kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Ðề tài: Bí ẩn Trầm Hương

  1. #1

    Mặc định Bí ẩn Trầm Hương

    Bí ẩn trầm hương - Kỳ 1: Vài dòng lịch sử

    Trên thế giới, giá bán cao nhất 1 kg trầm hương có thể lên tới 160 triệu đồng, còn giá 1 kg kỳ nam thì lên đến mức hoang tưởng: 7 tỉ đồng. Sự kỳ dị đó của giá cả, cộng với sự thiếu trách nhiệm trong quản lý tài nguyên thiên nhiên đã khiến cho trầm hương vốn không bao giờ thiếu trên rừng núi chúng ta suốt hơn 4.000 năm qua, đã gần như bị tuyệt chủng chỉ trong vòng 35 năm.


    Ông Nguyễn Phúc Ưng Viên

    So với giá cả trên mây xanh thì những tri thức về trầm hương vẫn còn dưới mặt đất. Người ta biết quá ít về nó. Tri thức về trầm hương nghèo nàn đến mức sách vở chỉ trích qua trích lại 2 tài liệu, xưa nhất là của Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục), gần nhất là của Đỗ Tất Lợi. Còn tài liệu khoa học trên thế giới thì chủ yếu nói về đặc tính của cây dó, liệt kê các hoạt chất và một số dược lý của trầm, chưa ai nói được cặn kẽ trầm được hình thành như thế nào, có những giá trị độc đáo gì mà giá của nó mắc đến như vậy.

    “Trong đau thương dó biến thành trầm”, tôi từng đọc ở đâu đó câu thơ này, nó khiến ta suy tư về lẽ sinh tồn của đời người. Trầm đã hình thành đúng như thế. Khi nào thân cây dó bị một vết thương (do va đập, do bị côn trùng đục, bị bom đạn...), xung quanh vết thương đó lâu ngày biến thành trầm. Vì hiểu được “nguyên lý” này nên ngày nay người ta có thể làm trầm “nhân tạo”, tức là trồng cây dó rồi tạo ra vết thương, cấy hóa chất vào để gây tác động cho ra trầm. Đến nay, nhiều người đã trồng dó và đã lấy được trầm theo phương pháp trên, tuy trầm nhân tạo có mùi thơm của trầm nhưng giá trị như thế nào thì vẫn còn mù mờ.

    Thực ra, tôi không quan tâm mấy đến trầm hương, ngoài sự liên tưởng về cái “đau thương” nói trên. Cho đến khi tôi gặp được một kỳ nhân dụng trầm tôi mới hiểu sự “đau thương” đó có quá nhiều bí ẩn.

    Đó là ông Nguyễn Phúc Ưng Viên. Là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mệnh, ông Ưng Viên gọi vua Minh Mệnh bằng ông cố. Theo “đế hệ thi” của vua Minh Mệnh thì hàng “Ưng” ngang với vua Hàm Nghi và là hàng ông nội của vua Bảo Đại. Hàng “Ưng” nay chỉ còn vỏn vẹn 3 vị: ông Ưng Linh hiện ở Đà Nẵng gần 90 tuổi, ông Ưng Ân ở Huế gần 80, ông Ưng Viên trẻ nhất, mới xấp xỉ 70. Giải thích về thứ bậc và tuổi tác của mình trong dòng họ, ông bảo: “Tôi thuộc dòng thứ”.

    Ông Ưng Viên sống ở TP.HCM như một ẩn sĩ âm thầm chữa bệnh cứu người. Từng có thời gian tiếp cận khá sâu vào ngành y của người Mỹ, nhưng ông không theo nghề bác sĩ mà chuyên tâm ứng dụng thuốc nam - xin lưu ý là thuốc nam chứ không phải thuốc bắc. Cả nhà ông không bao giờ sử dụng thuốc tây, kể cả đối với những vật nuôi như con heo con gà. Ông bảo dân tộc Việt từ một nhóm nhỏ mấy ngàn người, đã dựa vào thiên nhiên mà sống, mà sinh sôi phát triển mà mở rộng bờ cõi, đến nay đã lên tới hơn 80 triệu người, dân tộc đó ắt phải biết cách phòng và chữa bệnh bằng chính những gì mình có. Thuốc tây mới du nhập vào khoảng 150 năm nay thôi. Thế giới có biết bao nhiêu là trận dịch chết người hàng loạt, còn trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Việt Nam có một trận dịch nào khiến nhiều người chết không? Chết hàng loạt vì đói thì có, còn chết hàng loạt vì dịch thì không.

    Ông cũng không coi trọng thuốc bắc bằng thuốc nam. Ông bảo từ ngàn năm trước người Việt hằng năm phải cống nạp các thầy thuốc giỏi cho Trung Quốc. “Dòng họ tôi, chỉ riêng thời nhà Đinh đã phải cống nạp đến 18 thầy thuốc giỏi sang Tàu”, ông nói.

    La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã từng nhắc vua Quang Trung rằng nước Nam ta sẽ còn phụ thuộc vào Trung Quốc chừng nào vẫn còn phụ thuộc vào thuốc bắc.

    Tổ chức Y tế thế giới ngày nay cũng khuyến nghị loài người nên áp dụng những thức ăn - dược liệu hữu ích của các dân tộc có lịch sử lâu đời để chăm sóc sức khỏe. Việc sử dụng tảo Spirulina từ châu Phi cho cả thế giới là một minh chứng.

    Tôi phải giới thiệu sơ qua một chút “lý lịch” của ông Ưng Viên, không phải để nhấn mạnh cái gốc hoàng tộc của con người này, mà vì nó liên quan đến tư cách “dụng trầm” và y thuật của ông. Mọi người đều biết, Lê Quý Đôn ở Đàng Ngoài, mà trầm thì xuất từ Trung Bộ, nên dù là một nhà bác học nhưng Lê Quý Đôn chỉ có thể khảo sát qua tư liệu cổ và hỏi thêm một số người khai thác trầm để viết sách, ông không thể có cơ hội trải nghiệm với trầm. Còn nhà Nguyễn, chính là gia tộc dụng trầm số 1, tính từ Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) trở đi.

    Có những cuộc tương ngộ làm nên lịch sử. Riêng cuộc tương ngộ giữa Nguyễn Hoàng và Nguyễn Bỉnh Khiêm thì làm nên một cuộc xoay trời chuyển đất. Đọc sử sách ta chỉ biết đến lời khuyên nổi tiếng “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với Nguyễn Hoàng, nghe lời khuyên đó mà họ Nguyễn được bảo toàn để cho Việt Nam có thêm một nửa giang sơn gấm vóc. Nhưng không lẽ Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ giúp cho Chúa Tiên một lời khuyên thôi sao? Sử sách không ghi thêm điều gì nữa. Sử sách cũng chỉ cho biết Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Trạng Trình tinh thông dịch số, là nhà nho yêu nước thương dân, là một ẩn sĩ “thu ăn măng trúc đông ăn giá”, là một nhà tiên tri. Chỉ là nhà tiên tri sao có thể khiến được cả ba nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn đều đến xin tham vấn trong những thời điểm ngặt nghèo? Nhà tiên tri, dù nổi tiếng đến đâu cũng chỉ có thể thuyết phục được người thường, đâu có thể khiến nổi các bậc đế vương đem sự nghiệp tiền đồ của mình mà gửi gắm. Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn là sự bí ẩn của lịch sử.

    Cho đến một buổi trưa ông Ưng Viên đãi tôi ăn món thịt dê do chính ông nấu. Tôi chưa bao giờ được ăn món thịt dê ngon như vậy. Nó ngon dĩ nhiên là do sự thiện nghệ của người nấu, nhưng nó còn ngon hơn vì câu chuyện được nghe. Ông Ưng Viên nói một trong những thứ mà Chúa Tiên mang vào Nam là những đàn dê, việc này do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đề nghị. Dê là con vật độc đáo, không những có giá trị y thực phục vụ sức khỏe cho dân chúng, mà còn rất tiện ích cho hậu cần quân sự. Dê dễ nuôi, có thể dẫn các đàn dê theo quân, khi có chiến sự chúng ở đâu nằm im ở đó không chạy nhặng xị như trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối trong quân, một con dê có thể phục vụ gọn bữa ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông của ông Ưng Viên dặn dò con cháu ngoài việc nhớ ơn và thờ phụng tổ tiên mình, còn phải nhớ ơn và thờ phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm là người đề xuất với Chúa Nguyễn từ chiến lược chiến thuật, từ chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ thể liên quan đến bảo vệ sức khỏe cho quân dân như món ăn, bài thuốc để làm hành trang Nam tiến. Trong đó có chuyện “dụng trầm”.

    Nhà Nguyễn để lại nhiều di sản, có thứ để lại cho lịch sử, có thứ chỉ để lại cho con cháu. Những ai nói công thức rượu Minh Mệnh đã bị thất truyền là nhầm to. Hoàng tử Vĩnh Giu con vua Thành Thái, thuộc hàng cháu nội ông Ưng Viên, lúc khốn khó đã bỏ rượu cho các nhà hàng để sinh sống, đó là rượu Minh Mệnh chính hiệu. Ông Ưng Viên cho hay ông Vĩnh Giu có giữ bí quyết làm men nhưng không biết làm rượu, chính ông đã làm rượu giúp cho ông Vĩnh Giu. Rượu cung đình nhà Nguyễn có tới 175 dòng men, hơn 3.000 loại rượu. Ông Vĩnh Giu lưu giữ được 30% dòng men, ông Ưng Viên giữ được 70%. Chỉ riêng hai ông gộp lại cũng đã đủ 175 dòng, không có dòng men nào thất truyền cả, chỉ có điều là chúng không được truyền ra ngoài.

    Còn việc dụng trầm thì kế thừa tri thức của tiền nhân do Nguyễn Bỉnh Khiêm truyền lại, nhà Nguyễn đã có gần 400 năm ứng dụng trầm hương trong y học và đời sống, kể cả phục vụ quốc phòng, rồi hoàn thiện pho y lý về trầm hương, đồng thời có chính sách hữu hiệu bảo vệ triệt để nguồn tài nguyên trân quý ấy. Ông Ưng Viên kế thừa đủ di sản dụng trầm của dòng họ, do ông nội ông truyền lại, những bí quyết đó cũng không truyền ra ngoài.

    (thanhnien)



    Cây trầm ở độ cao 1.500m trong dãy Yang Sin (Buôn Ma Thuột) trên 100 năm tuổi, mật độ nhiễm trầm 80% được ông Ưng Viên tạc thành tượng Phật. Tượng cao 2,82m, chu vi đế 3m

  2. #2

    Mặc định

    Bí ẩn trầm hương - Kỳ 2: “Thọ thiên địa chi khí...”

    Hương trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được. Dùng một dụng cụ xông hương, cho vào một loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hương, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau…


    Trầm hương và vòng đeo tay bằng kỳ nam

    Trầm hương sinh ra từ cây dó (cá biệt cây xương rồng cũng có thể cho ra trầm). Trong thiên nhiên có nhiều loài dó, nhưng theo ông Ưng Viên thì chỉ có cây dó bầu mới cho ra thứ trầm có thể chữa bệnh được.

    Trên thế giới, trầm tập trung chủ yếu ở 6 nước: Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Indonesia, Malaysia, trong đó trầm Việt Nam có dược lý tốt nhất, những nghiên cứu khoa học mới đây về trầm của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc cũng xác nhận trầm Việt Nam có nhiều hoạt chất mà trầm các nơi khác không có.

    Tại Việt Nam, trầm tốt nhất tập trung ở vùng Phú Yên, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Ninh Thuận, đây chính là “quê hương” của trầm, loài người phát hiện ra trầm khởi thủy là từ vùng này. Trước đây, từ Việt Nam, trầm được dùng làm cống phẩm đưa sang Trung Quốc. Trong các cống phẩm, trầm hương là thứ quý nhất. Tất nhiên các thầy thuốc giỏi nhất được cống theo để “hướng dẫn cách sử dụng”. Và từ đây, trầm hương đã theo con đường tơ lụa sang Trung Cận Đông, Địa Trung Hải...

    “Thọ thiên địa chi khí, tẩy vũ trụ chi trược, giáng khí trừ đàm, thiện trị phế phủ, chỉ tả bổ dương, thị là thế thượng trân chi giả...”, đó là đoạn tóm tắt y lý của trầm hương trích trong sách gia truyền của cung đình nhà Nguyễn mà ông Ưng Viên đọc cho tôi nghe, tạm dịch: “Tích tụ khí thiêng của trời đất, tẩy trừ mọi thứ ô uế trong không gian, có tác dụng giáng khí trừ đàm, chữa các bệnh thuộc phế phủ, chữa các bệnh về tiêu hóa, bài tiết, thận và tim mạch (chỉ tả bổ dương - nghĩa rộng), chính là thứ trân quý nhất”.

    Trầm có thể được sử dụng trong cả ngàn bài thuốc khác nhau, nhưng trước hết hãy nói về “thọ thiên địa chi khí”.

    Ai cũng biết không phải cây dó bầu nào cũng có thể sinh ra trầm. Trong rừng tự nhiên từ 1.000 đến 1.500 cây mới có một cây có trầm và từ 10.000 đến 20.000 cây có trầm mới có một cây có kỳ nam.

    Khi cây dó bị một vết thương, vết thương đó phải đọng nước qua một mùa mưa, cây dó mới bắt đầu tiết ra chất nhựa xung quanh vết thương để tự vệ. Người ta thấy nhiều cây dó cho trầm chi chít những mắt trên thân cây, những mắt chi chít đó là vết tích do một loài côn trùng đục vào thân cây, dân gian gọi nó là con bọ xòe.

    Khi chất nhựa dần dần trở nên đậm đặc, lúc ấy những con kiến sẽ bò vào ăn chất nhựa này. Đó là một loài kiến cao cẳng, màu vàng hoặc màu đen.

    Chính những con kiến kia mang theo các phân tử trầm hương (một loài nấm) vào “cấy” trong lớp nhựa. Loài nấm này tương tác với các hoạt chất của lớp nhựa, dưới tác động của khí hậu bên ngoài và sự tương tác diễn ra trong một thời gian rất dài mới sinh ra trầm, tương tác càng lâu trầm càng có giá trị. Thông thường, cây dó phải có tuổi thọ hơn 50 năm mới có thể cho ra một thứ trầm có giá trị chữa bệnh.

    Về giống “kiến cao cẳng” mang phân tử trầm vào cây dó, ông Ưng Viên lưu ý không phải kiến cao cẳng nào cũng làm được điều này. Phải theo dõi rất nhiều năm mới phát hiện ra, chúng không bao giờ làm tổ trên những cây trầm. Đây là giống kiến rất quý về dược liệu, trứng của nó rang lên có thể chữa được chứng méo miệng, cấm khẩu (liệt dây thần kinh số 7, số 21). Trứng của giống kiến này không thiếu trong kho tàng dược liệu của ông Ưng Viên.

    Tôi hỏi xin ông một tấm hình về những con kiến đó, ông lắc đầu từ chối: “Tuyệt đối không nên đăng ảnh của nó lên trên báo, đăng lên là nó bị người ta tận diệt ngay. Người của tôi đi lấy trứng kiến, mỗi lần lấy không bao giờ quá 1/3 tổ trứng. Lấy tới 1/2 là nó tuyệt chủng rồi”. Ông Viên còn mô tả những đặc tính của loài kiến trên nhưng tôi không dám ghi ra đây vì cũng sợ chúng sẽ bị... tuyệt chủng.

    Quá trình hình thành trầm hương theo một “cơ chế” tưởng chừng đơn giản như vậy nhưng thật ra là vô cùng kỳ bí. Cho nên người xưa nói “thọ thiên địa chi khí” là đúng nhất. Con người đã khẳng định hương trầm là “vua của các mùi hương”. Hàng ngàn năm nay trầm được xông trong các cung điện vua chúa, tại các lễ nghi thiêng liêng của các tôn giáo. Nó là “danh hương” trong các nghi lễ tôn giáo.

    Trong thiên nhiên có rất nhiều thực vật có tinh dầu phát hương ra không gian, nhưng chỉ có trầm là thứ mà nguồn phát ra hương không bao giờ cạn, từ lúc trong rừng núi cho đến khi đem ra chế tác, lưu giữ. Người ta phát hiện các mảnh trầm nằm dưới đáy các giếng cổ Chămpa, qua hàng ngàn năm mà khi lấy lên hương thơm vẫn còn nguyên vẹn. Ngày nay trầm còn được dùng làm chất định hương cho mỹ phẩm, nước hoa Chanel No.5 và các thứ nước hoa nổi tiếng khác trên thế giới không thể không có trầm hương.

    Hương trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân biệt được (riêng kỳ nam có ít mùi hơn và không có vị ngọt). Dùng một dụng cụ xông hương, cho vào một loại trầm thông thường, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hương, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau, thay đổi theo thời gian, khi thì mùi hoa sen, khi thì mùi hoa hồng, khi thì vani, khi thì mùi gỗ thông, khi thì mùi xạ hương... Điều lạ lùng nữa là trong những thời điểm giống nhau mà tại địa điểm khác nhau mùi trầm hương cũng thay đổi.

    Điều này khoa học chưa đủ khả năng giải thích. Một nhóm nhà khoa học Nhật Bản đã thử làm khảo cứu phân biệt hương thơm của một số sesquiterpen carboxylic acid trong tinh dầu trầm và nhận thấy có khi chỉ vì vị trí của một dấu nối đôi như hai chất selina-3,11 và selina-4,11 dienal mà mùi hương rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói, chất kia phảng phất hương bạc hà.

    Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan, dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi, còn khác nhau ở hướng các nhóm methyl cũng cho ra các mùi khác nhau (dẫn theo tiến sĩ Võ Quang Yến, Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Đà Nẵng 2008). Khoa học chỉ mới biết tới đó, còn vì sao lại có sự “biến tấu” như vậy thì khoa học đành chịu, ở đây vẫn là quá trình “thọ thiên địa chi khí”.

    Ông Ưng Viên còn lưu ý: Trầm hương và kỳ nam là khác nhau, không phải kỳ là cái lõi của trầm. Một cây dó có trầm dù lâu năm đến bao nhiêu cũng không nhất thiết có kỳ nam, ngược lại một cây dó có kỳ nam không nhất thiết có trầm bên cạnh. Chúng được tương tác bởi hai loài nấm khác nhau. Kỳ nam hiếm hơn nên mắc tiền hơn, nó quá mắc tiền vì từ lâu nó được con người sở hữu như một “linh vật”, nhưng giá trị chữa bệnh và ứng dụng trong đời sống của kỳ nam thì không bằng trầm.

    (thanhnien)

  3. #3

    Mặc định

    Bí ẩn trầm hương - Kỳ 3: Dụng trầm

    Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con người, theo 3 con đường: xông, uống và ăn.

    Trầm trong thiên nhiên có tác dụng khử độc không khí, trừ lam chướng, làm trong sạch môi trường sống. Người xưa biết rõ điều này nên mới tổng kết: “tẩy vũ trụ chi trược”.


    Chế tác trầm thành tác phẩm nghệ thuật

    Khử uế một cách triệt để

    Tính chất “tẩy vũ trụ chi trược” có thể đem áp dụng để khử uế. “Khử uế một cách triệt để, ngoài trầm hương không thứ gì giải quyết được”, ông Ưng Viên khẳng định. Và tôi được biết một câu chuyện thú vị.

    Vào năm 2008, một tàu của Mỹ chở thuê hải sản tải trọng 1 vạn tấn, khi cập cảng Nhà Bè (TP.HCM), cảng vụ phát hiện tàu bị ô nhiễm nặng (mùi hôi thối quá mức), nên không cho phép xuất cảng vì theo quy định quốc tế thì tàu phải được xử lý ô nhiễm mới được rời khỏi cảng. Kỹ thuật khử uế của người Mỹ trên tàu không giải quyết được. Cảng vụ phải mời các chuyên gia của một viện từ Hà Nội vào xử lý cũng không xong.

    Người phụ trách công việc ở cảng có quen biết với ông Ưng Viên nên mời ông thử xử lý giúp. Ông Ưng Viên đồng ý, với một điều kiện: các thủy thủ phải uống một thứ rượu có pha… nguyên liệu xử lý tàu. Quá khiếp với điều kiện này, nhưng thấy người ở cảng “gương mẫu” uống trước, các thủy thủ cũng uống.

    Chỉ sau 1 ngày 1 đêm, ông Ưng Viên đã giúp xử lý sạch con tàu bằng hai phương pháp: nửa phun, nửa xông. Các thủy thủ vô cùng kinh ngạc về kết quả trên đã gọi điện cám ơn ông rối rít và vui mừng cho biết sau khi uống thứ rượu đó sáng ngủ dậy trong người lại khỏe ra. Rượu đó chính là rượu pha trầm. Còn thứ nước phun xử lý tàu thì vẫn còn 60 lít họ xin được mang theo.

    Kể lại câu chuyện này với tôi, ông cười nói: “Tôi cho họ mang về 60 lít nước đó, nhưng chắc chắn họ không thể phân tích được nó có những chất gì”. Phương pháp của ông là di sản gia truyền “Bí mật quân lương và khử uế tàu chiến” của cung đình nhà Nguyễn. Chất liệu căn bản của nó là trầm hương và trà.

    Tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe

    Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con người, theo 3 con đường: xông, uống và ăn.

    Về y lý, hương trầm xông lên có tác dụng điều khí, rất tốt cho sức khỏe. “Xông hương trầm thường xuyên không bị máu đông ở động mạch, phổi không bị nghẽn, xoang không bị viêm, không u bướu, không liệt dương liệt âm lãnh cảm…”, ông Ưng Viên vừa nói vừa đưa tôi tới gần bình xông trầm đang ngát hương. Cái bình xông trầm này do ông cùng 2 kỹ sư người Nhật và Đài Loan nghiên cứu chế tạo, nguyên liệu được lấy bằng thứ cát đặc biệt tại Nha Trang ở độ sâu 20 mét. Bình xông trầm hiện nay trên thị trường có thứ của Nhật, có thứ của Hàn Quốc, có thứ của Trung Quốc, Đài Loan, xông bằng những cái bình ấy có thể giải phóng được 50% hương trầm, còn bình xông của ông có thể giải phóng được 95%.

    Ông Ưng Viên tỏ ra bức xúc về vấn nạn sức khỏe do môi trường ô nhiễm hóa chất và thức ăn công nghiệp hiện nay khiến cho các bệnh về hô hấp và tiêu hóa gia tăng. Hai phương thang: Ôn tì bình vị (gồm trầm, xuyên bối mẫu, toàn quy, thăng ma, bạch truật…) và Kiện tì tiêu thực (gồm trầm, xuyên khung, bạch truật, toàn quy, liếu tiếu thảo…) có thể giải quyết triệt để các bệnh này, không tái phát.

    Các thang “Thanh khí ôn phế”, “Điều huyết dưỡng khí”, “Nhứt dâm cửu dựng”, “Ôn dương cố thận”… như tên gọi của chúng, chữa những bệnh về đường hô hấp, khí huyết, bổ dương… đều dùng trầm làm vị chủ. Ông Viên không coi trọng những bài thuốc “tráng dương”. “Tráng dương” thì nhất thời. “Bổ dương”, “ôn dương” mới là sự bền vững, mà chuyện này thì không thứ gì qua nổi trầm.

    Việc dụng trầm của ông Viên hình như đạt đến độ xuất thần nhập hóa. Như trên đã nói, trong những giờ khác nhau trầm tỏa ra các mùi hương khác nhau. Chỉ riêng việc lấy trầm từ cây trầm ra để chế biến cũng được thực hiện vào những thời khắc thích hợp, tùy theo khí hậu, loại bệnh và đặc tính của từng người bệnh. Ngay cả trong chuyện đơn giản hơn như ẩm thực, ông cũng áp dụng các nguyên tắc này.

    Ông nói cũng là thứ rau húng trồng trong một vườn rau nhưng có khi ăn thấy ngon, có khi ăn không thấy ngon. Vì sao vậy? Vì rau ăn không ngon là do hái không đúng giờ. Rau húng phải hái vào lúc 5 - 6 giờ sáng hoặc 5 - 6 giờ chiều thì ăn mới ngon, vì những thời điểm đó rau tiết ra những chất tốt nhất, còn các giờ khác thì rau tiết ra một số chất xấu.

    Sự trải nghiệm với trầm của ông Ưng Viên còn thể hiện ở lượng trầm mà ông đang có. Hơn 30 năm nay ông đã dùng hết tài sản và đi vay mượn để tích lũy cả một kho tàng: Hơn 60 tấn trầm và kỳ nam, gồm 36 cây trầm lớn, bình quân mỗi cây gần 2 tấn, mật độ ăn trầm từ 60-80%. Những cây trầm ông giữ đều được lấy theo đúng nguyên tắc: tất cả đều đã chết rũ trên rừng, vận chuyển về đều hợp pháp, có dấu búa kiểm lâm. Phần lớn những cây trầm ông đang có là độc nhất vô nhị, không còn tồn tại trong thiên nhiên.

    Nhà ông ở TP.HCM có một xưởng chế tác trầm, có một “đội thợ trầm hoàng tộc” - là hậu nhân của các thợ trầm cung đình khi xưa giúp việc. Ông và những người thợ tạc những cây trầm thành các tác phẩm nghệ thuật để lưu giữ lại cho con cháu, ông chưa hề bán và sẽ không bán một kg trầm nào. Ông dùng lớp vỏ sát lõi có nhiễm tinh dầu trầm và kỳ nam để làm thuốc, đó là phần làm thuốc tốt nhất. Lớp ngoài nữa, nhiễm tinh dầu ít hơn, ông dùng làm nguyên liệu cho nồi xông chữa bệnh. Lớp ngoài cùng dùng làm hương.

    Tôi nhiều lần được đến xem xưởng trầm của ông, nghe ông giới thiệu xuất xứ của từng cây trầm và đặc tính của từng loại trầm. Ở đây có đủ các loại trầm, các loại kỳ nam. Tôi hỏi ông, ông Lê Quý Đôn nói đốt trầm lên thì khói xoáy rồi sau mới tan, còn đốt kỳ nam thì khói lên thẳng và dài, nói như vậy có đúng không. Ông cười, bảo rằng nhà bác học Lê Quý Đôn rất giỏi nhưng ông ấy không có cơ hội tiếp cận đầy đủ với “hiện vật” nên vừa đúng vừa sai.

    Khói vút lên thẳng như sợi dây là đúng, nhưng chỉ đúng với kỳ nam hương thôi, còn các loại kỳ nam khác thì khói vẫn xoáy. Ông vừa nói vừa chỉ vào một cái hốc của cây trầm cao to trong xưởng đã tạc thành tượng, ở đó lộ ra một cái lõi to và dài màu vàng sậm: “Kỳ nam hương là thứ này đây, chỗ này ít nhất cũng vài chục kg”. Kỳ nam hương giá rẻ hơn các loại kỳ nam khác, khoảng 2 - 3 tỉ đồng trên thị trường thế giới, nhưng có giá trị chữa bệnh tốt nhất trong các loại kỳ nam, tuy kém thua trầm.

    Các bài thuốc:

    Trầm kết hợp với thịt dê - ngọc dương, nghệ vàng, nghệ đen, măng tre (vắt lấy nước), nước gạo rang … ăn vào có thể làm sáng mắt, thính tai, trị chứng đau nhức.

    Trầm kết hợp với chè, có thể ngừa và trị được các “mắc mứu” ở phổi, đường hô hấp, tim mạch, tiêu hóa.

    Trầm làm rượu, uống vào sáng mắt, trị viêm họng, đau dạ dày, nghẽn động mạch tim, làm mạnh thần kinh cơ bắp.

    Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng có thể trị triệt để các bệnh về tiêu hóa của trẻ nhỏ.

    Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng cộng thêm với chè có thể chữa kiết lỵ, tiêu chảy, thương hàn.

    Trầm kết hợp với trúc nhự (dịch măng tre) có thể chữa chứng cành hông, làm tiêu hóa không bị xáo trộn.

    Trầm kết hợp với ma hoàng trị được các bệnh phụ khoa.

    Trầm dùng trong thang “Diệc nhan minh mục” (kết hợp với các thảo dược khác) làm cơ thể trẻ lại, mắt sáng ra.

    (thanhnien)

  4. #4

    Mặc định

    Bí ẩn trầm hương - Kỳ 4: Hãy cứu những cánh rừng có trầm

    Hiện nay, dó bầu tự nhiên ở độ cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã khai thác hết trầm, người ta còn đốn sạch cả những cây dó chưa có trầm mang về nấu dầu xuất khẩu. Cứ băm ra 1 tấn cây dó mới nấu được 1 lít dầu trầm…


    Một đoạn gỗ trầm

    Ông Ưng Viên lưu ý: Trên thị trường cả nước hiện lưu hành 4 loại trầm là trầm dó bầu, trầm dó dây, trầm niệt (còn gọi là trầm nghiệt), giả trầm hương. Trong 4 loại đó, chỉ có trầm dó bầu mới có giá trị trong chữa bệnh. Nhưng phân biệt giữa chúng là rất khó, phải có kiến thức mới biết được. Vì vậy, phải hết sức cảnh giác để tránh tiền mất tật mang.

    Ông Ưng Viên có quan điểm y học khá độc đáo: trị bệnh là trị riêng cho từng người, không có thứ thuốc sản xuất hàng loạt nào có thể hoàn toàn chữa đúng bệnh. Cùng một thứ bệnh, nhưng ở người này có biểu hiện khác với người kia. Cùng một loại vi khuẩn, khi xâm nhập vào cơ thể người này sẽ cho triệu chứng khác với khi xâm nhập vào cơ thể người khác. Chẩn đúng bệnh và cho đúng thuốc, là quan điểm chữa bệnh nhất quán của ông.

    Ông Ưng Viên kế thừa y lý chân truyền của dòng họ, ông cũng được tiếp thu những tài liệu y học cổ truyền Trung Hoa từ thời Hán - Đường. Các phương pháp “chân truyền” và những sách vở về Đông y đang được lưu hành nhiều khi rất khác nhau, thậm chí mâu thuẫn. Sở dĩ có tình trạng như vậy, là do tương truyền vào thời cuối nhà Thanh, khi phương Tây tấn công Tử cấm thành, triều đình sợ những tài liệu của tổ tông của họ bị “lọt vào tay địch” nên cất giấu đi, thay vào đó là những quyển sách được “viết ngược”, tức là y lý đã bị đặt lộn tùng phèo, giống như Hoàng Dung đã chép lộn ngược Cửu âm chân kinh giao cho Âu Dương Phong để ông này luyện mà tẩu hỏa nhập ma trong truyện của Kim Dung. Các danh y trong lịch sử thường được sư phụ trực tiếp truyền thụ, vì những bí quyết thực sự không bao giờ nằm trong các sách vở trôi nổi. Thầy phải chọn trò có tư chất, có tư cách để truyền bí quyết.

    Trong các bài thuốc của ông bao giờ cũng có hai vị căn bản: trầm và… tre. Ông bảo cây tre có giá trị y học không kém gì trầm. “Không có bài thuốc nào tổ tiên tôi để lại mà không dính tới cây tre”, ông quả quyết. Ngay cả tre ngâm bùn cũng có thể làm thuốc chữa được chứng hoại tử. Theo ông, trầm và tre là hai thứ bảo đảm nền tảng cho sức khỏe. Nguyên lý của tre: điều hòa khí mạch; nguyên lý của trầm: điều khí bình huyết.

    Ông khuyên tôi nên viết nhiều về cây tre, còn đối với trầm thì viết in ít thôi, vì trong một thời gian dài báo chí quá đề cao sự mắc tiền của nó nên đã góp phần dẫn đến sự tuyệt chủng của trầm. Tôi hiểu sự bức xúc của ông.

    Ông cho rằng, hiện nay các bệnh viện nhi mỗi ngày có rất đông bệnh nhân bị bệnh về khí phế quản và tiêu hóa, nếu phương thuốc giản đơn của dân tộc từ trầm được thẩm định để đưa vào chữa bệnh thì chi phí có thể giảm được đến hơn 90%. Ông chỉ cho tôi một cây trầm cao khoảng 2 mét, đường kính khoảng 20 cm dựng trong xưởng trầm nhà ông và nói: “Nếu mỗi ngày chữa cho 10 người bệnh thì phải 100 năm mới hết cây trầm này. Thực ra dùng trầm để chữa bệnh như dùng muối nêm vào canh, không tốn nhiều tiền mà hiệu quả. Vấn đề là xã hội phải thay đổi cách phòng và chữa bệnh, biết tận dụng các phương pháp hiệu quả mà cha ông ta đã trải nghiệm hàng ngàn năm nay”.

    Nhưng dù dùng trầm “như muối nêm” thì cuối cùng nó vẫn hết nếu không có cách khai thác phù hợp. Cho nên vấn đề cấp bách nhất là phải nhanh chóng chặn đứng sự tàn phá để giữ và khôi phục những gì còn sót lại trên những cánh rừng có trầm.

    Hiện nay, dó bầu tự nhiên ở độ cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã khai thác hết trầm, người ta còn đốn sạch cả những cây dó chưa có trầm mang về nấu dầu xuất khẩu. Cứ băm ra 1 tấn cây dó mới nấu được 1 lít dầu trầm, để bán lấy 15.000 - 20.000 USD một lít, người ta đã hủy diệt gần xong một nguồn tài nguyên quý giá của dân tộc. Trữ lượng dó bầu tự nhiên hiện còn không nhiều và chỉ có ở độ cao trên 1.000 mét. Tại độ cao đó cây dó mọc rất thưa, hiện tượng ăn trầm ít.

    Theo ước tính của ông Viên, nếu như Nhà nước có biện pháp cứu những rừng có dó, lệnh cấm rừng được thực thi triệt để, 50 năm nữa thiên nhiên mới có thể tái tạo lại rừng có trữ lượng dó bằng khoảng 23 - 35% của thời kỳ trước năm 1975. Cùng với việc cấm rừng, phải cấm triệt để việc xuất khẩu trầm tự nhiên theo CITES (Quy ước thương mại quốc tế về những loài động vật và thực vật hoang dã lâm nguy).

    Ngày xưa, mỗi năm chỉ duy nhất một lần, nhà Nguyễn chọn những người có hiểu biết, có tư cách để cho vào rừng khai thác trầm trong vòng 1 tháng, luật của triều đình chỉ cho phép lấy trầm tại những cây dó đã chết rũ, tuyệt đối cấm lấy trầm trên những cây còn sống. Điều đáng lưu ý là sau này khi người Pháp sang cai trị nước ta, quy định đó của nhà Nguyễn vẫn được áp dụng một cách nghiêm ngặt. Bởi vậy mà dù các rừng trầm hàng ngàn năm vẫn còn nguyên vẹn, nhưng người dân mỗi khi cần vẫn có trầm hương để dùng với giá không quá mắc.

    Con người hiện tại là những kẻ kiêu ngạo với thiên nhiên, nên cái giá phải trả là rất đắt. Đã đến lúc chúng ta nên tỏ ra khiêm tốn. “Thiên nhiên sẽ tha thứ nếu con người biết phục thiện”, ông Ưng Viên nói.

    (thanhnien)

  5. #5
    Nhất Đẳng Avatar của MrLove
    Gia nhập
    Oct 2007
    Nơi cư ngụ
    www.tudienkybi.com
    Bài gởi
    1,871

    Mặc định

    Cảm ơn Mod Love_TamLinh. Bài viết rất tuyệt vời :D
    Từ Điển Kỳ Bí - Bí mật của Shiva

  6. #6

    Mặc định

    Bài sưu tầm rất hay. Cám ơn LOVE TÂM LINH
    Chỉ tiếc là cái gì cũng gia truyền . Rồi sau này chẳng may những cái gia truyền mai một.
    thì con cháu chúng ta nếu có nghe thấy , chúng lại bảo là <<chỉ được cái mê tín>>

  7. #7

    Mặc định Bán hương trầm: vòng, nụ, que, bột trầm

    Hương vòng, hương que, bột trầm, trầm nụ trong dịp cúng lễ tổ tiên, đất trời, thần thánh. Bột trầm hoặc trầm nụ bạn có thể đốt trong lư để thanh lọc không khí trong văn phòng
    Chi tiết liên hệ: Hiếu - Công ty CP thương mại An Phát
    Sđt: 0165 970 5668/043 6368515. Website: http://www.tramhuonganphat.com
    103E8 Quỳnh Mai, Hai Bà Trưng, Hà Nội

  8. #8

    Mặc định

    cảm ơn bài viết .chúc cụ LOVE TÂM LINH binh an manh khỏe

  9. #9

    Mặc định

    Không “ngậm ngải” vẫn tìm… trầm

    “Đồi Trăm Tỉ, trại Dây Lang” không xa lạ gì đối với các phu trầm, bởi chỉ có ăn ngủ ở trại Dây Lang đi tìm trầm trên đồi Trăm Tỉ mới hốt bạc.

    Cây dó bầu sau một thời gian khai thác tìm kỳ nam hiện đang có nguy cơ bị diệt chủng. Riêng cây dó gạch, trước đây các phu trầm đã dùng rựa dạt (băm) vào thân cây tìm trầm sánh. Từng tốp thợ trầm “thư” như vậy, từ năm này qua năm khác, không chịu nổi “sức ép” từ phu trầm, cây không còn nhựa sống, ngã chết rục. Khi chôn vùi dưới lá ủ, bản thân cây dó gạch đã có trầm cám bám ngoài da (bì), quá trình mưa, nắng, chôn vùi dưới lòng đất trầm cám vẫn “ăn” da, tích tụ trầm, gọi là trầm bì mà hiện nay các phu trầm kỳ công tìm kiếm.

    “Công xưởng” của phu trầm

    Từ làng Chín Bếp (xã Phú Mỡ) băng qua suối Lạnh đi sâu vào khu rừng Chín Cụm (9 ngọn núi cao) đến dốc Bom (giáp ranh làng Mèo, tỉnh Gia Lai), giữa mênh mông rừng núi âm u rộng hơn 22.000 ha, không có nơi nào không có dấu cuốc của phu trầm. Đặc biệt năm nay “mỏ trầm” dưới lòng đất “lộ thiên” hàng trăm người trúng đậm trầm bì.


    Hàng trăm phu trầm dàn hàng ngang cuốc đất xới rừng tìm trầm

    Trên một đoạn đường ngắn từ Trạm Quản lý và Bảo vệ rừng Chín Bếp vào đến trại ông Đồng “đen” khoảng 3 cây số, chúng tôi bắt gặp nhiều tốp phu trầm từ rừng sâu đi ra, trong đó có những gương mặt trúng trầm nói cười hớn hở. Những người trúng trầm khi nhìn thấy chúng tôi bỗng dưng mặt họ tái nhợt vì tưởng là công an hoặc kiểm lâm giả dạng đi bắt, nên vừa qua khỏi cầu Suối Lạnh họ leo lên xe phóng đi mất hút.

    Tại trại ông Đồng “đen” có đến hàng trăm chiếc xe gắn máy của phu trầm gửi giống như nhà gửi xe của công nhân một công ty nào đó. Ông Phạm Thành Đồng (thường gọi là phu trầm Đồng “đen”), được xem là “thổ địa” rừng trầm, cho biết: “Ở đây mới có một bãi gửi xe đầu đường, còn đi sâu vào Chín Cụm, Dốc Bơm, trại Tôn thì có nhiều bãi gửi xe khác, mỗi bãi có hàng trăm chiếc như thế này”.

    Sau một hồi trò chuyện xởi lởi “nói gần, nói xa” dò xét tình hình, ông Đồng “đen” chấp nhận dẫn chúng tôi vào tận chỗ phu trầm đang cuốc đất tìm trầm. Trước khi thành lập chuyến “hành trình” vào rừng sâu, chúng tôi đã tìm hiểu kỹ công việc cuốc đất tìm trầm và được nhiều người cảnh báo, không được giới thiệu là phóng viên báo chí vì nếu giới thiệu như vậy phu trầm “thiến” liền, nhưng ngược lại họ quý mến.

    Tại khu rừng Suối Lạnh, hàng trăm người dàn hàng ngang dưới bóng cây rừng già cuốc đất, đất được cuốc lên họ ngồi xuống bóp vỡ vụn ra tìm trầm bì. Họ làm việc hăng say giống như công nhân của nhà máy chạy theo dây chuyền công nghiệp. Hàng trăm phu trầm đến từ nhiều nơi, mỗi tốp 5-7 người, có tốp sắp phải về vì hết lương thực, có tốp vừa đặt chân đến, họ đi chuyến đầu tiên. Ông Huỳnh Thanh Tuấn, một phu trầm ở thôn Suối 1, xã Xuân Quang 1, huyện Đồng Xuân, giãi bày: “Vì cuộc sống phải mưu sinh thôi, vất vả lắm. Có lúc mải mê moi đất tìm trầm quên ăn cơm, khi bụng cồn cào với gói cơm treo trên cành cây, lấy xuống kiến đã tha gần hết phải ăn “ké” người bên cạnh”.

    Ông Trương Đắc Ty, một phu trầm ở xã Xuân Quang 3 (Đồng Xuân), cho biết: “Cả khu rừng già rộng lớn, phu trầm họ cuốc đi cuốc lại 2-3 lần/ngày, cuốc đến nỗi đất tơi xốp. Nghề này kể cũng lạ, có người cuốc đi không phát hiện ra trầm nhưng người khác đến cuốc lại, chỉ moi vài lát là lại hốt ra bạc”. Đang tâm sự thì phía dưới chỗ ông Ty ngồi, có người hô: “Thằng Cu Em trúng hàng rồi!”. Chúng tôi đến đó xem, Cu Em chìa ra một miếng trầm bì to bằng ngón tay út, dài 5cm, xoắn tròn nhưng chỉ cần đụng tay vào là vỡ vụn. Vì vậy, Cu Em sau khi nhặt lên cẩn thận dùng túi nilon cuộn tròn rồi bật lửa hơ cho nilon chảy ra rồi nhẹ ép kín vào. Cu Em giãi bày: “Miếng này khoảng 1 zem, cầm chắc 20 triệu đồng, nếu trúng trầm thì không có lương “ông to, bà lớn” nào theo kịp”.

    Với một đội ngũ phu trầm hàng trăm người, họ đào xới hàng ngàn hécta rừng như vậy nên các loại cây gỗ quý như chò, sến, cứt sắt, gụ… lớn nhanh như thổi, cao hàng chục mét, thẳng đuột. Ông Đồng “đen” phân tích: “Từ Suối Lạnh đi bộ nửa ngày đường nữa thì đến đường Trường Sơn, trước đây là con đường vận chuyển muối, lương thực của cách mạng từ Gia Lai về Phú Yên và ngược lại. Khi Mỹ phát hiện ra con đường này, bọn chúng rải chất độc da cam nên rừng bị thiêu rụi, từ sau ngày giải phóng đến nay rừng hồi sinh, nhờ đất tốt và sự “chăm sóc” của phu trầm mà cây lớn nhanh”.

    Ông Phạm Kỳ Sinh, nhân viên Trạm Quản lý và Bảo vệ rừng Chín Bếp (thuộc Ban Quản lý rừng phòng hộ Đồng Xuân), cho biết: “Nhờ đất lúc nào cũng tơi xốp nên hàng ngàn hécta rừng phòng hộ đầu nguồn lớn nhanh. Chúng tôi đi kiểm tra hằng ngày, người tìm trầm chỉ cuốc sâu từ 1-2 lát cuốc (30-40cm) nên không ảnh hưởng gì đến rễ cây mà ngược lại làm cho đất thoáng khí”.

    Hiện nay, những người đi tìm trầm không cầu mong tìm trúng trầm bắp (kỳ nam nhung hình thành từ cây dó bầu), vì gần 30 năm qua toàn khu rừng này có đến hàng triệu bàn chân con người dẫm nát để tìm kỳ nam. Người ta chỉ mong gặp được trầm bì, là vỏ cây dó gạch bị dạt bỏ lâu ngày dưới đất tạo thành trầm.

    “Luật rừng” ở đồi Trăm Tỉ

    Có một khu rừng phu trầm trúng đậm nhất và họ đặt tên là đồi “Trăm Tỉ”. Theo các phu trầm, trước đây khu rừng này rộng lớn, cây cao to và có cả những dây leo rậm rạp trên tán lá rừng giống như hình mái tóc con Xì Rô nên họ đặt tên là đồi Xì Rô. Khu rừng này là “vùng đất ăn trầm”, trầm bì đậm nhất, bao nhiêu tốp phu trầm “hốt” tiền tỉ từ khu rừng này, vì thế cái tên Xì Rô đi vào quên lãng và phu trầm đặt một cái tên khác, đồi Trăm Tỉ.

    Từ khu rừng Suối Lạnh vượt lên rừng cao tiến sâu vào khoảng 5 cây số, mới đến được khu rừng rậm đồi Trăm Tỉ. Theo các phu trầm, hiện nay “mót” trầm bì ở đồi Trăm Tỉ vẫn có người trúng đậm.


    Nai lưng cuốc, hai gô nhựa đeo sau lưng, có người cuốc đất đến còng lưng không tìm được một vảy trầm

    “Đồi Trăm Tỉ, trại Dây Lang” không xa lạ gì đối với các phu trầm, bởi chỉ có ăn ngủ ở trại Dây Lang đi tìm trầm trên đồi Trăm Tỉ mới hốt bạc. Vì vậy cách đây khoảng 3 năm, hàng ngàn người đổ xô về đây moi trầm bì trúng đậm, theo giới phu trầm thống kê thì từ trước đến nay trúng trầm ở đây lên đến hàng trăm tỉ. Ông Nguyễn Văn Hùng, phu trầm ở thôn Suối Cối 1, xã Xuân Quang 1, cho biết: “Có ngày đồi Trăm Tỉ người đi “đụng” đầu, nhiều đến nỗi cả khu rừng rộng gần 200ha, ranh giới mỗi người cuốc trong phạm vi to bằng sân đất trước nhà (trung bình khoảng 100m2) cứ thế, hằng ngày họ thay phiên nhau đào xới”.

    Tại đây có một chuyện xảy ra bất ngờ, hôm qua có một người cuốc tại khu đất này không gặp, hôm nay người khác đến cuốc lại trúng hàng trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo luật rừng ở đồi Trăm Tỉ, không tranh giành khi thấy bạn trầm trúng trầm, núi rừng ở đây rất linh thiêng nên họ sợ nhất lời nguyền rủa. Vì vậy, trong lúc chén trà, chén rượu giữa rừng nói gì thì nói phải kiêng chửi thề, nguyền rủa nhau. Một điều đặc biệt nữa là khi trúng trầm thì không được cuốc thêm nhát nào nữa mà phải để cuốc chỗ đó về mua, gà, vàng mã lên cúng. Cúng xong mới được cuốc tiếp. Còn những bạn trầm khi thấy cuốc đặt chỗ đó cũng không được tranh giành.

    Đi giữa rừng sâu chúng tôi bắt gặp những cái am nghi ngút khói hương, những phu trầm kể vanh vách tên tuổi các cái am này: am ông Tèo, am ông Cư, am ông Minh… Cách đây khoảng 3 tháng, ông Nguyễn Ngọc Cư ở thôn Kỳ Lộ, xã Xuân Quang 1 – ông đã từng đeo đuổi theo nghề tìm trầm gần 20 năm nhưng vẫn nghèo xơ nghèo xác, trưa ngồi ăn cơm, mới ăn nửa bữa thì bất ngờ một nhánh cây khô rơi xuống trúng đầu, ông Minh ngã gục chết tại chỗ. Trước đó, anh Nguyễn Văn Minh, quê ở thị trấn La Hai (Đồng Xuân) cưới vợ người ở thôn Kỳ Lộ, mặc dù có nghề thợ điện nhưng nghe nói có nhiều người trúng trầm, anh Minh “dẹp” tiệm lên núi tìm trầm, trong một lần dời trại bước chân lên mỏm đá trượt chân xuống vực sâu chết không một lời trăng trối… Sau đó những người “tiếp bước” đến họ lập cái am thờ tên tuổi những người này.

    Moi đất tìm tiền triệu

    “Chưa có con số thống kê chính xác bao nhiêu người trúng trầm vì trong một chuyến đi có người trúng vài chục triệu đến vài trăm triệu, thậm chí có người “ôm” cả tỉ. Nhưng chỉ cần nhìn vào hàng trăm hộ dân ở thôn Kỳ Lộ, xã Xuân Quang 1 này thì mới biết, gần 80% nhà có xe tay ga cũng từ trầm mà ra” – một cán bộ xã Xuân Quang 1 thổ lộ.

    Lâu nay, người dân thôn Kỳ Lộ sống chủ yếu bằng nghề trồng mía và cây thuốc lá, thời gian rảnh, họ mang balô lên rừng tìm trầm. