kết quả từ 1 tới 8 trên 8

Ðề tài: SỬA SOẠN CHỜ CHÚA ĐẾN

  1. #1

    Arrow SỬA SOẠN CHỜ CHÚA ĐẾN

    SỬA SOẠN CHỜ CHÚA ĐẾN
    Trước những đồn đoán về Ngày Tận Thế 21.12.2012 có không ít người tin, và người ta đã có những sửa soạn tích cực cho ngày: “Tại Sacramento California, anh Nick Nordman một nhân viên bán hàng của một cửa hàng bán đồ lính “Action Military Surplus” cho biết đã có nhiều người tới hỏi mua đồ tiếp liệu càng nhiều càng tốt, bất kể giá cả là bao nhiêu. Họ tìm mua những đồ hộp của lính như thịt hộp, kính để chớp ánh sáng cho việc truyền tin, dao đi rừng, radio chạy bằng pin mặt trời và…mặt nạ phòng hơi ngạt cho con nít. Mới sáng nay chúng tôi còn có 30 mặt nạ bây giờ chỉ còn có 5 cái thôi” ( Nguồn Legio Mariae Đaobinhducme – Trần Mạnh Trác – Sẽ có tận thế trước Lễ Giáng Sinh năm nay ? ).
    Sửa soạn chờ đón Ngày Tận Thế bằng cách chui xuống hầm sâu, tích trữ lương khô nước uống cùng với những vật dụng như pin mặt trời, mặt nạ phòng hơi ngạt cho con nít v.v… thì thật là ngớ ngẩn. Bởi lẽ đã là tận thế mà còn mong sống sót với những thứ đồ ăn thức uống và mặt nạ chống hơi ngạt như vậy được sao ? Còn với những người không tin thì họ lại rất tự tin khi mời mọi người đánh cược: “Cho nên dù cho bạn có lý luận đúng đắn tới đâu những người cuồng tín vẫn không tin bạn đâu. Cho nên có một cách hay nhất và an toàn nhất là đánh cá cược. Bạn sẽ đánh cá toàn bộ tài sản với mọi người là ngày 21 tháng 12 tới đây sẽ không phải là Ngày Tận Thế. Và nếu người nào đó cũng đánh cá tài sản của họ cho bạn thì chắc chắn bạn sẽ hả hê ăn mừng Lễ Giáng Sinh với một cuộc sống phong lưu mới. Bạn sẽ hỏi nếu mà nhỡ thua thì sao ? Dĩ nhiên là vì tận thế rồi thì sẽ chẳng còn ai nữa để mà thắng thua nữa phải không ? ( Nguồn Trần Mạnh Trác đã dẫn ).
    Đánh cược theo cái kiểu này hình như có vẻ…ăn chắc, rất có thể Ngày Tận Thế sẽ không đến vào ngày 21.12.2012 sắp tới. Thế nhưng về phần anh, có gì bảo đảm là anh sẽ không chết trước ngày đó không ? Chúa Giêsu nói về Ngày Tận Thế hiểu như Ngày Ngài đến để xét xử toàn nhân loại ( phán xét chung ) nhưng đồng thời cũng ám chỉ cho cái chết của mỗi người ( phán xét riêng ). Dù là phán xet chung hay riêng thì hết thảy mọi người đều sẽ bị xét xử về những việc mình làm: “Ta sẽ tùy công việc của mỗi người trong các ngươi mà báo ứng” ( Kh 2, 23 ).
    Chúa sẽ tùy công việc mỗi người mà báo ứng và Ngài luôn đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng bởi vì Ngày Tận Thế cũng như cái chết của mỗi người không một ai biết nó xảy đến khi nào: “Vậy hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết Chúa các ngươi đến nhằm lúc nào. Nhưng hãy biết điều này, nếu chủ nhà đã hay canh nào kẻ trộm đến thì thức canh, không để cho nó đào ngạch khoét vách nhà mình. Vậy nên các ngươi hãy chực sẵn vì Con Người đến trong giờ các ngươi không ngờ” ( Mt 24, 43 – 44 ). Hãy chực sẵn, có nghĩa chúng ta phải luôn trong tư thế đợi chờ Chúa đến trong cuộc đời mình.
    I. Chờ Chúa đến trong cuộc đời
    Có thể nói toàn bộ cuộc sống của Dân Chúa là sống trong sự đợi chờ Chúa đến. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa Dân Chúa thời Cựu và Tân Ước thế này. Dân thời Cựu thì mong Đấng Cứu Thế đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ ngoại bang. Còn dân thời Tân Ước thì mong Chúa đến để giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi. Dân thời Cựu mong Chúa nhưng khi Ngài đến thì lại từ chối và giết đi “ Ngài đã đến trong cõi thuộc về Ngài. Song những kẻ thuộc về Ngài chẳng tiếp nhận Ngài. Nhưng hễ tiếp nhận thì Ngài ban cho quyền bính trở nên con cái Đức Chúa Trời tức những kẻ tin đến Danh Ngài. Kẻ ấy chẳng phải sinh bởi khí huyết, chẳng phải bởi tình dục cũng chẳng phải bởi ý người ta bèn là Ý Đức Chúa Trời vậy” ( Ga 1, 11 – 13 ).
    Tiếp nhận Đấng Cứu Thế có nghĩa là tin Chúa Giêsu đích thực là Con Thiên Chúa, Ngài được sai đến là để cho mỗi một người trong chúng ta cũng được trở nên Con Thiên Chúa như Ngài “ Chúng ta biết mình ra từ Đức Chúa Trời, còn cả thế gian đều nằm trong tay ma quỷ. Nhưng chúng ta biết Con Đức Chúa Trời đã đến, Ngài ban trí ngộ cho chúng ta để chúng ta nhận biết Đấng Chân Thật và chúng ta đều ở trong Đấng Chân Thật tức là ở trong Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Ấy đó là Đức Chúa Trời chân thật và là sự sống đời đời” ( 1Ga 5, 19 – 20 ).
    Từ khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta đã thực sự tiếp nhận Chúa Giêsu Đấng Cứu Chuộc mình. Tuy nhiên sự tiếp nhận ấy nếu ví như việc gieo hạt giống vào lòng đất thì nó chỉ có thể nảy mầm và lớn lên thành cây ra hoa kết quả khi có đủ điều kiện ánh sáng, nước tưới sự chăm sóc cắt tỉa v.v… Chúa Giêsu là hạt giống thần linh đã được Đức Maria sinh hạ trong cung lòng ta. Chúa cũng cần được lớn lên bằng việc chuyên chăm cầu nguyện và nhất là Thánh Lễ Misa tức Bàn Tiệc Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa. Không có cầu nguyện và Thánh Lễ chẳng những Chúa không thể lớn lên mà còn giống như một thứ phạm nhân khốn khổ bị giam nhốt ở trong ta. Chúa bị giam nhốt những khi ta đọc kinh cầu nguyện mà chỉ có ở ngoài môi ngoài miệng chẳng hề nhớ chi đến sự hiện diện của Ngài . Chúa bị giam cầm thậm chí đánh đập tàn tệ khi chúng ta mang trong mình đủ thứ tội trọng gớm ghiếc.
    Chúa đã đến và sinh ra trong mỗi người là sự thật. Dẫu vậy sự thật ấy chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta sống tỉnh thức trong từng giây phút. Kinh là Lời Chúa, đọc kinh lần hạt Mân Côi thì phải nhớ từng lời đó là tỉnh thức. Làm bất cứ công việc gì: rửa bát, quét nhà, bán hàng, dạy học v.v... đều vì tình yêu mà làm, đó là tỉnh thức. Mẹ Têrêsa thành Calcutta nói: Hãy làm những việc bình thường với Tình Yêu phi thường, đó là sự tỉnh thức tuyệt vời. Tỉnh thức khi nào thì có Chúa hiện hữu khi ấy. Trái lại, không tỉnh thức thì Chúa có cũng như không và một khi người nào đã không có Chúa thì đương nhiên ma quỷ sẽ choán chỗ ở nơi người ấy. Hơn bao giờ hết thời này là thời con người chối bỏ Thiên Chúa một cách dữ dội để chỉ biết lặn hụp trong tội nhưng lại chẳng cho đó là tội. Ca ngợi và biểu dương đồng tính luyến ái, nhìn nhận việc phá thai, cho đó là bảo vệ nhân quyền, chạy theo những giáo phái quái quỷ, những lạc thuyết triết lý hư vô lại cho là khôn ngoan. Trong Giáo Hội thì sự bất tuân, phạm Thánh được khuyến khích cách công khai v.v… và v.v…
    Tất cả những báo biểu đó nói lên điều gì nếu chẳng phải là Ngày Tận Thế đang đến rất gần ? “Nhiều tiên tri giả sẽ dấy lên và lừa dối lắm kẻ. Lại vì cớ sự gian ác ngày càng thêm nhiều nên tình thương yêu của phần đông sẽ nguội dần. Song ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu” ( Mt 24, 11 – 12 ). Bền đỗ đến cùng Chúa nói đây chính là sự tỉnh thức cần có ở nơi mỗi người và sự tỉnh thức ấy là vô cùng cần thiết trong Ngày Chúa đến. Đối với những ai không sống tỉnh thức trong cuộc đời mình thì làm sao có thể tỉnh thức trong Ngày Tận Thế kinh hoàng đến nỗi hồn siêu phách lạc ?
    II. Chờ đợi Chúa ngày quang lâm
    Về ngày quang lâm Chúa đến lần thứ hai là một biến cố trọng đại đã được báo trước bởi các tiên tri và của chính Chúa Giêsu. Thế nhưng chẳng những người đời mà ngay cả người trong đạo cũng không tin lại còn buông lời chế diễu: “Trước hết phải biết rằng trong những ngày sau rốt sẽ có những kẻ hay chế diễu, miệt mài theo tư dục mình nói rằng chớ nào lời hứa về sự hiển hiện của Chúa ở đâu ? Vì từ khi các Tổ Phụ yên giấc đến nay, muôn vật vẫn cứ như lúc khởi đầu cuộc sáng thế” ( 2Pr 3, 3 – 4 ).
    Trong gần hai thế kỷ kể từ sự kiện La Salette ( 1846 ) nhiều lần Đức Mẹ đã hiện ra nơi này nơi khác loan báo về những biến cố lớn lao sẽ xảy đến cho nhân loại và trong tất cả những lần ấy dường như Ngài chỉ nhắc đi nhắc lại cho con cái loài người hãy cố gắng cải tạo đời sống, chăm lo việc cầu nguyện để sửa soạn cho ngày Chúa đến. Đối với những người có lòng tin thì lời khuyên nhủ của Đức Mẹ đã được tích cực thực hiện để rồi lãnh nhận vô vàn ơn ích. Trái lại với những kẻ không tin họ chẳng những thờ ơ mà còn miệt thị cho đó là vô lý, làm gì Đức Mẹ phải khóc lóc đến chảy cả máu mắt ? Làm gì phải hiện ra tại Mễ Du tới mấy ngàn lần ? Hiện nay người ta đang công khai chỉ trích vụ Mễ Du và cho đó chỉ là bịa đặt cho một mưu mô nào đó !
    Không tin và thực hành những lời khuyên răn của Đức Mẹ, con người không có cách chi thoát khỏi con đường lầm lạc do những tiên tri giả dẫn dắt: “Nó đã đến theo sự vận động của Satan, làm đủ thứ quyền năng, dấu kỳ và phép lạ dối gạt. Dùng đủ mọi cách quỷ quyệt bất nghĩa đối với những kẻ hư mất vì họ không nhận lãnh sự yêu mến sự thật để được cứu. Ấy vì cớ đó Đức Chúa Trời đưa đến cho họ sự hoạt động của lẽ lầm lạc để họ tin lời giả dối hầu cho hết thảy những kẻ không tin lẽ thật mà vui về sự bất nghĩa đều bị định tội cả” ( 2Tx 2, 9 – 12 ).
    Cần phải yêu mến sự thật để được cứu thoát. Vậy sự thật ấy là gì, ở đâu nếu không phải là ở trong tâm hồn mình ? Chúa là sự thật và Ngài vốn vẫn ở trong ta từ muôn thuở, đâu có rời xa ta giây phút nào ? Mặc dầu Chúa vốn ở cùng ta nhưng bởi muội mê nên ta nào có hay có biết. Đức Mẹ khuyên dạy cầu nguyện, cải tạo đời sống mục đích là để cho ta có thể nhận biết được Ngài. Có thể trong bao lâu nay chúng ta vẫn có cầu nguyện đấy nhưng là cầu không theo Thánh Ý Chúa cứ để tâm trí dong duổi mãi tận đâu đâu. Có thể rước lễ mỗi ngày nhưng với Chúa vẫn còn như xa lạ… Cả những khi đau khổ và cô đơn nhất Chúa vẫn luôn ở cùng và Ngài hằng mong mỏi ta hãy quay về với Ngài để được yêu mến “Phàm là kẻ Ta yêu mến thì Ta bẻ trách sửa trị. Vậy hãy sốt mến và sám hối ăn năn. Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Nếu ai nghe tiếng Ta mà mở cửa cho thì Ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người và người với Ta. Kẻ đắc thắng Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai Ta như Ta đã đắc thắng và ngồi với Cha Ta trên ngai của Ngài. Ai có tai hãy nghe điều Thánh Linh phán cùng Hội Thánh” ( Kh 3, 19 – 22 ).
    PHÙNG VĂN HÓA, 12.2012
    Mt5:37 Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

  2. #2

    Mặc định

    Chương 2. HÀNH TRÌNH DÂN CHÚA TRONG ĐẠO VIỆT NAM
    bài này hay anh em lên tham khảo
    Phần 1. Giai đoạn công nhận Đạo Việt Nam
    Tin Mừng được các nhà Thừa Sai Tây Phương truyền bá tới Việt Nam. Trong số đó nổi bật hàng đầu phải kể đến Alexandre de Rhodes ( 1591 – 1660 ) là người có công rất lớn biên soạn ra chữ Quốc Ngữ, tức là cách đọc và viết tiếng Việt vô cùng tiện lợi hiện nay.
    Đầu năm 1625, Alexandre de Rhodes cùng với bốn cha Dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản, cập bến Hội An, gần Đà Nẵng. Ngài bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Đắc Lộ. Thầy dạy tiếng Việt cho ngài là một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Ngài ghi lại:
    “Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Châu Âu, thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng Latin và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở thành thày giảng giúp việc các cha truyền giáo trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của thầy và nơi vương quốc Lào láng giềng.
    Khi chúng tôi vừa đến kinh đô Bắc Kỳ, tức khắc nhà vua truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một Nhà Thờ thật đẹp. Dân chúng tuốn đến nghe tôi giảng đạo đông đến nỗi, tôi phải giảng đến 4 hoặc 6 lần trong một ngày. Chị vua và 17 người thân trong gia đình vua xin lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnh và binh sĩ cũng xin theo đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các vị sư đã mau mắn từ bỏ bụt thần để theo đạo Công Giáo. Tất cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho họ hiểu giáo lý đạo Công Giáo rất phù hợp với lý trí và lương tâm con người.
    Các tín hữu Công Giáo Việt Nam có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể xóa đi Đức Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ suốt 15 ngày đường để được xưng tội hoặc tham dự Thánh Lễ. Nhưng phải thành thật mà nói, tôi không thể chu toàn cách tốt đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu không có trợ giúp tuyệt vời của các thầy giảng. Vì nhận thấy mình là Linh Mục duy nhất giữa một cánh đồng truyền đạo bao la, nên tôi chọn trong số các tín hữu, những thanh niên không lập gia đình và có lòng đạo đức sâu xa cũng như có nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, để giúp tôi. Những người này công khai thề hứa sẽ dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa, phục vụ Giáo hội, sẽ không lập gia đình và sẽ vâng lời các cha Thừa Sai đến Việt Nam truyền đạo. Hiện tại có tất cả 100 thầy giảng đang được thụ huấn trong Chủng Viện và được các tín hữu trang trải mọi phí tổn.
    Vào năm 1651, cha Đắc Lộ cho in cuốn Từ Điển Việt-Bồ-La ( Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum ) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những Giáo Sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Ngoài ra một tác phẩm khác cùng tầm quan trọng do Giáo Sĩ Đắc Lộ soạn là cuốn “Phép giảng tám ngày” ( tựa Latinh: Catechismus ). Khác với phần tự điển ghi từ vựng, “Phép giảng tám ngày” là tác phẩm văn xuôi, phản ảnh văn ngữ và ghi lại cách phát âm của tiếng Việt vào thế kỷ 17. ( Nguồn www.vi.wikipedia.org/wiki/Alexandre_de_Rhodes )
    Khi các Giáo Sĩ Dòng Tên vào truyền giáo ở Việt Nam, các ngài cho phép Giáo Dân thờ kính Khổng Tử và các tổ tiên đã qua đời, theo phong tục Việt Nam. Năm 1625, các Thừa Sai ở Hội An nhắn nhủ bổn đạo: “Đạo Đức Chúa Blời buộc mọi người phải tỏ lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ, nên phải thi hành nghi lễ cúng vái, trừ ít điều mê tín dị đoan, như đốt vàng mã, hay khi cúng lại tin là tổ tiên về ăn của cúng”.
    Khi truyền giáo tại Trung Hoa, Dòng Tên cho phép các giáo hữu tại đây được tôn kính Đức Khổng và người qua đời như nghi thức người Hoa quen thi hành đối với tổ tiên và các triết gia của họ.
    Phần 2. Giai đoạn phủ nhận Đạo Việt Nam
    Nhưng chủ trương hội nhập văn hóa bản địa của Dòng Tên mà vào 400 năm trước mang một tầm nhìn vượt hẳn thời đại, dù đã làm cho việc loan báo Tin Mừng vô cùng thuận lợi, lại gặp phải phản ứng gay gắt ngay từ chính… Vatican.
    Năm 1633, Linh Mục Juan Bautista Moralez, Dòng Đa Minh ( OP ) và Linh Mục Antonio de Santa Maria Caballero, Dòng Phanxicô ( OFM ) đến tỉnh Phước Kiến, Trung Hoa dưới triều Đại Minh. Hai vị chứng kiến các nghi lễ tôn kính Khổng Tử nhưng lại kết án là mê tín dị đoan và có phản ứng quyết liệt. Triều đình cho rằng hai vị chống lại phong tục văn hóa trong nước, gây nguy hại cho trật tự xã hội. Vua Minh trục xuất hai vị đó ra khỏi Trung Hoa. Moralez và Caballero về Roma khiếu nại với Toà Thánh.
    Năm 1645, Giáo Hoàng Innocentê X ra tự sắc cấm tuyệt đối các tín hữu Công Giáo thi hành các nghi lễ cúng bái tổ tiên và Khổng Tử.
    Ngày 25.1.1707, Giáo Hoàng Clêmentê XI cử Giám Mục Carlo Tommaso Maillard de Tournon đến Nam Kinh công bố lệnh cấm các Linh Mục làm chủ tế hoặc tham dự lễ tế Khổng Tử hoặc người quá cố và đặt bài vị người chết trong nhà. Ai không tuân theo, sẽ tức khắc bị vạ tuyệt thông.
    Các văn kiện đó, thời xưa Giáo Hội Việt Nam quen gọi là cuộc tranh tụng “lễ phép nước Ngô”, cũng cấm luôn các nước chung quanh, vốn chịu ảnh hưởng ít nhiều văn hóa Trung Hoa, như Mãn Châu, Nhật Bản, và Việt Nam. Roma không chỉ cấm thờ cúng tổ tiên đã khuất mà còn giới hạn hình thức hiếu thảo cả khi cha mẹ đang còn sống. Từ đó, người Công Giáo có sự cách xa với các anh chị em lương dân. ( http://www.dunglac.org/index.php?m=m...=679&ict=10141 )
    Không chỉ dừng lại ở đó mà thôi, vào năm 1773, Giáo Hoàng Clêmentê XIV giải thể luôn Dòng Tên trên toàn thế giới. Các Tu Sĩ Dòng Tên ở Việt Nam cũng cùng chung số phận.
    Mãi đến ngày 7.8.1814, Đức Giáo Hoàng Piô VII mới ra trọng sắc Sollicitudo omnium Ecclesiarum tái lập Dòng Tên trên toàn giới. Phải đợi đến năm 1957, Dòng Tên mới quay trở lại Việt Nam. ( www.dongten.net/noidung/15890 )
