Một thiện nam đến chùa xin thế phát xuất gia. Sư ông trụ trì hỏi:
- Chú đã suy nghĩ kỹ chưa?
- Bạch thầy, con đã suy nghĩ kỹ rồi.
Ba tháng sau Sư ông cho xuống tóc. Tu được hơn một năm, một hôm chú đến bạch với Sư ông:
- Mô Phật, bạch thầy, cho phép con được hoàn tục.
Sư ông hỏi:
- Chú đã suy nghĩ kỹ chưa?
- Bạch thầy, con đã suy nghĩ kỹ rồi.
Rồi chú tự động thu dọn hành lý trở về nhà.
Trăm thương không bằng một ^
Du tăng Lưu Tâm rất nổi tiếng về tài năng cũng như học vấn. Trên đường hành đạo sư tạm dừng bước tại một thiền viện. Qua sinh hoạt của sư được các thiền sinh rất khâm phục. Họ dành mọi tình cảm cho vị du tăng trẻ tuổi tài cao này và mong người dừng bước du phương tại đây để hoằng pháp lợi sinh.
Tiếng lành đồn xa, không bao lâu trẻ già trai gái tìm đến nghe pháp và thân cận cúng dường rất đông. Sự kiện này khiến cho các thiền sinh càng yêu mến chiều chuộng, dành mọi tình cảm tốt đẹp hầu giữ sư lại thiền viện làm lợi ích Tam Bảo lâu dài.
Một hôm Lưu Tâm bỗng đi biệt tăm với một cô gái trẻ đẹp thường thân cận cúng dường. Cả thiền viện sửng sốt và bàn tán xôn xao.
Viện chủ thiền viện họp đồ chúng lại và nói:
- Tình thương của hàng trăm thiền sinh không thắng nổi tình yêu của một thiếu nữ.
Thật thà quá ^
Tại chùa Chân Lý có ni cô Diệu Chân nổi tiếng thật thà như trẻ nít. Trong lòng nghĩ sao ngoài miệng nói vậy chẳng so đo cân nhắc. Nếu ai tiết lộ với cô một điều gì không sớm thì muộn sẽ bị bật mí. Do tính thật thà này trong chúng không ai dám nói xấu chuyện của người cho cô nghe cả.
Vào dịp lễ Vu Lan. Một tín nữ đem xấp vải lam đến cúng dường. Cô thường mặc y phục nâu nên đã trả lời thẳng thắn:
- Không! Tôi có mặc vải này đâu.
Cô vẫy tay từ chối.
Tín nữ vì chưa biết tính tình cô nên đã buồn giận cầm xấp vải ra về.
Trong chúng nghe kể lại ai cũng lắc đầu cười về tính thật thà quá mức của cô
Bát nhã Ba la mật^
Tại buổi giảng kinh của Pháp sư Thông Biện, trong đó có một vị du tăng tu hạnh Ðộc giác đến dự. Vị Pháp sư nói về công đức tu hạnh Bát nhã Ba la mật của Bồ tát vượt trội hơn công đức trí tuệ của hàng Thanh văn, Duyên giác. Vị du tăng thính pháp bất đồng ý kiến về quan điểm này, bèn chất vấn vị Pháp sư:
- Ðã là trí tuệ thì không có sự sai biệt, là bình đẳng. Tại sao ngài so sánh hơn thua?
Vị Pháp sư mỉm cười. Ngài cầm chiếc bật quẹt giơ lên và bật thành ngọn lửa. Ngài hỏi:
- Theo thầy thì ánh sáng của ngọn lửa với ánh sáng của mặt trời có khác không?
Vị tăng Ðộc giác không trả lời. Ngài đứng dậy vái chào vị Pháp sư, đeo bình bát lên vai rồi rời khỏi giảng đường.
Chuyện bình thường^
Chùa Vân Môn có khoảng một trăm vị tăng. Sư ông trụ trì nổi tiếng là người bình dị. Trong sinh hoạt thường nhật ngài luôn hòa chúng. Phật tử đến chùa đều kính phục hạnh tu của Sư ông.
Một hôm có một thiện nam đến viếng thăm và tán thán hạnh tu của Sư ông. Sư ông mỉm cười nói:
- Có chi đâu, đó chỉ là một việc bình thường thôi.
Vị khách khẳng định:
- Dạ không, bạch Sư ông, con đã đi nhiều chùa và chưa thấy vị thầy nào thật sự bình đẳng như Sư ông.
- Cư sĩ thấy tôi bình đẳng ở chỗ nào?
- Dạ điển hình là một việc nho nhỏ như ngài lao động chung với Tăng chúng, cùng ngồi ăn chung mâm với chư Tăng, không phân biệt ngôi vị cao thấp. Trong khi ở những nơi khác, địa vị của Sư ông phải ăn trên ngồi trước.
Sư ông bật cười, nói:
- Ðó là vì tôi muốn khỏe mạnh và ăn được thôi. Này nhé, nếu không lao động thì trong người sẽ không biết thèm, không biết đói. Do lẽ đó muốn ăn ngon thì phải lao động. Còn lý do nào tôi ăn với Tăng chúng phải không? Thật ra đây là cơ hội kích thích mình ăn được nhiều thôi.
- Như vậy là sao ạ!
- Thế này, nếu tôi ăn riêng với mâm đầy cỗ ngon dễ khiến mình buồn chán. Nhưng cũng một mâm ấy mà đông người ăn sẽ vui. Do vậy ăn chung với đại chúng sẽ giúp mình ăn được và ăn ngon hơn.
- À , thì ra là thế!
Giới sát ^
Sau buổi thuyết pháp của giảng sư, một cô Phật tử đứng dậy nêu thắc mắc:
- Kính bạch Ðại đức, vừa qua con nghe Ðại đức giảng về giới sát mà con khổ tâm vô cùng.
Giảng sư hỏi:
- Có điều gì thắc mắc thì cô cứ nêu.
- Bạch Ðại đức, cái giường của mẹ con nằm ngủ có rất nhiều rệp, chúng cắn mẹ con đến phát sinh bệnh tật. Bây giờ con phải biết làm sao với lũ rệp đó?
Giảng sư hỏi:
- Mạng sống của mẹ cô quý hay con rệp quý?
- Dạ, dĩ nhiên mạng sống của mẹ con phải quý hơn.
- Vậy thì hãy bắt những con rệp ấy quẳng chúng đi.
Cô trợn mắt nhìn vị giảng sư:
- Nếu thế chúng sẽ chết và như vậy con sẽ phạm vào giới sát.
Vị giảng sư đáp:
- Vậy thì cô để cho những con rệp ấy sống, để cho mẹ cô chết.
Nhận lầm ^
Hai thanh niên đi đường cùng chiều. Họ nhìn thấy ở lề đường một hộp kiếng, bên trong có thỏi vàng óng ánh. Hai người giành giật nhau để chiếm đoạt.
Một anh nói:
- Tôi thấy trước.
Anh kia cãi:
- Nhưng tôi lượm trước.
Hai người lời qua tiếng lại không nhân nhượng nhau. Cuối cùng để lấy được của, họ phải dùng vũ lực. Hai bên ẩu đả quyết liệt bất phân thắng bại. Quần chúng bu lại xem làm tắt nghẽn giao thông.
Công an được tin đến phân xử thì mới rõ vàng trong hộp là vàng giả. Kết quả hai thanh niên phải vào bệnh viện để chữa trị, lại phải nộp phạt về tội gây rối trật tự giao thông.
Ðúng sai ^
Thầy Thiện Phước đi nghe thuyết kinh Kim Cang Bát Nhã. Sau khi về chùa, thầy trở nên hoang mang trong việc hành trì tu tập. Nếu có chấp tác thì chỉ là miễn cưỡng chứ không còn nhiệt tâm như trước. Ðể giải tỏa thắc mắc của mình, thầy đến bạch với sư phụ.
- Kính bạch thầy, theo lời vị giảng sư dạy thì việc tụng kinh, lễ bái, ngồi thiền chỉ là hình thức chứ chưa phải là tu. Vậy xin thầy chỉ cho con được rõ đúng hay sai.
Sư phụ đáp:
- Cũng đúng mà cũng sai.
- Thưa thầy, con chưa hiểu.
- Ở vào hoàn cảnh địa vị giảng sư là đúng. Ở vào hoàn cảnh địa vị của con là sai.
Ðệ tử vẫn chưa hiểu rõ lời dạy.
Một thời gian sau, thầy Thiện Phước được sư phụ cử đi trụ trì một ngôi chùa và hướng dẫn đồ chúng . Ðến lúc này thầy mới nhận ra được lời dạy của sư phụ thật là đúng.
Bi Trí^
Một vị đệ tử chưa hiểu tinh thần kết hợp giữa bi và trí mà thầy vừa giảng nên đã hỏi.
- Bạch thầy, theo ý con đã là bi thì không nên có trí xen vào.
- Con hãy cho thầy một thí dụ cụ thể.
- Chẳng hạn thấy người đói khổ thì cứ bố thí. Nếu mình so đo tính toán hoặc tìm hiểu tại sao thì con e rằng lòng từ bi sẽ bị thui chột mất.
- Ðúng. Nhưng nếu con gặp một người té sông thì sao? Con có nhảy xuống cứu họ không?
- Dạ không.
- Tại sao vậy?
- Dạ tại vì con không biết bơi.
- Vậy thì lòng từ bi của con ở đâu?
- Mặc dù lòng từ bi có nhưng vì con không biết bơi, nếu nhảy xuống sông cứu họ thì e rằng con cũng sẽ chìm theo họ mất.
- Vậy con phải làm sao?
- Con sẽ tìm cách nào đó để có thể cứu sống được họ.
- Bi kết hợp với trí mà thầy muốn nói là nghĩa như thế đó.
Ðệ tử cúi đầu bái tạ lui ra.
Thương ghét bất đồng ^
Hòa thượng Ngộ Ðạo là một vị chân tu khả kính, đệ tử xuất gia và tại gia có đến hơn vạn người. Cuộc đời của ngài ngoài việc tu hành nghiêm trì giới luật và giáo hóa đồ chúng ra còn làm rất nhiều việc từ thiện khác. Nói chung cả cuộc đời ngài tận tụy vì sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh.
Một hôm ngài an nhiên thị tịch. Tin này nhanh chóng được truyền khẩu đến tai các đệ tử của ngài. Có người đã vui mừng thốt lên:
- Thế là thoát nợ.
Cũng có những vị thương tiếc than thở:
- Ôi! Một ngôi sao sáng vừa lịm tắt.
8-1990
Làm con mới đúng ^
Một bà vãi đến bạch với thầy trụ trì:
- Kính bạch thầy, chú tiểu Lam không chịu làm công việc phụ giúp con.
Thầy nhỏ nhẹ:
- Thôi, mình lớn tuổi rồi ráng hy sinh làm để cho giới trẻ có thời gian tu học. Mai này chú ấy tu được thì phước của vãi rất lớn.
- Dạ bạch thầy, rủi chú ấy không tu được thì sao?
- Thì kiếp sau chú làm mẹ của vãi.
Bà trợn mắt:
- Trời đất! Vậy tội gì con phải hầu chú để rồi kiếp sau chú ấy lại làm mẹ mình.
- Vậy vãi muốn chú ấy làm con hả?
- Mô Phật! Làm con mới đúng chứ. Ngu sao chịu chú làm mẹ.
- Vậy thì vãi lại phải hầu nó tiếp nữa à?
Bà vãi?
Không ăn lộc chuột ^
Một hôm chú tiểu đem chuối dâng lên cúng dường thầy. Thầy hỏi:
- Chuối ở đâu vậy con?
- Dạ bạch thầy, chuối này con lấy ở bàn thờ cửu huyền.
- Ấy, từ nay con không được lấy thức ăn cúng vong dâng cúng quý thầy nghe chưa.
Chú tiểu dạ nhưng thắc mắc hỏi lại:
- Bạch thầy, tại sao không được? Con thấy nải chuối này Phật tử cúng ngon quá nên con mới dâng cúng thầy.
- Vì quý thầy độ cho vong linh nên không ăn thừa lộc của vong.
Một hôm chú tiểu thấy quả chuối để trên bàn bị chuột ăn hết một phần định quăng bỏ. Thầy thấy vậy vội ngăn:
- Con không nên phung phí thực phẩm như vậy. Hãy cắt bỏ phần chuột ăn đi, phần còn lại mình ăn cũng được, có chết chóc gì đâu mà sợ.
Chú tiểu thưa:
- Bạch thầy, con không sợ chết mà sợ ăn lộc chuột không độ được chuột thôi ạ.
Thầy!?!
Người ngu đốt tiền^
Có một anh nọ cứ mỗi buổi sáng cầm tờ giấy bạc 200 đồng ra đốt. Lúc đầu người hàng xóm tưởng anh đốt đô la âm phủ, nhưng về sau phát hiện ra anh ta đốt tiền thật.
Việc làm này bị mọi người chung quanh chê trách nguyền rủa là đồ ngu. Tiền làm ra đổ mồ hôi nước mắt mới có được lại đem đi đốt chơi. Thật là khùng, điên, mát... Anh ta bỏ ngoài tai hết và cứ tiếp tục đốt tiền vào mỗi buổi sáng.
Một hôm đang đốt tiền thì có một anh hàng xóm vì quá ngứa mắt nên đến hỏi:
- Tại sao anh lại dại dột đến nỗi đem tiền đốt chơi như thế?
Nói xong anh đưa điếu thuốc lá lên miệng rít một hơi dài, phả ra từng ngụm khói như trêu ghẹo.
Anh kia bình tĩnh trả lời:
- Công nhận tôi dại thật, tiền làm ra đổ mồ hôi lại đem đốt chơi. Thế nhưng so với người đã đốt tiền, đốt phổi lại còn đốt cả sức khỏe thì ai ngu hơn?
Anh hàng xóm lẳng lặng bỏ đi.
Khỏi mất phần^
Theo quy định tại nghĩa trang chùa Vân Thê, những Phật tử khi mất được an táng theo thứ tự, chết trước chôn trước, chết sau chôn sau, không ai được giành phần trước. Một hôm có các Phật tử đến thưa với thầy quản lý nghĩa trang:
- Bạch thầy, chúng con đi chùa đã lâu, chỉ mong sau này mất được an táng tại đất chùa. Vừa rồi chúng con ra thăm nghĩa trang thấy mộ phần quá nhiều, đất sắp hết, không biết sau này tới lượt chúng con sẽ yên nghỉ nơi đâu?
Thầy hỏi lại:
- Quý vị sợ mất quyền lợi phải không?
- Mô Phật, phải.
- Vậy thì quý vị tranh thủ chết sớm để khỏi mất phần.
-!?!
Thầy trò ^
Thầy vào phòng làm việc thấy mất một số giấy tờ bèn kêu thị giả đến hỏi:
- Con có thấy những giấy tờ vụn để trên bàn không?
- Mô Phật, có.
- Thế đâu rồi?
- Dạ, con thấy giấy vụn nên đã đem bỏ vào thùng rác rồi ạ.
- Từ nay về sau những thứ để trên bàn thầy không được bỏ đi, nếu chưa có sự đồng ý của thầy, nhớ không?
- Mô Phật, nhớ.
Một hôm, thầy gọi thị giả vào phòng trách:
- Con có thấy vỏ chuối để trên bàn không?
- Mô Phật, thấy.
- Tại sao con không dẹp?
- Mô Phật, tại vì chưa có sự đồng ý của thầy.
Thầy?!!
Trọn vẹn cả hai ^
Có một Phật tử đến hỏi một vị Sư:
- Bạch Sư, con có một thắc mắc này xin Sư hoan hỷ chỉ giáo cho.
- Ðược cư sĩ cứ hỏi.
- Bạch Sư! Trường hợp thấy một con cọp định ăn con heo. Nếu để con cọp ăn con heo mà mình không cứu nó thì thiếu lòng từ bi. Nếu mình tìm cách không cho con cọp ăn con heo thì con cọp sẽ bị đói tội nghiệp nó. Vậy trước hiện thực này mình phải xử lý thế nào cho trọn vẹn cả hai?
Vị Sư đáp:
- Vậy cư sĩ nên hiến mình cho cọp ăn là trọn vẹn cả hai.
12-12-2000
Không cầu Phật ngoài^
Hôm nay là buổi giảng pháp của Pháp sư Thông Minh. Trước khi giảng, Pháp sư nói:
- Xin mời quý Phật tử chắp tay cùng chúng tôi niệm Phật cầu gia bị. Sau khi niệm danh hiệu Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Phật ba lần xong, thầy mời đại chúng an tọa
Trong buổi nói pháp hôm nay. Pháp sư Thông Minh giảng về đề tài tự lực. Ngài nhấn mạnh tinh thần tự giác tự lực của người tu Phật học Phật. Ðại ý khuyên Phật tử không nên cầu Phật bên ngoài.
Kết thúc bài giảng, vị Pháp sư nói:
- Trước khi hồi hướng và chấm dứt buổi nói pháp hôm nay, tôi xin thành tâm cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho toàn thể quý Phật tử thân tâm thường lạc, vạn sự cát tường như ý.
Thính chúng?!?
10-6-2001
Tha lực là yếu hèn!^
Một vị Pháp sư học rất giỏi và thuyết pháp rất hay được nhiều người ái mộ. Do học nhiều nên Sư bị cận thị nặng phải đeo kính thường xuyên.
Một hôm sư thuyết pháp về đề tài tự lực và tha lực. Trước khi kết thúc, sư nói:
Người tu hành mà nhờ vào tha lực là yếu hèn.
Sau đó sư hỏi tiếp:
- Có ai thắc mắc điều chi cứ hỏi.
Trong giảng đường có một vị sư đứng lên hỏi.
- Thưa thầy, tại sao thầy đeo mắt kính?
- Tôi bị cận nặng.
- Ðeo mắt kính là tự lực hay tha lực?
Vị Pháp sư không trả lời.
22-11-2001
Sức và trí^
Hai người đi tìm châu báu. Trải qua bao gian khổ, vượt qua nhiều cánh rừng, cuối cùng họ đã phát hiện lâu đài châu báu cách choã họ bằng một con sông lớn, sóng to nguy hiểm.
Một người cho mình có đủ sức mạnh bơi qua sông, nên anh đã không ngần ngại nhảy xuống sông để bơi.
Người còn lại mặc dù cũng đủ sức mạnh để bơi qua sông, nhưng cho chắc ăn hơn, không phải tốn sức, khỏi sợ mất mạng vì dòng nước hung hãn, khi chưa lấy được châu báu, anh bèn tìm cách chặt những cây chuối kết thành chiếc bè làm phương tiện chống chèo qua sông.
Một người qua sông bằng cách dùng sức. Một người qua sông bằng cách dùng trí. Ai là người sẽ qua sông an toàn để đến núi báu?
2-2003
Luyến ái ràng buộc^
Diệu Hòa là một Phật tử thuần thành của chùa Liên Hoa. Bà rất có tín tâm đối với Tam Bảo và chuyên tu pháp môn Tịnh độ. Bà thường qua chùa tụng kinh niệm Phật và rất say mê âm thanh niệm Phật trầm bổng thanh thoát của quý thầy. Hằng ngày đi đứng nằm ngồi bà luôn niệm Phật, chí thành tha thiết nguyện một đời vãng sinh Tây phương Cực lạc, thoát khỏi luân hồi sinh tử. Một hôm bà đến bạch với thầy trụ trì chùa Liên Hoa.
- Kính bạch thầy, con đi chùa này đã hơn 30 năm rồi, con rất mến chùa, mến cảnh và kính quý thầy. Nay tuổi con đã lớn, gần đất xa trời, con có một ước mong nho nhỏ xin thầy từ bi hứa khả cho.
Thầy đáp:
- A Di Ðà Phật, bà có việc gì thì cứ nói.
- Kính bạch thầy, con mong ước sau khi qua đời, xin thầy cho con được nghỉ tại nghĩa trang chùa, được thờ hình tại chùa, để hằng ngày con được gần gũi quý thầy nghe kinh thính pháp.
Thầy hỏi:
- Vậy bà không về Tây phương Cực lạc sao?
Bà?!?
3-2003
Tự khai^
Sáng nay, khi thức giấc chuẩn bị công phu, đại chúng phát hiện chú tiểu Vô Tư 6 tuổi bị chảy máu cam trong lúc ngủ. Thầy trụ trì bèn cử hai chú cư sĩ lấy xe gắn máy chở chú tiểu lên bệnh viện Huyết Học tại thành phố, cách chùa khoảng 15 km để chữa trị. Họ đi từ 6 giờ sáng đến hơn 12 giờ trưa mới về.
Thầy hỏi:
- Tình hình chữa trị bệnh cho chú tiểu Vô Tư ra sao?
Một chú cư sĩ trả lời:
- Bạch thầy, sáng nay chúng con chở chú tiểu đến bệnh viện, nhưng hôm nay mới mùng 6 tết, bệnh viện chưa làm việc, nên chưa khám cho chú được. Họ hẹn hai ngày nữa trở lại.
- Sao mấy chú đi về trễ vậy?
- Dạ, tại lúc này người ta đi chơi tết đông nên kẹt xe ạ.
Thầy gật đầu hoan hỷ. Thầy dắt chú tiểu Vô Tư vào phòng. Thầy xoa đầu và hỏi thăm chú:
- Con còn bị chảy máu cam không?
Chú tiểu trả lời:
- Mô Phật, bạch thầy, hết rồi ạ.
Thầy lấy bánh cho chú ăn. Hai thầy trò nói chuyện một lát, chú tiểu khoe:
- Sáng nay con đi chơi Sở Thú vui lắm.
Thầy gật đầu nhận ra.
- Thế à!
4-2003
Tại thầy nóng quá ^
Ðược tin thầy gọi, tôi đi vội lên nhà khách. Bước vào phòng tôi hơi ngạc nhiên thấy ngoài thầy ra còn có hai chú tiểu ngồi đó. Sau khi xá chào thầy, thầy chỉ tay về phía chiếc ghế đối diện với hai chú tiểu và bảo tôi ngồi xuống. Tôi đang phân vân chưa hiểu chuyện gì thì thầy lên tiếng:
- Từ nay về sau tôi giao hai chú này cho thầy trông nom, uốn nắn. Thầy nhớ trách nhiệm này chứ?
- Dạ nhớ.
Quay qua hai chú, thầy nhấn mạnh:
- Mấy chú có nghe tôi dặn không?
Hai chú khép nép thưa:
- Mô Phật, nghe.
- Sáng nay hai chú này có chuyện xô xát lẫn nhau. Bây giờ thầy điều tra xem sự việc xảy ra thế nào? Ai phải ai trái rồi thuật lại cho tôi rõ.
Dứt lời thầy đứng dậy và bước ra khỏi phòng. Chúng tôi cũng đứng dậy tiễn thầy.
Từ trước tới nay, những chuyện xích mích xảy ra giữa hai chú Lâm và Ly này, tôi cũng đã khuyên nhiều lần nhưng đều vô hiệu quả. Hôm nay trước mặt hai chú, sư phụ chính thức giao quyền dạy dỗ hai chú cho tôi, tôi thấy mình có thêm sức mạnh về uy quyền. Tôi đưa mắt nhìn hai chú một lượt để thị uy rồi với giọng đàn anh tôi nói:
- Sao, bộ mấy chú định quậy nữa phải không?
Hai chú ngồi im re, mặt cúi xuống. Thấy vậy tôi tiếp:
- Ðây là nơi trang nghiêm thanh tịnh chứ có phải võ đài hoặc nơi chợ búa đâu mà mấy chú cãi nhau, đánh nhau ỏm tỏi như vậy. Thật là quá lắm, quá lắm! Ở chùa mà không biết luật nghi, không kiêng nể ai gì hết ráo! Bây giờ chú Lâm hãy trình bày cho tôi rõ câu chuyện xảy ra giữa hai người như thế nào để tôi còn biết đường phân xử.
Tôi ngồi nghiêm nét mặt ra vẻ như một quan tòa. Tuy vậy, nhìn gương mặt bình thản của chú, tôi biết những lời nói và cử chỉ thị uy của mình vẫn chưa có hiệu quả bao nhiêu. Chú ung dung trả lời:
- Thưa thầy, sáng nay, sau khi quét dọn chính điện xong, con trở về phòng và thấy lọ mực để trên bàn bị đổ. Lúc con vừa vào phòng thì thấy thằng nhóc này đi ra.
- Nè, nè, trước mặt tôi chú phải ăn nói nghiêm túc lễ phép nghe chưa. Chú có biết cách xưng hô với người trên kẻ dưới như thế nào không?
- Dạ biết.
- Biết sao đâu, chú nói tôi nghe thử nào?
- Dạ, lớn kêu là huynh, nhỏ kêu là đệ.
- Tốt, tiếp tục trình bày.
- Thấy lọ mực đổ, con biết chỉ có cái thằng đệ này chứ...
- Ơ, ơ... lại ăn nói hàm hồ nữa rồi. Ðệ là đệ chứ sao lại thằng đệ. Nếu không gọi đệ thì gọi là chú, nghe chưa?
Chú gật đầu rồi tiếp:
- Thấy vậy con kêu chú lại hỏi, nhưng chú cứ một mực chối là không có làm đổ. Nhìn mấy cuốn sách bị mực làm cho loang lổ, con tức quá tát cho chú một bạt tay.
- Úi chà, như vậy là nóng nảy quá không được. Chưa gì đã gây chiến rồi. Tôi xen vào.
- Dạ, nhưng chú đã đưa tay ra đỡ nên không trúng. Thấy đánh tay không được, tức quá con giơ chân lên đá thật mạnh vào mình chú một cái.
- Bậy, bậy, chơi đòn nguy hiểm như vậy thì chết người ta rồi còn gì! Tôi lắc đầu than.
- Dạ, nhưng chú đã nhanh tay chụp chân con lại và xô con một cái ngã chổng kềnh xuống đất.
Ðáng đời, ai biểu lớn ăn hiếp nhỏ. Tôi cười thầm.
- Tội nghiệp quá! Té có đau không?
- Dạ hơi ê ẩm một tí!
- Thôi được, không bể đầu là tốt rồi. Cứ tự nhiên kể tiếp.
- Lúc đó, lửa giận trong người con sôi lên sùng sục ...
- Nói ngắn gọn thôi, không cần văn chương lúc này – tôi chỉnh – chỉ cần nói giận quá là tôi hiểu rồi, khỏi phải nói sôi sùng sục gì cả.
- Dạ, lúc đó con giận quá vớ ngay chiếc dép phang cho chú một cái.
Trời đất! Chơi tay, chơi chân không lại, bây giờ còn dở trò chơi dép nữa ta.
- Ðúng là giận quá mất khôn rồi. Chú có biết là phang như vậy nguy hiểm lắm không?
- Dạ, nhưng chú ấy lại chụp được chiếc dép và phang lại trúng ngay trán con.
Chú đưa tay chỉ vết bầm nơi trán. Tôi cố nín cười và nhủ thầm: Tội nghiệp không! Lớn đánh nhỏ không lại còn bị nhỏ cho đo đất và choảng u đầu nữa. Tôi động lòng thương nói:
- Chú cầm đỡ lọ dầu cù là này xoa lên chỗ bầm. - Tôi đưa tay vào túi áo lấy lọ dầu nhưng lại rút tay ra không – À quên, vừa nãy để trong phòng không có đem theo.
- Cám ơn lòng tốt của thầy.
- Không có chi, thương người như thể thương thân. Chú đau cũng như tôi đau tiếc chi chút dầu. Thôi bây giờ chú tiếp tục trình bày đi.
- Lúc chiếc dép chạm vào trán con thấy nháng lửa một cái, tiếp theo đó ba bốn ông sao hiện ra chớp chớp nhảy múa trước mắt. Ðau quá con đưa tay ôm đầu rồi lom khom đứng dậy định trả đũa thì chú ấy đã phi thân mất tiêu rồi. Buồn cho thân phận, giận vì u đầu, con liền thẳng đến phòng thầy trụ trì trình bày sự việc.
Lớn đánh nhỏ mà không biết xấu hổ còn đi thưa nữa. Ðã vậy, mở miệng ra còn bày đặt nói văn chương.
- Thôi được, phần của chú coi như tạm xong. Bây giờ tới lượt chú Ly cứ thật thà mà khai báo. Có sao nói vậy, bất tăng bất giảm.
- Dạ thưa thầy, sáng nay khi vào phòng chú Lâm con đã thấy lọ mực đổ trên bàn rồi.
- Tại sao chú vào phòng người ta?
- Dạ con đem trả cuốn truyện.
- Truyện gì?
- “Chiến tranh và hòa bình” của Lép Tonxtôi. Lúc chú Lâm vào phòng thấy lọ mực đổ và kêu con lại hỏi. Con thật thà trình bày đầu đuôi chú nghe, nhưng chú không tin và cứ khăng khăng đổ lỗi cho con và còn đánh con nữa.
Tôi quay qua chú Lâm hỏi:
- Chú đã coi truyện “Chiến tranh và hòa bình” chưa?
- Dạ rồi.
- Vậy mà hai người đã không hòa bình lại còn gây chiến tranh nữa. Coi truyện như vậy thật là vô ích quá.
Chú Ly nhanh miệng xen vào:
- Dạ, con cũng muốn hòa bình lắm chứ nhưng vì chú Lâm gây chiến trước, bắt buộc con phải tự vệ. Dù sao cuộc chiến tranh vệ quốc của con vẫn là chính nghĩa.
- Chà, hai người đánh nhau mà kêu là “vệ quốc”. Vệ cái con khỉ mốc, vệ cái thân của chú còn chưa xong nữa ở đó mà bày đặt vệ quốc. Thế chú có biết nguyên do nào mực đổ không?
- Dạ không.
- Lẽ ra chú Lâm đánh chú như vậy, chú phải lên thưa với thầy mới đúng. Tại sao chú đánh lại như thế?
- Dạ con đâu có đánh, con chỉ đỡ theo thói quen đó thôi. Nếu con thực tâm đánh thì chú ấy không còn cái răng ăn cháo nữa.
- Mày nói cái gì?
Mặt chú Lâm xám ngắt, đứng phắt dậy định đánh chú Ly.
- Nè, nè, chuyện đâu còn có đó, chú nóng nảy như vậy là không được, ngồi xuống đi. – Quay qua chú Ly tôi tiếp – Còn chú nữa, từ nay tôi cấm chú không được ăn nói hỗn láo như vậy nghe chưa! Dù sao người ta cũng lớn hơn mình, tu trước mình, mình phải nể trọng một tí chứ! Bây giờ chú phải trả lời thật cho tôi biết, có phải chú có võ không?
- Dạ, phải.
- Võ gì?
- Thiếu Lâm Tự.
- Tại sao lúc vào chùa chú không kê khai lý lịch cho rõ để người ta biết mà phòng ngừa?
- Vì con thấy không cần thiết.
- Thôi được, thế chú nói là không làm đổ mực. Vậy thì ai làm đổ, trong khi một mình chú vào phòng người ta?
- Dạ con cũng không rõ nữa.
- Vô lý quá! Chú xuất gia rồi mà còn nói dối.
- Con xin thề danh dự với thầy – chú giơ tay lên – nếu con nói dối cho quỷ sứ bắt hồn con ngay tức khắc.
- Thôi, thôi, bỏ tay xuống đi, thề với thốt cái gì. Quỷ sứ đến bắt chú không được lại bị đo ván nữa, mất công tôi phải xử thêm một vụ khác. Chú có biết người phạm lỗi mà dám nhận lỗi là đáng phục, đáng quý nhường nào không?
- Nhưng con không phạm lỗi mà bắt con phải nhận thì con đâu có chịu.
- Chú có biết thế nào là nhẫn nhục không?
- Dạ biết.
- Biết làm sao chú nói tôi nghe thử nào?
- Nhẫn là điều dù có họ nói không
Không nói có mặc tình ai thêu dệt
Con đã tu thì chi chi nhịn hết
Nhịn nhịn hoài, nhịn nhịn mãi không thôi.
- Giỏi, thuộc lòng như vậy là rất tốt. Tuy nhiên tôi nói cho chú rõ, người tu chỉ quý ở chỗ thực hành đúng chứ không ai chuộng cái lối học như két đâu. Từ nay trở đi tôi cấm chú không được giở võ nghệ ra nữa. Nếu có gì oan ức chú cứ lên thưa lại cho tôi rõ để tôi phân xử. Lần sau còn tái phạm đánh nhau nữa tôi sẽ phạt quỳ một cây nhang nửa thước. Chú nghe rõ chưa?
- Dạ rõ.
Quay sang chú Lâm tôi nói:
- Còn chú nữa! Dù sao chú cũng phải tỏ ra mình là bậc đàn anh một chút chứ. Chưa chi đã ẩu đả với đàn em như vậy thì làm sao nó phục mình cho được! Chú có biết trong vấn đề này chú có hai điểm đáng trách không? Thứ nhất chú để lọ mực trên bàn mà không đậy nắp lại. Thứ hai chưa rõ nguyên nhân nào lọ mực đổ mà chú đã vội vã đánh người. Giả sử nếu chú đậy nắp lọ mực cẩn thận sau khi xài xong, cho dù lọ mực có đổ thì mực cũng không thể chảy ra ngoài được, mực không chảy thì đâu có chuyện xô xát như thế. Chú có thấy rõ cái hậu quả của sự bất cẩn chưa? Còn việc lọ mực đổ có nhiều nguyên nhân chứ đâu phải gán ép một cách vô căn cứ cho chú Ly được. Nếu chú thấy rõ chú Ly làm đổ mà chú ấy chối thì mình có quyền la rầy hoặc bắt đền. Ðằng này chú chỉ thấy người ta trong phòng đi ra rồi đoán mò đâu có được. Có thể là con mèo hoặc con chuột nào đó chạy ngang làm đổ thì sao! Thế nên bất cứ một việc gì mình phải tìm hiểu cho rõ ngọn nguồn rồi hãy kết luận. Nóng nảy chỉ đem đến sự thất bại lớn lao và hậu quả không thể lường được. Chú thấy tôi từ trước đến giờ có nóng nảy việc gì không?
- Dạ không.
- Tại sao chú không noi gương ấy mà học tập?
- Dạ, từ nay trở đi con sẽ cố gắng học tập theo gương của thầy.
- Tốt. Nếu lần sau chú tái phạm nữa tôi sẽ phạt quỳ cây nhang một thước.
Mắt chú Lâm trợn lên nhìn tôi:
- Sao chú Ly nửa thước mà con tới một thước lận?
- Lớn rồi phải gấp đôi.
- Trước pháp luật mọi người đều bình đẳng mà.
- Một thước mốt.
- Thầy xử ép con quá!
- Một thước hai.
- Dạ .........
- Một thước ba. Càng khiếu nại càng tăng.
- Thôi con không dám khiếu nại nữa. Xin thầy hoan hỷ lượng thứ mà hạ xuống mức cũ cho con nhờ.
- Quân tử nhất ngôn, không nói đi nói lại.
Thấy chú im lặng, tôi hỏi:
- Sao còn ai khiếu nại gì nữa không?
Chú Lâm lên tiếng:
- Dạ không.
- Tốt, cho phép giải tán.
- Dạ khoan, nhân tiện có thầy đây con xin hỏi việc này.
- Ðược, cứ hỏi.
- Thưa thầy, dù sao con cũng là kẻ hậu sinh khả úy – tôi nhìn chú và rủa thầm: Dốt chữ mà còn bày đặt xổ nho nữa – tuổi đời tuổi đạo còn non nớt, trình độ Phật pháp lại càng không thể so sánh với thầy được. Do đó, hôm nay con xin phép trình bày với thầy việc này. Sau khi nghe xong xin thầy cho con biết là con có phạm giới hay không?
- Ðược, cứ tự nhiên.
- Dạ thưa thầy, đêm qua có một cô gái ôm con.
- Thôi thôi! Vậy là đủ hiểu rồi! Ðể con gái ôm là quá lắm rồi! Quá lắm rồi!
- Dạ thưa.........
- Không có dạ với thưa gì nữa cả. Chú có biết Tăng là gì không?
- Dạ biết.
- Biết làm sao hả? Nói mau!
- Tăng là thanh tịnh ạ.
- Tại sao chú lại để trò bất chính xảy ra nơi cửa Thiền?
- Nhưng con.........
- Không có nhưng gì cả. Tại sao đêm khuya thanh vắng chú dắt gái vào phòng?
- Nhưng con có dắt gái vào phòng đâu!
- Láo! Chú làm như chú đẹp trai nhất thiên hạ, đến nỗi các cô gái phải mò vào phòng chú không bằng!
- Con xin thề danh dự.
- Không thề với thốt gì cả. Chú đừng hòng ngụy biện với tôi. Nếu chú không tình ý gì thì ai mở cửa cho người ta vào phòng?
- Thật tình con không có mở.
- Thôi đừng có loanh quanh lắm lời. Chẳng lẽ tiên trên trời bay xuống phòng chú à? Giả sử có đúng như vậy tại sao chú không la lên, lại để cho cô ta ôm? Rõ là dấu đầu lòi đuôi.
- Lúc cô ta vừa ôm, con liền giật mình tỉnh giấc và mới rõ là mình nằm mơ.
- Trời đất! Tại sao nãy giờ chú không nói sớm?
- Dạ tại thầy nóng quá!
-!?!? ..........
Lầm mà hóa hay^
Con đường từ thành phố về Hóc Môn chỉ khoảng hai chục cây số, quá gần đối với tôi trước đây thế mà hôm nay lại xa thăm thẳm. Mười năm về trước, cũng trên chiếc xe đạp này tôi đã vượt qua những chiếc xe đạp chạy cùng chiều với mình mà chẳng biết mệt nhọc là gì, trái lại càng thích thú hăng say thêm nữa. Nhìn những cô gái, những ông già đạp xe cà rì cà rề với dáng vẻ nặng nề tôi lấy làm quái lạ và cười thầm: Ðạp xe gì mà như người đi bộ không khác! Vậy mà hôm nay, cũng trên chiếc xe đạp thuở ấy, cũng trên con đường mà tôi từng ngạo nghễ tự hào về thần tốc lực của mình, tôi lại đạp xe một cách nhọc mệt, hai chân nhức mỏi rã rời, xe thì nặng nề như có ai ghì lại, đường cứ thấy xa mãi ra. Càng mệt mỏi bao nhiêu tôi lại càng thấy thương những người mình coi khinh trước kia bấy nhiêu và càng thấm thía bài học nhân quả hơn nữa. Thấy những cô gái, những ông già lần lượt qua mặt mình, tôi chạm tự ái và cố dốc toàn bộ sức lực để vượt lên trên họ. Cố gắng được một lát thì đôi chân rã rời đạp hết nổi. Nhìn họ cứ xa dần, tôi tự an ủi: Ôi! Ði trước đi sau gì cũng đến nơi tội gì phải đạp nhanh cho mệt, cứ tà tà như vậy vừa khỏe lại vừa được ngắm cảnh nữa có phải thích hơn không?
Tuy vậy, trong cái rủi lại có cái may, nhờ đạp xe chậm chạp mà hôm nay tôi mới khám phá ra chân lý nhìn cảnh vật đúng “như thật” của nó. Mặc dù hiện tại ngoài những căn nhà mới xây, những hàng cây xanh tươi mới trồng, những công trình mới đang được xây dựng ra, còn lại toàn bộ những cảnh vật dọc theo hai bên lộ quá quen thuộc và tồn tại hàng chục năm nay, vậy mà bây giờ nhìn nó tôi cứ ngỡ là mới gặp lần đầu. Quả thật các Tổ ngày xưa vẫn cho mình là sống trong ảo tưởng chứ ít chịu sống thực là quá đúng. Ăn không biết mình ăn, đi trên con đường này hằng bao nhiêu chục lần rồi mà cứ tưởng như là chưa bao giờ đi. Tâm đắc ý này, tôi say sưa quan sát cảnh vật, lòng cảm thấy vui vui với những điều mình mới khám phá. Nhìn những thay đổi và phát triển của xã hội dọc theo suốt con đường, tôi nghĩ đến chùa mình cũng sẽ sung túc như vậy.
Sau hơn một giờ đồng hồ tôi mới về đến chùa. Ngừng xe trước cổng tôi cảm thấy như trút được tất cả gánh nặng trên vai. Bao nhiêu ồn ào náo nhiệt của thành phố đã tạm lắng dịu tại đây. Ðưa mắt quan sát sơ một vòng chùa tôi hơi ngạc nhiên khi thấy cảnh vật có vẻ khác thường; chung quanh chùa xây tường kín mít, những cây điều bị chặt nằm ngổn ngang, đồ đạc không thấy bày biện như trước, các chậu cảnh quý cũng biến đâu mất, không khí có vẻ u buồn. Tôi dắt xe vào nhà khách mà lòng đầy nghi vấn. Vài ba con chó nhào ra chào tôi bằng những tiếng sủa dữ dội. Bác Tửu từ trong nhà khách bước ra lên tiếng la nó khi nhìn thấy tôi và lũ chó dần im tiếng. Tôi dựng xe đạp và tiến đến hỏi thăm:
- Bác Tửu, lúc này bác khỏe chứ?
- Cám ơn, tôi vẫn khỏe, sao lâu quá không thấy thầy về thăm chùa vậy?
Ông mừng rỡ bước ra đón tôi.
- Dạ, lúc này bận học quá bác ạ! Sư Cụ có khỏe không bác?
- Khỏe. Thầy ngồi dùng nước nghỉ ngơi một tí rồi hãy vào thăm Cụ.
Ông rót nước ra mời.
Ngồi nói chuyện với ông một lát, tôi đứng dậy bước ra lu nước rửa mặt. Nhìn chiếc lu bị xây dính trên nền gạch, tôi ngạc nhiên:
- Ủa, xây như vậy làm sao xúc lu?
- Ðành chịu như vậy thôi thầy ạ! Mỗi lần xúc lu mình chịu khó múc nước ra hết.
- Mà xây làm chi vậy bác?
Ông thở dài:
- Khổ lắm thầy ơi! Lâu nay thầy không về nên không biết tình hình ở đây đó thôi. Lúc này trộm cắp nổi lên như nấm.
Nghe ông nói tôi mới rõ tại sao chùa lại xây tường kín mít, các chậu kiểng quý và đồ đạc đem cất hết. Nhìn chiếc lu tôi cười nói:
- Nó có lấy thì lấy những thứ gì đáng tiền chứ ba cái đồ sành đồ đất này lấy làm chi, đã nặng nhọc lại bán được bao nhiêu tiền?
- Thôi thầy ơi! Thầy không biết đó, chẳng một thứ gì mà nó chừa cả. Từ những cái nhỏ nhặt bằng mủ như ly, chậu đến cái cánh cổng bằng sắt lớn như vậy mà nó còn rinh được.
Ông đưa tay chỉ một cánh cổng còn lại.
- Trời ơi! Cánh cổng này cầu năm người lực lưỡng chưa chắc đã khiêng nổi.
- Ờ, vậy mà tụi nó đã lấy hết một chiếc rồi đó. Bây giờ bất cứ cái gì bán được tiền là nó ăn cắp. Mới hôm qua nó vào tận nhà bếp rinh cả nồi kho đang nấu đem đi.
- Ban ngày hay ban đêm?
- Ban ngày.
- Chu choa, làm gì mà loạn dữ vậy! Thế chùa không đi báo công an biết à?
- Có chứ! Nhưng thỉnh thoảng họ mới đảo qua thì ăn thua gì.
Nhìn toàn bộ đất đai rộng mênh mông nơi đây, tôi thông cảm và hiểu những khó khăn của chính quyền địa phương.
- Không phải vậy đâu bác! Vì từ chùa đến trụ sở Công an xã quá xa. Nếu tính đường chim bay cũng hơn cả cây số, còn đường xe chạy thì ba cây số. Do vậy mình không thể đòi hỏi họ phải túc trực canh gác tại đây được, vì họ còn việc của họ nữa. Ðiều hay nhất là mình làm sao kết hợp với dân phòng để bảo vệ thôi.
Ông lắc đầu và cười:
- Dân phòng cũng chẳng ăn thua gì đâu thầy ơi! Hôm trước chùa có nhờ họ giúp đỡ, tối họ cũng xách gậy gộc đi đến đảo đảo vài vòng rồi tìm chỗ làm một giấc đến sáng bét mới về.
Tôi bào chữa:
- Mình cũng thông cảm cho họ thôi. Thời buổi khó khăn này ai cũng phải bươn chải kiếm tiền sinh sống. Quần quật cả ngày, đêm lại phải đi gác thì sức lực đâu mà họ thức cho nổi.
Một con chó màu hung hung nâu, to mập, bộ lông tươi nhuận rất đẹp đến bên chân tôi liếm liếm. Tôi cũng làm quen đưa tay vuốt vuốt đầu nó:
- Thế mấy con chó này đành bất lực trước tụi trộm cắp à?
- Chùa mình rộng quá. Chó ở đầu này thì trộm lẻn vào đầu kia.
- Còn mấy cây điều kia sao chặt uổng vậy bác? Lúc này hạt điều đem đi xuất khẩu bán có giá lắm đó.
- Ấy, vì nó có giá nên tụi nó càng ăn cắp dữ. Cả ngày cả đêm hết tốp này đến tốp khác vào quấy phá la ngăn không nổi. Cuối cùng tôi phải chặt bỏ và chùa mới yên được thế này.
Tôi ngồi nói chuyện với ông một lát rồi lên chính điện lễ Phật. Sau đó vào thăm sư phụ.
Nhìn thầy vẫn hồng hào đẹp lão, tôi mừng thầm và đến bên ngài đảnh lễ. Thầy mỉm cười nhìn tôi, rồi bảo ngồi xuống đó.
- Bạch Sư Cụ vẫn khỏe chứ ạ?
Thầy tôi ngước mắt nhìn như hỏi lại. Biết tai thầy kém nên tôi nhắc lại câu ấy lớn hơn. Thầy tôi lắc đầu nói:
- Mệt!
- Sư Cụ vẫn ăn uống bình thường chứ?
Thầy tôi cũng không nghe rõ, tôi phải la tướng lên lần nữa. Giọng thều thào thầy đáp:
- Khi được, khi không.
Nhìn thầy có vẻ mệt, tôi không dám hỏi nữa, ngồi quạt cho ngài.
Tối đến tôi vào phòng nghỉ. Thấy phòng khóa tôi biết ông Tửu giữ chìa nên đi tìm ông.
Sau khi mở cửa, một con chó lẻn vào phòng trước. Ông Tửu thấy vậy liền la lên:
- Ra ngoài!
Con chó nghe la, cúp đuôi rón rén đi ra. Tôi nhìn kỹ đúng là con chó vừa nãy liếm chân
mình.
- Con chó này có tật lạ lắm, hay chui vào phòng nằm. Mỗi lần cho nó ăn tôi phải tìm kiếm hết phòng này đến phòng khác.
- Thế tới giờ ăn nó không ra à?
- Không, nó đã vào phòng ai rồi là kiếm chỗ nằm trốn suốt ngày khỏi ăn cũng được.
Ông nói xong liền đi ra ngoài. Tôi vào phòng quét dọn.
¯
Trời tháng hai âm lịch thật oi ả. Tôi lên giường từ lúc mười giờ và đã nằm hơn một tiếng đồng hồ nhưng vẫn không chợp mắt được, tay cứ phe phẩy chiếc quạt mãi. Ðã vậy nằm trên chiếc giường sắt được lót bởi hai tấm ván, mỗi lần tôi trở mình nó đều kêu ken két đến phát bực. Không chịu nổi sự oi bức, tôi định bỏ bớt quần áo ngoài ra ngủ cho thoáng mát, nhưng chợt nhớ đến bài kệ trong “Nghi luật tu trì thiết yếu” do Thầy tôi soạn cho chúng tôi học.
Dù trời nóng nực đến đâu
Cởi trần nằm ngủ ra mầu chẳng trinh
Trong luật ngăn cấm cho mình
Giữ gìn ngăn nắp, vô tình người chê.
Chà, kẹt ghê vậy đó! Nghĩ tới bài kệ này tôi chần chừ không dám hành động, nhưng vì trời nóng nực quá. Cuối cùng tôi đành phải ngụy biện: Thôi kệ, tất cả đều là phương tiện. Giới luật này áp dụng trong những trường hợp ngủ nơi công cộng hoặc chỗ tập thể. Hiện tại một mình một phòng, cửa đóng kín mít như vậy ai mà trông thấy. Giả dụ có người nào gõ cửa gọi thì mình cũng dư thời giờ để mặc quần áo mà! Thế là tôi quyết định mặc quần ngắn nằm ngủ. Tôi cũng không quên xếp bộ quần áo ngoài lại cẩn thận để nơi cuối giường. Quả thật, phương pháp này có hiệu nghiệm, chỉ vài phút sau tôi đã thiếp đi một cách dễ dàng...
Một giờ sau.........
- Kình, kình, kình .........
Ðang thiu thiu ngủ tôi chợt nghe tiếng cậy cửa và giật mình thức giấc. Ðể xác minh thực hư thế nào, tôi nằm im lắng tai nghe:
- Kình, kình, kình .........
Ðúng là trộm cậy cửa rồi! Nhưng sao nó lại bạo gan hành động như là không có ai trong phòng vậy? À, có lẽ nó đã do thám kỹ và biết lâu nay mình đi vắng nên mới lẻn vào cậy cửa đây. Tôi định nhào ra mở cửa tóm cổ nó, nhưng sực nhớ đến mình chỉ mặc có mỗi chiếc quần ngắn mà thôi. Nếu nhào ra thì phải la lớn để mọi người thức dậy tiếp sức với mình bắt trộm, mà thân mình thì lại trơ trọi với một bộ xương sống xương sườn nhô ra như vậy, lỡ bà con nhìn thấy thì còn gì là thẩm mỹ nữa! Thôi đành phải mặc quần áo ngoài vào rồi ra cũng còn kịp chán. Tôi nhè nhẹ ngồi dậy nhưng cái giường này bỗng kêu “két” một tiếng. Lúc đó bên ngoài cũng ngưng tiếng cậy cửa và tiếp theo là tiếng “rầm” vang lên. Biết trộm phát hiện ra mình trong phòng nên đã bỏ chạy, tôi mặc vội quần áo vào, nhảy xuống giường, nhào ra mở cửa và la lên:
- Ăn trộm! Ăn trộm!
Tôi vừa la vừa chạy đến chỗ công tắc bật đèn. Bên ngoài nhà khách, ông Tửu nghe tiếng tôi la liền đánh kẻng báo động. Tôi chạy tới chạy lui tìm kiếm và tin chắc nó còn nấp đâu đó, vì vách tường chung quanh cao gần hai thước không dễ gì tẩu thoát lẹ được. Mọi người trong chùa đều thức dậy và kéo ra. Tiếng kẻng báo động vẫn đánh liên hồi. Một phút sau tôi nghe tiếng người la ở phía ngoài:
- Trộm vào chùa bà con ơi! Bắt nó! Bắt nó!
Không mấy chốc, đàn ông, đàn bà, con trai, con gái, mỗi người một chiếc gậy kéo vào đầy cả chùa. Họ chia nhau đi tìm.
Năm phút sau, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy có ba anh công an và một anh tổ trưởng an ninh xuất hiện. Họ hỏi thăm lý do và tôi đã thuật lại đầu đuôi sự việc trộm cậy cửa khi nãy. Thế rồi họ cũng tham gia tìm kiếm giúp.
Lục soát gần nửa giờ mà không thấy trộm đâu, mọi người dần tan. Nơi nhà khách mấy anh công an vẫn còn ngồi nói chuyện với bác Tửu.
Tôi trở về phòng và lên giường nằm. Nghĩ đến sự việc vừa xảy ra, tôi nhủ thầm: Phải chi mình đừng coi thường giới luật thì hay biết mấy!
¯
Nửa tháng sau, tôi trở về thăm chùa. Vừa đến nhà khách, ông Tửu gặp tôi mừng rỡ khoe:
- Chùa lúc này tạm yên rồi thầy ạ!
- Vậy hả bác?
- Ờ, nhờ thầy đó.
Tôi mỉm cười. Thấy tôi không tin, ông khẳng định:
- Thật mà! Thầy còn nhớ mấy anh công an không?
- Công an nào?
- Cái đêm mà xảy ra vụ trộm cậy cửa đó.
- À, nhớ rồi!
- Thầy có biết tại sao họ lại có mặt đúng lúc không?
Tôi lắc đầu.
- Thực ra đêm hôm ấy họ đi kiểm tra hộ khẩu những nhà dân gần đó và nghe tiếng kẻng báo động của chùa nên kéo nhau vào. May sao trong ba anh công an đó có một anh là công an huyện. Chứng kiến sự việc và lại được nghe tôi trình bày về tình hình trộm cắp lộng hành ở đây, anh công an huyện hứa là sẽ có biện pháp khắc phục. Vài hôm sau họ cho người đến chùa theo dõi thường xuyên và chỉ hơn một tuần là họ hốt sạch tụi trộm cắp. Từ đó tới nay chùa không còn bị quấy phá và mất cắp gì cả.
- Ồ, vậy thì hay quá!
- Nè, hôm nay tôi mới nói thật cho thầy biết, đêm đó không phải trộm cậy cửa đâu. Chính là con chó mà thầy khen đẹp cậy cửa đó.
- Không, tôi nghe rõ người cậy cửa mà.
Tôi liền thuật lại cặn kẽ sự việc đêm đó cho ông nghe, ông mỉm cười nói:
- Chó tôi nuôi mà tôi không biết tính nó hay sao. Thầy cứ ngủ ở đây vài đêm sẽ rõ.
Tôi trầm ngâm một lát thấy có lý rồi gật gù nói thầm:
- Kể ra lầm mà hóa hay!
Xướng ngôn viên số “một” ^
Ðược cử làm xướng ngôn viên “phụ” lễ tang cố Hòa thượng Phước Quang tôi rất hãnh diện. Nhưng làm thế nào cho hay cho tốt thì tôi còn mù tịt. Tuy nhiên đã lỡ nhận rồi thì phải làm sao cho mọi người khỏi chê mình “dỏm”. Do đó tôi phải lên kế hoạch để tập dượt. Việc trước tiên của tôi là tập cho nhuyễn câu xướng lễ đã. Thấy trên lầu một vắng người, tôi leo lên đó dợt. Tôi cố luyện cái giọng khàn khàn của mình cho thanh thanh một chút và âm điệu có trầm bổng đàng hoàng. Khổ quá! Dợt năm bảy lượt rồi mà giọng vẫn cứ rè rè. Thấy không ổn, tôi dự định hay là mình nhờ một thầy có giọng tốt xướng lễ giùm, mình chỉ nói thôi? Nhưng rồi suy đi nghĩ lại thấy làm như vậy phiền thêm một người nữa, mất công quá. Ðang phân vân không biết tính sao cho ổn, bỗng một cô Phật tử lên báo có phái đoàn đến viếng. Tôi vội vã đi xuống làm nhiệm vụ. Lời đầu tiên của tôi được phát thanh:
- Ban Tổ chức chúng tôi nhận được tin phái đoàn Phật giáo quận A vừa mới đến. Thay mặt Ban Tổ chức và môn đồ pháp quyến hân hoan chào mừng quý liệt vị”.
Vừa dứt lời, tôi liền kêu thầm: Thôi chết rồi! Ai đời đám tang chứ có phải tiệc vui đâu mà “hân hoan chào mừng”. Theo lẽ mình phải nói là “kính chào quý liệt vị” mới đúng chứ. À, à, nhưng mà cũng có lý. Vì người ta thường quan niệm “sống gởi thác về”, thì chết có gì đâu là buồn, đã về thì vui chứ buồn cái nỗi gì! Nhất là người Hoa mỗi khi gia đình có người thân mất, họ thường thuê kèn Tây đến thổi ì xèo lên đó! Hơn nữa nghi thức cúng tụng của họ cũng kèn cũng trống nghe vui tai quá đi chứ! Ðến khi di quan họ cũng đốt pháo đì đùng, tiễn người chết như tiễn cô dâu về nhà chồng vậy! Do đó mình chào mừng quý khách đến viếng người mất cũng phải thôi. Tuy tôi cố gắng tự bào chữa nhưng vẫn ân hận trách mình không chịu để ý lắng nghe thầy Thiện Xuân xướng ngôn nên mới xảy ra tình trạng này. Nói cho đúng cả ngày hôm qua tôi cũng đã nghe đầy lỗ tai lời thầy nói rồi, nhưng dường như những âm thanh ấy tác động vào tai một cách tự nhiên chứ không thật đúng nghĩa nghe của nó. Quả là có những việc mình thấy nghe hằng ngày rất quen thuộc tưởng chừng như rất dễ, đến khi bắt tay vào làm thì mới thấy lúng túng và không đơn giản.
Qua phần mời phái đoàn vào làm lễ viếng. Lần này tôi rút kinh nghiệm đứng nhẩm câu nói một lát rồi mới phát ngôn:
- Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Thay mặt Ban Tổ chức và môn đồ pháp quyến, chúng tôi xin kính mời quý vị trong phái đoàn Phật giáo quận A hoan hỷ đến trước kim quan Hòa thượng làm lễ viếng. A Di Ðà Phật, trân trọng kính mời. Yêu cầu quý vị trong ban Tiếp lễ chuẩn bị hướng dẫn phái đoàn vào.
Mời xong tôi nhẩm lại từng chữ xem cách dùng từ có chuẩn không. Tôi thấy câu nói này tạm được nhưng dùng cho các vị khách tục. Riêng đối với chư Tăng mình nên thay chữ “kính mời” là “thành tâm bái thỉnh” và “làm lễ viếng” là “cử hành lễ viếng” nghe nó đạo vị hơn. Quả là chữ với nghĩa thật là phức tạp. Lựa lời nói cho chuẩn và hay không phải là dễ dàng.
Lúc ấy phái đoàn từ từ tiến đến trước linh đài. Sau phần phát biểu cảm tưởng và chia buồn của đại diện là phần niệm hương. Trong lúc các vị niệm hương, tôi đứng hồi hộp chờ đến phiên mình xướng lễ tiếp theo. Lúc này tôi lo quá! Bởi vì nói trước công chúng đã là khó rồi, bây giờ lại xướng lễ cho quý thầy lạy lại càng khó hơn. Thật tình mà nói, giọng tôi thì ồ ề, lại đứng trước các vị tôn túc bậc thầy về tán tụng, nếu mình làm không ra hồn sẽ bị cười chết. Bây giờ tôi mới nhận ra những khuyết điểm của mình về vấn đề này. Trước đây tôi có quan niệm tu sĩ chỉ lo trau giồi giới đức, học Phật pháp cho giỏi để làm giảng sư hoặc nghiên cứu, phiên dịch kinh sách chứ cái việc xướng tụng này để cho mấy ông thầy đám xài. Thế mà không ngờ hôm nay, đứng trước hiện cảnh này tôi mới hiểu tất cả đều có cái lý của nó. Ðúng là “ghét của nào trời trao của nấy”. Thôi bây giờ ráng gân cổ lên mà gào chứ còn chần chừ gì nữa. Tôi hít một hơi thật dài rồi xướng:
- Nhất tâm đảnh lễ... ế ... Nam mô Từ tế thượng chánh tông tứ thập nhị thế, húy Trừng Minh, thượng Phước hạ Quang Hòa thượng giác linh tam bái ... ái ... ì ...
Vì trong khuôn viên linh đường có đặt một cái loa thùng nên tôi nghe rõ giọng “vịt xiêm” của mình và đứng cười thầm mãi.
Sau khi chư vị đảnh lễ xong, tôi thay mặt Ban Tổ chức cảm tạ và mời đại diện phái đoàn ghi vào sổ tang lưu niệm. Công việc xướng ngôn của tôi chỉ có bấy nhiêu và được lập đi lập lại suốt buổi sáng.
Chiều cùng ngày, tôi bàn giao việc xướng ngôn cho thầy Thiện Xuân và cứ mỗi lần thầy nói tôi lại chăm chú lắng nghe để rút kinh nghiệm học tập.
Qua hôm sau tôi yên chí là việc xướng ngôn tạm thời của mình đã chấm dứt nên thong thả ngồi chờ làm việc khác. Ðang ngồi uống nước trà, một cô Phật tử đến báo có phái đoàn đến viếng. Tôi nhắc cô:
- Cô bạch với thầy Thiện Xuân ấy.
- Thưa, thầy Thiện Xuân chưa đến.
Thế là tôi phải đến bên máy ghi âm. Cả buổi sáng tôi vừa nói vừa ngóng thầy Thiện Xuân đến để giao việc lại. Thế rồi chờ mãi mà không thấy bóng thầy đâu cả. Khoảng 11 giờ, tôi đi qua nhà khách nghỉ để chuẩn bị dùng cơm trưa và gặp thầy Thiện Xuân ngồi đó. Tôi hơi giận trong lòng nhưng vẫn ra mặt thân mật hỏi:
- Ủa, tưởng thầy không đến chứ?
Thầy cười đáp:
- Có chứ! Tới từ 8 giờ đến giờ.
Nghe câu nói này tôi càng giận thêm:
- Vậy sao thầy không vào thay?
- Thay gì nữa, thầy nói như vậy được lắm rồi.
Tôi dịu cơn giận ngay.
- Ðâu dám múa rìu qua mắt thợ.
- Thật mà.
Thế là bao nhiêu bực phiền của tôi liền tiêu tan hết. Cái câu “Thầy nói như vậy được lắm” nó cứ văng vẳng bên tai và ám ảnh tôi suốt buổi cơm trưa. Tôi cứ suy đi nghĩ lại những lời mình nói trên máy ghi âm vừa qua xem có đúng với lời khen ấy không, hay đó chỉ là câu khuyến khích để mình “gánh” giùm cái lười cho thầy! Cuối cùng tôi tự an ủi thôi được dù sao cũng là sự thật, “gánh” nhiều thì tốt chứ không hại gì cả... Từ hôm đó cho đến ngày di quan Hòa thượng, tôi và thầy thay phiên nhau làm việc này.
Sáng nay chính thức cử hành lễ di quan Hòa thượng Phước Quang đến nơi trà tỳ. Ðược tin thầy Thiện Nhơn sẽ điều khiển chương trình buổi lễ, tôi rất lấy làm yên tâm. Vì hôm nay sẽ có những vị tôn túc, khách quý, đại diện chính quyền và đông đảo Tăng Ni Phật tử đến dự. Nếu không có người xướng ngôn lưu loát sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Ban Tổ chức và giảm giá trị của buổi lễ.
Mới 6 giờ sáng, người ta đã đứng chật cả đường Nghĩa Thục vào tận chùa Vạn Phật. Tôi cố len lỏi vào tới sân chùa. Vừa gặp tôi, thầy Bửu Minh hỏi ngay:
- Hôm nay thầy làm gì?
- Dạ chưa biết.
- Vậy nhờ thầy giúp giùm trật tự được không?
- Dạ được.
Thầy đưa tôi cái băng vải màu vàng viết hai chữ trật tự màu đỏ. Tôi nhận rồi đi vào giảng đường điểm tâm. Ðang ăn, thầy Thiện Xuân đến vỗ vai tôi nói:
- Hôm nay thầy phụ với Ðại đức Thiện Nhơn xướng ngôn giùm, tôi bận chạy vòng ngoài.
Tôi giơ băng trật tự cho thầy coi và nói:
- Thầy Bửu Minh mới giao nhiệm vụ này.
Thầy không đồng ý và nhắc tôi cứ tiếp tục việc xướng ngôn. Ăn xong tôi qua bên linh đường và gặp thầy Thiện Nhơn đang ngồi trên ghế. Mừng quá tôi liền đến bên chào thầy và hy vọng sẽ giao toàn bộ việc xướng ngôn cho thầy “gánh” giùm. Ai dè, vừa gặp tôi, thầy nắm tay thân mật nói:
- Thầy cứ tiếp tục công việc của mình như mọi bữa nhé.
Tôi chưng hửng:
- Không! Nghe nói hôm nay thầy thay thế mà?
- Ờ, nhưng tôi chỉ điều khiển trong buổi lễ chính thức lúc 8 giờ thôi. Còn từ giờ đến đó thầy vẫn làm như cũ.
Tôi ngần ngại thưa:
- Nhờ thầy hoan hỷ giúp giùm luôn.
Thầy cười nói:
- Chỉ còn hơn một giờ nữa thôi ráng làm đi. Tôi còn nhiều việc khác phải làm.
Cuối cùng tôi cũng phải đến bên máy phóng thanh. Lúc này tôi cảm thấy lo hơn bao giờ hết. Vì trước mặt tôi là thầy Thiện Nhơn, một xướng ngôn viên lưu loát nổi tiếng của Thành hội Phật giáo và bao nhiêu chư tôn túc, các vị khách quý. Do đó trước khi nói một chữ, một câu gì tôi đều tính toán, nhẩm đi nhẩm lại thật kỹ mới dám khai khẩu. Tuy vậy, đến khi thầy Thiện Nhơn bắt đầu xướng ngôn, tôi mới thấy mình còn non tay nghề và vụng về quá nhiều.
Hơn 8 giờ rưỡi kim quan Hòa thượng mới rời vị trí. Tôi thấy mình đã hoàn tất nhiệm vụ xướng ngôn nên đi ra ngoài phụ giúp quý thầy làm trật tự lề đường, vừa tới chỗ xe phóng thanh, thầy Giác An ngoắc tôi lại và kêu lên xe xướng ngôn tiếp. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Thầy Thiện Nhơn đâu, bạch thầy?
- Thầy về đi giảng rồi.
Thế là tôi leo lên xe phóng thanh. Vừa ngồi xuống tôi đã nghe thầy Giác An hối tôi nói. Thật sự lúc này tôi không biết phải nói gì, nhưng hỏi lại thầy thì nhất định tôi không hỏi. Dở, nhưng không chịu để ai biết rõ cái tẩy của mình. Dù sao cũng là tự ti mặc cảm và danh dự của con người mà! Thế là tôi nói ngay chả cần phải cân nhắc suy nghĩ gì cả:
- Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Thay mặt ban Tổ chức chúng tôi xin cáo bạch đến toàn thể quý liệt vị được rõ: Hòa thượng Phước Quang là... và đã được Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh đứng ra tổ chức tang lễ, đứng đầu là Hòa thượng Thích Minh Nguyệt ...
Tới đây tôi bỗng giật nẩy mình lên vì ngón tay của thầy Giác An thọc vào hông tôi và nói:
- Hòa thượng Minh Nguyệt viên tịch rồi ông ạ! Còn sống đâu mà đứng ra tổ chức.
Thôi chết! Tôi chợt nhớ ra mình nói lầm và đưa tay lên bụm miệng lại. Rõ là lẩm cẩm, Hòa thượng Thiện Hào không nói lại nói là Hòa thượng Minh Nguyệt! Thầy Giác An lắc đầu mỉm cười nhìn tôi. Còn tôi thì muốn vả vào mồm một cái thật đau.
Khi đoàn đi bộ chấm dứt và mọi người chuẩn bị lên xe để đến lò thiêu. Tôi rời khỏi xe phóng thanh và ngoắc chiếc xe Honda của một thanh niên đang làm trật tự xin đi nhờ. Do vậy tôi đã đến lò thiêu tại Bình Hưng Hòa, huyện Bình Chánh trước đoàn. Lối kiến trúc và toàn bộ khuôn viên lò thiêu đã hấp dẫn tôi. Ðang say sưa chăm chú quan sát thì thầy Thiện Xuân nhắc tôi lại xe phóng thanh “nói cho ấm cúng buổi lễ”. Cơ khổ! Tôi cứ ngỡ việc mình làm như vậy đã xong, ai ngờ lại nói nữa! Mà bây giờ biết nói gì đây trong khi mình chưa chuẩn bị gì ráo? Mặc dù thắc mắc nhưng chân tôi vẫn bước đều đến bên xe phóng thanh như một phản xạ tự nhiên. Lúc này Tăng Ni Phật tử tràn ngập cả sân.
Sau đó là khóa lễ trà tỳ. Vì khuôn viên nơi hành lễ không đủ chứa số lượng người quá đông, nhưng dường như ai cũng muốn mình được vào tận nơi để xem hành lễ nên đã xảy ra cảnh chen lấn mất trật tự, làm cho cuộc lễ bị trở ngại. Thấy vậy tôi liền nói:
- Ban Tổ chức chúng tôi yêu cầu tất cả quý Phật tử hoan hỷ bước ra bên ngoài nhường chỗ cho quý Tăng Ni hành lễ. A Di Ða Phật, xin quý vị lưu ý cho.
Mặc dù tôi đã lập đi lập lại như vậy nhiều lần, nhưng dường như họ vẫn còn nuối tiếc chưa muốn bước ra. Biết họ ao ước được theo dõi toàn bộ cuộc lễ nên tôi nhắc:
- Xin quý vị yên tâm, xin quý vị yên tâm. Chúng tôi sẽ theo dõi và truyền thanh trực tiếp cuộc thi đấu ...
- Cái gì vậy?
Tiếng của ai đó chợt vang lên. Lúc ấy tôi sực nhớ mình nói lộn về buổi truyền hình trực tiếp cuộc thi đấu bóng đá giữa đội Liên Xô và Rumani mà tôi đã xem tối hôm qua! Tôi liền cáo lỗi:
- À, à, xin lỗi, xin lỗi! Chúng tôi sẽ truyền thanh trực tiếp buổi lễ trà tỳ để quý vị được tường tận.
Dứt lời, tôi nghe tiếng ai đó nói:
- “Xướng ngôn viên số một”.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks