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.

    Khi tâm tán loạn nhiều, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.

    Khi vọng niệm sinh khởi, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.

    Khi thiện tâm phát sinh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.

    Khi bất tịnh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.

    Khi thanh tịnh, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.

    Khi tam tâm còn thiếu kém, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.

    Khi tam tâm hiện khởi, cũng Nam Mô A Di Đà Phật.

    Khi tam tâm thành tựu, cũng Nam Mô A Di Đà Phật ”.

    Đây là phương tiện để chắc chắn được vãng sinh, xin ghi khắc vào tâm can chớ quên.

    30) Trong nhãn quan của Pháp Nhiên thì:

    “ Tam tâm cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

    Ngũ niệm cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

    Tứ tu cũng là NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ”.

    31) Người làm biếng Niệm Phật là người đánh mất đi vô lượng châu báu.

    Người siêng năng Niệm Phật là người khai mở vô biên sáng suốt.

    Nên dùng cái tâm cầu vãng sinh mà tương tục Niệm Phật.

    32) Danh lợi là dây trói của sinh tử, là lưới sắt để vướng vào ba đường dữ. Xưng Danh là đôi cánh của vãng sinh để lên chín phẩm liên đài.

    33) Chúng ta là người bị kẻ thù “tham, sân, phiền não” cột trói mà giam hãm trong lồng chậu tam giới. Hãy nghĩ đến lòng từ bi của Cha Lành A Di Đà, dùng thanh bảo kiếm Danh hiệu mà chặt đứt dây trói sinh tử, lên con thuyền Bổn Nguyện để vượt biển luân hồi, đến bờ Giác Ngộ.

    Nước mắt hoan hỷ rơi ướt áo, lòng mong mỏi không nguôi.

    34) Đã được thân người khó được, nếu tương lai để rơi vào ba đường dữ thì đáng buồn, đáng tiếc vô cùng.

    Chán cõi dơ, ưa Tịnh Độ, bỏ ác tâm, phát thiện tâm thì được tam thế Chư Phật tùy hỷ.

    Con đường để ra khỏi sinh tử tuy chẳng giống nhau, nhưng trong thời mạt pháp thì Xưng Danh Đức Phật A Di Đà là hơn cả.

    Hạng tội chướng nặng nề ngu si ám độn đi nữa, nếu chịu trì Danh thì sẽ được vãng sinh, vì tương ưng Bổn Nguyện nhiếp thọ của Đức Phật A Di Đà vậy.

    Tội chướng nặng nề hãy đừng mặc cảm, vì ngũ nghịch; thập ác cũng được vãng sinh. Dù mười niệm hay một niệm đi nữa, hễ chí tâm thì Phật lai nghinh.

    35) Hạnh Trì giới (mà không xưng Danh Hiệu A DI ĐÀ PHẬT cầu sinh Tịnh Độ) chẳng phải là hạnh mà Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà nhiếp thọ, do đó cứ theo khả năng của mình mà giữ là được rồi. Điều quan trọng là chuyên cần Niệm Phật.

    36) Chẳng kể là phá giới hay giữ giới, giàu hay nghèo, căn cơ cao hay thấp. Hễ xưng niệm Danh hiệu Ngài thì như gạch ngói biến thành vàng ròng. Ngài nhất định lai nghinh.

    Đó là thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà.

    37) Người Niệm Phật dù không có chút thiện căn gì khác đi nữa, vẫn chắc chắn được vãng sinh.

    Hỏi: Niệm Phật mà không phát bồ đề tâm thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà không giữ giới thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà không có trí tuệ thì làm sao được vãng sinh? Niệm Phật mà vọng niệm không ngừng thì làm sao được vãng sinh?

    Đáp: Hỏi như vậy là vì không biết và hiểu kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ.

    38) Phật có đại nguyện tiếp dẫn, chúng ta có lòng muốn sinh sang đó, làm sao mà chẳng toại nguyện vãng sinh?

    39) Nếu đi bằng thuyền thì người sáng mắt hay kẻ đui mù đều có thể đến bờ bên kia.

    Tuy có con mắt trí tuệ mà không Niệm Phật thì không phù hợp với Nguyện Lực.

    Tuy ngu si ám độn mà có thể Niệm Phật xin được nương vào Nguyện Lực của Phật để được vãng sinh.

    40) Không để ý đến thiện ác của bản thân, chỉ một lòng cầu vãng sinh mà Niệm Phật. Đó gọi là Tha Lực Niệm Phật. Cho rằng bản thân bị tội chướng khó được vãng sinh là điều sai lầm rất lớn.

    41) Chẳng cần để ý là tâm mình thiện hay ác, tội chướng nặng hay nhẹ, mà chỉ nên dùng miệng xưng NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và phát khởi cái tâm quyết định! Nương Phật Thệ Nguyện chắc chắn vãng sinh!!!

    42) Hạng vô trí, tội chướng Niệm Phật mà vãng sinh là ý chánh (mục đích chính) của Bổn Nguyện.

    43) Thâm tâm tức là cái tâm tin sâu. Tin sâu điều gì? Tin rằng: Hạng phàm phu phiền não sâu dày, nghiệp chướng nặng nề, thiện căn thiếu kém, nhờ tin vào Nguyện Lực Đại Bi của Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu, hoặc 100 năm, hoặc 45 năm, 20 năm, 10 năm, cho đến một hai năm. Từ khi phát tâm cho đến lúc lâm chung không thối chuyển. Hoặc 7 ngày, hoặc 1 ngày, cho đến 10 niệm, 1 niệm. Dù nhiều hay ít, người xưng danh Niệm Phật chắc chắn được vãng sinh.

    Tóm lại, đối với chuyện vãng sinh mà không nghi ngờ thì gọi là “Thâm Tâm”.

    44) Tuy được nghe Danh Hiệu mà không tin thì cũng như không được nghe. Tuy có tín tâm mà không xưng niệm thì cũng như không tin. Bởi thế nên một lòng Niệm Phật.

    45) Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà là thệ nguyện dùng Danh Hiệu của Ngài để tiếp chúng sanh tội chướng. Do đó, người Niệm Phật (xưng danh hiệu Ngài) thì sẽ được lai nghinh. Đạo lý này tuyệt đối không thể nghi ngờ.

    46) Hỏi: Chỉ xưng Danh một niệm mà có thể diệt được trọng tội ngũ nghịch, thập ác ư? Đáp: Đừng nghi!

    47) Khi tạo ngũ nghịch mà được nghe Danh Hiệu của Đức Phật A Di Đà thì hỏa xa (cảnh địa ngục) tự nhiên biến mất, liên đài hiện đến lai nghinh.

    Người tội chướng nặng nề không có phương tiện gì khác để giải thoát, do xưng Danh Hiệu được vãng sinh Cực Lạc. Đó là nhờ vào Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà.

    48) Hỏi: Niệm Phật lúc lâm chung với Niệm Phật lúc bình thường, bên nào thù thắng hơn?

    Đáp: Giống nhau!

    49) Phút lâm chung, nỗi khổ của cái chết bức bách, thân thể chịu vô lượng thống khổ, giống như trăm nghìn lưỡi dao đâm vào. Mắt mũi bỗng nhiên mờ mịt, muốn thấy cũng không thể thấy. Miệng lưỡi co cứng, muốn nói cũng không nói được.

    Đây là tứ khổ trong tám sự khổ của kiếp người, dù người tu Niệm Phật, tin Bổn Nguyện, cầu vãng sinh chăng nữa cũng khó tránh khỏi nỗi khổ nầy. Nhưng dù mờ mịt, đến khi tắt thở, do Nguyện Lực của Đức Phật A Di Đà, sẽ thành chánh niệm mà vãng sinh.

    Sát na lâm chung dễ như cắt sợi tơ, điều nầy người khác không biết được, chỉ có Phật và người tu Niệm Phật biết được mà thôi.

    50) Người Niệm Phật mà có lòng cầu vãng sinh và không nghi A Di Đà Phật Bổn Nguyện thì khi lâm chung không bị điên đảo. Sở dĩ được như vậy là nhờ Phật lai nghinh.

    Phật lai nghinh là để người tu Niệm Phật lúc lâm chung được chánh niệm, chứ không phải lúc lâm chung cần phải chánh niệm thì Phật mới lai nghinh.