    Chính sách đó của Giáo Hội với Dòng Tên và nền văn hóa Á Đông đã làm cho việc Loan Báo Tin Mừng đang đi từ chỗ thuận lợi sang bị chống đối kịch liệt và bị bách hại tàn khốc, gây nên nhiều cuộc tử đạo không đáng có, dẫn tới tình trạng bị ngưng trệ luôn trong một thời gian rất dài cho tới tận hôm nay.
    Phần 3. Tính cực đoan của các tôn giáo Tây Phương
    Ba tôn giáo độc thần Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo, Do Thái Giáo đều phát xuất từ Tây Á nhưng sau đó lại được phát triển mạnh mẽ tại Âu Châu, tuy cùng tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất nhưng lại tự tôn tự đại phủ nhận lẫn nhau, nhất định cho rằng chân lý chỉ có nơi mình và không ngần ngại lao đầu vào những cuộc thánh chiến đẫm máu để tiêu diệt đối phương.
    Giáo Hội Công Giáo đã phát động nhiều cuộc Thập Tự Chinh cũng như đã xử tử nhiều người trên dàn hỏa thiêu vì gán cho họ tội phù thủy hay dị giáo, trong số đó có cả Thánh Nữ Jeanne d’Arc.
    Giáo Hoàng Innocent III ( 1160 – 1216 ) đã ra tự sắc quy định bất kỳ ai có quan điểm cá nhân về Thiên Chúa đi ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội phải bị thiêu sống. Ngài phát động cuộc Thập Tự Chinh thứ 4 chống lại Hồi Giáo và thúc ép Vua Philip II Augustus của Pháp tiến đánh miền Albigense vì họ lỡ sát hại Khâm Sứ Tòa Thánh là Pierre de Castelnau. Sau khi chiến thắng, quân Pháp đã tàn sát luôn 20 ngàn người dân ở Albigense. ( www.en.wikipedia.org/wiki/Pope_Innocent_III )
    Tại Mỹ Châu Latinh thực dân Tây Ban Nha đã thẳng tay giết chóc dân bản địa và dẹp bỏ các nền văn hóa địa phương, ép buộc thổ dân phải theo Công Giáo. Hậu quả là ngày nay đa số dân miền đó đều nói tiếng Tây Ban Nha và là người Công Giáo.
    Cho đến tận nay nhiều người Hồi Giáo vẫn mang não trạng tin rằng đánh bom tự sát để giết bọn vô đạo, tức là những người không theo đạo Hồi sẽ mang lại phần thưởng thiên đàng cao nhất cho họ.
    Não trạng tôn giáo cực đoan này đã lây lan qua cả các ý thức hệ chính trị phát xuất từ Âu Châu. Chủ nghĩa Quốc Xã Đức không ngần ngại thủ tiêu 6 triệu người Do Thái. Chủ nghĩa Mác – Lê đã gây nên cái chết của 100 triệu người.
    Giáo Hội đã phải rất vật vã, đau đớn, khó nhọc, và vô cùng chậm chạp để đọc ra Thiên Chúa không hề bị gò bó trong một con đường duy nhất để đi đến với con người.
    Trong gần 2.000 năm, nhiều Công Đồng và Giáo Hoàng đã tuyên bố chắc như đinh đóng cột rằng: Bên ngoài Giáo Hội Công Giáo không có ơn cứu độ ( Hors de l’Église, pas de salut ).
    Đó là tuyên tín long trọng của Giáo Hoàng Innocent III năm 1208, Boniface VIII năm 1302, Công Đồng FLorence năm 1442, Giáo Hoàng Piô IV năm 1564, và Pô IX năm 1854.
    Mãi cho đến tận thế kỷ 20, năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI tại Công Đồng Vatican II, khai mạc đúng 50 năm trước vào ngày 11.10.2012, mới tuyên xưng: Tất cả các Kitô Hữu ( gồm cả Cải Cách, Anh Giáo, Chính Thống ) đều liên kết với chúng ta trong Thánh Thần bởi vì Thánh Thần cũng ban cho họ những ân huệ và ân sủng cũng như hoạt động nơi họ bằng quyền năng thánh hóa ( Lumen Gentium, số 15 ).
    Công Đồng Vatican II long trọng tuyên xưng rằng 2/3 nhân loại không theo Kitô Giáo cũng vô cùng thân thiết với Thiên Chúa: Vì Chúa Kitô đã chết cho mọi người và vì ơn gọi cuối cùng của con người thực ra là duy nhất, nghĩa là do Thiên Chúa, cho nên ta phải tin chắc rằng Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, theo một cách nào đó chỉ có Chúa biết thôi. ( Gaudium et Spes, số 22, Giáo Hoàng Học Viện ).
    Nếu Giáo Hội toàn cầu đã như thế thì Giáo Hội Việt Nam cũng có rất nhiều giới hạn trong tầm nhìn về những giá trị truyền thống của dân tộc.
    Phần 4. Tính bao dung của Đạo Việt Nam
    Tại Á Đông, trong hàng ngàn năm đã không hề có các cuộc chiến tranh nhân danh tôn giáo nào. Nhân dân theo các tín ngưỡng dân gian rất nhẹ nhàng bao dung, cùng tồn tại hài hòa song song, không có các tổ chức quy củ và các giáo điều tuyệt đối.
    Trích: Tín ngưỡng là hệ thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi được hiểu là tôn giáo. Điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân tộc, dân gian nhiều hơn. Tín ngưỡng không có tổ chức chặt chẽ, không có một hệ thống điều hành và tổ chức như tôn giáo, nếu có thì cũng lẻ tẻ và rời rạc.
    Tôn giáo có hệ thống giáo lý, kinh điển... được truyền thụ qua giảng dạy và học tập ở các Tu Viện, Thánh Đường, học viện... có tổ chức Giáo Hội, hội đoàn chặt chẽ, có nơi thờ cúng, có sự tách biệt giữa siêu nhiên và con người.
    Tín ngưỡng chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, chưa thành quy ước chặt chẽ. ( Hết trích, nguồn: Ngô Đức Thịnh, Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 2001 )
    Giống như Nhật Bản và Hàn Quốc, Việt Nam chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của nền văn hóa Trung Hoa trong đó đời sống tinh thần thiên về tín ngưỡng dân gian phóng khoáng, không mang tính cách tôn giáo với tổ chức quy củ như ở Tây Phương với các giáo điều nặng nề, áp đặt và khắt khe.
    Tại Á Đông người ta có thể đọc sách Thánh Hiền, ngưỡng mộ Khổng Tử, trung với vua, thanh thoát theo kiểu Lão Tử, thoải mái tôn thờ Phật và cúng vái tổ tiên. Đối với họ, tất cả các triết thuyết khác nhau đó không hề mâu thuẫn với nhau mà còn làm cho đời sống tinh thần của họ thêm phong phú.
    Một tôn giáo đặc thù của Việt Nam là Cao Đài tôn thờ chung Phật, Lão, Khổng và cả Chúa Giêsu nữa.
    Phần 5. Một chân dung của Đạo Việt Nam
    Một danh nhân Việt Nam nổi bật đã có thể tổng hợp hài hòa tất cả đặc tính văn hóa Việt Nam, xin tạm gọi là Đạo Việt Nam, là Nho Tướng Công Nguyễn Công Trứ văn võ song toàn ( 1778 – 1859 ).
    Trích:
    Nguyễn Công Trứ hiểu sâu sắc về thế thái nhân tình.
    Tiền tài hai chữ son khuyên ngược
    Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi
    Ra trường danh lợi vinh liền nhục
    Ông thường tự diễu cợt chính mình.
    Nào nào ! Thằng nào sợ thằng nào
    Đã sa xuống thấp lại lên cao.
    Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Ngất ngưởng, ngông nghênh, về hưu đi chơi ông không dùng ngựa mà dùng bò. 73 tuổi ông còn cưới thêm một nàng hầu, trả lời cô dâu khi nàng hỏi ông bao nhiêu tuổi: “Năm mươi năm trước, anh hai ba”.
    Khi chua chát nhìn lại đời mình, ông vẫn là người đầy khí phách:
    Kiếp sau xin chớ làm người
    Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
    Giữa trời vách đá cheo leo
    Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
    ( Cây thông trong cách hiểu Nho Giáo là người quân tử )
    Đời ông đầy giai thoại, giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, bản lĩnh trí tuệ và mang tính bình dân sâu sắc. Có thể nói thơ ông sinh động, giàu triết lý nhân văn nhưng hóm hỉnh, đó là chất thơ có được từ đời sống, lấy đời sống làm cốt lõi. Đối với ông sống trên đời không gì quan trọng bằng để lại một cái danh.
    Làm trai đứng ở trong trời đất
    Phải có danh gì với núi sông.
    ( http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Công_Trứ )
    Năm Kỷ Mão ( 1819 ), khi đã ngoài bốn mươi tuổi, Nguyễn Công Trứ mới thi đậu Giải Nguyên và được bổ đi làm quan. Điều đó cũng có nghĩa qua suốt bốn chục năm sống ở quê nhà, ông đã nghiệm sinh sâu sắc đời sống thôn dã, hấp thụ đầy đủ truyền thống văn hoá, bản chất và cốt cách người dân đất cổ Giang Đình.
    Vốn là nhà nho – một nhà nho hành đạo điển hình – nói chung, Nguyễn Công Trứ không mặn mà với giáo lý và tư tưởng Phật Giáo. Những cảm nhận của ông về Phật Giáo nằm trong qui luật “dĩ Nho nhập Thích” ( đi từ Nho Giáo đến Phật Giáo. Phật Giáo coi mình là đích đến của Nho Giáo ).
    Trước sau Nguyễn Công Trứ vẫn trung thành với lý tưởng Nho giáo, với khuôn thước và vốn tri thức của cửa Khổng sân Trình:
    Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung ( Bài ca ngất ngưởng )
    Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ ( Nợ nam nhi )
    Nhưng tư tưởng Phật Giáo luôn bàng bạc nơi ông.
    Thôi cũng muốn Nam vô Di đà Phật,
    Trót dở đem thân thế hẹn tang bồng. ( Nhàn nhân với quý nhân )
    Khi hỷ nộ, khi ai lạc, khi ái ố, lúc sầu bi,
    Chứa chi lắm một bầu nhân dục...( Chữ nhàn )
    Có khi ông lại trở nên rất phóng khoáng theo kiểu Lão Tử.
    Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
    Không Phật, không Tiên, không vướng tục. ( Bài ca ngất ngưởng )
    Phật thì chủ trương xuất thế ( tu hành ) để diệt dục, lấy khổ hạnh và trầm tư mặc tưởng làm phương tiện. Lão thì chủ trương phóng nhiệm để phiêu dật trong cõi thiên nhiên, lấy nhàn tản vô vi làm kế hoạch. Cái chỗ mà Phật và Lão giống nhau là cả hai đều nhìn ra cái phù phiếm của đời người ( nhân sinh hư ảo ).
    ( http://vuonhoaphatgiao.com/van-hoa/v...phat-giao.html )
    Nhưng đặc điểm nổi bật nhất nơi sự nghiệp Nguyễn Công Trứ, khiến ông chói sáng nơi lòng biết ơn của nhân dân muôn đời sau chính là biết chăm lo cho đời sống của dân nghèo. Lòng nhân ái rất đặc biệt này của ông vượt lên trên đòi hỏi bình thường của đạo vua tôi, của Phật Lão Khổng.
    Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Đình Chiểu… làm thơ. Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Huệ… chống ngoại xâm. Nguyễn Công Trứ có tất cả các phẩm chất đó, thơ văn của ông không hề thua kém các văn hào thi bá, tài đánh giặc Phan Bá Vành và Nông Văn Vân đã mang về cho ông chức Uy Viễn Tướng Công Binh Bộ Thượng Thư. Khi qua đời ông được chính vua ban cho lời ai điếu TẢ HỮU – NGHI VĂN – NGHI VÕ – TỬ SINH – DANH TƯỚNG – DANH THẦN.
    Nếu không có Nguyễn Công Trứ thì đã có thể đã không có hai Giáo Phận rường cột của Giáo Hội Việt Nam là Phát Diệm và Thái Bình.
    Trích: Phát Diệm có nghĩa là phát sinh ra cái đẹp, phát triển và thịnh vượng. Địa danh Phát Diệm do chính Nguyễn Công Trứ đặt ra. Cách đây gần 200 năm về trước, Phát Diệm chỉ là một cánh đồng bát ngát, mênh mông, chỉ có bùn lầy và cỏ sậy tràn ngập dưới những làn sóng lênh láng. Con đê Hồng Đức, con đường cái quan chạy suốt từ Quảng Phúc qua Phúc Nhạc rồi đổ ra bể… hiện còn đứng vững để minh chứng đường ranh giới phân chia đất và nước của thời xưa. Và rồi Tạo Hoá đã làm việc rất nhiều. Người ta tính các chi nhánh sông Hồng Hà bồi thêm cho miền Trung châu Bắc Việt cứ trung bình mỗi năm được 100 thước trên một diện tích dài 25km chạy ra bể. Như thế, cứ sau 10 năm bờ bể Bắc Việt Nam lợi thêm một cây số: cùng chung một đà tiến đó, sau 100 năm Phát Diệm đã chiếm thêm 10 cây số chạy ra bể.
    Giải đất này, thẳng cánh cò bay, dưới đời Minh Mạng ( 1826 – 1840 ) đã được Nguyễn Công Trứ đem hết công lao khai thác và tổ chức. Năm 1828, với tư cách Dinh điền sứ, Nguyễn Công Trứ dâng sớ, xin triều đình cho lập huyện Tiền Hải ( Thái Bình ). Năm 1829, tức Minh Mạng năm 20, cụ lại dâng sớ xin nhà vua cho phép khai khẩn doanh điền tỉnh Ninh Bình, tức thành lập huyện Kim Sơn. Là nhà nho uyên bác, Nguyễn Công Trứ đã đặt cho hai huyện Tiền Hải ( bể tiền ) và Kim Sơn ( núi vàng ) những danh xưng tuyệt đẹp, nhiều ý nghĩa và muôn đời còn ghi nhớ tính cách thanh bình, hiền hoà của hai cuộc kinh doanh xã hội kỳ diệu trong lịch sử miền Trung châu Bắc Việt. Riêng trong huyện Kim Sơn, chính cụ là người đã cao kiến phân chia lãnh thổ, điền địa, đặt tên cho các thôn, xã, đã cho đào những con sông ngang dọc làm máng chuyên chở, tiện lợi và mang lại phì nhiêu cho 14.600 mẫu đất của cả một miền tân lập.
    Nói cho chí lý, sự nghiệp khai nguyên của Nguyễn Công Trứ về sau này vẫn được cha Trần Lục tiếp tục và hoàn bị. Cả hai vĩ nhân này ra chào đời không xa nhau. Cuộc đời cha Trần Lục, còn gọi là Cha Lớn Khâm ( 1825 – 1899 ) đến sau cụ Dinh Điền Sứ ( 1778 – 1858 ). Năm 1829, cụ Nguyễn Công Trứ khởi công lập huyện Kim Sơn, thì cha Trần Lục mới ra đời được 4 năm. Năm 1873 cha đã ra tay chuẩn bị vật liệu, để xây cất quần thể Thánh Đường Phát Diệm. Cha Lớn Khâm đã đứng lên chiêu mộ dân cư về ở, đã chiến đấu lấy lại những khoản công tư điền thổ cho dân chúng, đã khởi công cho đào con sông Ân giang chạy ngang địa hạt Kim Sơn, suốt từ Điền Hộ cho tới Như Sơn, lấy đất đắp thành con đường 10 ngày nay. Lập trường của cha, chính sách của cha rất thực tế: có thực mới vực được đạo. Làm cho công cuộc Tông Đồ đi đôi với những khả năng kinh tế, xã hội của người dân, bất cứ lương hay giáo !
    ( http://www.phatdiem.org/Portal/Deskt...=11&Culture=vi – VN&catID=170 )
    Trích: Đền thờ Nguyễn Công Trứ được xây dựng tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. Tiền thân của ngôi đền là ngôi nhà ba gian của Nguyễn Công Trứ làm tại ấp Lạc Thiện để ông đi về và làm việc tại đây. Năm 1852, nhân dân Kim Sơn xây dựng lại thành ngôi Sinh Từ ( Đền thờ sống ), thờ ông ngay lúc ông còn sống. Hàng năm, đến ngày sinh nhật của Nguyễn Công Trứ, nhân dân mở hội mừng thọ ông. Sau khi ông mất, năm 1882, ngôi đền được tu sửa lần thứ nhất và xây dựng tiền đường 5 gian và được đổi tên từ Sinh Từ thành Truy Tư Từ. Năm 1992, đền thờ Nguyễn Công Trứ được công nhận là Di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.
    Huyện Kim Sơn được ghi vào bản đồ Việt Nam từ năm 1829. Việc quai đê ở Kim Sơn được tiến hành trên diện tích đất sình lầy ven biển, ngập mặn với muôn vàn khó khăn và huy động nhiều nhân lực. Sau hơn 1 năm, việc quai đê thành công, huyện Kim Sơn được thành lập với 7 tổng, 63 làng, ấp, giáp, trại. Cùng với việc lập làng, Nguyễn Công Trứ cho tiến hành xây dựng các công trình thuỷ lợi.
    ( http://vi.wikipedia.org/wiki/Lễ_hội_đền_Nguyễn_Công_Trứ )
    Chương 3. TIN MỪNG VÀ ĐẠO VIỆT NAM
    Phần 1. Phải nhìn ra Chúa Giêsu yêu mến Đạo Việt Nam
    Cuộc đời của Chúa Giêsu phải trở nên gương mẫu tuyệt đối cho người tin. Đối với Chúa Giêsu, tất cả trần gian đều là một món quà mà Chúa Cha đã ban cho Người. “Tất cả những gì của con đều là của Cha, tất cả những gì của Cha đều là của con” ( Ga 17, 10 ). Người đã đón nhận và tuân thủ nhiệt thành Do Thái Giáo vì đó chính là thế gian mà Thiên Chúa, Cha của Người đã tạo thành, dẫn dắt qua dòng thời gian và ban cho Người. Nơi thế gian đó Chúa Giêsu được tôn vinh.
    “Và Con được tôn vinh nơi họ” ( Ga 17, 10 )
    Không có lý do gì để cho rằng Thiên Chúa thương yêu dân Do Thái hơn dân Việt Nam. Nếu dân tộc Do Thái có Đạo Do Thái thì dân tộc Việt Nam cũng có Đạo Việt Nam. Ta có cái không hay như đàn ông thường lấy nhiều vợ, nhưng ta có cái hay hơn như thường chỉ kết án người tội lỗi bằng dư luận chê cười chứ không bao giờ đi ném đá ai cho đến chết.
    “Trăm năm bia đá thì mòn
    Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
    Tại sao Tin Mừng đề cập quá nhiều những chi tiết tuân thủ chi li Lề Luật Do Thái của Chúa Giêsu ? Có những cái chẳng có ý nghĩa gì cả đối với chúng ta ngày nay như dâng của lễ là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non ( x. Lc 2, 24 ).
    Đối chiếu Cựu Ước với truyền thống Việt Nam, đặc biệt là các sách Giảng Viên, Châm Ngôn, nhất là sách Huấn Ca với Gia Huấn Ca của Việt Nam, ta thấy ngay có rất nhiều điều tương đồng giữa Đạo Do Thái và Đạo Việt Nam. Không thể lý giải được sự trùng hợp kỳ lạ tuyệt vời này nếu không tin rằng chỉ có một Chúa Thánh Thần đã hướng dẫn cả hai dân tộc.
    “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,
    Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.
    Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái,
    Khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.
    Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ,
    Ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng.”
    ( Huấn Ca 4,3 – 6 )
    Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
    Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
    Ra vào thăm hỏi từng khi,
    Người đà vô sự, ta thì an tâm.
    Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
    Kiệm hay phong cũng liệu tùy ngơi,
    Đừng điều tranh cạnh chia bai,
    Xấu trong làng nước, để cười mai sau.
    ( Gia Huấn Ca, Nguyễn Trãi, câu 114 – 120 )
    Học hỏi nơi hành trình trần gian của Chúa Giêsu bắt buộc ta phải đi đến chỗ thâm tín dân tộc và Đạo Việt Nam, trong tất cả nội dung hay và không hay của chúng ta, cũng là do Thiên Chúa tạo thành và dẫn dắt qua dòng lịch sử 4.000 năm. Nơi dân tộc ta và Đạo của ta Chúa Giêsu cũng sẽ phải được tôn vinh. Nói một cách khác, nếu Chúa Giêsu đã giáng sinh làm một người Việt Nam thì chắc chắn rằng Người sẽ đón nhận đất nước và con người Việt Nam như Người đã đón nhận quốc gia và dân tộc Do Thái. Người sẽ luôn là một người tuân giữ nhiệt thành và rao giảng Đạo Việt Nam. Người sẽ rất am tường và trân trọng Đạo Việt Nam. Trên môi miệng Người thay vì nói ra “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...” Người sẽ ngâm nga:
    “Vá may giữ nếp đàn bà,
    Mũi kim nhỏ nhặt mới là nữ công.
    Thủa tại gia phải tòng phụ giáo
    Khi lấy chồng giữ đạo chính chuyên
    Lại là hiếu với tổ tiên,
    Những ngày giỗ tết không nên vắng nhà.”
    ( Gia huấn ca, Nguyễn Trãi )
    Người sẽ kiện toàn Đạo Việt Nam như Người đã kiện toàn Do Thái Giáo. Bởi thế Chúa Giêsu vẫn nói rằng: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...”
    Anh em thường nghe nói rằng: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi ? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao ? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu ? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao ? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên Trời là Đấng hoàn thiện. ( x. Mt 5,46 – 48 )
    Chúa Giêsu vẫn sẽ gây nên nhiều xáo trộn nơi các lề xưa thói cũ của ta. “Tại gia tòng phụ. Xuất giá tòng phu. Phu tử tòng tử. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà. ( Mt 10, 34 – 36 ).
    Mâu thuẫn sẽ lên tới tột đỉnh khi Chúa Giêsu nói rằng Người có trước Lạc Long Quân và bà Âu Cơ, rằng Đức Thánh Trần, Lê Lợi, Quang Trung phải vui mừng khi thấy Ngày của Người. Người là Đấng mà Phật, Lão, Khổng và tất cả tổ tiên Việt Nam phải thờ phượng.
    Chắc chắn rằng chúng ta chẳng có tốt lành gì hơn người Do Thái đâu. Sớm muộn gì chúng ta cũng mang Người ra lăng trì vì đó là hậu quả tất yếu khi bóng tối xung đột với ánh sáng. ( Lăng trì còn gọi là tùng xẻo hay xử bá đao, là một trong những hình phạt tàn khốc và dã man. Phạm nhân sẽ vô cùng đau đớn vì không được chết nhanh chóng, có trường hợp xẻo tróc nửa phần thịt trên cơ thể mà phạm nhân vẫn còn giãy dụa gào thét ).
