Con đường đi đến niết bàn



Chỉ dẩn một con dường không phải dể .Lý do :Phải biết mới chỉ dẫn được ? Còn không biết hoặc không rỏ không chỉ
dẫn được..khi hỏi cho biết Bênh viện mắt Thành phố Hồ chí Minh.Trước Tiên biết địa chỉ và giờ giấc Làm việc của
Bệnh viện .mới tìm ra dược nơi chốn cũa Bệnh viện .
Nói về nơi chốn rắc rồi rồi.
Bây giờ cho là biết và tới được Bệnh viện ..Bệnh nhân vào Bệnh viện Thủ Tuc đăng ký vào khám :
Đó là một con đường
Cha và Mẹ có con .Xác nhận mối liên hệ máu mủ này khoa học dùng xét nghiệm xem người con có gen ADN
Giống Cha và Mẹ không? Nếu giống là phải .không giống là không phải .
Thần đồng về một chuyên môn nào? Như về piano về toán học …..Là hiếm khi thấy…..
Đạt Ma Tổ Sư chấp nhận một vị dệ tử rất rất khó rât khó .
Như đã nêu ở trên không có gen ADN giống bố thì làm sao chứng minh là con cũa bố đẻ được sao?
Không biết dịa chỉ của bệnh viện Mắt Thành Phố Hồ Chí Minh thì làm sao tới đươc Bệnh viện này được?
Không biết giờ giấc của Bệnh Viện và giờ giấc Hẹn Bệnh của khoa bệnh thì làm sao?
Vậy Điều Kiện đi tới được Bệnh viện là gì?Biết địa chỉ
Vậy điều kiện để trị bệnh được tốt ?Biết khoa bệnh mà bệnh nhân đang được điều trị.và Bácsỉ nào đang diều trị cho bệnh nhân ? Áp dụng cho bệnh nhân đang được điều trị tại Bệnh viện không áp dụng cho bênh nhân khám ở tư nhân.
Vậy là một con đường .
Điều kiện sơ đẵng để đi tới Bệnh viện ? Có xe hay có tiền đi xe?Điều kiện không là điều kiện bắt buộc
Điều Kiện Bắt Buộc :Phái có lổ mũi thì mới thở được .Phải có con mắt mới nhìn được
Điều kiên để theo đuỗi đạt Tú Tài .? học lưc Trung bình
Điều kiện để theo đuỗi đạt cữ nhân ?khó hơn nổ lựchơn Bắt đầu khó rồi
Điều kiện để theo đuỗi đạt thạc sỉ? khó khó rồi
Điều kiện dể theo duỗi đạt Tiến sỉ ?rất khó
Vây là có những điều kiện như Bảo cấp 1 Bảo cấp 2 Bảo cẩp 3 v…v…v
Trình bày đến đây sự nghiệp Tu Hành có đơn giãn hay phức tạp Hay là suy nghỉ đơn giãn là đơn giãn hay lã suy nghỉ phức tạp là phức tạp .Điều kiện bắt buộc bắt buộc phải có con mắt mới nhìn ngắm đươc xem được .
Vậy muốn theo được con đường dẩn tới Niết Bàn cần có điều kiện gì ?
1) Điều kiện bắt buộc đầu tiên phải là đệ tử cũa Đức Phật
2) Điều kiện bắt buộc kế tiếp phải học giáo lý cũa Đức Phật
Phân Tích hai diều kiện bắt buộc :
Con người muốn làm đệ tử Phật như sau :
Có vào bất cứ Chùa nào rồi xin học giáo lý cơ bản của Đức Phật sau một thời gian xin quy y Phật
Hoặc ở Sàigon Miền Nam Viêt Nam hiện tại có 04 Chùa Lớn Công Tác giáo dục Phật Học đạt Trình dộ chuẩn
Như ở Chùa Hoằnh Pháp tọa lạc tại HócMôn khuyến khích tu hoc phật pháp đông lắm gần 5 ngàn ngươi say mê
Tu học rất dễ thương .Chùa Giác Ngộ cũng đông đúc không kém và vui lắm .Ỏ Tp Hồ chí Minh có một Chùa
Nơi đây rất đặc biệt vì có Hòa Thượng Trí Quãng Trưởng Ban Hoằng Pháp Trung ương VN mỏ khóa Tu 04 năm
Cho cư sỉ ..Hai điều kiện trên là cho hành giả bước vào con đường học tập phật pháp.
Học Tập theo ngày Tháng tiến bộ thâm nhập vào phật pháp với gần 100 đỉa CD ,VCD ,hành giả mua tai Chùa
Giác ngộ hay chùa hoằng pháp để tu tập


Vô Ngã là Niết Bàn


Đạo Phật như một vườn hoa, mà người xuất gia là người giữ gìn, chăm sóc, cần phải biết rõ từng bông hoa... Người xuất gia là chủ vườn, chứ không phải là người ngoại cuộc, chỉ cỡi ngựa xem hoa đã vội phê phán bình phẩm đủ cách. Phật tử chúng ta là những người giữ gìn gia tài Phật pháp, phải có thái độ như thế nào đối với những người cỡi ngựa xem hoa đó? Không lẽ chỉ hùa theo sự khen chê của họ?

Mặc dù biết Phật pháp mênh mông, cũng không ngoài một vị giải thoát cho nên dù chỉ học một câu kinh, tu hành một pháp môn cho thấu đáo cũng có thể hưởng được hương vị giải thoát mà không cần uống hết cả biển giáo lý. Nhưng điều cốt yếu là phải thực hành chứ không phải nói suông mà hiểu đạo được.

Đạo là con đường, nhưng đi trên con đường đạo không như đi trên đường cái. Đường cái dễ đi, dễ đến, có khoảng cách rõ rệt, bao nhiêu cây số là bấy nhiêu thời gian tương ứng, có điểm khởi hành, có điểm đến hẳn hoi. Nhưng đường đạo thì không như thế. Khi bắt đầu tu gọi là khởi điểm, mà khởi điểm này cũng ở tại Tâm. Tu hành gọi là đi, cũng chỉ trong một Tâm ấy mà khi đạt đến đích giác ngộ, thì cũng ở một Tâm ấy chứ đâu khác.

Thế mà tại sao đi mãi vẫn không đến? Đó chính là vì cái Ta cứ ngăn chận làm cho trễ nãi, biếng nhác, sa ngã, bước được một bước thì bị lục căn lục trần xen vào kéo lui ba bước. Muốn tinh tấn tu hành nhưng cái ngã nó xen vào và bảo: Để ta ăn cái đã, để ta ngủ cái đã, để ta coi cái đã, để ta nghe cái đã. Cái ngã chấp đó càng bành trướng càng gây tai họa. Ngã chấp của ta càng to càng dễ gây đụng chạm với cái ngã của người khác. Người khác cũng bồi bổ cái ngã của họ nên lại va chạm với ta. Ví như có một ngôi nhà rộng thênh thang mười người ở không khắp, thế mà một khi những người ở trong đó để cái Ta nổi lên thì sẽ va chạm nhau đến nỗi rốt cuộc mỗi người đi mỗi ngả, khi còn một người mà vẫn thấy chật. Đó là vì ngã chấp. Tôi lấy ví dụ để minh họa vấn đề ngã chấp này:

Ngày xưa có một linh hồn sau nhiều kiếp tu luyện, đến thiên đàng gõ cửa Thượng Đế, Thượng Đế hỏi:
-- Ai đó?
-- Tôi, Linh hồn đáp.

Thượng Đế hỏi:
-- Tôi là ai?
-- Tôi là tôi.

Thượng Đế bảo:
-- Ở đây không đủ chỗ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy đi nơi khác.

Linh hồn ấy trở lui về trần gian tu luyện thêm một ngàn năm nữa, sau đó lên trời gõ cửa lại.

Thượng Đế hỏi: -- Ai đó?
Đáp: -- Tôi.
-- Tôi là ai?
-- Tôi là Ngài, Linh hồn đáp.

Khi ấy Thượng Đế liền mở cổng cho vào.

Thí dụ trên cho ta thấy, một ngàn năm trước tôi là tôi - còn ngã chấp, thì không vào thiên đàng được. Một ngàn năm sau, tôi là Ngài, mới vào được, vì hết ngã chấp. Vì ta với mình tuy hai mà một. Niết bàn là cái tuyệt đối không dung ngã. Niết bàn không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng nên rất khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc nên ta không thể mang theo một hành lý nào mà hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cái ý niệm về tôi, về ta, cũng không thể mang theo vào được. Cái ta càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết hễ hữu ngã thì luân hồi mà vô ngã là Niết bàn chứ không phải đòi hỏi có cái ta để vào Niết bàn.

Một hôm có người đến hỏi Thiền sư Duy Khoang: "Đạo ở đâu?" Sư đáp: "Đạo ở trước mắt" - "Sao tôi không thấy?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Vì ngươi đang bận nghĩ tới mình ta cho nên không thấy" -" còn Hòa Thượng có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Hễ còn bận nghĩ tới ta, ngươi thì đều không thấy" - "Khi không còn bận nghĩ tới ta, ngươi nữa thì có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi, thì bấy giờ ai hỏi đạo ở tại đâu?"

Giả sử lúc đó người ấy hỏi ngài Niết bàn ở tại đâu thì chắc Ngài cũng đáp tương tự như thế, và câu đáp cuối cùng hẵn là: "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tơi ta, ngươi thì bây giờ ai hỏi Niết bàn ở tại đâu? Sao tôi không vào được? Vì đã không còn tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi thì tức lúc ấy tâm thanh tịnh không còn vọng tưởng tham ái, tức là Niết bàn đó rồi, chứ có phải ở đâu xa mà phải tìm kiếm?"

Vậy cho nên cần phải biết: Niết bàn chính là từ bỏ ba độc tham, sân, si do ngã chấp gây nên. Vô ngã là Niết bàn. Giờ phút nào cởi bỏ được ba độc, giờ phút đó là Niết bàn. Cho nên chúng ta thấy Niết bàn vừa là cái chung, vừa là cái riêng. Cái chung là ai cũng tu được, vào được. Cái riêng là chỉ ai tu người ấy đắc. Đức Phật, Ngài không bưng Niết bàn đến cho ta ngồi lên. Ngài chỉ dạy cho ta con đường tu chứng Niết bàn mà thôi. Ngài dạy:

"Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp, thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh, thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau". (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh 4/65, 1982)

Vậy thì nói Phật độ chúng sanh là gì? Ở đây chúng ta cần phân biệt chữ "độ" và chữ "cứu rỗi". Chữ "cứu rỗi" thì chỉ cần đức tin, tin có một đấng tối cao, đấng ấy sẽ rước ta vào cõi phúc lạc của Ngài ở một nơi nào đó, nếu ta đầy đủ lòng tin. Trái lại chữ "độ", nghĩa là vượt qua, có nghĩa là làm cho chúng sanh thấy rõ rằng: chính vì bản ngã mà nổi chìm trong biển phiền não sanh tử. Vậy chỉ cần trừ cái ngã chấp thì phiền não không còn đất đứng. Khi phiền não đã trừ thì kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc cũng dứt mà vượt qua bờ giác. Khi phiền não chấm dứt thì dù bất cứ đang ở đâu, bất cứ giờ phút nào cũng là Niết bàn, không cần phải cất bước đi đến một nơi nào cả để tìm cõi Niết bàn. Bởi thế đức Phật dạy luôn luôn quán vô ngã, bốn đại, năm uẩn tạo nên thân này đều là những thứ do duyên ở ngoài kết hợp lại mà thành chứ cái thân "đồng nhứt" với cái ngã thì không thực có.

Đức Phật được tôn xưng là đấng Pháp vương vì Ngài tự tại với tất cả các pháp, vào tất cả thời, xứ. Dù ở đâu Ngài cũng không bị dính mắc vào sáu trần, không bị chúng lôi kéo. Nên chúng ta phải biết, nếu chúng ta đối với một việc gì trong một thời gian nào đó mà được tự tại, không bị nó lôi kéo, chi phối, thì ta cũng đáng được gọi là vua của pháp đó, nhưng chỉ đối với một việc đó, trong một thời gian đó mà thôi, còn ở giờ khác, đối với việc khác, thì ta lại bị ràng buộc, cho nên ta không được như Phật xưng là Đấng Pháp Vương đối với toàn diện các pháp và tất cả các thời, xứ.

Muốn được như Phật phải quán vô ngã luôn luôn. Quán vô ngã thì tất cả cái gọi là: phải, trái, được, thua ở đời đều là một cái duyên cho ta tu, hoặc trở thành bình thường không có gì bận tâm cả. Quán vô ngã cũng như người võ sĩ luyện thân thể cho rắn chắc. Khi chưa rắc chắc thì dễ bị quật ngã trước một tác động bên ngoài. Người tu vô ngã cũng vậy, khi chưa thuần thục còn nhiều ngã chấp thì dễ đau khổ trước một lời nói độc. Nếu khi ngã chấp tiêu bớt, thì chỉ còn thấy đau khổ sơ sơ và cuối cùng thì không còn ngã chấp thì cũng không còn chút đau khổ nữa. Nên kinh Pháp Cú nói:

Như ngọn núi kiên cố
Không gió nào lay động
Cũng vậy giữa khen chê
Người trí không giao động. (Pháp Cú câu 81)

Kết luận: Cái Trí ở đây chính là cái trí thấy lý vô ngã vậy.


. ĐẠO ( THE WAY)


*Còn chấp là còn mù.


*Khi tín đồ của một tôn giáo bỏ chấp họ sẽ thấy con đường bảo tồn và phát triển Đạo.


*Khi người cùng một đạo không đoàn kết được thì đừng kêu gọi người bên ngoài đoàn kết.


*Nếu mình thấy được cái hay của Đạo mình mà không thấy cái hay của Đạo người khác thì cái thấy đó không giúp gì được cho mình.


The Way

Each religion gives you one way.

Many religions give you many ways

If people can find "The Way".

They don’t need to follow many ways

The reason that there are many ways

is because people cannot find "The Way".


tạm dịch:

Đạo hay Con Đường

Mỗi tôn giáo cho ta một con đường đến Đạo

Nhiều tôn giáo cho ta nhiều con đường khác nhau

Nếu người ta tìm thấy Đạo

Người ta sẽ không cần đến nhiều đường.

Lý do chúng ta có nhiều đường

là vì chúng ta không tìm thấy Đạo.


*There is no way which goes to Dao because Dao is The Way.


tạm dịch:

*Không có con đường đưa đến Đạo vì Đạo chính là Con Đường.


*If you want to find Tao, you have to go back to your innermost reality.


tạm dịch:

*Nếu muốn tìm thấy Đạo chúng ta phải trở về với chơn tâm (bản lai diện mục) của chính mình.


*Muốn làm việc Đạo phải hết sức kiên nhẫn và quên mình. Việc gì dù khó đến đâu, dù mình không muốn làm, Đạo cũng giúp mình làm được. Đạo giúp ta chế ngự cái ngã để phục vụ tha nhân.


*Biết Đạo không phải là biết kinh giảng, sách vở, lý thuyết. Biết Đạo là biết làm người, biết sống sao cho ra con người để không trái với trật tự thiên nhiên của Trời Đất.


*Con người làm khổ con người bằng cách đảo lộn hết tất cả trật tự thiên nhiên bằng chính những luật lệ thiển cận của họ. Thượng đế luôn luôn thương yêu con người và bao bọc che chở cho tình thương chân thật của họ.



*You cannot know Tao through other people’s experiences and feelings. You should have your own.


tạm dịch:

*Người ta không thể hiểu Đạo qua kinh nghiệm và cảm ứng của người khác mà phải qua chính kinh nghiệm và cảm ứng của riêng mình.


*If you want to know Tao, go and find it by yourself.


tạm dịch:

*Nếu muốn hiểu Đạo phải tự chính mình đi tìm Đạo.


*Sufferings lead to Tao.


tạm dịch:

*Sự đau khổ đưa đến Đạo.


*To understand Tao, you do not turn only 180 degrees but 360 degrees.


tạm dịch:

*Muốn hiểu Đạo ta không chỉ quay mình nửa vòng mà phải quay mình cả vòng.


*The students of a Great Master will always stay in darkness if they follow his teachings without understanding.


tạm dịch:

*Tín đồ của một vị Giáo Chủ sẽ ở trong bóng tối mãi mãi nếu chỉ làm theo lời giảng huấn mà không hiểu được ý nghĩa của những lời đó.


*Người thực tâm lo cho Đạo thường bị ghét bỏ và phê phán vì họ dám nói lên cách thức hành Đạo sai lầm của đồng đạo.


*Đặt mục đích làm thơm danh cho Đạo là sai lầm vì Đạo tự nó đã có giá trị vĩnh cửu.


*Người có Đạo phải xét lại hành vi, tư tưởng của mình vì chính mình bị hoen ố chứ Đạo không bị hoen ố.


*Sống trong tình thương đại đồng, ta luôn luôn được an lạc sung sướng. Sống trong tình thương vị kỷ ta luôn luôn bị sầu muộn liên miên.


*Giúp Đời khi chưa rõ con đường mình đi là hại Đời.


*Giúp Đạo khi chưa rõ Đạo là hại Đạo.


*Chưa chiến thắng được cái tôi là chưa bước vào con đường Đạo.


*Mọi người đang đi trên con đường gọi là Đạo, nhưng phải thấy Đạo và hành Đạo thì mới đạt Đạo.


*Ta không thể thấy Đạo bằng lý luận mà bằng sự cảm nhận.


*Chỉ khi nào biết rõ rằng mình chưa biết Đạo, ta mới thật sự tìm Đạo. Khi thấy Đạo rồi ta mới biết được con đường nào là con đường bảo tồn và phát triển Đạo.


*Đạo rất giản dị và cũng rất khó. Vì giản dị nên người ta chưa biết. Và vì khó nên người ta tưởng người ta biết rồi (qua kinh giảng, lý thuyết, sách vở) mà chưa biết.


*Cũng vì Đạo rất giản dị và rất khó nên biết mà không biết. Nếu Đạo mà diễn đạt được bằng ngôn ngữ thì chưa phải là Đạo.


*Muốn bảo tồn và phát triển Đạo, phải biết áp dụng những giáo điều của vị Giáo Chủ của mình vào hoàn cảnh mới cho kịp với trào lưu tiến hóa của nhân loại.


*Nếu ta chỉ hiểu giáo điều và thuộc lòng giáo điều, rồi khư khư cất giữ nó thì dù Đạo của ta có hay đến đâu cũng sẽ bị rơi vào sự quên lãng (sẽ bị mai một).


*Ta đừng chê người khác mù khi ta cũng đã từng mù.


*Nếu đã có người kiên nhẫn mang ánh sáng đến cho ta thì tại sao ta không cố kiên nhẫn để mang ánh sáng đó truyền đi cho những người khác?


*Vì Đạo thật giản dị mà cũng thật khó nên nhiều khi người dốt đã biết Đạo lại tưởng chưa biết (thiếu tự tin) còn người trí thức chưa biết lại tưởng biết rồi (quá tự tin).


*Càng thấy chưa hiểu Đạo thì càng đến được gần Đạo hơn.


*Muốn làm Đạo thời nào phải hiểu cho thấu triệt con người thời đó.


*Không phải chỉ người ăn ở hiền lành mới sẽ hiểu Đạo mà những người ăn ở ác độc cũng có thể sẽ hiểu Đạo vì họ sẽ phải trực diện với lương tâm.


*Tao is very simple but people make it complicated.


tạm dịch:

*Đạo rất giản dị nhưng con người làm cho nó trở thành phức tạp.


*Người có Đạo không hẳn phải là tín đồ của một tôn giáo.


*Nhiều tín đồ của một tôn giáo sống cả đời cũng chưa biết Đạo.


*Đạo có mà không không mà có.


*Đạo khó mà dễ, dễ mà khó.


*Đạo giản dị mà không giản dị, dễ hiểu mà cũng khó hiểu.


*Đạo là Đời mà Đời cũng là Đạo.


*Tín đồ của một tôn giáo mà chưa biết Đạo cũng như căn nhà tăm tối chưa vặn sáng ngọn đèn.


*Đạo là một con đường nên không cao, không thấp và là một sự tiếp nối của Nhân Đạo và Thiên Đạo để đưa con người đến Toàn Thiện Toàn Mỹ.





NĂM GIỚI

Đây là Giới Thứ Nhất:

Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của con.

Đây là Giới Thứ Hai:

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem niềm vui sống và an lạc cho mọi người và mọi loài, để chia sẻ thì giờ, năng lực và tài vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương trên sự đau khổ của con người và của muôn loại.

Đây là Giới Thứ Ba:

Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng những hành động bất chánh sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.

Đây là Giới Thứ Tư:

Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều con không biết rõ. Con nguyện không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.

Đây là Giới Thứ Năm:

Ý thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không uống rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh, truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã hội.

Làm thế nào để chận đứng lại mọi khởi động và bị động của lục căn lục trần?

Chữ Tâm phải đặt trên hàng đầu. Tâm động thì trí động và hành động sai lạc ngông cuồng.

Làm sao cho tâm không động?

Tâm động thì loạn tâm, đưa đến trí động, suy nghĩ lệch lạc, quyết định vội vàng kém suy nghĩ. Hành động trở nên bộp chộp, nóng nảy, có khi bất thần kém suy nghĩ. Tức là hành động trước khi trí suy xét, cân nhắc, không quyết định đúng hay sai.

Khi loạn tâm thì con người hành động thiếu suy xét của phần trí. Như vậy là tâm loạn trực chỉ chủ trì hành động và thiếu phần trí suy xét phán đoán, định lượng.

Lúc đó thì hành động trong sự thiếu vắng của trí huệ. Hành động theo cảm tính và cảm xúc.
Hành động đó do lục căn lục trần chủ trì quyết định và ta hoàn toàn vắng mặt hay lúc đó con người máy đã làm chủ cả tâm thân trí của ta. Ta như một người chết, hành động máy móc theo sự chỉ đạo của cái tôi máy móc mù quáng.

Muốn tránh trở nên một người máy mù quáng hành xử loạn tâm ta phải làm sao?

Làm sao để ta đừng quên ta? Làm sao để Tâm-Thân-Ý có một sự liên hệ chặt chẽ, không bị bứt rời để con người máy tước đoạt quyền để định đoạt sự sống của ta?

Sự sống toàn vẹn chỉ có khi Tâm Thân Ý là một, không rời. Mà vai trò Tâm là một mấu chốt quan trọng. Đặc biệt khi Thân yếu, Tâm dễ ngã, trở nên yếu đuối, và lúc đó thì Trí kém sắc bén, bén nhạy, lu mờ.

Con người ta ngoài phần tâm linh thì phần thể xác nuôi dưỡng tâm linh hết sức quan trọng. Vì thế Đức Phật đã đưa ra con đường trung đạo cho ta noi theo tu hành.

Tu tập không phải chỉ nặng phần tâm linh, mà sự tu tập phải đặt nền tảng trên Thân Tập.
Thân tập là ta nên luyện thân để trở nên mạnh khỏe cường tráng, ngũ hành điều hòa, mới nuôi dưỡng phần tâm linh trở nên sáng suốt thông thái.

Sự tu tập không thể thiếu phần thân tập, từ ăn uống, thở, thức ngủ. Mọi hành động đều có sự tự kiểm để cho bộ máy người được chuyển động điều hòa, nhiệt lượng và tiết lượng quân bình mới có đủ năng lượng vượt các tầng khí quyển mà hòa nhập với năng lượng của thượng thiên trở nên một người có ích cho loài người.

Vậy, ăn-uống-bài tiết của một con người đều có tầm quan trọng như nhau. Mọi sự đều cần được ta kiểm tra từ vật thực cho đến nơi ăn chốn ở. Cần phải có sự quân bình từ tương đối cho đến tuyệt đối. Ta không nên buông mình dung dưỡng thân xác thái quá, và cũng tuyệt đối không hành xác để trở nên yếu đuối bệnh tật, để thay vì có thì giờ tu tập hay suy nghiệm làm việc thiện thì phải luôn đối phó với những căn bệnh ngặt nghèo quái ác.

Tâm ta yếu đuối dễ bị lung lạc nhất khi đau yếu. Khi các bộ phận nội tạng suy nhược thì tâm não ta suy yếu, tâm thần động loạn, trí tuệ lu mờ.

Tóm lại, hai chữ tu tập có nghĩa là kỷ luật hóa thân tâm để đạt tríhuệ, trở nên người hữu ích cho đời cho đạo, hay nói đúng hơn, để đóng góp cho con người, không uổng một kiếp lai sinh

SỰ CẢM THÔNG

*Tại sao không có một khu rừng chỉ có cây cỏ và muông thú, dành riêng cho những kẻ biết được sự mầu nhiệm thiêng liêng của sự cảm thông, đến đó để đối thoại với nhau trong im lặng của sự tỉnh thức và cùng lắng nghe âm thanh siêu việt của vũ trụ ?


*Có những giây phút cảm thông giữa người và người làm cho những kẻ tuy mới quen mà như biết nhau hơn cả một cuộc đời.


*Khi đạt được sự cảm thông giữa người và người, cảm xúc tột cùng của sự đau khổ và sung sướng đến cùng một lúc làm cho tim ta đau thắt, muốn khóc cho thỏa mà nước mắt lại không rơi và môi ta lại mỉm một nụ cười. Sự siêu thoát đấy chăng?


*Khi đạt được sự cảm thông giữa người và người, ta hiểu được sự tuyệt vời của im lặng.

*Sự cảm thông nếu được lan rộng sẽ mang đến hòa bình cho nhân loại.


*Nhưng làm thế nào để tạo được sự cảm thông đó giữa mọi con người?


*Chỉ có sự cảm thông mới giúp cho mọi người hiểu được sự mầu nhiệm của tình yêu nhân loại.


*Khi đã hiểu được tình yêu nhân loại rồi, thì không còn gì có thể chia cách con người với con người.


*Sự cảm thông mang lại hạnh phúc vĩnh cửu.


*Nếu không dùng phàm tánh để phán xét một người, người ta sẽ nhận ra ngay một ông Phật ở trước mặt họ dù người đó đang ở trong bất cứ hình thái, trạng thái hay hoàn cảnh nào.


*Ngôn ngữ đôi khi làm hỏng cả tư tưởng.


*Sự cảm thông đôi khi là một viên thuốc hồi sinh.


*Sự đau khổ tột cùng đôi khi là viên thuốc hồi sinh khai mở những gì đã bị bỏ quên hay tắc nghẽn.


*Có hiếu với cha mẹ là phải sống sao cho ra Con Người (để khỏi phụ công sanh thành dưỡng dục).


*Kiến thức và sự thông minh không đủ khả năng để giúp con người hiểu con người mà chỉ có trái tim mới làm được việc đó.


*Có thương người thật sự mới can đảm sửa người mà không sợ người giận (cũng tùy theo khả năng chịu đựng của người đó).


*Còn bị lôi cuốn bởi cái đẹp thì chưa thật sự biết yêu.


*Nếu có Tâm mà không có Trí để thích ứng với hoàn cảnh thì chẳng những mình hại mình mà mình hại cả người.


*Không ai biết chắc rằng mình tốt hay xấu, mình thích gì và không thích gì. Chỉ có hoàn cảnh mới cho ta thấy được tính của con người.


*Khi Đại Từ Đại Bi thì ghét cũng như thương (bất phân).


*Có sự hiểu biết ta mới đối phó được với những bộ óc dã man, tàn ác nhất của con người.


*Cái thật và cái giả chỉ một mình mình biết.

PHẬT TÁNH

Phật là người biết đúng và hiểu rõ ràng xuất xứ cảm xúc của mình.


Hiểu rõ xuất xứ cảm xúc của mình để làm gì?


Để hiểu rõ mình và hiểu rõ người.


Để làm gì?


Để sống như thế nào cho hòa hợp giữa mình và người, cho đúng với lẽ Đạo, cho phù hợp với trật tự thiên nhiên của Trời Đất, để giữ sự trường tồn của vũ trụ.


Trước khi biết đúng và hiểu rõ cảm xúc của mình thân tâm ta phải được tinh khiết ta mới nhận thức được rõ ràng cảm quan của mình, của mình đối với người và của người đối với mình.


Hiểu rõ cảm quan của mình, của mình đối với người và của người đối với mình ta mới có sự sáng suốt.


Sự sáng suốt đó là Phật tánh, là tình thương thật sự - không bị chi phối bởi thương và ghét, tốt và xấu. Đó là tình thương không có khởi nguồn.


Đó mới thật là Tâm.

THỨC TỈNH TOÀN DIỆN

Nhiều người tưởng rằng thiền là trạng thái trống không. Trạng thái trống không chỉ là một trong những trạng thái của Thiền.

Thiền là ta đang ở trong một trạng thái kiểm soát các trạng thái khác tức đang ở trong trạng-thái-biết (awareness) để kiểm soát tất cả những tư tưởng, hành vi, cảm xúc của mình. Thí dụ ta giận thì ta biết tại sao ta giận và lộ nét giận để làm gì, có ích lợi gì cho người đối diện. Khi ở trạng-thái-biết ta tự phân tách con người ta một cách rõ rệt để ta quyết định những gì ta nên và không nên làm.

Thiền không những là ta kiểm soát ta mà ta là người chỉ huy ta; lúc đó những người đối diện và những gì xảy ra xung quanh không ảnh hưởng ta được, mà ta còn có thể gây ảnh hưởng ngược lại, vì khi ở trạng thái thiền không những ta biết ta mà ta còn biết người.

Thiền là trạng thái thức-tỉnh-toàn-diện để kiểm soát và tự chỉ huy.

The Zen which can be described is not Zen.

*We cannot learn to understand Zen; we can only experience it.

*To be in the state of Zen is to be awakened in every thought and deed.

*To be in the state of Zen is to be in the state of Awareness.

*Zen has no boundery.

*All races are united in Zen.

*To attain Zen is to attain Nothingness.

*To attain Satori or Salvation is to attain an endless and unexpressed delight.

*To be in Zen is to live true to yourself.

*Zen is living in harmony with nature.

*Zen is accomodating to any circumstance.

*Zen is to look, to hear, to taste and to smell without any preconceived notion.

*Zen is awakening in an awakened state of mind.

*A Zenjin cannot be motivated or manipulated.

*Zen is the ability to explain to people what doesn’t exist in form and in life.

*Zen is not a passive, but an active state of mind.

*A Zenjin lives in reality rather than in illusion or imagination.

*A Zenjin has a clear mind.

*Zen is to look, to hear, to taste and to smell with clairvoyance.

*To be in the state of Satori is to be the Master of oneself.

*You can be in the state of Zen in different characteristic personalities and any kind of worldly activity.

*The Zen in the midst of the hubbub is the Real Zen.

*To understand Zen you have to empty your mind first.

*Zen is the ability to see people through their different personalities.

*A Zenjin has the ability to make people see different aspects of the personality that he wants to play at the time.

*A Zenjin is free from Love and Hate.

*When you use Zen vocabulary to describe Zen, there is no more Zen.

*When you know that you are in the state of Zen, then you aren’t.

*When you try to describe Zen, then there is a repetition or imitation involved in your mind.

*You are at the state of Salvation or Satori only when you feel free from Love and Hate. That is the Real Zen, the unfeel-feeling.

*How can you describe Zen when Zen is nothingness, emptiness, where there is no color, no odor, no beauty and no ugliness.


Tạm dịch:


*Thiền mà ta miêu tả được, không phải là Thiền.

*Ta không thể học để hiểu Thiền mà chỉ có thể sống và cảm nhận Thiền.

*Thiền là ở trạng thái tỉnh thức trong mỗi tư tưởng và hành vi của ta.

*Thiền là ở trong trạng thái Biết.

*Không có giới hạn nào đối với Thiền.

*Tất cả chủng tộc đều hiệp nhất trong Thiền.

*Đạt Thiền là đạt tính không.

*Ngộ hay đạt được giải thoát là được hạnh phúc vô biên không thể giải thích được.

*Thiền quán là sống thực sự.

*Thiền là sống hài hòa với thiên nhiên,

*Thiền là thích ứng với mọi hoàn cảnh.

*Thiền là nhìn, nghe, nếm, ngửi không phân biệt.

*Thiền là ở trong trạng thái tâm linh tỉnh thức.

*Thiền giả không bị việc gì hay người nào thúc đẩy hoặc vận dụng.

*Thiền là khả năng giải thích những sự việc không hiện hữu.

*Thiền không phải là một trạng thái tiêu cực, mà là trạng thái tâm linh sinh động.

*Thiền giả không sống trong ảo giác hoặc tưởng tượng, mà trong thực tại.

*Thiền giả luôn luôn sáng suốt.

*Thiền là nhìn, nghe, nếm, ngửi với tinh thần minh mẫn.

*Ở trạng thái giải thoát, mình làm chủ mình.

*Ta có thể ở trong trạng thái Thiền trong nhiều cá tính khác nhau và trong mọi hoạt động của đời sống.

*Thiền trong hoàn cảnh hỗn loạn mới thực sự Thiền.

*Muốn hiểu Thiền, trước hết ta phải ở trạng thái tâm không.

*Thiền là khả năng nhìn thấy người khác trong những cá tính khác nhau của họ.

*Thiền giả có khả năng làm cho người khác nhìn thấy từng cá tính của mình.

*Thiền giả không bị Yêu Thương hay Oán Ghét chi phối.

*Khi áp dụng ngữ vựng Thiền để diễn tả Thiền, thì không còn Thiền nữa.

*Khi biết ta ở trong trạng thái Thiền thì ta không còn Thiền chi nữa.

*Khi ta cố gắng miêu tả Thiền, thì tâm ta đã lập lại hoặc bắt chước.

*Ta chỉ ở trong trạng thái Thiền khi cảm thấy được giải thoát khỏi Yêu Thương và Thù Ghét. Đó là Chân Thiền, cái cảm giác-không cảm giác.

*Làm sao tả được Thiền khi Thiền là tính không, trống không, một trạng thái không màu sắc, không mùi vị, không có đẹp hoặc xấu.





BÌNH

Tâm bình đi đâu cũng bình.

Tâm động đi đâu cũng động.

Tâm bình trong nghịch cảnh mới học được những điều nghịch, nếu tâm động sẽ mù.

Tâm bình trong hợp cảnh mà vẫn bình mới học được điều hợp.

Nếu vì hợp mà động thì cũng chỉ là người mù.

Tâm phải bình ở tất cả mọi nơi dù nghịch, dù hợp vẫn không động. Phải nghe những điều nghịch, lưu tâm đến những điều nghịch, phải đến những nơi nghịch để xem rõ mình; vì mình không học được nếu chỉ ở những nơi hợp, chỉ làm điều hợp và nghe điều hợp.

Phải tập sống trong nghịch mà không nghịch, sống trong hợp mà không động.

Đó mới thật là bình.

CHÂN THIỆN MỸ

Sự phát triển đúng mức của Tình Yêu có phải là Chân Thiện Mỹ chăng?

Khi Tình Yêu được phát triển đúng mức thì không còn Tình Yêu mà cũng không còn Tình Dục. Đó chính là Chân Thiện Mỹ.

Như thế nào là một Tình Yêu được phát triển đúng mức? Tình Yêu được phát triển đúng mức là quên cái ngã chăng? Vượt khỏi sự chiếm hữu chăng? Đạt đến sự cảm thông chăng? Hướng đến đại đồng chăng?

Chỉ có con tim thật sự mới giúp cho ta đạt được Chân Thiện Mỹ.

Chân Thiện Mỹ là gì?

Chân Thiện Mỹ là sự rung động thật sự của con tim.

Sự rung động thật sự của con tim giúp cho ta biết sống một cuộc sống đáng sống. Cho ta thấy ta không phải là người máy mà ta thật sự sống cho ta, cho đời sống của chính ta.

Đời sống của chính ta là đời sống như thế nào? Ta phải làm gì?

Đời sống của chính ta là ta nhìn thấy những điều mà người khác không thấy. Ta làm những gì mà người khác không làm, theo sự rung động thật sự của con tim ta.

Nếu ta làm những gì mà người khác không làm thì liệu ta có sống được đời sống của chính ta chăng? Hay ta sẽ chết vì muốn sống cho đời sống của chính ta?

Ta phải có cái Tâm để sống cho đời sống của chính ta và ta phải có cái Trí để bảo vệ cho đời sống của chính ta.

Ta phải sáng suốt để phân biệt cái Thực và cái Giả và sống với cái thực và cái giả đó một cách quân bình.

Làm sao để có sự sáng suốt đó?

Muốn có sự sáng suốt đó ta phải tin ở chính ta. Ta phải biết ta từ giờ từ phút. Ta phải biết điều gì nên làm và không nên làm cho phù hợp với môi trường sống và hiểu cho tường tận cái môi trường sống đó.

Nếu ta nhìn thấy sự liên hệ giữa con người và vũ trụ và định luật thiên nhiên, ta mới biết điều gì nên làm và không nên làm để thoát khỏi sự hủy hoại đời sống của chính ta.

Khi ta nhìn thấy sự liên hệ giữa con người và vũ trụ và định luật thiên nhiên, ta không còn khổ nữa vì đời sống của ta không còn bị ảnh hưởng và xô đẩy bởi định luật đó mà ta sẽ có một đời sống theo ý ta muốn.




Ý CHÍ VÀ ĐỊNH MỆNH
Con người thường hay lầm tưởng cái mình muốn làm là định mệnh của mình.

Nếu có ý chí thì ta có thay đổi được định mệnh không?

Ý chí là gì? và định mệnh là gì?

Ý chí là sự quyết tâm. Định mệnh là sự an bài.

Nếu có ý chí ta sẽ có một đời sống theo ý ta muốn vì chính ta lèo lái cuộc đời của ta chứ không phải tạo hóa lèo lái cuộc đời của ta. Có ý chí ta biết điều gì nên làm và không nên làm và ta không còn hoang mang sợ hãi. Có ý chí ta sẽ biết cuộc đời ta đi về đâu. Không có ý chí ta sống mà không biết tương lai, buông xuôi để cho tạo hóa an bài cuộc đời của ta và những tai họa bất ngờ do tạo hóa gây ra vì sự sai lầm của ta, ta lại cho đó là định mệnh an bài.

Muốn có ý chí trước hết ta phải làm sao?

Nếu muốn có ý chí ta phải có sự tự tin thật thì cuộc đời ta sẽ ở trong bàn tay của ta.

Biết

Biết đạo là biết con đường, biết trong cái không biết chứ không phải biết trong cái biết.

Phải biết trong cái không biết, vì trên con đường tiến hóa của vũ trụ thì vạn vật chúng sanh biến hóa không ngừng.
Chúng ta phải hiểu được chân lý đó theo sự biến chuyển, tiến hóa theo thời gian để có sự nhịp nhàng uyển chuyển giữa con người và vũ trụ.

Biết trong cái biết là ta dừng lại khi ta cho rằng ta biết, vì ta nắm lấy những gì ta biết trong khoảnh khắc đó trong khi tất cả đều tiến hóa theo thời gian. Nếu dùng cái biết mà ta nắm lấy đó mà áp dụng vào các khoảng thời gian khác trên lộ trình tiến tiển của vũ trụ sẽ tạo ra những sai lầm, thất bại.

GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Tâm Định, Trí Định, Hành Định, Đại Định.

Không nghĩ phút đã qua, không nghĩ phút sắp tới, không lo, không sợ, không buồn, không hân hoan, bình yên, tự tại.

Không yêu, không ghét, không giận, không xao động, không xáo trộn.

Sống với giây phút hiện tại.

SỰ THỨC GIÁC

Thế giới mà mình sống có nhiều cõi, từ địa ngục cho đến thiên đàng, tùy theo trình độ của mình. Tùy theo sự bình an của tâm hồn mình đến đâu thì mình được sống cõi cao hơn đến đó.

Không phải sống ở cõi cao mà mình không gặp rắc rối, không phải tâm bình mà không gặp khó khăn vì tuy sống ở cõi cao nội tâm mình vẫn liên hệ với con người ở cõi trần. Như vậy mình cần phải có thái độ chấp nhận và luôn luôn thức giác để kiểm soát mình, chớ không nên trách người.

Càng thức giác, càng kiểm soát mình, càng hiểu người thì sự khó khăn trong cuộc sống càng giảm

TA PHẢI CÂM

Từ hôm 31-12-86 đến nay bộ thần kinh ta bị tê liệt thật đau buốt cả đầu. Trong giấc mơ môi ta sưng lên thật đầy ý nghĩa. Ta phải câm. Đầu ta nhức bên trái, hai mắt ta mờ, hai tai ta đau. Đầu ta ê ẩm có lúc muốn cử động đầu cũng không được, vì đau nhức. Có lần Thầy dạy khi nào ta không còn thấy tốt xấu phải trái ta sẽ hết nhức đầu. Có thật vậy không?

Ta thấy rõ mỗi lần ta mở miệng ra là cùng một lúc ta thấy ngay ta sai. Mỗi khi con người nói đều có lý do mà không có lý do đẹp - luôn luôn nói để nếu không bảo vệ mình thì cũng phê bình người khác. Ngay cả sự im lặng của ta bây giờ cũng là im lặng dồn nén, im lặng vì sợ sai, chứ không phải im lặng là không nghĩ, không nói, vì nói hay im lặng trong lúc tư tưởng phát khởi thì cũng vậy, chỉ có khác một đằng là có âm thanh còn một đằng thì không có âm thanh, thế thôi. Đằng nào thì cũng có sự chấn động trong không gian. Cũng phá tan sự yên tĩnh, hạnh phúc của mặt đất này.

Khi ta làm việc ở sở làm, mọi người quanh ta nói chuyện nhiều quá khiến ta lắm lúc bực mình. Tuy nhiên điều đáng mừng là ta theo dõi được tư tưởng mình một cách rất khít khao. Mỗi lần ta mở miệng ra là mang theo sự hối hận ngay vì thấy cái sai nó sát nút 99% rồi. Không cần ai phán xét vì không ai phán xét đúng bằng ta.


ĐẶT NIỀM TIN NƠI CHÍNH MÌNH


Làm việc ĐẠO nhứt nhứt phải đặt niềm tin nơi chính mình. Không dựa vào thiêng liêng, không dựa vào Thầy mình hay bất cứ một người thân nào. Không đặt niềm hy vọng vào nơi ai sẽ giúp mình hay hiểu mình. Việc ĐẠO là chỉ mình hiểu mình, đặt niềm tin nơi mình và dấn thân chịu hết trách nhiệm và hậu quả sẽ đến. Đó mới thật sự là sự hiến dâng cả tâm hồn và thể xác không một hối tiếc.



Phải tập nghe và tập hiểu mọi người trước khi họ hiểu mình vì mọi người xung quanh là tấm gương cho mình soi. Việc vấp váp với Jean cho thấy không nên phỏng đoán những gì người khác nghĩ qua các việc xảy ra mà phải nhìn những sự việc xảy ra với đầu óc không thành kiến thì mới nhận định sự việc một cách sáng suốt và đúng được. Đó mới là pure logique (thuần lý). Còn khi nhìn sự việc với đầu óc chủ quan thì đó là lấy mình mà xét người, lại thêm tình cảm và tự ái cá nhân nữa thì sự lệch lạc lại càng xa hơn. Tuy nhiên không thể vì vậy mà bỏ quên hết sự hiểu biết về bản tính con người và dẹp hết tự ái, bản ngã của mình cũng không được mà phải dùng nó đúng lúc, vì dùng "sắc tức thị không, không tức thị sắc" không đúng chỗ thì sẽ có sự mất quân bình trong công ăn việc làm cũng như giữa người và người (chủ-tớ) lại sẽ gây buồn phiền cho chính mình và đưa người chủ đến việc lạm dụng mình mà chính mình là người tạo cho họ cơ hội.

Tình cảm của mình thương người đôi khi phải che kín để sống bình thường với họ vì khi mình tỏ lộ quá sẽ làm cho họ có đủ cơ hội để trở nên xấu đối với mình mà họ không biết. Cũng như Robin vì Mai quá tốt Robin không còn nhìn thấy cái tốt mà cho đó là sự tự nhiên và Mai tạo cơ hội cho Robin lạm dụng đối với Mai mà Robin không biết. Đến lúc Mai không tỏ ra tốt như thường xuyên đã tốt thì Robin coi đó là xấu.

Phải thận trọng vì tốt quá cũng có thể tạo cho đối phương trở nên xấu (mặc dù họ không muốn hoặc không hay). Mọi việc xảy đến tốt có thể là xấu mà xấu có thể là tốt cho chúng ta học hỏi và tiến hóa. Không có việc gì là việc bất lợi cả. Phải thành tâm, kiên trì, thanh tịnh để tiến bước. Đừng quá nóng lòng muốn đi hia bảy dặm. Những người xung quanh đi theo không kịp thì cũng không làm được gì. Thiên cơ dù có biết trước cũng không thực hiện ngay được.

Thấy cũng là một điều khổ. Thấy sớm quá đôi khi không biết kiên nhẫn cũng làm hại cho ĐẠI CUỘC. Cứ bình tâm, sẽ được nhận thường xuyên, tất cả đều nằm trong bộ óc của mình nhưng tất cả đều chưa phát hiện vì chưa đúng lúc. Không biết cả sự tiến bộ của chính mình cũng là điều tốt, vì như vậy sẽ đỡ khổ và đỡ làm hỏng việc.

Tất cả những lời nguyền hy sinh cao cả đều được bề trên nhận đủ và xúc động trước tấm lòng thành khẩn. Các vị đều sẽ hộ trì cho vượt qua mọi khó khăn đau khổ. Sẽ có phần thưởng sau này. Đây không phải là lời an ủi mà đã có sự an bài một khi ta đã vượt mọi thử thách dám hy sinh cả hạnh phúc và sinh mạng mình để lo cho đại đồng. Các vị đều biết và hiểu rất tận tường. Cứ kiên nhẫn tiến bước học hỏi và chú tâm tu hành. Rồi sẽ có ngày được toại nguyện.

Nam Mô A Di Đà Phật


Những người có phận sự phải cố gắng giữ sự trong sạch từ thể xác đến tâm hồn để đóng góp cho sự quân bình của vũ trụ vì tư tưởng của họ rất là mạnh mẽ, hợp lực với nhau tạo thành một sức mạnh vô biên để đối nghịch với các tư tưởng quỷ quái ác độc làm hại cả vũ trụ.

Từ nay càng tịnh tâm tịnh khẩu ta sẽ càng biết nhiều và những điều biết đều không thuộc việc đời bên ngoài nữa.

Tất cả tai nạn bệnh tật đều đã được hóa giải sớm hơn cả dự liệu nhờ tâm ý mạnh mẽ nên đã đạt được. Tâm chuyển mệnh hóa giải tai nạn bệnh tật cả cuộc đời. Từ đây việc riêng của ta, ta phải lo, vì việc riêng đó là việc chung. Phải giữ cho tâm an tịnh thì ý chí càng ngày càng mạnh mẽ vô biên. Tâm tịnh sẽ ảnh hưởng cả bầu khí quyển huống chi một giai cảnh nhỏ của ta nào có gì. Mọi người muốn xáo trộn cũng không xáo trộn được. Nếu không nghĩ tốt không nghĩ xấu sẽ không hành tốt không hành xấu thì không nói tốt không nói xấu. Tâm giúp hành và hành giúp tâm vì không nghĩ tốt không nghĩ xấu sẽ không hành tốt không hành xấu thì bên ngoài không xáo trộn để ảnh hưởng ngược lại trong tâm. Vì bên ngoài xáo trộn sẽ làm tâm bất an như những lần xảy ra trong đời ta, mặc dù cứ tưởng ta không bị ảnh hưởng nhưng nó vẫn ảnh hưởng trong tận chiều sâu cho dù ngắn hạn cũng làm trở ngại cho việc tiến hóa. Thay vì lúc bị ảnh hưởng phải tháo lui hay ngừng lại là để tiến bước học những điều khác. Chớ tưởng là lúc mình bị xáo trộn trong hoàn cảnh là học những điều mới. Điều đó rất đúng nhưng phải tùy giai đoạn. Giai đoạn này khác, ta phải thật yên tĩnh và càng yên tĩnh càng học nhiều càng học nhanh, vì bên trên không chuyển đạt được tư tưởng cho một thể xác và trí óc lộn xộn. Đã qua giai đoạn học trong vô thức. Bây giờ đến giai đoạn học trong cái thức để sau này biết phải làm gì. Ta bắt đầu biết những điều ta biết. Giai đoạn này phải thật sáng như tấm gương mới có khả năng nhận được.

Lúc nào các vị cũng ở bên cạnh hộ trì, vì việc ta làm cũng là việc họ. Từ nay giới hạn nghĩ đến việc đời nhiều, không hẳn là không sống với đời, nhưng không nghĩ tốt xấu đối với họ nữa, và ta sẽ ngạc nhiên vì những điều tốt đẹp sẽ đến do sự không nghĩ tốt xấu của mình.

TA LÀ NGƯỜI

Cơ thể con người là một bộ máy hết sức tinh vi để giúp ta làm việc. Nhờ nó mà ta hiểu người và hiểu mình. Chỗ nào ta nên đến và chỗ nào ta nên đi. Tâm ta càng thanh tịnh thì càng hiểu bộ máy của mình nhiều hơn. Tâm tịnh, nhưng bộ máy vẫn làm việc, và làm việc nhạy hơn xưa, và ta hiểu rõ nó hơn xưa vì không còn bị nó ảnh hưởng. Trong người lúc nào cũng như hai người vậy, nhưng không phải hai người mà một người là ta còn một người là bộ máy cơ thể - hay bodymind, hay nó là cái computer, điện tử để ta đo lường. Nếu không có nó ta sẽ không hiểu người vì nó là con người. Nếu ta không ở trong nó làm sao ta hiểu được con người. Con người thật là phức tạp, họ khổ vì không làm chủ được. Dù vượt được sướng, khổ, vui, buồn, nhưng ta vẫn phải sống với con người và mang thân xác con người. Nếu không mang thân xác con người ta không làm việc của thiêng liêng được. Tuy không còn giận ghét ai cả. Tuy không nghĩ tốt nghĩ xấu nhưng cơ thể của ta cho biết con người xung quanh và hoàn cảnh xung quanh để ta biết việc gì phải làm, phải quyết định chứ không phải biết rồi để hoàn cảnh lôi cuốn hay đưa đẩy. Dòng đời đưa ta đi, nhưng ta phải lèo lái con đường ta, chứ không phải dòng đời lèo lái con đường ta. Ta phải tự chọn cho mình hoàn cảnh sống chứ không phải dòng đời chọn cho ta hoàn cảnh sống. Ta không cần phải lựa hoàn cảnh khó để học nữa, vì giai đoạn qua những hoàn cảnh khó đã giúp ta học ngược lại lại cơ thể con người mình. Bây giờ khi đã biết sử dụng nó thì phải dùng nó để dọ đường cho mình đi đến nơi nào cần thiết để có nơi an tịnh cho tâm hồn
vì nơi mà cơ thể con người ta gặp rắc rối thì ít nhiều nó cũng ảnh hưởng đến tâm hồn ta.

Nơi an tịnh, tâm hồn bình an sẽ có sự sáng suốt. Những gì tươi tốt đẹp đẽ sẽ đâm chồi nẩy lộc như cây hoa trước mắt ta vậy. Mỗi ngày ta ngồi thiền với nó. Mỗi ngày trông thấy nó xanh tươi cao dần cao dần trổ lá mỗi ngày mỗi đầy. Nó thật là yên lặng dường bao. Cây hoa này, Lily of the Valley, có năm chồi mà chỉ có bốn chồi mọc còn một chồi vẫn chưa mọc. Tư tưởng sẽ đến với ta bằng kinh vô tự. Kinh vô tự chỉ đến khi tâm hồn bình an yên tịnh. Càng sáng suốt sẽ học càng nhanh càng nhiều. Sự bình yên tâm hồn sẽ giúp ta không chán nản về con người nữa và giúp ta biết rõ vai trò của mình và công việc mà mình phải học và phải làm để tự phát triển thêm những gì cần thiết phải làm, phải học để khỏi mất thì giờ nói và làm những điều không cần thiết.


Vấn đề quan trọng bậc nhất là diệt cái Muốn. Cái muốn làm đầu óc con người bị u tối mất chủ định, sẽ đưa con người đến sự vô định, thất vọng vì không được cái mà mình muốn. Mỗi giây phút là một giây phút của Thức giác. Thức giác trong hơi thở, hành động. Đó là cái biết. Cái biết là cái Ngộ. Cái Ngộ sẽ giúp mình dừng lại - dừng suy nghĩ, dừng hành động theo sự suy nghĩ - chỉ hành động bằng thức giác trong cái tỉnh của mỗi hành vi. Con người chỉ sáng suốt khi không suy nghĩ. Đó là giây phút Giác Ngộ. Đức Phật Đại Ngộ vì lúc nào cũng giữ giây phút giác ngộ ấy liên tục trong đời sống, trong hơi thở. Giây phút giác ngộ bị lơ là thì sự suy nghĩ đến ngay tức khắc. Sự suy nghĩ chiếm đoạt bản thân, con người không còn làm chủ nữa mà lục căn lục trần làm chủ, và ta sẽ nghĩ, nói, hành theo lục căn lục trần. Lúc đó ta không phải là ta. Lúc đó ta là người của trần gian với tất cả những gì đã nhiễm từ hạt nhân qua nhiều đời kiếp cho đến hiện tại. Ta quên ta từ đâu đến, ta quên sự liên hệ của ta từ khối ánh sáng vô biên của Thượng đế. Chuyển tất cả sự thất vọng về chính mình trở nên sự quyết tâm cho Đại Ngộ Đại Giác toàn diện. Chuyển sự hối hận tự trách mình trở nên những bực thang giúp ta bước dần lên. Hãy vui cười trước lỗi lầm của người và của ta vì tất cả là phù du. Ta là Phật và người cũng là Phật. Chỉ trong một tíc tắc ta và người đều là người và ta và người đều là Phật. Như thế phiền não là ngu xuẩn. Niết bàn trong hơi thở và trong ta.

PHẢI HIỂU NGƯỜI


Học ở mình, ở Thầy mình chưa đủ. Mình đập vỡ mình, Thầy mình đập vỡ mình chưa đủ mà phải để cho mọi người xung quanh đập vỡ mình ra để học. Khi mình còn bị trở ngại vì những lời phê bình xung quanh và còn tự bào chữa là mình vẫn chưa thông suốt toàn diện.

Mọi việc mọi tác động hành động đều có lý do ở mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp xảy ra. Tất cả đều là những tấm gương để đo lường những cặn bã tập quán ở trong ta. Nếu còn trở ngại là ta vẫn chưa thanh lọc nó toàn diện. Thói hư, tật xấu, tập quán vẫn còn. Muốn như tấm gương sáng thì phải tẩy cho sạch, cho hết bụi bặm cặn bã của nó. Phải làm sao cho đến trình độ có hình mà như vô hình, có hữu mà như vô hữu, biết cũng như không biết, thấy cũng như không thấy, nghe cũng như không nghe. Tâm hồn và thể xác tự tại. Tự ái, tự tôn mất hết. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đều mất.

Phải thức tỉnh toàn diện thì mới bắt đầu thấy, nghe và hiểu THẬT SỰ được. Còn như hiện nay ta chỉ thấy, hiểu, biết qua giác quan thôi chứ chưa thật sự có LỤC GIÁC. Muốn có LỤC GIÁC phải có KHÔNG TÁNH. Muốn có không tánh phải hiểu tánh mình rốt ráo không còn dấu diếm với chính mình. Đào sâu nó, phanh phui nó toàn diện. Biết tánh rồi thì không xài nó, không hành theo nó nữa, mà chỉ theo dõi, kiểm soát nó để nắm vững nó chứ không phải dùng nó. Khi không dùng nó nữa thì nó giúp ta biết người với ý niệm không tốt, không xấu, không cao, không thấp, không dơ, không sạch.

Biết lục giác để làm gì?
Để hiểu người.
Hiểu người để làm gì?
Để giúp người.
Giúp người để làm gì? Bằng cách nào?

Hiểu người mới tìm ra phương cách giúp người để hoán chuyển, giúp họ thanh lọc để tạo sự quân bình của vũ trụ.

PHẢI BIẾT RÕ CÁC GIÁC QUAN

Phải dùng Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý như những phương tiện để ta có dữ kiện trong đời sống. Tuy nhiên ta không bị chúng ảnh hưởng mà phải dùng chúng theo mỗi hoàn cảnh sao cho phù hợp.

Làm sao biết làm gì cho phù hợp? Vậy nghĩ nói và làm phải dựa vào đâu nếu không bị ảnh hưởng của giác quan?
Khi không còn bị ảnh hưởng của giác quan mới có sáng suốt mới hiểu người hơn, thương người hơn. Không nghĩ tốt xấu và lúc đó mới biết lúc nào nói đúng và hành đúng, mới không gây nhân quả xấu.

Lục giác là gì?

Là biết rõ sáu giác quan. Trước hết phải biết cho tường tận sáu giác quan của mình. Khi hiểu sáu giác quan của mình mới bắt đầu thương và hiểu con người. Khi hiểu thương con người thì không còn ta và người mà ta và người là một. Lúc đó ta bắt đầu sống theo nguyên lý nhất nguyên thì Thiên đàng, Trần gian, Địa ngục là một. Không còn phân như xưa. Sự ước muốn thoát khỏi trần gian không còn. Sự sợ hãi đi xuống địa ngục cũng chấm dứt. Sự đắc Đạo cũng không mà đạt Đạo cũng dứt. Ta chỉ còn sự sống Bất Diệt trong ta

CHẤM DỨT MỘNG ẢO


Phải vượt qua sự vui, buồn, sướng, khổ để tâm luôn luôn có sự bình an tự tại. Luôn luôn phải sống trong thức giác ở mọi hoàn cảnh. Tất cả mọi việc xung quanh xảy đến đều có lý do cho ta học hỏi, đều là do sự vận hành hoán chuyển của thiên nhiên. Phải giữ sự bình yên tự tại. Suy nghĩ, tưởng tượng, lý luận về mọi trường hợp đều phải được chấm dứt vì đó là mộng ảo. Nếu sống theo mộng ảo sẽ đi đến sự sai lầm vì ta sẽ hành theo sự suy nghĩ lý luận của mình mà tạo sự rối loạn bên trong lẫn bên ngoài.


CƠ HỘI ĐỂ GIẢI THOÁT


Luật nhân quả là luật của Thượng đế con người không có quyền xen vào. Con người xen vào thì đương nhiên sẽ bị hậu quả của luật đó xử phạt.

Con người muốn bước ra khỏi luật nhân quả phải chấm dứt mọi dấy khởi và phải nhận thức ngay mọi sự dấy khởi. Sự dấy khởi hay cái Muốn là nguồn gốc Tham Sân Si Hỉ Nộ Ái Ố. Cái Muốn phát nguồn từ cái Tôi ích kỷ. Khi cái Tôi không còn, sự dấy khởi của cái Muốn cũng không còn, con người sẽ được an nhiên tự tại nhẹ nhàng. Lúc đó thật sự có như không có, làm như không làm, biết như không biết. Lúc đó mới thật sự đạt được sắc tức thị không, không tức thị sắc. Lúc đó mới thoát được chữ Mệnh.

Cái gì là Thiên Mệnh và Nhân Mệnh?

Thiên Mệnh là sự giải thoát. Thượng đế đã cho con người mọi điều kiện để hướng mình đi đến giải thoát. Nhân Mệnh là chính con người đã tự kềm chế mình bằng tham vọng sân si hỉ nộ ái ố. Tất cả những phương tiện mà Thượng đế đã ban cho con người dùng để tự vượt qua hầu đi đến giải thoát thì con người lại dùng chúng để kềm chế mình tạo thêm nghiệp quả chồng chất để rồi cứ tự mình nhận lấy những nghiệp quả của chính mình tạo ra - không lối thoát.

Bất cứ giờ phút nào con người cũng có cơ hội để tự giải thoát - khi thức tỉnh phải dừng ngay mọi hành động, lời nói, khi bắt được những dấy khởi trong tâm thức mình. Phải thật sự thành thật với chính mình để mình không gạt mình bằng mọi lý do lấp liếm. Phải bước ngay ra hoặc tránh bước của bộ máy nhân quả ấy của Thượng đế. Bộ máy không thiên vị cho bất cứ ai, không nhận sự khẩn cầu của bất cứ ai và nhân nhượng cho bất cứ ai.

Bước ra ngoài luật nhân quả là ta bước vào Thiên Mệnh.




KHÔNG LƯỜNG GẠT CHÍNH TA

Nếu muốn bước ra khỏi vòng LUÂN HỒI thì phải bước ra khỏi luật NHÂN QUẢ, phải có KHÔNG TÁNH.

Ở mỗi khởi niệm nơi tâm ta, ta phải đặt ngay câu hỏi ? Khởi niệm này để làm gì? Có mục đích gì?

Mục đích tốt sẽ đem lại kết quả tốt, mục đích xấu sẽ đem lại hậu quả xấu. Cũng có thể mục đích tốt lại đem hậu quả xấu mà mục đích xấu lại đem đến hậu quả tốt. Cả hai mục đích đều đưa ta vào luật nhân quả.

Như vậy khi trong tâm ta có niệm khởi ta phải xem xét nó tường tận. Nếu nó có mục đích và hậu quả, ta phải tập cho nó qua đi.

Phải làm sao cho nó qua đi và quên hẳn. Vì nó qua đi lúc đó nhưng nó sẽ trở lại trong lúc khác?

Nếu không xem xét tường tận và còn tự dối mình thì nó sẽ trở lại. Nếu xem xét nó, phân tích nó tường tận cộng với môt ý chí sửa mình thì dần dần ta có thể bỏ qua một khởi niệm một cách dễ dàng và quên nó một cách dễ dàng. Bộ máy tinh vi con người của ta khi ta biết nó rành mạch tường tận thì nó trở nên thật dễ dàng để điều khiển. Ta sẽ hoàn toàn làm chủ nó nếu ta không còn lường gạt ta. Sự thành thật, chân chánh với chính ta là điều hệ trọng trong việc tu hành.


Nếu tâm ta không còn vọng niệm thì ta có được sự im lặng tuyệt vời của Đức Phật. Sự im lặng đó gọi là Tịnh Tâm hay Định. Khi con người đạt được ĐỊNH TÂM sẽ bắt đầu có sự sáng suốt, khi đó Trí Tuệ mới bật sáng gọi là TUỆ GIÁC.

Minh Tâm Kiến Tánh là gì?

Tâm hồn ta trong sáng ta sẽ hiểu ta rồi ta sẽ hiểu người. Khi hiểu người rồi ta sẽ biết ta sẽ làm gì nói gì để giúp người.


GIÁC QUAN PHẢI NHẠY BÉN


Khi vượt được lục căn lục trần không có nghĩa là ta mất hết cảm giác, mà cảm giác còn nhạy hơn xưa. Điều quan trọng của người vượt qua là biết nó tường tận mà không bị nó lôi cuốn quyến rũ xô đẩy đi tìm nó. Mũi ngưỉ phải biết mùi thơm nhưng không bị mùi thơm quyến rũ. Tai nghe phải biết hay biết dở, nhưng không bị cái hay cái dở ảnh hưởng đến mình. Ăn phải biết ngon, mặc phải biết đẹp nhưng không sống để ăn mặc đẹp. Cũng biết sung sướng, đau khổ, nhưng sự sung sướng đau khổ không làm mình quên mình, không làm mình quên con đường mình đang đi phải hướng về đâu.

Tất cả những giác quan của mình là hồng ân của Thượng đế ban cho con người phải biết lúc nào sử dụng chúng và sử dụng chúng bằng cách nào cho đúng cách đúng chỗ.

Người tu không phải tìm cách cho giác quan mình bị chai lì mà càng ngày càng trui luyện cho giác quan mình được bén nhạy hơn. Giác quan có bén nhạy mình mới hiểu mình được nhiều hơn, theo dõi mình kỹ hơn và mình bắt mạch mình nhạy bén hơn. Giác quan càng phát triển càng nhiều, càng hiểu mình thì càng hiểu được con người hơn vì bộ máy con người tinh vi vô cùng, rất khó mà đo lường.

Bộ máy con người không phát triển đến mức tối đa thì ta không tài nào đo được bộ máy con người xung quanh mình được.

Bài này Bác vuive đăng.

KÍNH.