    Người không biết nghĩa nầy đều cho rằng lúc lâm chung cần phải chân chánh niệm Phật, Phật mới lai nghinh. Kiến giải như vậy là không tin vào Phật Nguyện và cũng không hiểu kinh văn nữa.

    51) Vì người chết mà niệm Phật hồi hướng thì Phật A Di Đà phóng quang minh soi chiếu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Kẻ bị chìm trong ba đường dữ mà chịu khổ thì hết khổ. Người chết sau khi lâm chung được giải thoát.

    52) Tuy biết rằng: “Dù tội ngũ nghịch cũng không chướng ngại vãng sinh” nhưng phải cẩn thận ngay cả tội nhỏ cũng chớ phạm.

    Tuy biết rằng “một niệm cũng đủ” nhưng gắng niệm cho nhiều. Tin rằng một niệm cũng vãng sinh mà niệm suốt một đời.

    53) Hỏi: Vì Bổn Nguyện không loại trừ kẻ ác, nên người ta đều muốn tạo ác nghiệp, làm sao đây?

    Đáp: Phật A Di Đà tuy không bỏ rơi kẻ ác, nhưng người tạo ác nghiệp thì chẳng phải là đệ tử của Phật.

    Tất cả Phật Pháp là để chế phục điều ác, vì hạng ngu si phàm phu không dễ gì làm được, nên khuyên Niệm Phật để diệt tội.

    54) Đức Phật A Di Đà thương xót tất cả chúng sinh, dù thiện hay ác Ngài đều cứu độ. Nhưng thấy người lành thì Ngài vui, thấy kẻ ác thì Ngài thương xót.

    55) Đáng thương thay! Thiện tâm tùy năm mà giảm, ác tâm theo ngày mà tăng!

    Người xưa nói: “Phiền não như ảnh tùy thân, muốn bỏ mà không xong. Bồ Đề như trăng trong nước, muốn lấy mà không được”.

    56) Hễ có tín tâm thì tội lớn cũng diệt, không có tín tâm thì tội nhỏ vẫn còn. Nên hổ thẹn là mình không có tín tâm!

    57) Người tu Tịnh Độ trước hết nên biết hai điều nầy:

    “Vì người có duyên dù phải bỏ thân mệnh, tài sản cũng nên vì họ mà nói pháp môn Tịnh Độ.

    Vì sự vãng sinh của mình, nên xa lìa mọi phiền nhiễu mà chuyên tu hạnh Niệm Phật”.

    Ngoài hai điều trên không tính toán gì khác.

    58) Đã tu Tịnh Độ thì mọi chuyện trong đời đều y theo Niệm Phật mà quyết định. Tất cả đều là trợ duyên cho Niệm Phật, hễ làm chướng ngại thì nên từ bỏ.

    Sống một mình không Niệm Phật được thì ở chung mà Niệm Phật. Sống chung không Niệm Phật được thì ở một mình mà Niệm Phật. Tại gia mà không Niệm Phật được thì xuất gia mà Niệm Phật. Xuất gia mà không Niệm Phật được thì tại gia mà Niệm Phật. Sống giữa đời không Niệm Phật được thì trốn đời mà Niệm Phật. Trốn đời không Niệm Phật được thì sống giữa đời mà Niệm Phật.

    59) Nguyện rằng người tu Tịnh Độ gặp bệnh hoạn nên vui!

    60) Thành Phật tuy khó nhưng cầu vãng sinh thì dễ được. Nhờ sức Bổn Nguyện làm cường duyên, nên tuy là phàm phu mà được vãng sinh Báo Độ (Thực Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ).

    61) Một vị tăng ở Trấn Tây đi hành cước, khi đi ngang Cát Thủy Lư, ra mắt Pháp Nhiên Thượng Nhân, gặp lúc ngài đang Niệm Phật ở đạo trường nên thị giả tiếp khách.

    Vị tăng hỏi: Trong khi xưng Danh hiệu, có nên để tâm mình vào tướng hảo của Phật hay không?

    Thị giả đáp: Quả thật là nên.

    Vừa lúc ấy ngài mở cửa đạo trường và nói: “Nguyên Không nầy (một pháp danh khác của Ngài) thì chẳng vậy. Hãy nhớ rằng kinh dạy: “Khi tôi thành Phật, mười phương chúng sinh xưng Danh hiệu của tôi dù chỉ có mười lần, nếu chẳng được vãng sinh, tôi sẽ không ở ngôi Chánh Giác”. ( Kinh PHẬT THUYẾT VÔ LƯỢNG THỌ).

    Và Tổ Thiện Đạo dạy: “Đức Phật kia (Đức A Di Đà) nay đang tại thế thành Phật. Bởi thế nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm thì tức nhiên được vãng sinh”. Theo thiển ý, dù quán tướng hảo của Phật chăng nữa cũng chẳng phải như thuyết quán.

    Chẳng bằng nương tựa Bổn Nguyện, miệng xưng Danh hiệu là hơn cả, vì đó là hạnh chân thực ( hạnh tương ưng với Bổn Nguyện).

    62) Có người hỏi rằng: Nhật khóa xưng danh sáu vạn, mười vạn lần mà chẳng như pháp: so với xưng danh hai vạn, ba vạn lần mà như pháp. Bên nào tốt hơn?

    Ngài đáp: Hạng phàm phu loạn tưởng xưng danh ít lần mà như pháp tu hành, sự thật rất là khó. Chẳng bằng nhật khóa xưng danh cho nhiều. Chỗ trọng yếu của xưng danh là để tâm niệm tương tục, Niệm Phật không ngớt miệng là đủ, cần gì phải cho là như pháp hay chẳng như pháp ư!

    63) Hỏi: Thường nghĩ đến chuyện “Bỏ ác tu thiện” mà Niệm Phật, so với thường nghĩ đến ý chỉ của Bổn Nguyện mà Niệm Phật. Điều nào hay hơn?

    Đáp: Bỏ ác tu thiện tuy là lời răn chung của chư Phật, nhưng hạng phàm phu thời mạt pháp như chúng ta thường làm ngược lại!

    Nếu chỉ tự mình mà chẳng nương vào Bổn Nguyện thì e rằng khó mà ra khỏi sinh tử.

    64) Hỏi: Thiện Đạo Hòa Thượng cho rằng Thánh Đạo môn là giáo pháp phương tiện, xuất phát từ đâu?

    Đáp: Cuốn PHÁP SỰ TÁN chép:

    “ Như Lai xuất hiện nơi ngũ trược.

    Tùy nghi phương tiện dạy chúng sanh.

    Hoặc nói “đa văn” mà được độ.

    Hoặc thuyết “tiểu giải” chứng tam minh.

    Hoặc dạy “phước huệ” cùng trừ chướng.

    Hoặc giáp “thiền niệm” ngồi tư duy.

    Tất cả pháp môn đều giải thoát.

    Không hơn Niệm Phật vãng Tây Phương”.

    Hỏi: Đã nói rằng: “Tất cả pháp môn đều giải thoát”, sao lại lấy đoạn văn nầy làm chứng cứ?

    Đáp: Ở trên nói: “Tùy nghi phương tiện dạy chúng sanh”, kế đến là “Tất cả pháp môn đều giải thoát”, và cuối cùng là “Không hơn Niệm Phật vãng Tây Phương”. Rõ ràng là ngoài Niệm Phật vãng sinh ra, tất cả đều là phương tiện.

    65) Thánh Đạo Môn (các tông phái khác) đều tu cái “nhân” của tam thừa, tứ thừa để được cái “quả” của tam thừa, tứ thừa. Do đó không thể so sánh với hạnh Niệm Phật. Còn trong Tịnh Độ Môn thì các hạnh (đọc tụng kinh điển, lễ bái, quán tưởng, quán tượng…) và hạnh Niệm Phật đều là “nhân” để vãng sinh nên có thể so sánh.

    Nhưng các hạnh đều chẳng phải tương ưng với A Di Đà Phật Bổn Nguyện, do đó quang minh của Đức A Di Đà chẳng thu nhiếp, mà Đức Thích Ca cũng chẳng phó chúc. Bởi thế Thiện Đạo Đại Sư dạy: “Tất cả các hạnh khác tuy gọi là thiện, nhưng nếu so với Niệm Phật thì hoàn toàn không thể so sánh nổi”.

    66) Các Đại sư hoằng dương Pháp môn Tịnh Độ thời nào cũng có nhiều, tất cả đều khuyên người tu Tịnh Độ phát Bồ Đề Tâm và đều lấy hạnh “Quán Tưởng” làm chánh. Chỉ duy một mình Đại sư Thiện Đạo cho rằng không phát Bồ Đề Tâm cũng được vãng sinh và nhận định rằng hạnh “Quán Tưởng” chỉ là trợ nghiệp cho hạnh “Xưng Danh” mà thôi. Theo thiển ý, người tu Tịnh Độ nếu không tuân theo ý của Ngài Thiện Đạo thì e rằng khó được vãng sinh. Hãy ghi nhớ!

    67) Một đệ tử hỏi: Nếu trí tuệ là điều cần yếu để vãng sinh thì con người minh mẫn theo thầy học. Còn nếu chỉ cần xưng danh là đủ thì không mong gì khác. Xin Thầy từ bi khai thị cho, con sẽ tuyệt đối vâng theo như lời Phật dạy vậy.

    Ngài đáp: Chánh nghiệp vãng sinh thì trọng yếu là xưng danh. Rõ ràng là chẳng phân biệt có trí tuệ hay không có trí tuệ, cần gì phải học hành cho lắm! Chi bằng cứ lo Niệm Phật, thì sẽ mau được vãng sinh Tịnh Độ, gặp mặt Thánh chúng, được nghe pháp môn. Hơn nữa cõi kia trang nghiêm, ngày đêm thuyết pháp sâu xa, do đó sẽ tự nhiên khai phát thắng giải mà chứng Vô Sinh Nhẫn. Nếu chưa biết ý nghĩa của Niệm Phật vãng sinh thì học cho biết, đơn sơ là đủ. Nếu ham học rộng, biết bao nhiêu cho cùng. Hãy siêng năng Niệm Phật là hơn cả.

    68) Thọ giáo và phát tâm không hẳn là cùng lúc, vì phát tâm thì gặp duyên mà phát khởi. Trước đây có một vị sơn tăng hỏi tôi rằng: “Tôi học pháp môn Tịnh Độ đã lâu, hiểu được đôi chút nhưng chưa phát khởi được tín tâm. Phải dùng phương tiện gì để thành lập tín tâm?”. Tôi đáp: “Hãy cầu nguyện Tam Bảo gia bị”. Vị tăng kia tuân theo lời dạy. Một hôm ông ấy đến chùa Đại Đông, gặp lúc đang gác cây đòn dông ở chánh điện. Ông bèn đứng xem, bỗng nhiên tín tâm phát khởi rồi tự nhủ rằng: “Nếu không có sự tính toán khéo của người thợ thì làm sao cây đòn dông lên đó được?! Người thợ tầm thường còn vậy huống gì sức thiện xảo không thể nghĩ bàn của Như Lai! Mình có cái chí nguyện vãng sinh, Phật có lời thề tiếp dẫn. Vãng sinh Tịnh Độ hẳn nhiên là tương ứng!”

    Từ đó không còn tâm nghi ngờ nữa. Sau nầy ông có đến cho tôi biết. Ba năm sau thì được vãng sinh, điềm lành rất nhiều. Bởi thế nên thường cầu nguyện Tam Bảo gia bị.

    69) Yếu đạo để hạng phàm phu thoát khỏi sinh tử không gì hơn Môn Tịnh Độ, hạnh Niệm Phật. Nói về căn cơ thì bao gồm thập ác, ngũ nghịch, tứ trọng, báng pháp, xiển đề, phá giới, v.v… Nói về hạnh thì mười tiếng hay một tiếng, ngay cả trẻ con cũng xưng được.

    Nói về tín thì một niệm hay mười niệm, kẻ ngu cũng làm được. Bổn Nguyện vốn vì “mười phương chúng sinh” mà có, không để sót bất cứ căn cơ nào, không bỏ rơi bất kỳ ai. Trong mười phương chúng sinh, thì có trí hay vô trí, có tội hay vô tội, phàm phu hay Thánh nhân, trì giới hay phá giới, người nam hay người nữ, ông già hay trẻ con… cho đến căn cơ của thời Tam Bảo đã diệt đều bao gồm cả. Hễ gặp được Bổn Nguyện, được nghe Danh Hiệu NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT và tin theo mà Niệm Phật thì Đức Phật A Di Đà dùng Quang Minh Biến Chiếu thu nhiếp chẳng rời.

    Hạng tội nặng nghiệp dày, u minh ám chướng lại càng nên nương vào A Di Đà Phật Bổn Nguyện. Vì sao vậy? Lý do là vì A Di Đà Bổn Nguyện vốn vì phàm phu, chớ không phải vì Thánh nhân.

    70) Năm điều quyết định chuyện vãng sinh:

    1) Bổn Nguyện của Đức A Di Đà quyết định.
    2) Lời dạy của Đức Thích Ca quyết định.
    3) Sự chứng minh của Chư Phật quyết định.
    4) Giáo thích của Tổ Thiện Đạo quyết định.
    5) Tín tâm của chúng ta quyết định.
    Do năm nghĩa trên quyết định vãng sinh.

    71) Niệm Phật là chuyện mình làm. Vãng sinh là chuyện Phật làm. Vãng sinh là do Phật Lực ban cho, lại cứ tính toán trong tâm mình thì đó là tự lực. Chỉ nên xưng danh để chờ Phật lai nghinh.

    72) Tuy tam học “Giới, Định, Huệ” hoàn toàn đầy đủ, nhưng nếu không nương Bổn Nguyện của Đức Phật A Di Đà mà xưng Danh hiệu Ngài thì không được vãng sinh. Tuy không có “Giới, Định, Huệ”, mà một mực xưng Danh thì chắc chắn được vãng sinh.

    73) Hỏi: Vấn đề tự lực và tha lực nên hiểu như thế nào?

    Đáp: Pháp Nhiên nầy, tuy không phải là loại căn khí, có thể ra mắt Điện Hạ (Thiên Hoàng) nhưng do Điện Hạ triệu vào. Hai lần vào ra mắt không phải là do khả năng của tôi, mà do sức của Thiên Hoàng, huống gì là sức của Đức Phật A Di Đà!

    Chuyện Ngài lai nghinh để tiếp dẫn người xưng Danh là Bổn Nguyện của Ngài, điều nầy thật dễ hiểu.

    Những người tội chướng vô trí, không nên hoài nghi vãng sinh. Nếu mà nghi ngờ là hoàn toàn không biết gì về Phật Nguyện cả. Bổn Nguyện được phát ra là để cứu những người tội chướng vậy. Bởi thế hãy nỗ lực xưng Danh chớ khá nghi ngờ. Chỉ sợ không ưa cõi Cực Lạc, không tin Niệm Phật thì sẽ chướng ngại vãng sinh.

    Vì vậy gọi là “Tha Lực Nguyện”, là “Siêu Thế Nguyện”.

    74) A Di Đà Bổn Nguyện phát ra không phải vì hạng thiện nhân có phương tiện, có thể dùng tự lực để thoát ly sinh tử mà là vì hạng ác nhân tội chướng không có phương tiện để giải thoát.

    Những hàng Bồ Tát, Thánh Hiền cũng có thể nương vào đó mà cầu vãng sinh. Hạng thiện nhân phàm phu cũng hướng về lời nguyện nầy mà được vãng sinh, huống gì hạng ác nhân phàm phu lại càng nên nương vào Tha Lực nầy chớ nên hiểu sai lầm mà bám chấp vào tà kiến. Hãy nhớ A Di Đà Bổn Nguyện căn bản là vì hạng phàm phu mà gồm luôn cả Thánh Nhân nữa. Xin hiểu rõ lý nầy.

    75) Tu Thánh Đạo Môn thì tột cùng trí tuệ để lìa sinh tử. Tu Tịnh Độ Môn thì trở lại ngu si để vãng sinh. Bởi thế khi hướng về Thánh Đạo Môn thì trau dồi trí tuệ, giữ cấm giới, rèn luyện tâm tánh làm tông chỉ.

    Còn bước vào Tịnh Độ Môn thì chẳng dựa vào trí tuệ, chẳng lo tròn đạo hạnh, chẳng cần điều hòa tâm tánh, mà chỉ tự thấy mình là người vô năng, vô trí; cần nương vào Bổn Nguyện mà Niệm Phật mà cầu vãng sinh.

    1) Muốn mau lìa sinh tử: Trong hai loại thắng pháp; Bỏ qua Thánh Đạo Môn, mà vào Tịnh Độ Môn.
    2) Muốn vào Tịnh Độ Môn; Trong hai hạnh Chánh, Tạp; Hãy bỏ các Tạp hạnh, mà quay về Chánh Hạnh.
    3) Muốn tu nơi Chánh Hạnh; Trong hai Chánh; Trợ Nghiệp; Chớ dính nơi Trợ Nghiệp; Hãy nên chuyên Chánh Định.
    4) Chuyên tu Chánh Định Nghiệp; Tức là Xưng Phật Danh; Xưng Danh tất vãng sinh; Bởi do Phật Bổn Nguyện.
    77) Yếu đạo để ra khỏi sinh tử, không gì hơn vãng sinh Tịnh Độ. Hạnh tu để vãng sinh Tịnh Độ tuy nhiều, không gì hơn Xưng Danh. Vì xưng Danh là hạnh tương ưng với A Di Đà Bổn Nguyện. Bởi vậy Hòa Thượng Thiện Đạo dạy rằng:

    “Kinh VÔ LƯỢNG THỌ” chép: “Khi tôi thành Phật, nếu mười phương chúng sinh xưng Danh hiệu của tôi, dù chỉ mười lần mà không được vãng sinh thì tôi chẳng ở ngôi Chánh Giác. Đức Phật kia hiện tại thế thành Phật. Nên biết rằng Bổn Nguyện Trọng Thệ chẳng hư dối. Chúng sinh xưng niệm, tất nhiên được vãng sinh”. Do đó ngoài xưng Danh không cần quán tưởng gì khác.

    Hiểu và tin như trên, lâm chung chắc chắn Phật lai nghinh. Nếu bình thường đã xưng Danh tích lũy công đức thì dù cho lúc lâm chung không xưng được Phật Danh vẫn quyết định vãng sinh.

    78) Đệ tử Nhất Hiền Chân hỏi: Thưa Thầy! Để mau chóng lìa khỏi sinh tử, thì Chân Ngôn (Mật Tông), Chỉ Quán (Thiên Thai), Hoa Nghiêm, Phật Tâm (Thiền Tông) phải thâm diệu hơn Tịnh Độ chứ?

    Ngài đáp: Pháp môn thì vô lượng nhưng luận về chỗ cấp yếu, thì tối thượng là Tịnh Độ. Các giáo pháp tuy nhiều nhưng xét đến chỗ cương yếu, thì Tha Lực Đốn Giáo thù thắng hơn cả. Vì dễ tu mà công cao, dễ hành mà lý thâm. Bởi thế Tổ Huệ Viễn nói rằng: “Các môn Tam Muội tuy nhiều nhưng công cao mà dễ tu thì Niệm Phật là hơn cả”.

    Ngài Nguyên Chiếu nói rằng: “Niệm Phật Tam Muội là pháp để hạng phàm phu ngu độn trong sát na siêu việt thành Phật. Cho thấy rằng Tịnh Độ Giáo Pháp, Niệm Phật Tam Muội là Đại Thừa, Chí Cực, Tốc Tật, Giải Thoát”.

    79) Khai thị của Pháp Nhiên Thượng Nhân cho đệ tử lúc lâm chung: “Thầy mấy chục năm nay, công phu Niệm Phật tích lũy, được bái kiến Cực Lạc trang nghiêm và Chân Thân của Phật, Bồ Tát là chuyện bình thường. Nhưng nhiều năm giữ kín mà không nói ra, nay đã đến lúc tối hậu nên bày tỏ đôi chút. Thầy nếu đoan tọa (ngồi kiết già) mà vãng sinh, người đời hẳn nhiên bắt chước. Mà cái thân người bệnh, cử động khó khăn, e rằng họ sẽ mất chánh niệm. Vì vậy nay Thầy nằm thẳng mà ra đi. Bổn Sư Thích Tôn đã thị hiện đầu Bắc, diện Tây (nằm nghiêng bên phải, đầu hướng Bắc, mặt hướng Tây) mà viên tịch, đó cũng là vì chúng sinh vậy. Thầy làm sao hơn Đức Thích Tôn được!”

    LỜI BẠT

    Theo thiển ý của dịch giả, có thể nói Pháp Nhiên Thượng Nhân là người đầu tiên chỉ rõ chân diện mục của Tông Tịnh Độ, vạch ra một đường sáng cho tất cả những ai muốn thật sự liễu thoát sinh tử trong một đời. Điều đáng buồn là những lời dạy vàng ngọc nầy chưa hề được giới thiệu với người tu Tịnh Độ ở Việt Nam, dù rằng toàn bộ tác phẩm của Ngài đã được thâu nhập vào Đại Tạng Kinh qua bao thế kỷ.

    Dịch giả xin nguyện rằng hễ ai được đọc pháp ngữ nầy đều phát khởi tha lực tín tâm, hoan hỷ Niệm Phật, tin sâu rằng mình đã được dự vào A Di Đà Bổn Nguyện Hải Hội và tương lai chắc chắn được sinh về cõi Cực Lạc bất thối chuyển.

    Nam Mô A Di Đà Phật

    Mùa đông năm 1997

    Viên Thông Nguyễn Văn Nhàn (Dịch giả)

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi vietnamese Xem Bài Gởi
    Có những tội có thể sám hối được, tội ngũ nghịch (giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hoại hòa hợp Tăng) thì dù có sám hối cũng phải chịu quá báo rất nặng, khó tái sinh về thế giới an lành.
    A Di Đà Phật.
    :happy: Như Lai thương chúng sanh là bình đẳng, nên chúng sanh dù ngũ nghịch Thập ác, Như Lai vẫn thường thuơng tưởng, mà nói ra Pháp Tịnh Độ hầu mong độ tất cả các hàng căn cơ, nên nói: Dù Tội ngũ nghịch thập ác, mà biết hồi đầu hướng thiện, phát lòng tin sâu xa về cõi kia thì sẽ hóa sanh vào bậc hạ hạ căn như Kinh Quán Vô Lượng thọ chép. Duy trừ người phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp (không tin, nan tín) thì không được cứu độ nên kinh văn nói: hết lòng tin ưa, xưng danh hiệu ta cho đến mười niệm, giả như không sanh ta không thành Phật...
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  9. #9
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Lời của đạo hữu bachliencu không sai, vietnamese cũng có nói là không được vãng sanh đâu chỉ là khó thôi. Còn hạng người làm ác thì dễ vãng sanh khi biết quay đầu tu hành.

    TÁM LOẠI NGƯỜI DỂ VÃNG SANH
    1. Người có trí tuệ : Dễ vãng sanh vì có thể đoạn dứt nghi ngờ
    2. Người thiền định: Dễ vãng sanh vì không tán loạn
    3. Người trì giới: Dễ vãng sanh vì rời xa các điều ô nhiễm
    4. Người bố thí: Dễ vãng sanh vì chẳng có cái của ta
    5. Người nhẫn nhục : Dễ vãng sanh vì không sân hận
    6. Người tinh tấn : Dễ vãng sanh vì không thối chuyển
    7. Người làm thiện không làm ác: Dễ vãng sanh vì niệm quán nhất
    8. Người làm điều ác: Dễ vãng sanh vì thật sự biết hổ thẹn, sợ hãi."

    Các đạo hữu xem thêm phần vấn đáp dưới đây nhé.
    A Di Đà Phật.

    Hỏi: Không tu tịnh nghiệp, tất khó vãng sanh, đó là điều chắc chắn. Nhưng tại sao hàng phàm phu nghịch ác khi lâm chung cũng có thể vãng sanh? Điểm ấy tôi còn chưa hiểu và có chỗ nghi ngờ, mong Đại Sư chỉ dạy rành rẽ?

    Đáp: Trong Quán Kinh đã dạy: Hạ phẩm hạ sanh là như có người tạo tội ngũ nghịch, thập ác, làm đủ các việc không lành, do vì ác nghiệp, nên đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng! Nhưng khi lâm chung, kẻ ấy được gặp thiện tri thức an ủi và thuyết pháp cho nghe, khuyên phải nhớ tưởng đến Phật; song đương nhơn vì bị sự khổ bức bách nên không nhớ tưởng được. Thiện hữu lại bảo: 'Nếu ông không thể nhớ Phật, thì hãy chí tâm xưng Nam Mô A Di Đà Phật âm thanh liên tiếp nhau cho đủ mười niệm'. Người ngu ác kia vâng lời hết lòng xưng danh, nên trong mỗi niệm diệt được tội nặng nơi đường sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Khi người ấy niệm Phật, bỗng thấy hoa sen vàng chói sáng như vầng nhựt hiện ra ở trước, trong khoảng một niệm, đương nhiên liền được sanh về thế giới Cực Lạc và kế tiếp đó phải ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp. Khi hoa sen nở ra, kẻ ấy thấy Đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi, vì mình nói thật tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn nghe pháp rồi tự nhiên vui vẻ, phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.

    Đoạn kinh trên chỉ rõ cảnh tướng của bậc hạ phẩm hạ sanh. Mười hai đại kiếp ở trong hoa sen, tuy thời gian có lâu xa, nhưng người vãng sanh thấy mình ở trong một bầu thế giới riêng biệt, hưởng thọ sự vui như chư thiên nơi cung trời Đao Lợi. Vì thế cổ đức đã bảo: 'Trong hoa vui vẻ như Đao Lợi. Khác hẳn thai phàm của thế gian.'

    Theo Quán Kinh Sớ, thì người nghịch ác mà được vãng sanh, là do khi lâm chung, kẻ ấy chí tâm niệm Phật, nên tội chướng được tiêu trừ. Thế thì ý của Sớ Văn cho sự niệm Phật là thắng duyên vãng sanh. Riêng tôi, sau khi tham khảo các kinh luận và sớ giải về Tịnh Độ, lại ước kết trong ba nghĩa:

    Điều thứ nhất, hành nhơn chỉ niệm Phật trong thời gian ngắn ngủi mà có thể thắng nổi nghiệp ác trọn đời, là do nhờ tâm lực rất mạnh mẽ ý chí cực quyết định; đó gọi là đại tâm. Tình cảnh ấy ví như người bị quân giặc vây khổn, đang lúc nguy cấp, do liều chết không kể đến thân mạng, nên phát được sức dũng mãnh cùng cực, xông phá vượt ra khỏi trùng vi.

    Điều thứ hai, kẻ ấy tuy tạo ác, song hoặc hiện đời đã có tu Tam Muội, nên khi lâm chung nghe người nhắc bảo, định lực được dễ thành. Đây cũng thuộc về hạng người, mà trong nhà Phật gọi là thừa cấp giới huởn. Nếu đương nhơn hiện đời không tu Tam Muội, tất đời trước cũng đã có huân tu. Hạt giống lành ấy nay đã đến thời kỳ thuần thục, nên khi lâm chung gặp thiện tri thức khuyên bảo, kẻ đó nương nơi túc thiện nghiệp, trong mười niệm mà được thành công.

    Điều thứ ba, nếu không phải do công tu trong hiện đời hay nghiệp lành về kiếp trước, tất khi lâm chung kẻ ấy đã niệm Phật với lòng sám hối tha thiết cùng cực. Nên ngài Vĩnh Minh nói: 'Vì thể nhân duyên vốn không, nên nghiệp thiện ác chẳng định; muốn rõ đường siêu đọa, phải nhìn nơi tâm niệm kém hơn. Cho nên một lượng vàng ròng thắng nổi bông gòn trăm lượng, chút lửa le lói đốt tiêu rơm cỏ muôn trùng.'

    Một trong ba nhơn duyên trên, cộng thêm công đức của Phật hiệu, nguyện lực của Di Đà, nên khi lâm chung kẻ nghịch ác mới thắng được tội khiên, sanh về Cực Lạc.

    Tịnh Độ Hoặc Vấn
    Đời Nguyên, Thiên Như Duy Tắc Thiền Sư thuật
    Việt Dịch: HT. Thích Thiền Tâm

    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  10. #10

    Mặc định

    Trích dẫn kinh điển cần có nguồn gốc rõ ràng, tránh làm kinh điển bị tam sao thất bản. Việc trích dẫn kinh điển có nội dung sai lạc sẽ không đem lại công đức gì.
    Last edited by ductri16580; 15-07-2011 at 05:30 PM.

  11. #11

    Mặc định

    thực tế thì tu niệm Phật A-di-đà nếu thành công thì sau khi mệnh chung hầu hết đều tái sinh ở 6 tầng trời dục giới :smug:

  12. #12

    Mặc định

    nhất hướng chuyên niệm.A DI ĐÀ PHẬT.
    cha DI ĐÀ ơi.con đặt 1 vé visa về tây phương với Cha rồi.
    Thôi không trách không hờn thôi không oán....
    Sống an dzui tự tại với tâm ta......

  13. #13

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phoenix127 Xem Bài Gởi
    thực tế thì tu niệm Phật A-di-đà nếu thành công thì sau khi mệnh chung hầu hết đều tái sinh ở 6 tầng trời dục giới :smug:
    :happy: đồng tu nên xem lại, chúng sanh trong ba cõi: tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Lại nữa người được vãng sanh do cõi ấy thọ mệnh là vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, lại hay gần gũi phật, nhất sanh bổ xứ phật, Cùng chư Đại bồ tát và thiện pháp...nên nhẫn chỉ một đời thành tựu đạo quả, thoát khỏi tam giới dục giới, sắc giới và vô sắc giới,...Nên Phật thuyết cõi nước kia Chư Đại thiện nhân câu hội (nhất sanh Bổ Xứ Phật)....Hàng Bồ Tát phẩm vị như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thì rất nhiều rất nhiều, số không thể tính, họ toàn là những vị xuất gia ly dục,...bởi thế nên nói gần người thanh Tịnh, dần tâm sẽ thanh tịnh...
    "Này Xá Lợi Phất hướng về phương Tây cách đây mười muôn ức cõi nước Chư Phật có một thế giới tên là Cực Lạc, Giáo Chủ là Phật hiệu A Di Đà nay đang nói Pháp...":happy:
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  14. #14

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi bachliencu Xem Bài Gởi
    :happy: đồng tu nên xem lại, chúng sanh trong ba cõi: tức là dục giới, sắc giới và vô sắc giới. Lại nữa người được vãng sanh do cõi ấy thọ mệnh là vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, lại hay gần gũi phật, nhất sanh bổ xứ phật, Cùng chư Đại bồ tát và thiện pháp...nên nhẫn chỉ một đời thành tựu đạo quả, thoát khỏi tam giới dục giới, sắc giới và vô sắc giới,...Nên Phật thuyết cõi nước kia Chư Đại thiện nhân câu hội (nhất sanh Bổ Xứ Phật)....Hàng Bồ Tát phẩm vị như Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thì rất nhiều rất nhiều, số không thể tính, họ toàn là những vị xuất gia ly dục,...bởi thế nên nói gần người thanh Tịnh, dần tâm sẽ thanh tịnh...
    "Này Xá Lợi Phất hướng về phương Tây cách đây mười muôn ức cõi nước Chư Phật có một thế giới tên là Cực Lạc, Giáo Chủ là Phật hiệu A Di Đà nay đang nói Pháp...":happy:
    vậy theo đồng tu thì trái đất quay 360 độ liên tục quanh mặt trời, phuơng hướng xác định theo mặt trời, nhưng thực tế thì hệ mặt trời thì luôn di chuyển trong vũ trụ chứ không đứng yên một chỗ, vậy phương Tây ấy xác định như thế nào bây giờ? :confused:

    nếu như theo huynh đệ nói thì Tây phuơng cực lạc còn nằm trong Tam giới hay ra ngoài Tam giới rồi? mà giả sử có người đến được cõi đấy rồi sao không quay về báo cho bạn đồng tu ở cõi đất này biết, thực sự là chưa thấy trường hợp nào bảo là tôi đã đến được Tây phương cực lạc rồi quay lại nói cho những người đồng tu để khích lệ cả :straight_face:

    mà trong 6 cõi dục giới có cõi Đậu Suất Thiên hay lắm nhé, Phật Thích Ca kiếp áp chót khi còn là Bồ-tát là ở trên đấy, mẫu hẫu Ma-da sau khi thọ sinh thái tử cũng tái sinh về cõi ấy, rồi bao nhiêu là thiện nam tử nghe Phật thuyết pháp và tùy pháp hành cũng sinh về cõi đấy. Đặc biệt còn có Bồ tát Di Lặc đang thuyết Pháp trên đấy và tuơng lai sẽ thành Phật Chánh Đẳng Giác, theo mình đấy mới là cõi Tịnh độ, mà trong 6 cõi dục đấy, các vị Bồ tát thuyết pháp cho Chư thiên cũng không thiếu hehe, nên nhiều người nói rằng đấy mới thực sự là các cõi Tịnh độ cũng chẳng sai :happy:

  15. #15
    Nhị Đẳng Avatar của vietnamese
    Gia nhập
    Nov 2010
    Nơi cư ngụ
    Hư Không
    Bài gởi
    2,258

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phoenix127 Xem Bài Gởi
    vậy theo đồng tu thì trái đất quay 360 độ liên tục quanh mặt trời, phuơng hướng xác định theo mặt trời, nhưng thực tế thì hệ mặt trời thì luôn di chuyển trong vũ trụ chứ không đứng yên một chỗ, vậy phương Tây ấy xác định như thế nào bây giờ? :confused:

    nếu như theo huynh đệ nói thì Tây phuơng cực lạc còn nằm trong Tam giới hay ra ngoài Tam giới rồi? mà giả sử có người đến được cõi đấy rồi sao không quay về báo cho bạn đồng tu ở cõi đất này biết, thực sự là chưa thấy trường hợp nào bảo là tôi đã đến được Tây phương cực lạc rồi quay lại nói cho những người đồng tu để khích lệ cả :straight_face:

    mà trong 6 cõi dục giới có cõi Đậu Suất Thiên hay lắm nhé, Phật Thích Ca kiếp áp chót khi còn là Bồ-tát là ở trên đấy, mẫu hẫu Ma-da sau khi thọ sinh thái tử cũng tái sinh về cõi ấy, rồi bao nhiêu là thiện nam tử nghe Phật thuyết pháp và tùy pháp hành cũng sinh về cõi đấy. Đặc biệt còn có Bồ tát Di Lặc đang thuyết Pháp trên đấy và tuơng lai sẽ thành Phật Chánh Đẳng Giác, theo mình đấy mới là cõi Tịnh độ, mà trong 6 cõi dục đấy, các vị Bồ tát thuyết pháp cho Chư thiên cũng không thiếu hehe, nên nhiều người nói rằng đấy mới thực sự là các cõi Tịnh độ cũng chẳng sai :happy:
    Có rất nhiều vị vãng sanh và đây là một trong số đó :
    http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?t=6342
    A Di Đà Phật.
    Mắt trông thấy sắc rồi thôi
    Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thời không
    Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
    Ung dung ta bước ra vòng trần ai.

  16. #16

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phoenix127 Xem Bài Gởi
    vậy theo đồng tu thì trái đất quay 360 độ liên tục quanh mặt trời, phuơng hướng xác định theo mặt trời, nhưng thực tế thì hệ mặt trời thì luôn di chuyển trong vũ trụ chứ không đứng yên một chỗ, vậy phương Tây ấy xác định như thế nào bây giờ? :confused:

    nếu như theo huynh đệ nói thì Tây phuơng cực lạc còn nằm trong Tam giới hay ra ngoài Tam giới rồi? mà giả sử có người đến được cõi đấy rồi sao không quay về báo cho bạn đồng tu ở cõi đất này biết, thực sự là chưa thấy trường hợp nào bảo là tôi đã đến được Tây phương cực lạc rồi quay lại nói cho những người đồng tu để khích lệ cả :straight_face:

    mà trong 6 cõi dục giới có cõi Đậu Suất Thiên hay lắm nhé, Phật Thích Ca kiếp áp chót khi còn là Bồ-tát là ở trên đấy, mẫu hẫu Ma-da sau khi thọ sinh thái tử cũng tái sinh về cõi ấy, rồi bao nhiêu là thiện nam tử nghe Phật thuyết pháp và tùy pháp hành cũng sinh về cõi đấy. Đặc biệt còn có Bồ tát Di Lặc đang thuyết Pháp trên đấy và tuơng lai sẽ thành Phật Chánh Đẳng Giác, theo mình đấy mới là cõi Tịnh độ, mà trong 6 cõi dục đấy, các vị Bồ tát thuyết pháp cho Chư thiên cũng không thiếu hehe, nên nhiều người nói rằng đấy mới thực sự là các cõi Tịnh độ cũng chẳng sai :happy:
    Phật dạy rất rõ :happy: từ cõi này, tức là lấy một quốc độ Phật mà tính hướng về phía Tây cách mười muôn ức cõi Phật....tức là bạn ở cõi Ta Bà này dù ở đâu đi chăng nữa Cực Lạc cũng nằm ở phía Tây :happy:
    Chúng ta biết được chúng sanh do nghiệp lực không đồng nên tuổi thọ, thời gian không gian cũng không đồng...Tuổi thọ của cõi trời thấp nhất Tứ thiên vuơng một ngày bằng năm muơi năm cõi chúng ta, chúng sanh nơi đó thọ mạng là 500 tuổi,..cõi trời thấp nhất mà còn vậy huống chi là cõi Cực lạc quốc độ của Phật...người cõi Cực lạc Thọ mạng là vô lượng Vô biên A Tăng Kỳ Kiếp,...khi hóa sanh sẽ trong thai sen..ngay đến cả bậc thượng thiện nhân phải mất một ngày một đêm, hoa mới nở...tức ở Ta Bà anh em họ hàng thân thích cháu chích cả thảy người thân đều đã không còn..làm sao mà báo:happy: Phật nói chữ duyên nếu đã chẳng duyên phận không lẽ bạn phải báo cho người không biết, không duyên hay sao?:happy:
    Đâu Suất Thiên có ngoại viện và nội viện...Ở ngoại viện chúng sanh thường buông lung theo dục lạc vì là trời dục giới, chỉ hưởng thụ khoái lạc chẳng chịu tu hành, còn trong nội viện chúng sanh ở đó toàn là bậc trì trai giữ giới, chẳng phạm giới luật ngày đêm thân cận Di Lạc Bồ Tát tu hành tinh tấn...
    Nhưng xét nghĩ, cõi Đâu Suất kia Di Lạc Bồ tát chẳng có nguyện tiếp dẫn muốn sanh vào đó phải giữ tròn giới luật không hủy phạm giới cấm. Nếu muốn tròn giới đạo trước phải xuất gia,..vì thế cõi ấy đối với tu sĩ tại gia là khó có thể sanh..:happy:
    Xưa có ba anh em: Vô Trước, Thế Thân, Sư Tử Giác cầu sanh về cõi Đâu Suất Nội viện ...Sư Tử Giác và Thế Thân tịch trước...ba năm sau thì Thế Thân về báo tin cho Vô Trước, Ngài nói rằng:

    “Tôi sinh về Đâu-Suất lễ Phật Di-Lặc, nghe Ngài thuyết pháp mới được một ngày, vội vàng trở về báo tin cho hay đây. Lạ thay cõi trời Đâu-Suất mới có một ngày mà ở cõi nhân gian đã ba năm vậy”. Ngài Vô-Trước hỏi: “Còn vị Sư-Tử-Giác thế nào ?”

    Bồ Tát Thế-Thân đáp: “Sư-Tử-Giác sinh ngoại-điện Đâu-Suất, còn mãi ham đắm nhạc trời nên không được thấy Phật Di-Lặc"
    (trích Thập-Luận-Nghi của Ngài Trí-Giả)
    Từ xưa tới nay Bồ tát từ cõi Cực lạc xuống đây hóa độ rất nhiều rất nhiều nay xin đương cử vài vị: Ngài Thiện Đạo, Vĩnh Minh, Hòa Thượng Phong Can ba vị đại sư là hóa thân của A Di Đà Phật, Quán Thế Âm bồ tát là Thượng thiện nhân ở cõi Cực Lạc, gần đây có Ấn Quang Tổ Sư là hóa thân của Đại Thế Chí Bồ tát, ngoài ra còn có Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền,....đều là thánh chúng cõi Cực Lạc...:happy:
    Xem Thêm: http://thegioivohinh.com/diendan/showthread.php?t=16182
    Last edited by bachliencu; 16-07-2011 at 09:59 PM.
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  17. #17

    Mặc định

    hihi, bạn bachliencu vẫn chưa trả lời câu hỏi: Tây phương cực lạc nằm trong Tam giới hay nằm ngoài Tam giới? tuổi thọ lâu nhất trong Tam giới là Phi tưởng phi phi tưởng xứ là 84 000 a tăng kỳ, theo như bạn nói tuổi thọ ở Tây phương cực lạc là vô biên a-tăng-kỳ, vậy nên hiểu thế nào đây? và nếu theo bạn là vô biên a-tăng-kỳ thì các vị ở đây có bao giời chấm dứt thọ mạng không, giả sử chấm dứt thì thành thế nào, không chấm dứt thì thành thế nào?

    mình nói với bạn cõi trời Đậu Suất vì cõi đó thực sự là đáng hướng tới với những ai thích mong cầu tái sinh vào cảnh giới cao thượng. Tuy nhiên không phải như bạn nói là chỉ các vị xuất gia giữ giới mới vào được, thực tế là nhiều cư sĩ áo trắng đã tái sinh vào khá nhiều, ví dụ như ông Cấp-cô-độc đã chứng quả Dự Lưu, sau khi được Tôn giả Xá-lợi-phất độ cho vào cõi Đậu Suất liền hiện thân là một vị thiên tử xuất hiện trước mặt Phật và đọc một bài kệ ca ngợi ngài Xa-lợi-phất chứ không phải chời ngày một ngày hai gì cả, con gái của ông Cấp-cô-độc ở tại gia và chứng quả Nhất Lai và cũng tái sinh vào Đậu Suất và v.v..Nói vui về cõi Đậu Suất thế thôi chứ so với các cảnh giới caco thượng hơn thì Đậu Suất còn thua nhiều, Đậu Suất mà so với Ngũ Tịnh Cư Thiên của các vị A-na-hàm thì...chậc chậc...(mà A-na-hàm cũng có nhiều cư sĩ tại gia chứng lắm đấy nhé, chưa cần xuất gia đâu, ví dụ cư sĩ Citta nổi tiếng vừa chứng quả vị A-na-hàm, vừa chứng Tứ Thiền v.v..)

    thực ra mình bảo người thân, bạn đồng tu...ở đây bạn lại hiểu theo nghĩa hẹp là ngay trong đời sống này, thực tế là mình muốn nói về nhiều kiếp luân hồi, biết đâu bạn và mình trước đây đã từng là anh,em, hàng xóm, họ hàng...với nhau :silly:, nên giả sử bạn có đồng tu nào từ xưa trong quá khứ hiện đang ở Tây phương cực lạc, người này theo lý thuyết hoàn toàn có thể về động viên bạn :smug: nói với bạn như thế vì những trường hợp thế này vẫn thường xảy ra hồi Phật còn tại thế, có những vị tỳ-kheo sống từ thời Phật Ca-diếp, tu tập Pháp và giữ Giới thành tựu nên được tái sinh lên cõi Phạm thiên, thậm chí trở thành những vị Bất Lai A-na-hàm, những vị này đến thời Phật Thích Ca vẫn ở trong các cõi Tịnh Cư Thiên chứ vẫn chưa nhập Niết-bàn, họ vẫn thường quan sát các người thân của mình hay đồng tu quá khứ của mình, nếu đồng tu nào trước kia nay trở thành Tỳ-kheo dưới sự hướng dẫn của Phật Ca mà chưa giữ gìn Giới Luật thì họ vẫn hiện thân xuống nhắc nhở, ngay như Phạm thiên Sahampati mà kinh thường nhắc tới vốn trong tiền kiếp là một Ty-kheo thời Phật Ca-diếp, nhờ tu tập 5 Căn là Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ nên tái sinh làm Phạm thiên v.v..)

    còn niềm tin của bạn vào Tây phương cực lạc khá vững chắc, chúc bạn thành tựu như ý nguyện.

  18. #18

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi phoenix127 Xem Bài Gởi
    hihi, bạn bachliencu vẫn chưa trả lời câu hỏi: Tây phương cực lạc nằm trong Tam giới hay nằm ngoài Tam giới? tuổi thọ lâu nhất trong Tam giới là Phi tưởng phi phi tưởng xứ là 84 000 a tăng kỳ, theo như bạn nói tuổi thọ ở Tây phương cực lạc là vô biên a-tăng-kỳ, vậy nên hiểu thế nào đây? và nếu theo bạn là vô biên a-tăng-kỳ thì các vị ở đây có bao giời chấm dứt thọ mạng không, giả sử chấm dứt thì thành thế nào, không chấm dứt thì thành thế nào?

    mình nói với bạn cõi trời Đậu Suất vì cõi đó thực sự là đáng hướng tới với những ai thích mong cầu tái sinh vào cảnh giới cao thượng. Tuy nhiên không phải như bạn nói là chỉ các vị xuất gia giữ giới mới vào được, thực tế là nhiều cư sĩ áo trắng đã tái sinh vào khá nhiều, ví dụ như ông Cấp-cô-độc đã chứng quả Dự Lưu, sau khi được Tôn giả Xá-lợi-phất độ cho vào cõi Đậu Suất liền hiện thân là một vị thiên tử xuất hiện trước mặt Phật và đọc một bài kệ ca ngợi ngài Xa-lợi-phất chứ không phải chời ngày một ngày hai gì cả, con gái của ông Cấp-cô-độc ở tại gia và chứng quả Nhất Lai và cũng tái sinh vào Đậu Suất và v.v..Nói vui về cõi Đậu Suất thế thôi chứ so với các cảnh giới caco thượng hơn thì Đậu Suất còn thua nhiều, Đậu Suất mà so với Ngũ Tịnh Cư Thiên của các vị A-na-hàm thì...chậc chậc...(mà A-na-hàm cũng có nhiều cư sĩ tại gia chứng lắm đấy nhé, chưa cần xuất gia đâu, ví dụ cư sĩ Citta nổi tiếng vừa chứng quả vị A-na-hàm, vừa chứng Tứ Thiền v.v..)

    thực ra mình bảo người thân, bạn đồng tu...ở đây bạn lại hiểu theo nghĩa hẹp là ngay trong đời sống này, thực tế là mình muốn nói về nhiều kiếp luân hồi, biết đâu bạn và mình trước đây đã từng là anh,em, hàng xóm, họ hàng...với nhau :silly:, nên giả sử bạn có đồng tu nào từ xưa trong quá khứ hiện đang ở Tây phương cực lạc, người này theo lý thuyết hoàn toàn có thể về động viên bạn :smug: nói với bạn như thế vì những trường hợp thế này vẫn thường xảy ra hồi Phật còn tại thế, có những vị tỳ-kheo sống từ thời Phật Ca-diếp, tu tập Pháp và giữ Giới thành tựu nên được tái sinh lên cõi Phạm thiên, thậm chí trở thành những vị Bất Lai A-na-hàm, những vị này đến thời Phật Thích Ca vẫn ở trong các cõi Tịnh Cư Thiên chứ vẫn chưa nhập Niết-bàn, họ vẫn thường quan sát các người thân của mình hay đồng tu quá khứ của mình, nếu đồng tu nào trước kia nay trở thành Tỳ-kheo dưới sự hướng dẫn của Phật Ca mà chưa giữ gìn Giới Luật thì họ vẫn hiện thân xuống nhắc nhở, ngay như Phạm thiên Sahampati mà kinh thường nhắc tới vốn trong tiền kiếp là một Ty-kheo thời Phật Ca-diếp, nhờ tu tập 5 Căn là Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ nên tái sinh làm Phạm thiên v.v..)

    còn niềm tin của bạn vào Tây phương cực lạc khá vững chắc, chúc bạn thành tựu như ý nguyện.
    Khi mê tam giới hữu, ngộ rồi Thập phương không..nay vì đồng tu mà nói nó là nằm trong tam giới,..nhưng vì người đã ngộ mà nói nó vượt ra tam giới...vì vốn dĩ tam giới là do tâm ta tạo tác:happy:
    Phật thuyết thế giới có thành trụ hoại không, vật có sanh trụ dị diệt,..người có sanh lão bệnh tử..ngay cả Như Lai còn hiện tướng nhập Niết Bàn, nên nói tuổi thọ của chúng sanh kia là vô lượng A Tăng kỳ kiếp chứ chẳng phải là không có tuổi thọ,...nhân do thọ mạng chúng sanh ấy là rất dài...rất dài nên nội trong một đời sẽ đắc sơ thiền, nhị thiền, tam thiền tứ thiền...dần tu tập đến quả vô thượng bồ đề..còn chúng sanh ở sa bà này thọ mạng không được là bao chưa chứng sơ thiền đã gặp Diêm La,, thế nên mới nói cảnh kia dễ tu, thuận duyên thì nhiều nghịch duyên lại ít,..Hàng Bồ Tát mười phương ai cũng nguyện về, hầu mong thân cận gần gũi A Di Đà Như Lai mà tu học Phật pháp...
    Trên đời này có năm cái khó: làm người khó được, chẳng bị tật nguyền, sanh nơi có văn hóa, biết được phật pháp, phát lòng tin đạo...Sanh nơi Cực lạc bạn sẽ chẳng bị năm cái khó ấy...Vì ở cõi Tây Phương kia, toàn là nhất sanh bổ xứ Phật. Bồ Tát như Di Lạc ( A Dật Đa Bồ Tát) rất nhiều rất nhiều Các vị như: Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Giác Minh Diệu Hạnh,...Toàn là Đăng Địa Bồ Tát..lại còn có Phật A Di Đà...
    Chúng sanh cõi kia sáng ra hái hoa, dùng sức thần thông mà đi cúng dường hằng sa cõi Phật..do nương vào nguyện lực của Phật..còn Đâu Suất cung chẳng thể có thần thông như vậy..Có nghĩa là....bạn sanh Tịnh độ thì bạn có Thể đi tham bái Di Lạc Bồ tát ở Đâu Suất,..thế nhưng bạn sanh Đâu Suất thì chẳng thể đi đến Cực Lạc..do cõi ấy là cõi của chư Phật cùng hàng đẳng giác Bồ Tát..Xưa Mục Kiền Liên Tôn Giả đệ tử Thượng Thủ của Thích Ca Mâu Ni chứng được lục thông mà còn chẳng thể vào được cõi nước ấy..Vì thế phải biết nếu không nương vào Phật lực e rằng hàng Bồ Tát cũng chẳng thể sanh sang...nay biết điều này, mà còn chẳng nguyện sanh cõi kia thì thật là uổn...là đồng tu nên viết vài dòng hầu mong cùng chư đạo hữu kết nên thiện duyên...chứ chẳng có ý hơn thua..xin bỏ quá cho...A Di Đà Phật....:praying:2
    Trong vũ trụ, năm đường phân minh, thiện ác báo ứng họa phước đành rành, thân tự chịu lấy không ai thay được. Người thiện làm lành thì từ cảnh sướng đến cõi sướng, từ sáng vào sáng. Người ác làm ác từ cảnh khổ vào cõi khổ, từ tối vào chỗ tối.

  19. #19

    Mặc định

    10 Điều Khó Khi Tu Ở Cõi Ta Bà So Với Cực Lạc
    Trích TỊNH TỪ YẾU NGỮ Thiền Sư Nguyên Hiền
    Thích Minh Thành dịch


    Bồ-tát Long Thọ nói: “Tu hành trong cõi Ngũ trược gọi là khó hành đạo, như người què đi trên đường hiểm trở, một ngày chẳng đi quá mấy dặm. Tu hành ở Tịnh độ gọi là dễ hành đạo, như kẻ phàm phu nương vào sức mạnh của Chuyển Luân Vương, trong một ngày đi khắp tứ thiên hạ”.

    Nay đem mười điều khó ở cõi Ta-bà để so sánh với mười điều dễ ở Tịnh độ:

    1. Ta-bà không thường gặp Phật. Phật Thích-Ca đã diệt độ, tà pháp mạnh mẽ; Cực Lạc thì Phật thường chẳng diệt, hiện đang làm giáo chủ.

    2. Ta-bà mạt pháp nhiễu nhương, có nhiều ngoại đạo, dù bàn Phật pháp nhưng đa số nghiêng lệch sai lầm; Cực Lạc thì Phật và Bồ-tát, nước, chim, cây rừng thường tuyên thuyết Diệu pháp.

    3. Ta-bà bạn bè tà ác, mong cầu lợi dưỡng, làm mê lầm người tu hành đọa vào ba đường ác; Cực Lạc thì Quán Âm, Thế Chí làm bạn thù thắng, các bậc Thượng thiện nhân ở chung một nơi.

    4. Ta-bà có các loài ma não loạn, phá hoại chánh pháp; Cực Lạc tuy có Thiên ma nhưng đều hộ trì chánh pháp, giúp người tu hành mau được thành tựu.

    5. Ta-bà luân hồi trong sáu nẻo, như bánh xe xoay vòng không có ngày dừng nghỉ; Cực Lạc thì hoa sen hóa sinh, không còn luân chuyển trong đường sinh tử khổ đau.

    6. Ta-bà qua lại ba cõi theo nghiệp chịu quả báo, tuy sinh lên cõi Trời nhưng khó tránh con đường ác; Cực Lạc thì danh từ của ba đường ác còn không nghe, huống chi có thật.

    7. Ta-bà trần duyên ác trược, thường làm chướng ngại đối với việc xuất thế; Cực Lạc thì lầu vàng điện ngọc, áo đẹp cơm ngon đều làm phương tiện trợ giúp tu hành.

    8. Ta-bà con người sống trăm năm nhưng phần nhiều chết yểu, thời gian mau chóng, đại đạo khó thành; Cực Lạc thì tuổi thọ của chúng sinh ngang bằng với Phật.

    9. Ta-bà tu hành phải đoạn trừ Kiến hoặc, Tư hoặc mới có thể được Bất thối chuyển. Người mới tu chưa tránh khỏi sự thối chuyển đọa lạc; Cực Lạc thì chúng sinh khi sinh về đều vào Chánh định tụ mãi không còn thối chuyển.

    10. Ta-bà người tu hành trải qua muôn kiếp khó thành, như các vị đồ đệ nghe pháp trong thời Phật Đại Thông, thối chuyển Đại thừa chấp vào Tiểu thừa, trải qua vô số kiếp còn ở bậc Thanh văn; Cực Lạc thì chỉ một đời này thường theo Phật học, tiến thẳng đến đạo tràng, thành tựu đạo giác ngộ Vô Thượng.

    Mười điều khó và dễ nói trên đây, thật cách xa nhau như trời với vực. Nếu cậy vào sức mình thì chỉ luống uổng tự nhọc nhằn. Nhưng nếu nương nhờ vào duyên thù thắng thì được sự lợi ích cao rộng.

    Người tu hành nên chọn lựa!
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

  20. #20

    Mặc định

    nói về Tây phương cực lạc như các bạn nói thì có thể kết luận Tây phương cực lạc là một cõi Tổng hợp, nó vừa có tính chất của các cõi Thiền Sắc Giới, vừa có tính chất của các cõi Trời Dục Giới, lại vừa na ná thời kỳ của một vị Chuyển Luân Thánh Vương cai trị quốc độ bằng Pháp, dân chúng sống trong Pháp, cảnh sắc cũng toàn ngọc ngà châu báu, thọ mạng lâu dài đến 84000 tuổi v.v.. nói về cõi Cực lạc này còn nhiều điều chưa hợp lý đâu, chẻ hoe thêm nữa thì sợ không trả lời được, tuy nhiên cũng không muốn tranh luận nhiều về niềm tin của các bạn, ít nhất thì những người mong muốn sinh về Cực Lạc đã biết đặt niềm tin vào Phật, Bồ tát, cũng là đang gieo duyên với Chánh Giác, khi biết đặt niềm tin vào vô thượng thì quả dị thục sẽ là vô thượng, thôi chúc các bạn vui.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Kinh Vô Lượng Thọ Phật !
    By kinhdich in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 31-05-2012, 04:26 PM
  2. Trả lời: 274
    Bài mới gởi: 20-02-2012, 09:39 AM
  3. Trả lời: 48
    Bài mới gởi: 29-04-2011, 12:15 AM
  4. 48 nguyện của A Di Đà Phật
    By bachliencu in forum Tịnh Độ Tông
    Trả lời: 1
    Bài mới gởi: 06-04-2011, 08:21 PM
  5. Ý nghĩa của cầu nguyện, cầu an và cầu siêu
    By dinhlong64 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 25-03-2011, 05:36 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •