có mấy cái số là trang sách nhé mọi ng ^.^
Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh_ Tập 01_ No.14
PHẬT NÓI KINH THẬP VÃNG SINH A DI ĐÀ PHẬT QUỐC
Hán dịch: Mất tên người dịch. Nay trích bản ghi chép thuộc đời Chu
Việt dịch: HUYỀN THANH
Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật trụ trong núi Kỳ Xà Quật (Gṛdhra-kuṭa) tại
thành Vương Xá (Rāja-gṛha) cùng với chúng Đại Tỳ Khưu (Mahatā-bhikṣu-saṃgha)
gồm một vạn hai ngàn người đến dự, đều là bậc Đại A La Hán (Mahā-śrāvaka:Đại
Thanh Văn) mà mọi người đã biết. Tên các vị ấy là Ma Ha Ca Diếp (Mahā-kāśyapa),
Ma Ha A Na Luật Đà (Mahā-Aniruddha) đều là bậc Thượng Thủ (Paramukha) của
nhóm như vậy.
Lại cùng với vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát đến dự, tất cả đều trụ tại địa vị Bất
Thoái Chuyển (Avaivartika), vô lượng Công Đức, mọi chỗ trang nghiêm. Tên các vị
ấy là Diệu Cát Tường Bồ Tát (Maṃjuśrī), Vô Năng Thắng Bồ Tát (Ajita), Thường
Tinh Tiến Bồ Tát (Nityodyukta), Bất Hưu Tức Bồ Tát (Gandha-hasta:Hương
Tượng). …Các vị Đại Bồ Tát của nhóm như vậy đều là bậc Thượng Thủ
Lại có Thích Đề Hoàn Nhân (Śakra), Kham Nhẫn Giới Chủ (Sahāṃpati), Đại
Phạm Thiên Vương (Mahā-brahma-deva-rāja), bốn vị Đại Thiên Vương (Catur-
mahā-rājakajikaḥ). Như vậy là bậc Thượng Thủ của trăm ngàn câu đê (Koṭi) na dữu
đa (Nayuta) số các chúng Thiên Tử (Devaputra) với hàng A Tố Lạc (Asura)…vì
nghe Pháp cho nên thảy đều đến tập hội, đều lễ bàn chân của Đức Phật rồi lui ra ngồi
một bên.
Bấy giờ A Nan (Ānanda) bạch Phật rằng: “Đức Thế Tôn từ khi thành Đạo đến
nay, ở trong Pháp giải Thoát của tất cả chúng sinh, rộng diễn bày Kinh Điển Đại
Thừa (Mahā-yāna), tuyên nói sự vi diệu tối thắng thanh tịnh trang nghiêm của Thế
Giới Cực Lạc (Sukhāvatī) ở phương Tây. Bản Thệ, Nguyện nặng, Công Đức chẳng
thể nghĩ bàn của Đức Phật A Di Đà (Amitābha). Pháp của tất cả chúng sinh vãng sinh
về Thế Giới Cực Lạc…Chúng con đã nghe kỹ, tin nhận, tu hành. Nhưng chưa được
nghe Pháp Quán Thân, việc ấy như thế nào ? Nguyện xin diễn nói”
Đức Phật bảo A Nan: “Phàm Pháp Quán Thân. Chẳng quán Đông Tây. Chẳng
quán Nam Bắc. Chẳng quán bốn phương bàng, phương trên, phương dưới. Chẳng
quán Duyên bên ngoài. Chẳng quán Duyên bên trong. Chẳng quán hình sắc của Thân.
Chẳng quán màu sắc, âm thanh. Chẳng quán hình sắc, hình tượng. Chỉ quán Vô
Duyên (không có Duyên). Đấy là Pháp Chính Chân Quán Thân. Trừ Quán Thân
đó ra, mười phương xét kỹ, cầu nơi nơi chốn chốn đều không có Pháp khác mà được
giải thoát”
Đức Phật lại bảo A Nan: “Chỉ tự Quán Thân thì Thiện Lực tự nhiên, Chính
Niệm tự nhiên, Giải Thoát tự nhiên. Tại sao thế ? Ví như có người tinh tiến, Tâm ngay
thẳng được Chính Giải Thoát. Người như vậy chẳng cầu giải thoát mà giải thoát tự
đến”
A Nan lại bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Chúng sinh trong Thế Gian, nếu có Chính
Niệm Giải Thoát như vậy thời lẽ ra không có tất cả Địa Ngục, Quỷ đói, Súc Sinh… ba
đường ác ?!...”
Đức Phật bảo A Nan: “Chúng sinh trong Thế Gian chẳng được giải thoát. Tại sao
thế ? Vì tất cả chúng sinh đều do có nhiều điều hư hão, ít điều thật, không có một
1
Chính Niệm. Do Nhân Duyên đó mà Địa Ngục thì nhiều, giải thoát thì ít. Ví như có
người đối với cha mẹ của mình cùng với Thầy, Tăng…bên ngoài hiển điều Hiếu
Thuận nhưng bên trong ôm giữ sự Bất Hiếu, bên ngoài thì tinh tiến nhưng bên trong
ôm giữ sự chẳng thật. Ngươi ác như vậy, tuy nghiệp báo chưa đến nhưng chẳng lâu sẽ
rơi vào ba đường (Địa Ngục, Quỷ đói, Súc Sinh), không có Chính Niệm, chẳng được
giải thoát”
A Nan lại bạch Phật rằng: “Nếu người như vậy thì nên tu căn lành (Kuśala-
mūla) nào để được Chính Giải Thoát ?”
Đức Phật bảo A Nan: “Nay ông hãy khéo lắng nghe ! Nay Ta vì ông nói có mười
Pháp Vãnh Sinh thuộc Thế Giới Cực Lạc ở phương Tây, có thể được giải thoát. Thế
nào là mười ?
1_ Quán Thân Chính Niệm, thường ôm lòng vui vẻ, đem thức ăn uống, quần áo
dâng thí Phật với Tăng, sẽ sinh về nước của Đức Phật A Di Đà.
2_ Chính Niệm, dùng thuốc tốt ngon ngọt dâng thí cho một vị Tăng bị bệnh với
tất cả, sẽ sinh về nước của Đức Phật A Di Đà.
3_ Chính Niệm, chẳng hại một sinh mạng, Từ Bi với tất cả, sẽ sinh về nước của
Đức Phật A Di Đà.
4_ Chính Niệm, theo Thầy, đã thọ nhận Giới, Tịnh, Tuệ thường tu Phạm Hạnh
(Brahma-caryā), thường ôm lòng vui vẻ, sẽ sinh về nước của Đức Phật A Di Đà.
5_ Chính Niệm, hiếu thuận với cha mẹ, kính phụng Sư Trưởng, chẳng khởi Tâm
kiêu mạn, sẽ sinh về nước của Đức Phật A Di Đà.
6_ Chính Niệm, đi đến chỗ Tăng Phường (phòng xá mà Tăng Ni cư ngụ), cung
kính chùa tháp, nghe Pháp hiểu một nghĩa, sẽ sinh về nước của Đức Phật A Di Đà.
7_ Chính Niệm, trong một ngày một đêm thọ trì tám Trai Giới chẳng phá một
Giới, sẽ sinh về nước của Đức Phật A Di Đà.
8_ Chính Niệm, Nếu hay ở trong ngày Trai của tháng mà xa lìa phòng xá,
thường đến chỗ của Thầy tốt (thiện sư), sẽ sinh về nước của Đức Phật A Di Đà.
9_ Chính Niệm, thường hay giữ gìn Tịnh Giới, siêng tu Thiền Định, hộ Pháp,
chẳng nói lời ác. Nếu hay hành như vậy, sẽ sinh về nước của Đức Phật A Di Đà.
10_ Chính Niệm, nếu đối với Đạo vô thượng chẳng khởi Tâm phỉ báng, tinh tiến
giữ gìn Tịnh Giới, lại dạy bảo người không có Trí, lưu bố Kinh Pháp này giáo hoá vô
lượng chúng sinh. Các hạng người như vậy đều được sinh về nước của Đức Phật A Di
Đà.
Bấy giờ, Thế Giới ở mười phương chấn động theo sáu cách, tuôn mưa châu báu,
toả mùi thơm. Tất cả các Bồ Tát trong nước Phật ở phương khác đi đến tụ tập tại Hội
này, một lòng nghe Pháp.
Trong Đại Hội có một vị Bồ Tát tên là Sơn Hải Tuệ bạch Phật rằng: “Thế Tôn !
Nước của Đức Phật A Di Đà ấy có việc thù thắng diệu lạc nào mà tất cả chúng sinh
đều nguyện sinh vễ nước ấy ?”
Đức Phật bảo Sơn Hải Tuệ Bồ Tát: “Nay ông cần phải đứng dậy, chắp tay, ngay
thẳng thân, hướng về phương Tây, chính niệm, quán nước của Đức Phật A Di Đà,
nguyện nhìn thấy Đức Phật A Di Đà”
Khi ấy, tất cả Đại Chúng cũng đều đứng dậy, chắp tay, cùng nhau quán Đức Phật
A Di Đà.
Lúc đó, Đức Phật A Di Đà hiện Đại Thần Thông, phóng ánh sáng lớn chiếu thân
của Sơn Hải Tuệ Bồ Tát.
2
Bấy giờ nhóm của Bồ Tát Sơn Hải Tuệ liền nhìn thấy cõi nước của Đức Phật A
Di Đà với hết thảy việc trang nghiệm, tốt đẹp, màu nhiệm…đều là bảy báu, núi bảy
báu, tháp bảy báu, phường bảy báu, lầu gác bảy báu…Nước, chim, cây, rừng thường
tuôn ra Pháp m (Dharma-ghoṣa). Cây Đạo Trường của nước ấy cao 40 vạn Do
Tuần, dưới gốc cây có toà Sư Tử (Siṃhāsana) cao 500 Do Tuần, ngày ngày Đức Phật
A Di Đà thường chuyển bánh xe Pháp (Dharma-cakra). Người dân của nước ấy
chẳng tu tập việc bên ngoài, chính tu tập việc bên trong, miệng nói lời của Phương
Đẳng (Vaipulya), tai nghe tiếng của Phương Đẳng, Tâm hiểu nghĩa của Phương Đẳng.
Khi ấy Sơn Hải Tuệ Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Nay chúng con nhìn thấy
sự Thắng Diệu lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của nước ấy. Nay con nguyện cho tất cả
chúng sinh thảy đều vãng sinh, sau đó chúng con cũng nguyện sinh về nước ấy, như
Đức Phật đã ghi nhận là: “Chính Quán, Chính Niệm được Chính Giải Thoát thảy đều
sinh về nước ấy”
Đức Phật bảo Sơn Hải Tuệ Bồ Tát: “Nay ông muốn độ tất cả chúng sinh thời cần
phải thọ trì Kinh đó”
Đức Phật bảo Đại Chúng: “Sau khi Ta diệt độ, hãy thọ trì Kinh này, trong tám
vạn kiếp, rộng tuyên lưu bố cho đến một ngàn Đức Phật đời Hiền Kiếp (Bhadra-
kalpa), khiến khắp các chúng sinh được nghe biết, tin tưởng, ưa thích tu hành. Người
nói, người nghe đều được sinh về nước của Đức Phật A Di Đà. Nếu có người thuộc
nhóm như vậy thời Ta từ ngày hôm nay thường sai khiến 25 vị Bồ Tát hộ trì người đó,
thường khiến cho người đó không có bệnh, không có bực bội. Hoặc Người
(Manuṣya), hoặc Phi Nhân (Amanuṣya) chẳng được dịp thuận tiện gây hại. Đi, đứng,
ngồi, nằm không có kể ngày hay đêm thường được an ổn.
Nếu có chúng sinh tin sâu Kinh đó, niệm A Di Đà Phật, nguyện được vãng sinh
thời Đức Phật A Di Đà của Thế Giới Cực Lạc ấy sai khiến Quán Thế m Bồ Tát
(Avalokiteśvara), Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta), Dược Vương Bồ Tát
(Bhaiṣaijya-rāja), Dược Thượng Bồ Tát (Bhaiṣaijya-samudgata), Phổ Hiền Bồ Tát
(Samanta-bhadra), Pháp Tự Tại Bồ Tát (Dharmeśvara), Sư Tử Hống Bồ Tát (Siṃha-
nāda), Đà La Ni Bồ Tát (Dhāranī), Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha), Đức
Tạng Bồ Tát (Guṇa-garbha), Bảo Tạng Bồ Tát (Ratna-garbha), Kim Tạng Bồ Tát
(Suvarṇa-garbha), Kim Cương Bồ Tát (Vajra), Sơn Hải Tuệ Bồ Tát, Quang Minh
Vương Bồ Tát (Raśmi-prabha-rāja), Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát (Avataṃsaka-rāja),
Chúng Bảo Vương Bồ Tát, Nguyệt Quang Vương Bồ Tát (Candra-prabha-rāja),
Nhật Chiếu Vương Bồ Tát (Divā-kara-rāja), Tam Muội Vương Bồ Tát (Samādhi-
rāja), Tự Tại Vương Bồ Tát (Īśvara-rāja), Đại Tự Tại Vương Bồ Tát (Maheśvara-
rāja), Bạch Tượng Vương Bồ Tát (Śukla-hasta-rāja), Đại Uy Đức Vương Bồ Tát
(Mahā-teja-rāja), Vô Biên Thân Bồ Tát (Ananta-kāya). Hai mươi lăm vị Bồ Tát như
vậy ủng hộ Hành Giả, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ban ngày, hoặc
ban đêm, tất cả Thời, tất cả nơi chốn…chẳng để cho Quỷ ác, Thần ác được dịp thuận
tiện gây hại”.
Đức Phật lại bảo Sơn Hải Tuệ: “Kinh này có tên là Đổ A Di Đà Phật Sắc Thân
Chính Niệm Giải Thoát Tam Muội Kinh, cũng có tên là Độ Chư Hữu Lưu Sinh
Tử Bát Nạn Hữu Duyên Chúng Sinh Kinh…Như vậy mà thọ trì.
Chúng sinh chưa có Niệm Phật Tam Muội Duyên thì Kinh này hay cho tạo mở
Môn Đại Tam Muội (Mahā-samādhi-mukha). Kinh này hay cho chúng sinh đóng bít
cửa Địa Ngục. Kinh này hay cho chúng sinh trừ khử người gây hại, Quỷ ác…diệt hết
bốn hướng thảy đều an ổn”
3
Đức Phật bảo Sơn Hải Tuệ: “Như Ta đã nói nghĩa ấy như vậy”
Sơn Hải Tuệ Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Nay con đỉnh thọ Tôn Kinh
chẳng dám có sự nghi ngờ. Có điều ở đời này với đời vị lai, chúng sinh trong các
Hữu (các cõi) phần lớn sinh phỉ báng, chẳng tin Kinh này. Người như vậy thời sau
này như thế nào?”
Đức Phật bảo Sơn Hải Tuệ Bồ Tát: “Sau này, ở cõi Diêm Phù Đề (Jambu-dvīpa)
hoặc có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, hoặc nam hoặc nữ thấy có người đọc tụng Kinh này…
hoặc đem Tâm giận dữ, ôm ấp phỉ báng. Do chê bai Chính Pháp đó cho nên người này
trong đời hiện tại bị các bệnh ác nặng nề, thân căn chẳng đủ. Hoặc bị bệnh điếc, bệnh
mù, bệnh câm, bệnh ngọng, bệnh bộ sinh dục thất thường, Quỷ, Mỵ, Tà, gió mạnh
bạo, lạnh, nóng, bệnh trĩ, bệnh toàn thân sưng phù, mất Tâm….Các bệnh ác nặng nề
của nhóm như vậy, đời đời ở tại thân, chịu khổ đau như vậy, ngồi nằm chẳng yên, đi
tiểu đi cầu cũng chẳng thông, cầu sống chẳng được, cầu chết chẳng xong. Hoặc cho
đến lúc chết bị đoạ vào Địa Ngục trong tám vạn kiếp nhận chịu đại khổ não, trăm
ngàn vạn đời chưa từng nghe tên gọi của nước với thức ăn. Lâu sau được sinh ra trong
cõi người, làm:trâu, ngựa, heo, dê…bị người giết hại, chịu đại khổ não. Sau này được
thân người, thường sinh vào nhà hèn kém trăm ngàn vạn kiếp chẳng được tự tại, vĩnh
viễn chẳng nghe danh tự của Tam Bảo. Vì chê bai Kinh này cho nên chịu khổ như
vậy. Chính vì thế cho nên trong đám người không có Trí thì đừng nói Chính Quán
Chính Niệm của Kinh này. Người như vậy, sau này cùng với họ, nói sự chẳng kính
Kinh này sẽ bị đoạ vào Địa Ngục, kẻ kia kính trọng sẽ được Chính Giải Thoát, sinh về
nước của Đức Phật A Di Đà.
Nếu có Tỳ Khưu (Bhikṣu), Tỳ Khưu Ni (Bhikṣuni), Ưu Bà Tắc (Upāsaka), Ưu
Bà Di (Upāsikā), kẻ trai lành (Kula-putra), người nữ thiện…chân chính tin tưởng
Kinh này, yêu thích Kinh này, khuyến Đạo chúng sinh thì người nói, người nghe thảy
đều sinh về nước của Đức Phật A Di Đà. Chính vì thế cho nên người có niềm tin, sau
khi Ta diệt độ mà thọ trì Kinh Pháp này; trong thời Chính Pháp (Sad-dharma),
Tượng Pháp (Saddharma-pratirūpaka), Mạt Pháp (Saddharma-vipralopa), đời ác
trược (Duṣṭa-kaṣāya)…rộng tuyên lưu bố thì người đó tức là Đệ Tử chân chính của
Ta, hiện thân, liền được A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề (Anuttarā-
samyaksaṃbuddhi: Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác)”.
Đức Phật nói Kinh xong, thời Tôn Giả A Nan, các Đại Thanh Văn với các Tỳ
Khưu, Bồ Tát Ma Ha Tát, tất cả Thế Gian, Trời, Người, A Tu La…nghe điều Đức
Phật đã nói, đều rất vui vẻ, tin nhận, phụng hành.
PHẬT NÓI KINH THẬP VÃNG SINH A DI ĐÀ PHẬT QUỐC
_Hết_
07/08/2011
4
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks