Mật Tạng Bộ 3_ No.1195 (Tr.936_ Tr.938)



ĐẠI THÁNH VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

TÁN PHẬT PHÁP THAN LỄ

(Kèm theo LỜI TỰA)

Lễ này được trích ra trong Kinh Nhất Thiết Cảnh Giới Trí Quang Minh Trang Nghiêm



Hán dịch: Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty_ Đặc Tiến Thí Hồng Lô Khanh_ Túc Quốc Công, thực ấp gồm ba ngàn hộ_ Ban áo tía tặng Tư Không, tên thụy là Đại Giám, tên hiệu chính là Đại Quảng Trí_Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn BẤT KHONG

phụng chiếu dịch

Việt dịch: HUYỀN THANH

Hoàng Đế dùng lòng lòng nhân từ thâm sâu thống trị khắp bốn phương, như mặt trời sáng tỏ sự vật, rưới vảy khắp Cam Lộ tưới rửa sạch muôn người.

(Bất Không ) chịu ân Thánh Từ rất nhiều, nên phiên dịch. Đặc biệt phụng Aân Mệnh, khiếp tập họp nhóm Thượng Đô Nghĩa Học Sa Môn LƯƠNG BÍ gồm 16

người, ở Nội Đạo Trường phiên dịch Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã với Đại Thừa Mật Nghiêm …. xong. Nguyện tán dương, tiếp theo ở Chí Giác Ký Giới Phước nơi cung Thánh, riêng thấy Kinh Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Tán Phật Pháp Thân

+Căn cứ bản Phạn ấy, có 41 Lễ. Đường lối trước kia đã Hành chỉ có 10 Lễ, đối với văn chẳng đủ, khen ngợi Đức chưa tròn, sợ trái nghịch với sự chân thành của bậc Thánh, lại thiếu Thắng lợi của quần sinh.

Bất Không (Amogha-vajra) trước kia có bản Phạn đã trì, thảy đều đầy đủ. Nay dịch lưu truyền, mong giúp cho lợi ích lớn lao.

Ngoài ra, nhóm Sám Hối Nghi Quỹ đều như bản xưa (cựu bản). Nơi đây chẳng nói lại.

Thời Đại Đường, Vĩnh Thái năm đầu tiên, đúng vào tháng tư của mùa Hạ.

Kinh ghi rằng:

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật trụ trong núi Thứu Phong (Grïdhra-kùtïa) thuộc thành Vương Xá (Ràja-grïha) cùng với chúng Đại Tỳ Khưu (Mahà-bhiksïu) gồm hai vạn năm ngàn người đến dự đều là bậc A La Hán (Arhat), với bảy mươi hai na dữu đa câu chi Đại Bồ Tát Ma Ha Tát mà Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (Mamïju’srì-

bodhisatva) là bậc Thượng Thủ (Pramukha).

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh sửa quần áo, trật áo hở vai phải, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, chắp tay cung kính, khen ngợi Đức Như Lai, rồi nói Già Tha (Gàthà: Kệ) là:

1_ Không sắc (rùpa), không hình tướng (Laksïanïa) Không rễ (Mùla), không nơi trụ (vô trụ xứ)

Chẳng sinh, chẳng diệt, nên

Kính lễ Vô Sở Quán (Lý quán niệm các Pháp không có chỗ được) 2_ Chẳng đi cũng chẳng trụ

Chẳng lấy cũng chẳng bỏ

Xa lìa sáu Nhập (sáu căn của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) nên Kính lễ Vô Sở Quán

3_ Chẳng trụ ở các Pháp (Dharma)

Do lìa có (hữu), lìa không (vô)

Hành ở bình đẳng (Sama) nên

Kính lễ Vô Sở Quán

4_ Ra khỏi nơi Tam Giới (Sắc Giới, Dục Giới, Vô Sắc Giới) Ngang đồng với hư không

Các dục chẳng nhiễm, nên

Kính lễ Vô Sở Quán

5_ Ở trong các uy nghi

Đi, đứng với ngủ, thức

Thường ở vắng lặng nên

Kính lễ Vô Sở Quán

6_ Đi, đến đều bình đẳng

Đã trụ ở bình đẳng

Chẳng hoại bình đẳng, nên

Kính lễ Vô Sở Quán

7_Vào các Vô Tướng Định

Thấy các Pháp vắng lặng

Thường ở Tam Muội (Samàdhi) nên

Kính lễ Vô Sở Quán

8_ Không trụ, không chỗ quán

Ở Pháp, được tự tại

Tuệ dùng thường định, nên

Kính lễ Vô Sở Quán

9_ Chẳng trụ ở sáu Căn

Chẳng dính vào sáu Cảnh

Thường ở một Tướng nên

Kính lễ Vô Sở Quán



10_ Vào ở trong Vô Tướng (Animitta)

Hay chặt đứt các Nhiễm

Xa lìa Danh (Nàma) Sắc (Rùpa) nên

Kính lễ Vô Sở Quán

11_ Chẳng trụ ở tướng có (Hữu Tướng)

Cũng lìa nơi các Tướng

Vào Tướng, ở trong không (vô)

Kính lễ Vô Sở Quán



12_ Không phân biệt suy nghĩ

Tâm trụ không chỗ trụ (Vô sở trụ)

Các Niệm chẳng khởi, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



13_ Không Tàng Thức (Àlaya) như rỗng (‘sùnya:không) Không nhiễm, không hý luận

Xa lìa ba đời, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



14_ Hư Không không giữa, mé

Tâm chư Phật cũng thế

Tâm đồng Hư Không, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



15_ Chư Phật, tướng hư không

Hư không cũng không Tướng

Lìa các Nhân (Hetu) Quả (Phàla) nên

Kính lễ Vô Sở Quán



16_ Chẳng dính ở các Pháp

Như trăng nước (Mặt trăng dưới nước), không lấy

Xa lìa nơi Ngã Tướng

Kính lễ Vô Sở Quán



17_ Chẳng trụ ở các Uẩn (skandha)

Chẳng dính vào Xứ (Àyatana), Giới (Dhàtu)

Xa lìa điên đảo, nên

Kính lễ Vô Sở Quán

18_ Thường ngang bằng Pháp Giới (Dharma-dhàtu)

Ngã Kiến đều chặt đứt

Xa lìa hai bên, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



19_ Chẳng trụ ở các Sắc

Chẳng lấy cũng chẳng bỏ

Xa lìa Phi Pháp, nên

Kính lễ Vô Sở Quán

20_ Chứng Pháp không chướng ngại

Thông đạt nơi các Pháp

Xa lìa Ma Pháp, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



21_ Chẳng có cũng chẳng không

Có, không chẳng thể được

Lìa các ngôn thuyết, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



22_ Bẻ gãy ngu Ngã Mạn

Chẳng một cũng chẳng hai

Xa lìa một, hai nên

Kính lễ Vô Sở Quán



23_ Thân, miệng, ý không mất

Ba Nghiệp thường vắng lặng

Xa lìa thí dụ, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



24_ Nhất Thiết Trí (Sarva-jnõa) thường trụ

Ứng hiện không công dụng

Xa lìa các lỗi, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



25_ Vi diệu vô lậu niệm

Không hạn, không phân biệt

Nhóm Tình, Phi Tình nên

Kính lễ Vô Sở Quán



26_ Dùng Tâm không ngại, nên

Đều biết tất cả Tâm

Chẳng trụ Ta Người (tự tha), nên

Kính lễ Vô Sở Quán

27_ Không ngại, không chỗ quán

Thường trụ Pháp không ngại

Xa lìa các Tâm, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



28_ Tâm thường không chỗ Duyên

Tự Tính chẳng thể được

Bình đẳng khó lường, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



29_ Dùng Tâm không chỗ dựa (vô sở y)

Đều thấy các cõi nước

Biết các hữu tình, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



30_ Các Pháp, Tát Bà Nhã (Sarva-jnõa: Nhất Thiết Trí) Rốt ráo không chỗ có

Tâm Phật khó đo lường

Kính lễ Vô Sở Quán



31_ Các Pháp giống Như Huyễn

Như Huyễn chẳng thể được

Lìa các Pháp Huyễn, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



32_ Phật thường ở Thế Gian

Nhưng chẳng nhiễm Thế Pháp

Chẳng nhiễm Thế Gian, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



33_ Nhất Thiết Trí thường trụ

Tính rỗng (‘Sùnya: Không), cảnh giới rỗng Nói năng cũng rỗng, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



34_ Chứng Vô Phân Biệt Định

Được Như Huyễn Tam Muội

Du hý Thần Thông, nên

Kính lễ Vô Sở Quán

35_ Chẳng một cũng chẳng khác

Chẳng gần cũng chẳng xa

Ở Pháp chẳng động, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



36_ Một niệm Kim Cương Định

Sát Na thành Chính Giác

Chứng không ảnh tượng, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



37_ Nơi các Pháp ba đời

Thành tựu các phương tiện

Chẳng động Niết Bàn, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



38_ Niết Bàn thường chẳng động

Không bờ này, bờ kia

Thông đạt phương tiện, nên

Kính lễ Vô Sở Quán



39_ Không tướng, không chỗ có

Không hoạn, không hý luận

Chẳng trụ có, không nên

Kính lễ Vô Sở Quán



40_ Trí Xứ đều bình đẳng

Vắng lặng không phân biệt

Ta Người (tự tha) nột Tướng, nên

Kính lễ Vô Sở Quán

41_ Tất cả bình đẳng lễ

Không lễ, không chẳng lễ

Một lễ khắp Hàm Thức

Đồng về Thể Thật Tướng



Bấy giờ Đức Thế Tôn khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: “Lành thay ! Lành thay ! Nay ông khéo nói Công Đức của Như Lai, tất cả các Pháp xưa nay vốn thanh tịnh.

Này Văn Thù Sư Lợi ! Giả sử có người giáo hoá tất cả hữu tình trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới đều thành Bích Chi Phật (Pratyeka-buddha) cũng chẳng bằng có người nghe Công Đức này, một niệm tin hiểu, liền vượt qua người gấp trăm ngàn vạn lần. Như vậy triển chuyển, không có thể khen ngợi, ví dụ, so sánh được”.

Đầy đủ như Bản Kinh (Kinh gốc) đã nói




ĐẠI THÁNH VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT TÁN PHẬT PHÁP THAN LỄ

_Hết_

22/05/2011