GIÁO LÝ CHO MỘT TỬ TÙ

Lama Zopa Rinpoche

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên


Rinpoche ban lời chỉ dạy sau đây cho một tù nhân, là một người mới theo Đạo Phật. Anh ta đã bị kết án tử hình, bản án sẽ được thi hành trong thời gian ba tháng. Rinpoche ban lời chỉ dạy này trong khóa tu năm ngày.



Bạn Jack rất yêu quý,

Đây là vài điều để bạn suy nghĩ, một vài gợi ý về cách bạn sử dụng hoàn cảnh của bạn, và những điều tốt nhất bạn có thể làm, những điều thực tiễn nhất được dành cho bạn để thực hành. Cho dù một người chỉ còn một ngày để sống, hay chỉ còn một giờ, người ấy vẫn có một cơ hội phi thường để làm cho thân người - - mà họ đã nhận được chỉ một lần này thôi – trở nên lợi lạc nhất. Cho dù họ chỉ còn lại một giờ, trong thời gian đó, họ vẫn có thể thọ năm giới hay tám giới của cư sĩ.


Trong bình giảng về tám giới luật của Geshe Lam Rimpa ở Tu viện Drepung (Tây Tạng) có nói rằng: “Cho dù bạn chỉ còn một giờ để sống, điều đó cũng rất lợi lạc, rất có ý nghĩa, để thọ tám giới luật.” Trong các giáo lý cũng nói: “Trong thời đại suy hoại này, thậm chí chỉ giữ một giới nguyện trong một ngày cũng nhận được lợi lạc to lớn.”


Trong Kinh Định Vương có nói: “Công đức của việc giữ một giới nguyện trong một ngày và đêm trong thời đại suy hoại như hiện nay to lớn hơn nhiều nếu so với công đức của người với tâm sùng mộ, cúng dường thực phẩm, nước uống, dù, cờ, và các tràng hoa, ánh sáng tương đương với số cát trong Thái Bình Dương cho một tỉ Đức Phật”


Những Thực hành Tốt nhất cho Bạn


Những Giới nguyện Cư sĩ: Tốt nhất là bạn hãy thọ những giới nguyện cư sĩ ngay khi có thể, dù bạn có thể thọ trì nhiều tới mức độ nào. Cho tới khi đó bạn cũng có thể thọ tám giới Đại thừa 24 giờ.


Thiền định Chenrezig: Theo những quán sát của tôi, tốt nhất là bạn nên thực hành Chenrezig (Quán Thế Âm), Đức Phật Bi mẫn. Đó là thiền định về Đức Chenrezig và trì tụng thần chú “Om Mani Padme Hung” của ngài. Đây là một bức ảnh thangka Đức Chenrezig của riêng tôi mà tôi thường mang theo bất kỳ nơi đâu.


Hãy quán tưởng Đức Chenrezig trước mặt bạn. Khi bạn tụng thần chú, hãy quán tưởng chất cam lồ xuất phát từ Đức Chenrezig, đi vào bạn và tịnh hóa mọi bệnh tật, nghiệp tiêu cực, những sự hãm hại của tinh linh, và những ô nhiễm của bạn. Trong nửa mala (chuỗi) hãy quán tưởng bạn được tịnh hóa, và trong nửa chuỗi còn lại hãy quán tưởng rằng bạn nhận được tất cả những phẩm tính của Đức Chenrezig. Đức Chenrezig ôm trọn toàn thể chúng sinh và thấu hiểu trực tiếp tâm thức của tất cả chúng sinh, mọi phương pháp để dẫn dắt họ một cách toàn hảo, với năng lực toàn hảo, trí tuệ toàn hảo, và lòng bi mẫn toàn hảo.


Chuyển hóa Tư tưởng: Thực hành Tám Bài Kệ Chuyển hóa Tâm rất quan trọng. Hãy thiền định về những bài kệ và tụng “Om Mani Padme Hung” sau mỗi bài. Vào lúc kết thúc, hãy cảm thấy cực kỳ sung sướng vì bạn đang thực hành và phát triển tư tưởng làm lợi lạc người khác, là Bồ đề tâm.


Hãy thiền định về Bồ đề tâm tuyệt đối, cũng như tánh Không, để nhận ra cái “tôi,” các uẩn, và những hiện tượng thì không hiện hữu tự khía cạnh riêng của chúng ra sao; để nhận ra rằng chúng chỉ hiện hữu trên danh nghĩa, đơn thuần do tâm quy gán.


Bài Nguyện Lamrim: Thật tốt nếu bạn có thể đọc một bài nguyện lamrim mỗi ngày, chẳng hạn như Nền tảng của Mọi Phẩm tính Tốt lành. Mỗi lần bạn đọc bài nguyện này là thêm một lần gieo trồng một hạt giống cho toàn thể con đường dẫn tới giác ngộ trong tâm bạn và làm cho cuộc đời bạn thật quý giá.


Thần chú Maritza: Sẽ rất tốt nếu mỗi ngày bạn tụng ba chuỗi (mỗi chuỗi 108 thần chú) thần chú Maritza: “Om Maritze Mam Soha.”


Những Thực hành vào Ngày Bạn bị Tử hình: Chuyển hóa Tư tưởng và Bồ đề tâm


Vào ngày bạn bị tử hình, điều cuối cùng để làm trước khi bạn bị hành hình là hoàn toàn quy y (nương tựa) Đức Chenrezig. Hãy nghĩ tưởng về Đức Chenrezig, quán tưởng bức hình tôi đã gởi cho bạn, và hoàn toàn nương tựa nơi Đức Chenrezig.


Hãy nghĩ: “Cầu mong con kinh nghiệm mọi đau khổ của tất cả chúng sinh có nghiệp bị tử hình và nỗi khổ của người thực sự thi hành việc tử hình, và cầu mong con làm cho những người khác thoát khỏi nỗi khổ này.” Hãy chắp hai bàn tay trong ấn lễ lạy Đức Chenrezig và cầu xin Đức Chenrezig dẫn dắt trong mọi đời sau cho tới khi giác ngộ.


Hãy nghĩ: “Cầu mong con nhận lãnh nghiệp của tất cả chúng sinh bị tử hình, cầu mong chỉ một mình con phải kinh nghiệm điều này, và bởi điều đó cầu mong tất cả chúng sinh thoát khỏi mọi nỗi khổ và nhận được hạnh phúc tối thượng cho tới sự giác ngộ.” Hãy tiếp tục nghĩ như thế, lập đi lập lại nhiều lần.


Thật vô cùng mãnh liệt nếu bạn chết với tư tưởng này về việc từ bỏ bản thân bạn, kinh nghiệm về tất cả những đau khổ của chúng sinh bị tử hình và hiến tặng mọi hạnh phúc của bạn cho người khác. Tư tưởng này trở thành nơi nương tựa chính của bạn. Đặc biệt là bạn hãy cảm nhận điều này đối với những người làm công việc tử hình bạn, cũng như những người đã ra lệnh này, quan tòa, v.v.. Bởi họ tạo nghiệp tiêu cực này, rồi thi hành nó – là hành động xuất phát từ một tâm thức bất tịnh, tham, sân, si, và đặc biệt là tư tưởng ái-ngã – họ sẽ phải trải nghiệm nghiệp bị những người khác tử hình trong 500 đời, chỉ vì nguyên nhân là hành động sát sinh này.


Nếu bạn chết với một tư tưởng phi đạo đức, một tư tưởng ái-ngã, tư tưởng tham, sân hay si, thì bạn sẽ bị tái sinh trong những cõi địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sinh. Khi bạn ở trong những cõi thấp, bạn tiếp tục tạo thêm ác nghiệp, điều đó sẽ lại dẫn tới việc tái sinh trong những cõi thấp. Thậm chí việc trải qua một ngày trong những cõi thấp cũng tích tập rất nhiều ác nghiệp, mười ác hạnh, v.v..


Sẽ rất lợi lạc nếu bạn chết với tư tưởng làm lợi ích cho chúng sinh. Đó là cách chết tốt nhất, cái chết tuyệt vời nhất. Bạn đang chết cho tất cả những sinh loài khác, điều đó có nghĩa là bạn không chết cho bản thân bạn. Điều này cũng giống như Đức Chúa Giêsu, đấng nhận lãnh đau khổ của chúng sinh, hay Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, đấng trong những đời trước đã hiến thân mình cho một con cọp cái đói khát và năm hổ con của nó; đấng đã từ bỏ đời mình bởi không thể chịu đựng nổi nỗi khổ của những con thú ấy.


Đức Đạt Lai Lạt Ma nói nếu bạn chết với Bồ đề tâm, tư tưởng làm lợi lạc cho người khác, thì điều này là một hành động tự-hỗ trợ, và không ai phải cầu nguyện cho bạn, bạn sẽ được chính bản thân bạn dẫn dắt. Nếu bạn chết với tư tưởng này, bạn sẽ chẳng bao giờ bị tái sinh trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ hay súc sinh. Nếu bạn gộp chung mọi nỗi khổ trong cõi người và so sánh nó với nỗi khổ trong tám địa ngục nóng và tám địa ngục lạnh, thì không thể so sánh được. Thậm chí, nếu so với nỗi khổ trong địa ngục đầu tiên, là địa ngục nhẹ nhất, thì nỗi khổ trong cõi người quả là đại lạc. Chết với tư tưởng làm lợi lạc người khác, một động lực Bồ đề tâm, là phương pháp tốt nhất để tự cứu mình thoát khỏi việc tái sinh trong những cõi thấp và khỏi phải kinh nghiệm nỗi khổ đó trong một quãng thời gian dài không thể tưởng tượng nổi. Và bởi bạn đang tiếp tục tạo ác nghiệp trong khi bạn đang ở trong các cõi thấp, bạn không biết được khi nào bạn sẽ lại được tái sinh trong cõi người. Geshe Chekawa của phái Kadampa, một thánh nhân và thiền giả Tây Tạng vĩ đại, luôn luôn cầu nguyện được tái sinh trong các cõi địa ngục để làm lợi ích chúng sinh. Mặc dù đã cầu nguyện như vậy nhưng khi ngài qua đời, thay vì bị tái sinh trong các cõi địa ngục thì ngài lại thấy Cõi Tịnh Độ hiện ra, ở đó không có đau khổ, không có tuổi già, không bệnh tật, không có chết đi, không có những cảm xúc tiêu cực, không có những tư tưởng như sân hận, ganh tị, và v.v.., và là nơi có những hỉ lạc thanh tịnh nhất, toàn hảo nhất. Trong Cõi Tịnh Độ không có ngay cả từ “đau khổ”, đó là lý do tại sao cõi đó được gọi là tịnh (thanh tịnh). Ngài được tái sinh ở đó bởi lòng đại bi và những lời nguyện của ngài cầu xin được tái sinh trong những cõi địa ngục vì lợi lạc của chúng sinh, là những người đang phải trải nghiệm quá nhiều đau khổ.


Bằng cách sử dụng hình phạt tử hình này như một phương tiện để đạt được giác ngộ cho chúng sinh, kinh nghiệm này trở thành nguyên nhân của hạnh phúc của tất cả chúng sinh, không chỉ hạnh phúc nhất thời mà cả việc giải thoát khỏi sinh tử, và hạnh phúc tối thượng, sự giác ngộ viên mãn. Vì thế, không có điều gì to lớn hơn hạnh phúc này. Việc bạn bị tử hình là một cơ hội để mang lại hỉ lạc và hạnh phúc tối thượng cho bản thân bạn và tất cả chúng sinh. Hạnh phúc và những vấn đề hoàn toàn tùy thuộc vào việc tâm bạn hiểu những sự việc đó ra sao, loại nhãn hiệu nào bạn khoác cho chúng, và sau đó việc bạn tin tưởng vào nhãn hiệu đó: khi ấy chúng thực sự trở thành đau khổ hay hạnh phúc. Sự tu tập để có thể chuyển hóa việc bị tử hình của bạn bằng cách nhìn việc đó như một lợi lạc và một nguyên nhân mang lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh sẽ trở thành một thách thức to lớn. Điều là nỗi khổ cho hầu hết mọi người có thể được chuyển hóa thành hạnh phúc lớn lao cho bạn và những người khác. Bằng cách thực hiện điều này bạn trở thành một nhà vô địch. Đây quả là một cách thức suy tưởng phi thường.


Bị Tù là một Cơ hội Phi thường

Một phương cách khác là hãy hoan hỉ: nếu bạn không ở trong tù, tâm bạn sẽ rất xao lãng, rối bời, và bị bận tâm bởi những đối tượng của tham, sân, và v.v.. Bạn sẽ không có thời gian để thiền định và không thích thú trong việc thực hành tâm linh bởi cuộc đời bạn sẽ rất bận rộn và phải dành hết thời gian cho những đối tượng của tham muốn.


Vì thế, bằng cách ở trong tù bạn có một cơ hội phi thường. Điều đó giúp bạn đánh thức tâm bạn, phân tích bản thân, và nghĩ tưởng về cuộc đời của riêng bạn. Điều này làm cho việc ở trong tù trở nên hết sức sâu sắc. Do ở trong hoàn cảnh này, bạn cảm thấy ước muốn thật sâu sắc được thể nhập con đường tâm linh và thiền định. Vì thế, cuộc sống trong tù của bạn thực sự hạnh phúc hơn một cuộc đời bình thường ở ngoài nhà tù, đặc biệt là hiện tại khi bạn hiểu biết về nghiệp, về việc đau khổ xuất phát từ tâm ra sao, và làm thế nào tâm là nguyên nhân chính yếu. Nhờ thấu hiểu điều này bạn có thể có một cuộc đời hạnh phúc, cái chết hạnh phúc và tái sinh hạnh phúc, bằng cách tịnh hóa ác nghiệp và tạo thiện nghiệp (những hành động đức hạnh). Không chỉ có thế, bạn khám phá được rằng có một thành tựu sâu xa hơn nhiều trong cuộc đời: hạnh phúc tối thượng và sự giải thoát khỏi sinh tử (liên tục luân hồi từ đời này sang đời khác, sự tương tục của những uẩn được gây nên bởi nghiệp và sự vô minh, bị ô nhiễm bởi chủng tử của vô minh, tất cả những đau khổ và những nguyên nhân của chúng) nhờ chứng ngộ Bốn Chân lý Cao quý (Tứ Diệu Đế) – nỗi khổ thực sự (Khổ đế), nguyên nhân thực sự của đau khổ (Tập đế), sự chấm dứt đau khổ (Diệt đế), và con đường chân chính (Đạo đế). Bạn khám phá ra rằng có một cơ hội để học tập con đường chân chính và để thành tựu con đường này nhờ việc lắng nghe, quán chiếu và thiền định (văn, tư tu) về con đường đó. Chừng nào chúng ta không tiệt trừ được những nguyên nhân của đau khổ, đó là tâm, sự vô minh, và hành động của nó – là nghiệp, thì chúng ta sẽ phải tái sinh, chết đi và kinh nghiệm mọi đau khổ hết lần này tới lần khác không có lúc chấm dứt.


Điều mà hầu hết mọi người trong thế gian tin là đau khổ thì hết sức giới hạn. Điều mà họ muốn thoát khỏi chỉ là những đau khổ cực kỳ thô thiển. Nhưng có rất nhiều đau khổ mà họ không nhận ra. Vô minh ngăn trở họ không thành tựu được việc hoàn toàn giải thoát và tìm ra con đường chân chính. Vô minh cũng ngăn chặn hạnh phúc mà họ đang tìm kiếm – hạnh phúc đó thực sự chỉ là đau khổ, không phải là hạnh phúc đích thực – và thậm chí phương pháp để có được hạnh phúc mà họ mong muốn. Họ chỉ đang tìm kiếm hạnh phúc bên ngoài, và đó là lý do tại sao cuộc đời của họ thường xuyên bị lôi kéo vào đau khổ, từ đời này sang đời khác.


Vì thế, việc ở trong tù thì hết sức tích cực, một thuận lợi và hỉ lạc to lớn. Bạn có một cơ hội phi thường: hiện tại có hạnh phúc, một cái chết hạnh phúc, những đời sau hạnh phúc, sự giải thoát hạnh phúc khỏi sinh tử, và sự giải thoát hạnh phúc vĩ đại: sự toàn giác.


Việc Tái sinh và Nhớ lại những Đời Quá khứ


Có lẽ bạn từng nghe nói về sự tái sinh. Mặc dù thân thể này tan rã, điều đó không có nghĩa là tâm chấm dứt hiện hữu; nó vẫn tiếp tục. Chúng ta có một thân và tâm và chúng ta gắn liền với thân và tâm này như bản ngã, cái “tôi,” là điều chỉ đơn thuần được quy gán. Tâm hôm nay bắt đầu lúc bình minh, nhưng tâm thức của ngày hôm nay là sự tiếp tục của tâm thức ngày hôm qua, hoàn toàn trước lúc bình minh. Vì thế, tương tự như thế, tâm của năm nay là sự tiếp nối của tâm năm ngoái chứ không phải là cái gì riêng biệt. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể nhớ lại điều ta đã nói hôm qua, nơi ta đã đi, thực phẩm ta đã ăn, những người ta đã gặp, và v.v.. Đứa trẻ và con người của ta hôm nay không riêng biệt, chúng là một. Bạn có thể nhận ra điều này bằng cách nhớ lại điều bạn đã làm khi là một đứa trẻ, nơi bạn đã đi v.v..


Giống như thế, những đời quá khứ thì cũng vậy. Mặc dù hầu hết mọi người không nhớ được, tâm ta chính là sự tiếp nối của tâm thức trước khi ta sinh ra. Tâm bạn không chỉ bắt đầu sau khi thân thể bạn ra khỏi tử cung của mẹ bạn, cũng không bắt đầu khi tâm thức bạn đi vào trứng được thụ tinh, và sự kết hợp của thân và tâm được bắt đầu.


Một số người có thể nhớ lại việc họ ở trong bụng mẹ và được sinh ra. Tôi biết có một đệ tử có một ký ức minh mẫn về điều đó. Cho dù hầu hết mọi người không nhớ, nhưng có rất nhiều người nhớ được. Cũng có rất nhiều trẻ em có thể nhớ được những đời quá khứ của chúng và tả lại những điều đó thật rõ ràng. Đây không chỉ là kinh nghiệm của các Lạt ma Tây Tạng. Có những người ở Tây phương sinh ra với một trí nhớ rõ ràng về những đời trước. Điều này cho thấy những người có một tâm hồn minh mẫn, tâm họ ít bị ô nhiễm và che chướng. Một số người cũng có tâm thức trong trẻo và có thể thấy được tương lai.


Nhờ phát triển thiền định, đặc biệt là thiền an định (có chín giai đoạn), bằng cách cắt đứt sự hấp dẫn, những tư tưởng tản mạn, và những tư tưởng trầm trệ, tâm trở nên trong sáng hơn. Khi đó ta có thể phát triển những năng lực cao cấp hơn. Những vị thánh vĩ đại, các Bồ tát arya – chẳng hạn như những Bồ Tát thành tựu bhumi (địa) thứ nhất, bậc thành tựu con đường cao quý của trí tuệ trực tiếp nhận ra tánh Không, bản tánh tối thượng – có thể nhớ lại hàng trăm đời quá khứ và cũng có thể nhìn thấy tương lai. Chắc chắn là khi các ngài đạt được những bhumi cao hơn (có mười bhumi để thành tựu sự toàn giác), các ngài khám phá và nhìn thấy một triệu lần hơn nữa những đời quá khứ và tương lai, cũng như thành tựu con đường Kim cương thừa tối thượng, Sáu Yoga của Naropa.


Nhờ thiền định về một Bổn tôn v.v.. ta cũng có thể thành tựu sự thấu thị, có thể nhìn thấy quá khứ và tương lai. Ta có thể nhìn thấy những sự việc xảy ra mà những người khác không thể thấy, cũng như có thể nhìn thấy những sự việc trong những đất nước xa xôi.


Tất cả những điều này cho thấy có những đời quá khứ; điều này chứng minh sự việc đó. Nếu có những đời trước thì cũng có những đời sau. Như tôi đã đề cập, nhiều người có thể nhìn thấy những đời trước cũng như nhiều người có thể nhìn thấy những đời sau. Toàn bộ sự việc là vấn đề tâm trong sáng ra sao. Tâm càng ít bị ô nhiễm hay ít bị vẩn đục thì ta càng có thêm năng lực để nhìn thấy quá khứ, hiện tại, và tương lai, là những điều mà hầu hết mọi người không có sự trong sáng hay năng lực nên không thể nhìn thấy. Đây là năng lực của tâm có thể được phát triển: sự trong trẻo của tâm có thể nhớ lại rõ ràng những đời quá khứ, những người trong gia đình, và những vật sở hữu. Ta có thể thành tựu điều này chỉ nhờ trì tụng các thần chú chẳng hạn như “Om Mani Padme Hung.”


Ví dụ như, sau khi mẹ tôi qua đời, bà được tái sinh và có thể nhớ lại nhiều việc trong đời trước của bà. Bà tái sinh vào một gia đình sống gần nơi bà đã sống khi là một sư cô trong vài năm ở Lawudo, Solu Khumbu, tại Nepal, gần Núi Everest. Ở Lawudo có một hang động của yogi giác ngộ vĩ đại Padmasambhva, bậc đã đặt gót sen thiêng liêng của mình ở đó trong một thời gian ngắn, và ở đó Lạt ma Kunzang Yeshe đã sống trong ẩn thất, là bậc được nhiều Lạt ma tiên tri. Khi hóa thân của mẹ tôi lên ba hay bốn tuổi, cậu có thể nhận ra thật rõ ràng tất cả những người trong gia đình của cậu trong đời trước. Cậu không ngượng ngùng đối với họ như khi cậu gặp những người khác; cậu lập tức gần gũi với họ. Cậu cũng có thể nhận ra những thú vật cậu thường săn sóc. Cậu cũng có thể nhận ra nhiều đồ vật mà cậu thường dùng và tìm chúng ở những nơi cậu đã để lại chúng trong đời trước của cậu.


Tôi sẽ kể cho bạn nghe một câu chuyện về điều này. Trước khi tôi đi Tây Tạng, khi tôi còn là một cậu bé ở Solu Khumbu thì miền đất này rất hoang sơ. NgườI dân coi những cái muỗng và những nút áo bằng nhựa là những vật rất quý báu. Khi họ có được một chiếc áo, ngay cả một chiếc áo rách, họ giữ những chiếc nút áo bằng nhựa như vật rất quý giá. Cũng bởi ở đây không có muỗng, khi họ có những chiếc muỗng thì họ rất quý, thậm chí họ đeo cái muỗng bằng một sợi giây choàng quanh cổ, giống như người Tây phương đeo vòng xuyến. Ở đó cũng không có cà phê, dầu hỏa v.v.. Hiện nay, Solu Khumbu đã thay đổi rất nhiều và trở nên tân tiến.


Khi tôi còn là một đứa trẻ thì gạo rất hiếm. Đó là một thực phẩm hết sức đặc biệt, bởi lúa không mọc được ở đó và người dân phải chuyên chở nó trong nhiều ngày từ những nơi xa xôi. Tôi nhớ là mình chỉ được ăn cơm vào những dịp hết sức đặc biệt, như khi có một geshe viếng thăm hay khi mọi người tới dự những cuộc nhập thất Nyung nye. (Nhập thất Nyung nye là một khóa nhập thất hai ngày về Đức Phật Bi mẫn - Đức Chenrezig, trong thời gian đó bạn ăn một bữa vào ngày đầu tiên và sau đó hoàn toàn ăn chay vào ngày thứ hai và thậm chí không uống một giọt nước.) Có một năm, vào ngày đầu tiên của khóa nhập thất Nyung nye, vị Thầy dạy mẫu tự của tôi và người thị giả - là những người cùng nhập thất với tôi - mang lại bữa ăn trưa gồm cơm và sữa đông còn lại. Điều này thật đặc biệt, một sự kiện hết sức vui vẻ xảy ra mỗi năm một lần.


Hiện nay cơm đã trở thành một thực phẩm rất thông dụng, cũng như cà phê. Khi tôi còn nhỏ, không có nến, dầu hỏa, hay khí đốt, vì thế khi màn đêm buông xuống ánh sáng duy nhất bạn có là ngọn lửa trong bếp bạn đang nấu và một mẩu gỗ có nhựa hay tre khô mà bạn có thể đốt lên và dựa vào tường, để có thể nhìn thấy thức ăn, hay để dùng khi bạn đi ra ngoài. Hiện nay ở nhiều vùng của Solu Khumbu đã có điện cũng như đèn khí đốt.


Mẹ tôi thường gom tất cả những chiếc nút nhựa và cất trong một cái chai. Sau khi mẹ tôi qua đời, chị tôi, một sư cô, đã khâu những chiếc nút của mẹ tôi trên áo của chị. Khi lần đầu tiên hóa thân của mẹ tôi tới Lawudo và chị tôi ôm cậu trong tay, cậu bé lập tức chỉ những chiếc nút trên áo của chị và nói: “Đó là những chiếc nút của cháu!” Cậu đã nhớ lại những chiếc nút trong đời trước của cậu.


Cách hành xử của cậu cũng hoàn toàn giống cách hành xử của mẹ tôi. Bất kỳ khi nào bà đi tới Gompa Lawudo, trước tiên bà thường đi nhiễu quanh gompa (chùa, tu viện) bảy lần, và sau đó khi bà đi vào gompa điều đầu tiên bà làm là nhận một sự ban phước từ Pháp tòa của Đức Đạt Lai Lạt Ma, lễ lạy và đặt đầu bà trên Pháp tòa. Sau đó bà sẽ nhận một sự ban phước từ một ngai nhỏ tôi đã ngồi. Kế đó bà nhận một sự ban phước từ bàn thờ có những pho tượng Phật. Khi lần đầu tiên hóa thân của mẹ tôi tới gompa, cậu đã làm đúng những điều mẹ tôi đã làm.


Khi em trai Sangye của tôi (sống ở Kathmandu) tới thăm hóa thân của mẹ tôi lần đầu tiên, nhiều người đã tới – các tăng ni, cư sĩ – và tất cả đều cúng dường những chiếc khăn (khatag) cho cậu. Đây là một cử chỉ truyền thống biểu lộ sự tôn kính và cảm ơn cũng như dâng cúng những ước nguyện tốt lành mà ta cúng dường các Lạt ma, các pho tượng, Kinh điển, và những thangka (tranh cuộn) như một thực hành tích tập công đức. Sau khi bạn dâng khatag cho Lạt ma, nó được ban lại cho bạn như một sự ban phước.


Khi mọi người dâng những chiếc khăn cho hóa thân của mẹ tôi, cậu đã tặng lại mỗi chiếc khăn cho mỗi người, ngoại trừ hai người. Một người là cha cậu và người kia là một tu sĩ sống ở Lawudo tên là Tsultrim Norbu. Lý do khiến cậu không tặng lại khăn cho họ là bởi cậu nhớ lại hai người này trong đời trước của cậu. Trong đời trước khi cậu sống ở Lawudo, nguồn tiếp tế nước duy nhất được lấy bằng cách đi bộ từ một nơi cách xa một dặm. Có một lần chúng tôi xoay sở tìm được một số ống dẫn nước và chúng tôi nối những chiếc ống đó với nguồn nước để dẫn nước tới gần Lawudo hơn. Nguồn nước gần một căn nhà và gia đình sống ở đó không vui vẻ lắm khi chúng tôi đặt ống ở đó, vì thế họ đã dùng đất làm nghẹt ống khiến nước không chảy được. Mẹ tôi rất bực những người đó. Thân phụ hóa thân của mẹ tôi là người trong gia đình đã làm nghẹt những chiếc ống. Dấu vết trong đời trước của cậu về việc rất khó chịu này vẫn còn, đó là lý do tại sao cậu không tặng lại chiếc khăn.


Câu chuyện khác là mẹ tôi có một người bạn rất thân tên là Ang Phurpa, ông ta sống ở Kathmandu. Một hôm ông và em Sangye của tôi đi tới Lawudo để gặp hóa thân của mẹ tôi lần đầu tiên. Cậu hoàn toàn không biết là họ đang đi tới. Ngay khi Ang Phurpa ngồi xuống, cha mẹ hóa thân của mẹ tôi mời bia chang, rượu, và trà, và hóa thân của mẹ tôi lập tức nói: “Ang Phurpa, xin mời, xin mời dùng.” Ang Phurpa lập tức ôm chầm lấy chân cậu bé và bật khóc bởi ông không thể tin nổi là hóa thân nhớ được tên ông và còn nhớ tới ông; ông không thể nói lên lời.