    Nhưng chúng ta vẫn phải mang lấy tâm tình của Chúa Giêsu mà sống với dân tộc và đất nước ta. Đó chính là gia sản, là Nhà Cha mà Chúa Cha đã ban cho Người và cho chúng ta. Với con người và đất nước Việt Nam, Chúa Giêsu và chúng ta đều phải cũng mang lòng “Nhiệt tâm đối với Nhà Cha ta bùng cháy nơi tim ta như một ngọn lửa” ( x. Ga 2, 17 ). ( Tôi thích cách dịch này của Vũ Đình Lưu trong Anh Em Nhà Karamazov, tác giả Dostoievski, Nhà xuất bản Nguồn Sáng, 1972 ).
    Điều quan trọng nhất chúng ta phải học hỏi từ hành trình của Chúa Giêsu trong Đạo Do Thái là Người muốn chúng ta chấp nhận trọn vẹn thân phận một người Việt Nam với tất cả di sản văn hóa và tinh thần mà cha ông ta để lại. Chúng ta phải Loan Báo Tin Mừng của Chúa Giêsu như một người Việt Nam theo Đạo Việt Nam.
    Phần 2. Giáo Hội Việt Nam chưa trân trọng Đạo Việt Nam
    Công tâm nhìn nhận, công lao của Nguyễn Công Trứ đối với Công Giáo còn to lớn hơn gấp bội đối với Phật Giáo. Ông chỉ có xây lên một ngôi chùa và viết một số câu thơ vịnh Phật trong khi xây dựng nên hẳn hai vùng dân cư Công Giáo xầm uất có hai Giáo Phận lớn là Phát Diệm và Thái Bình.
    Trong khi Công Giáo hoàn toàn thờ ơ với Nguyễn Công Trứ thì Phật Giáo có vô số bài giảng pháp vận dụng đến tư tưởng và sự nghiệp của ông. Với một nhà nho hành đạo ngang tàng như Nguyễn Công Trứ, chỉ nội một việc hồi thú, hồi đầu, hồi hướng “đáo bỉ ngạn” cũng chứng tỏ sức hấp dẫn của tư tưởng Phật Giáo.
    http://www.daophatngaynay.com/vn/van...Phat-giao.html
    Đây chính hình mẫu con người tài cao, đạt tới độ thấu suốt lẽ đời, đạt tới diệu đạo đại ẩn, dấn thân nhập cuộc với chốn quan trường, thị thành, danh lợi mà vẫn gián cách, vượt lên, đứng trên mọi chốn quan trường, thị thành, danh lợi… Hơn nữa, Nguyễn Công Trứ cũng có phần đồng cảm với cách nhìn của Phật Giáo về thời gian đời người vốn đong đầy bất trắc, mong manh và hữu hạn.
    http://www.giacngo.vn/PrintView.aspx...e=vi&ID=5EF453
    Nguyễn Công Trứ khẳng định, dù bị hiểu lầm, dù bị đàn áp, nhưng Phật Giáo không bao giờ bị tiêu diệt, giềng mối của Đạo ( đạo thống ) vẫn được mọi người dân ở nhiều quốc độ noi theo và gìn giữ ( công cứ ). Vì thuận thiên lý và hợp nhân tâm, trong quá trình phát triển và hội nhập, từ Tây sang Đông, Phật Giáo đã đi như một dòng sông luôn luôn thích ứng với mọi điều kiện địa lý và thổ nhưỡng để tiếp nhận vào lòng nó tất cả cảnh vật ở hai bên bờ. Đến nước ta, Phật Giáo phát triển và chung sống thân ái hoà đồng với Nho Giáo để đáp ứng nhu cầu đời sống tâm linh của người Việt và đồng thời tạo nên sức mạnh tinh thần cho dân tộc Việt:
    Bạng y thiên lý hành tương khứ
    Đô tự nhân tâm tố xuất lai.
    Đạo dựa theo lẽ trời mà ra
    Do từ lòng người mà phát
    Tôi nghĩ rằng Nguyễn Công Trứ có thể ví như một vị Tiền Hô của Giáo Hội Việt Nam. Đền thờ cấp quốc gia của ông tọa lạc ở xã Quang Thiện, Ninh Bình, là nơi có mật độ Công Giáo cao nhất nước. Ở Quang Thiện chúng ta có Giáo Xứ Ứng Luật. Gần đó là có Giáo Xứ Hòa Lạc, đều là những Giáo Xứ lâu đời nhất ở Việt Nam, sản sinh ra rất nhiều vị mục tử danh tiếng. Không bao xa còn có Phúc Nhạc là quê của Thánh Nữ duy nhất của Giáo Hội Việt Nam, Anê Lê Thị Thành ( Bà Thánh Đê ).
    Trong dịp Tết Nhâm Thìn 2012, cán bộ lớn của Nhà Nước đã về thắp hương đền thờ Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn, như một lần nữa ghi nhận công ơn đối với người có công mở nước.
    Tại sao Giáo Hội Việt Nam lại thờ ơ với Nguyễn Công Trứ. Tại sao mỗi dịp giỗ ông, các vị mục tử và Giáo Dân không thể trở thành những người Việt Nam bình thường đến thắp nhang để tri ân vị khai quốc công thần có công lao vô cùng to lớn với nhân dân và Giáo Hội như vậy ? Chúng ta có khác gì 9 người phong được Chúa Giêsu chữa lành nhưng đã bỏ đi luôn mà không hề biết quay lại để nói lên lời cám ơn Người. Có lẽ vì ông không phải là người Công Giáo chăng ? Giá mà ông đã theo Công Giáo như các danh nhân Nguyễn Trường Tộ hay Trương Vĩnh Ký và có tên Thánh là Đaminh như một số khá đông Giáo Dân Phát Diệm thì hay biết mấy. Nếu thế thì có thể chúng ta đã tiến hành vận động phong Thánh cho ông chăng ?
    Gioan Tiền Hô chỉ làm Phép Rửa cho Chúa Giêsu, chứ ngài có bao giờ chịu Phép Rửa của Chúa Giêsu để trở thành một người Công Giáo chính cống đâu. Thế mà ngài vẫn là một vị Đại Thánh của Giáo Hội. Vị Hồng Y duy nhất của Giáo Hội Việt Nam hiện nay có tên Thánh là Gioan Baotixita.
    So với cha Trần Lục xây dựng nên Nhà Thờ Đá Phát Diệm thì công lao lập nên cả hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải của Nguyễn Công Trứ phải to lớn hơn và đáng được ta ngưỡng mộ cùng với chí khí và văn tài của ông.
    Tại sao chúng ta không thể trở thành một người Việt Nam bình thường theo Đạo Việt Nam để hòa mình với dòng chảy của dân tộc như Chúa Giêsu đã hoàn toàn sống trong Đạo Do Thái với lòng kính trọng các Tổ Phụ cùng Ngôn Sứ ?
    Nguyễn Công Trứ chỉ là một thí dụ cho thấy cái chọn lựa tự mình đứng bên lề dân tộc rất kỳ lạ và không thể hiểu nổi của chúng ta.
    Chúng ta không đào luyện những người rao giảng Tin Mừng có khả năng hòa mình trong suối nguồn văn hóa dân tộc như thông thạo Hán Nôm, có thể ngâm thơ, hát quan họ, ca cải lương, chơi đàn kìm, nhất là có lối diễn tả theo cách Việt Nam cho người Việt Nam hiểu được. Các giáo sĩ của chúng ta thường hãnh diện vì thông thạo các ngôn ngữ Tây Phương, am tường văn học, Triết Học, Thần Học, âm nhạc, hội họa Tây Phương, nhưng nhiều vị lại giảng thuyết rất cao siêu khó hiểu, chỉ vì nặng về lý luận Tây Phương, y như các luật sư tranh biện ngoài tòa án, nhiều phen người nghe có cảm giác như đang mắng nhiếc họ.
    Cho đến bao giờ chúng ta mới biết trân trọng đúng mức Đạo Việt Nam ?
    NGUYỄN TRUNG, 12.2012
    Last edited by vohinh69; 10-12-2012 at 06:54 PM.
    Mt5:37 Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

  3. #3

    Mặc định

    Đang chuẩn bị vali , tiền bạc , ....còn tiền ngần hàng thì đang yêu cầu họ đổi đôla thiên đàng !
    Còn giá vé máy bay đang mua , đông dễ sợ !
    May là phone lên đặt phòng ở hotel trên đó , nghe nói phòng zhu đặt là phòng cuối cùng rồi . Hình như cái hotel nằm cạnh trụ sở tuần tra thiên đàng nên an ninh 100%

  4. #4

    Mặc định

    Chọn… sai
    *

    Người ta thường ví đời sống con người như một cuộc hành trình. Bước chân vào đời đồng nghĩa với việc bắt đầu một chuyến đi. “Thời gian thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi chẳng chờ đợi ai”. Con người đôi khi muốn “dừng lại” một p
    hút trong đời cũng khó! Chả thế mà có nhà thơ nọ đã phải thốt lên:

    “Học đi – học chỉ một năm

    Học dừng – học đến rụng răng chưa thành.” (NVT)

    Nhưng ĐI cũng có nhiều cách, nhiều kiểu; đó là chưa kể mỗi người có một cái đích khác nhau để đi tới. Có những cái đích thật rõ nét thể hiện qua tác phong và nếp sống của người chọn nó, nhưng cũng có những cái đích mơ hồ kiểu “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Có lẽ không mấy ai trong chúng ta là không biết đến lối đi “lập thành tích” đã góp phần hình thành mấy câu thơ dân gian:

    “Thi đua ta quyết thi đua

    Thi đua là phải tiến lên hàng đầu

    Hàng đầu rồi tiến đi đâu?

    Đi đâu không biết – hàng đầu cứ đi!…”

    Hễ nói tới đi tất nhiên phải nói đến con đường như một hệ quả tất yếu. “Đường đi, nước bước” còn ám chỉ sự am hiểu trong cuộc sống. Tất nhiên, không ai muốn đường đời của mình gập ghềnh, khúc khuỷu… Chúa lại càng không muốn điều đó!

    * Con đường của Adam – Eva lẽ ra đã phẳng như gương, êm như nhung và rắc đầy hoa hồng; nhưng Adam – Eva đã chọn… sai!

    * Con đường Sinai của dân Do thái xưa lẽ ra chỉ cần một tháng với lương thực sung mãn, nhưng dân Do thái đã chọn… sai!

    * Con đường chiếm hữu Thiên Đàng của tên trộm bên tả Chúa Giêsu lẽ ra cũng đơn giản và dễ dàng như của tên trộm bên hữu, nhưng hắn đã chọn… sai!

    Như vậy, chúng ta đang đối diện với một nghịch lý: Chúng ta muốn đường đời của mình bằng phẳng nhưng cũng chính chúng ta là tác nhân tạo nên những gồ ghề, quanh co trên đường đời của chúng ta. Những nhà làm dự án cũng muốn phóng những con đường thẳng tắp thênh thang, thế mà, chỉ vì con đường dự án đụng phải nhà một xếp lớn nên đành uốn cong một chút để trở thành… “con đường dự ớn”! Hoá ra, chuyện “uốn cong” không phải hiếm hoi gì trong xã hội loài người; trái lại, còn rất phổ biến là đàng khác:

    * Buôn bán thì… bẻ móc, vặn cân!

    * Viết báo thì… bẻ cong ngòi bút!

    * Xét, xử án thì… uốn cong luật pháp!

    * Bon chen đường hoạn lộ thì… uốn gối cong lưng!

    * Tranh giành quyền lợi thì… uốn cong sự thật!

    * …

    Cái vòng danh lợi cong cong

    Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào. (Ca dao)

    Đường đời cong queo xuất phát từ tâm hồn cong queo! Những chuyện đó chắc chắn không phải mới mẻ gì. Không phải là chuyện của vài chục năm hay trăm năm, mà là chuyện của nhiều ngàn năm. Gioan Tiền Hô không phải là Bộ trưởng Công chánh đi kêu gọi dân chúng sửa chữa đường sá, cầu cống cho xứ Giuđêa. Ông kêu gọi mọi người sửa chữa những cong queo trong tâm hồn. Nhưng tiếc thay, ông vẫn là “tiếng kêu trong hoang địa”. Tiếng kêu trong hoang địa chỉ vang vọng trong tiêu sơ, cô tịch. Không hề có chút “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”! Chả thế mà đến hơn hai ngàn năm sau tâm hồn con người vẫn cong queo, không duỗi thẳng ra được.

    “Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” (Lc 3,6b).

    Tâm hồn cong queo khiến thị giác bị khúc xạ. Ơn Cứu Độ vẫn có đó nhưng tôi nào thấy. Tôi chê nhiều người cố chấp, đến nay vẫn còn chờ đợi Đấng Messia; vậy mà tôi cũng không hề có Đấng Messia trong tâm khảm. Tôi còn mãi lo tự cứu mình giữa bao nhiêu hỗn độn của thế lực trần gian. Tôi chọn cách khôn ngoan của thế gian hơn là khôn ngoan của Sự Sáng. Tôi cũng dùng mưu ma chước quỷ để đối phó với mưu ma chước quỷ. Tôi loay hoay “dĩ độc trị độc”, tôi nhọc nhằn vất vả vượt qua những quanh co, gập ghềnh của đường đời bằng chính sức mình. Chinh phục được một đoạn, tôi nghênh mặt tự hào. Trượt dài lao xuống hố, tôi chán nản tuyệt vọng. Tôi không hề thấy có một Đấng luôn đồng hành cùng tôi, sẵn sàng chìa tay ra bất cứ lúc nào tôi cần tới. Tôi quên mất rằng: “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan” (Tv 125). Những thiệt thòi do từ chối khôn ngoan thế gian sẽ được đền bù gấp trăm ngàn lần. Tôi sẽ có một con đường bằng phẳng để đi: Con đường của cậy trông và phó thác. Con đường của bình an và ân sủng. Con đường của khiêm nhượng và vị tha. Con đường của vui mừng và hy vọng.

    Tôi cũng có một Ơn Cứu Độ để thừa hưởng nhưng tôi đã chọn… sai!

    Bây giờ tôi mới hiểu tại sao các Vị Tử Đạo đi ra pháp trường mà mắt nhìn trời, miệng hát vang và cười tươi vui vẻ. Bây giờ tôi mới hiểu tại sao Mẹ Têrêxa Calcutta đi chân đất mà sẵn sàng bán chiếc xe do Đức Thánh Cha ban tặng để lo cho người nghèo… Bởi vì họ đi trên những con đường bằng phẳng thẳng thớm nên không e ngại điều gì hoặc cần bất cứ phương tiện nào hỗ trợ. Cứ gọi là: nhắm mắt đưa chân cũng đến nơi!

    Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con đủ Đức Tin để nhận ra Chúa luôn đồng hành với chúng con trên vạn nẻo đường đời. Nhờ đó, chúng con biết vịn vào Chúa trong mọi sự và định hướng đúng đắn cho cuộc sống của chúng con. Đường đời của chúng con sẽ không còn gập ghềnh khúc khuỷu bởi kiêu căng, ganh tỵ hay mưu mô, lừa lọc… Và chúng con sẽ được chiêm ngưỡng Ơn Cứu Độ mà Chúa đã dành sẵn cho chúng con trong ngày sau hết. Amen.

    Pio X Lê Hồng Bảo

    *Bài lấy từ daobinh.com
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  5. #5

    Mặc định

    NGÀY 21.12.2012 KHÔNG PHẢI NGÀY TẬN THẾ....
    NHIỀU NGƯỜI XEM BỘ PHIM 2012 ĐÂM RA SỢ HÃI NGÀY NÀY , QUA BỘ PHIM TA THẤY NHỮNG CẢNH TẬN DIỆT MÀ NHÂN LOẠI CHỈ CÒN SỐNG SÓT VÀI TRIỆU NGƯỜI , NHIÈU LỤC ĐỊA BIẾN MẤT... THỰC RA SỨC PHÁ HỦY TÀN KHỐC NHƯ THẾ LÀ RẤT HIẾM CÓ
    CÒN RẤT NHIỀU LỜI TIÊN TRI CHƯA ỨNG NÊN CHƯA THỂ NÓI 21.12.2012 LÀ NGÀY CUỐI CÙNG CỦA NHÂN LOẠI ĐƯỢC VÌ TRƯỚC KHI NGÀY ĐÓ TỚI CÒN CÓ KIẾP NẠN 3 NĂM 7 THÁNGTRẬN CHIẾN HA-MA-GHÊ-ĐÔN NỮA VẢ LẠI CHÍNH CHÚA JESU CŨNG NÓI NGÀY ĐÓ TỚI THÌ CHỈ MÌNH CHÚA CHA BIẾT MÀ THÔI LÀM GÌ MÀ PHỔ THÔNG AI CŨNG RÕ CHÍNH XÁC NGÀY GIỜ VẬY....
    TUY NHIÊN NGÀY 21.12.2012 CÓ THỂ CÓ 1 CÁI GÌ ĐÓ RẤT RẤT ĐẶC BIỆT ẢNH HƯỞNG TỚI TÂM THỨC HÀNG TRIỆU TRIỆU NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT.... NÓ GIỐNG NHƯ PHÁT SÚNG BÁO HIỆU SẮP BƯỚC VÀO CƠN ĐẠI NẠN CỦA NHỮNG NGÀY VỀ SAU...

  6. #6

    Mặc định

    Topic này cũng là chuẩn bị Chúa đến cho lễ Giáng sinh 2012 thôi thaiduong :)

    Không biết có vị thánh gì quên mất tên tôi nhớ đại ý thế này.

    Hồi còn nhỏ khi người cha hỏi các anh em là nếu ngày mai tận thế thì các con sẽ làm gì.

    Người thì nói là sẽ đi xưng tội để chuẩn bị mai chết.

    Người thì nói sẽ vào nhà thờ cầu nguyện với Chúa.

    Còn cậu bé về sau trở thành Thánh đó đang chơi banh thì nói "Mai con vẫn chơi đá banh".

    Nên nếu mai Chúa đến và tận thế thật, chúng ta phải vui mới đúng :D
    Tôi là môn đồ Ấn giáo. Tôi cũng là một tín đồ Thiên chúa giáo, một tín đồ Hồi giáo, một Phật tử và một môn đồ Do Thái. (Mahatma Gandhi)

  7. #7

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi minhthai Xem Bài Gởi
    Topic này cũng là chuẩn bị Chúa đến cho lễ Giáng sinh 2012 thôi thaiduong :)

    Không biết có vị thánh gì quên mất tên tôi nhớ đại ý thế này.

    Hồi còn nhỏ khi người cha hỏi các anh em là nếu ngày mai tận thế thì các con sẽ làm gì.

    Người thì nói là sẽ đi xưng tội để chuẩn bị mai chết.

    Người thì nói sẽ vào nhà thờ cầu nguyện với Chúa.

    Còn cậu bé về sau trở thành Thánh đó đang chơi banh thì nói "Mai con vẫn chơi đá banh".

    Nên nếu mai Chúa đến và tận thế thật, chúng ta phải vui mới đúng :D
    đúng đấy ta hãy sống tốt như là ngày mai ta sẽ đi về nhà chúa.thì không phải no lắng chi cả,cứ vuy tươi chúa cũng muốn thế mà.:)
    Mt5:37 Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

  8. #8

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi zhugeliang140 Xem Bài Gởi
    Đang chuẩn bị vali , tiền bạc , ....còn tiền ngần hàng thì đang yêu cầu họ đổi đôla thiên đàng !
    Còn giá vé máy bay đang mua , đông dễ sợ !
    May là phone lên đặt phòng ở hotel trên đó , nghe nói phòng zhu đặt là phòng cuối cùng rồi . Hình như cái hotel nằm cạnh trụ sở tuần tra thiên đàng nên an ninh 100%
    thế hả,hihihi:money_eyes:nhưng mà cẩn thận kẻo mua phải chuyến tàu chui xuống thì thì khỏng ai cứu được đâu.:rolling_on_the_floo:big_grin:
    Mt5:37 Hễ "có" thì phải nói "có", "không" thì phải nói "không". Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Thần học về Chúa Thánh Thần
    By minhthai in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 17
    Bài mới gởi: 22-08-2014, 09:56 AM
  2. Hãy nên như trẻ nhỏ.
    By minhthai in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 29
    Bài mới gởi: 06-04-2012, 01:38 AM
  3. KHOA HỌC VÀ ĐỨC TIN
    By satyaa in forum Đạo Thiên Chúa
    Trả lời: 61
    Bài mới gởi: 01-04-2012, 09:35 PM
  4. ĐIỀM BÁO TRƯỚC
    By Đặng Minh Tiến in forum Tử Bình, Tướng, Số, Khác...
    Trả lời: 7
    Bài mới gởi: 24-11-2011, 12:44 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •