Ðức Phật dạy: "Sa môn hành đạo đừng như con trâu kéo vất vả; thân tuy có tu tập mà tâm không tu tập. Nếu tâm có tu tập thì không cần thân tu tập (hình thức bên ngoài).

Ðại Ý Tu tập chủ yếu là nội tâm chớ không phải là hình thức bên ngoài.

Việc cúng dường cũng vậy , do hiệu lực tín tâm của người cúng ( được an trú với tín tâm ) và do phước điền của những người nhận cúng dường - người xứng đáng nhận những vật thí đó , sẽ đem lại kết quả đặc biệt to lớn. Phải đủ hai điều kiện đó thì việc cúng dường mới hiệu quả


Khi Ðức Thế Tôn còn đang lưu lại tại thành Sāvatthi, trong tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika, vào thời đó khi nhà vua Pasenadi, nước Kosala, đã tổ chức cúng dường rất lớn kéo dài suốt bảy ngày cho Tăng Ðoàn chư vị Tỳ khưu có Đức Phật dẫn đầu, lúc đó lại có một người rất giàu tên là Anāthapiṇḍika, để phù hợp với điều này, cũng đã tổ chức cúng dường kéo dài ba ngày; và khi đó lại có một đại thiện nữ tên là Visākhā cũng tổ chức cúng dường rất lớn giống như vậy, tin đồn việc cúng dường to lớn như vậy đã lan truyền khắp toàn cõi Jambudīpa.

Ðây kia dân chúng bắt đầu bàn tán phải chăng chỉ do việc cúng duờng hào phóng với nhiều phương tiện to lớn đến như vậy thì cuộc bố thí cúng dường đó mới đem lại kết quả to lớn đăc biệt hay phải chăng là do tâm hào phóng quảng đại phù hợp với phương tiện của mỗi người chúng ta có được.

Khi chư vị Tỳ khưu nghe thấy dân chúng bàn tán với nhau như vậy các ngài đem câu chuyện thông báo cho Ðức Thế Tôn. Ngài lên tiếng nói rằng, “Hỡi chư vị Tỳ khưu, chẳng phải chỉ do hiệu lực thù thắng vật thí phước đức có thể đem lại kết quả to lớn đặc biệt đâu, nhưng đúng hơn là do hiệu lực tín tâm đem lại và do phước điền của những người nhận cúng dường đó mà ra. Chính vì thế ngay cả của thí chỉ nhỏ bằng nắm thóc hay một miếng giẻ, một toạ cu bằng cỏ hay lá hay chỉ cần một hạt đậu trong nước tiểu hôi thối của đoàn súc vật khi được an trú với tín tâm nơi một người xứng đáng nhận những vật thí đó cũng sẽ đem lại kết quả đặc biệt to lớn, sáng chói rực rỡ và thấm nhuần khắp mọi nơi

Giả dụ như Thiên Chủ Sakka đã thốt lên như sau đây:

Với tín tâm thì chẳng có vật thí nào dâng cho vị Như Lai, Ðấng Toàn Giác, hay dâng cho các đồ đệ của ngài, lại được cho là không quan trọng đâu.”

Hơn thế nữa, chuyện bàn tán này đã lan truyền rộng khắp toàn bộ vùng Jambudīpa này. Dân chúng đua nhau thực hiện cúng dường, phù hợp với những gì họ có cho các vị ẩn sĩ và các vị bà la môn, cho các vị hành giả, các du sĩ, cho những người nghèo khổ và những kẻ hành khất. Họ cung cấp nước uống trong sân trước cửa nhà và đặt ghế ngồi nghỉ ở các cổng ra vào thành phố.

Bấy giờ vào thời đó có một vị trưởng lão nọ đang du hành khắp nơi để khất thực. Ngài đang du hành đó đây khất thực một cách gợi hứng tịnh tín, dù ngài có đi tới đi lui hay đi lùi lại đàng sau hay hướng mắt về phía trước hoặc đưa mắt nhìn sang bên, hay dù có cúi lưng xuống hoặc duỗi thẳng cánh tay ra và với đôi mắt luôn nhìn xuống, ngài có đầy đủ hảo tướng oai nghi, tiến đến trước cửa ngôi nhà nọ vào đúng thời điểm bữa trưa được dọn lên. Người con gái trong gia đình tốt đó, sẳn có niềm tin và tịnh tín đã nhìn thấy vị trưởng lão và trong lòng tràn đầy hoan hỷ đã ra chào đón vị trưởng lão cung kính đảnh lễ ngài, trong lòng quá sung sướng và hạnh phúc đã mời ngài vào trong nhà, nàng đã đảnh lễ ngài bằng năm tư thế chào với tay phủ phục xuống tận đất, cung kính đảnh lễ và trải một miếng vải mới ủi màu vàng trên tọa sàng của nàng rồi đem đến dâng cho vị trưởng lão.

Khi ngài trưởng lão an vị trên tọa sàng đó với tâm tín thành kính, nàng suy nghĩ, “Ðây quả phải là phước điền vô thượng đang hiện diện với ta.” và nàng bắt đầu hầu hạ vị trưởng lão với những món ăn phù hợp với điều kiện nàng có được rồi lấy chiếc quạt và ngồi hầu quạt ngài. Khi vị trưởng lão đã dùng xong bữa ăn ngài liền thuyết pháp đề cập đến việc cúng dường đồ ăn thức uống và tọa sàng v.v.. rồi ngài ra đi.

Khi người phụ nữ suy nghĩ đến vật thí đó của nàng, và pháp thoại nàng đã được nghe lập tức toàn thân nàng rung lên với niềm hân hoan sung sướng khôn xiết, nàng cúng dường cho vị trưởng lão tọa sàng đó, ít lâu sau nàng mắc bệnh và qua đời sau đó một thời gian và được tái sanh vào Thiên Giới Tam Thập Tam trong một toà thiên cung bằng vàng dài khoảng mười hai do tuần. Và có một đoàn tùy tùng tới một ngàn tiên nữ phục dịch nàng. Và do vẻ oai nghi phước thí cúng dường tọa sàng cho vị trưởng lão, tại thiên cung đó nàng được hưởng một tọa sàng bằng vàng dài một do tuần, có thể di chuyển thật nhanh trên không trung và đậu ngay trên đỉnh một ngôi nhà có hình tháp nhọn. Vì thế cho nên thiên cung đó được gọi là ‘Thiên Cung có Tọa Sàng.’ Do nàng đã cúng dường tọa sàng sau khi đã trải trên đó một tấm vải màu vàng, thế nên tọa sàng đó được làm bằng vàng, điều này chứng tỏ tính tương đồng giữa nghiệp và quả đem lại.

Vì nàng đã cúng dường tọa sàng với tâm hoan hỷ vô song, thế nên thiên cung của nàng di chuyển rất nhanh trên không trung theo ý nàng muốn, do hiệu quả to lớn chứng đắc thành công với tâm tín chiếu sáng và thiên cung được chiếu sáng rực rỡ và sáng chói.

Thế rồi vào ngày lễ hội kia có chư thiên đến tham dự, mỗi vị tuỳ theo phương tiện do chính uy lực của mình tạo thành, đã tu tập trong khu rừng Nandana để vui chơi trong vườn ngự uyển đó, Vị Tiên Nữ đó, mặc y phục chư thiên và trang điểm với những đồ trang sức chư thiên và vây quanh là đoàn tùy tùng gồm cả ngàn tiên nữ, bước ra khỏi cõi và ngồi lên thiên cung có tọa sàng và nhờ phép thần thông vĩ đại của một nữ chư thiên nàng tiến vào công viên ngự uyển, tỏa sáng chói lọi và tỏa ra vẻ kiều diễm vô song khắp xung quanh giống như sức mạnh mặt trời và mặt trăng chói lọi.

Và vào thời điểm đó có vị trưởng lão Mahāmoggallāna đang thực hiện một chuyến du hành chư thiên theo cùng một cách mô tả ở trên, đã gia nhập cõi Tam Thập Tam, và xuất hiện gần nơi chư thiên đó. Khi vừa nhìn thấy trưởng lão nàng đã vội vã bước xuống khỏi tọa sàng, với tâm tịnh tín mạnh mẽ và lòng kính trọng khôn xiết đang nổi lên trong tâm, nàng đã tiến lại gặp vị trưởng lão, đảnh lễ ngài theo nghi thức ngũ thể đầu địa và rồi đứng lên bày tỏ lòng tôn kính với đôi tay chắp lại mười đầu ngón tay chấp vào nhau. Cho dù trước tiên vị trưởng lão có thể nhận ra những phước đức cũng như những nghiệp nàng đã tích luỹ được, cũng như cả những chúng sanh khác nữa, qua vẻ oai nghiêm nơi chính kiến thức của ngài về những nghiệp quả tương ứng với những nghiệp của họ – sức mạnh tuệ giác của ngài thuộc loại tựa như ngài đang nhìn ngắm quả Myrobalan trong lòng bàn tay.

Tuy nhiên vì khi vừa tái sanh nơi cõi trời, các vị chư thiên liền hỏi nhau, “Giờ đây ta đã từ trần tại đâu và sao lại được tái sanh nơi đây? Giờ đây chúng ta đã thực hiện phước đức nào để chiếm được thù thắng này?” và theo thông lệ đa phần kiến thức xác định được hiện hữu tiền kiếp và nghiệp thực sự đã tích lũy phù hợp với cách thức sự việc thực sự tồn tại, có nghĩa là chính vì thế họ đã đi đến kết luận đúng đắn. Chính vì thế trước tiên vị trưởng lão muốn làm sáng tỏ thánh quả các nghiệp cho thế giới chư thiên, bèn bảo tiên nữ kể lại hạnh nghiệp nữ chư thiên đã thực hiện và thốt lên những đoạn kệ sau:

“Tọa sàng của thiên nữ được làm bằng vàng, to lớn và di chuyển với vận tốc theo ý nàng muốn; Ôi nàng được trang điểm lộng lẫy, đeo vòng hoa và xiêm y rực rỡ. Nàng tỏa sáng tựa tia chớp trên đỉnh ngọn đám mây dông bão.

Do đâu nàng có được nước da kiều diễm như vậy? Vì cớ gì nàng đạt được vinh hiển tại nơi đây và những lạc thú nào tâm hồn nàng ưa chuộng lại có thể xuất hiện ngay tại đó?

Ta hỏi nhà ngươi, ôi nữ chư thiên oai phong lẫm liệt, ngươi đã thực hiện phước đức nào khi còn sống nơi cõi chúng sanh? Do đâu nàng có được vẻ oai nghiêm lẫm liệt tỏa sáng rực rỡ đến như vậy, và dung nhan nàng tỏa sáng khắp tứ phương như thế?

Nàng nữ chư thiên đó, lòng tràn đầy hoan hỷ khi ngài trưởng lão Moggallāna hỏi nàng như vậy, đã giải thích câu hỏi trưởng lão đã được đặt ra, về phước đức nào đã đem lại cho nàng quả to lớn đến như vậy.

Khi đang còn làm kiếp người trên dương gian giữa chúng sanh, ta đã bố thí một tọa sàng nhỏ bé cho người gọi cửa; ta đã đảnh lễ ngài, giữ năm tư thế ảnh lễ phủ phục xuống đất và đã cúng dường tùy theo khả năng ta có.

Do đó ta có được làn da tươi sáng đến như vậy, và còn được nhiều vinh hiển tại nơi đây và bất kỳ lạc thú nào lòng ta hằng mong muốn, tức thì đều xuất hiện cho ta.

Ta công bố cho chư vị Tôn Sư biết, vẻ oai lực to lớn đến như vậy, là những phước đức ta đã thực hiện khi còn ở giữa thế nhân. Do những phước đức đó ta có được oai lực tỏa sáng đến như vậy và vẻ kiều diễm của ta tỏa sáng khắp tứ phương.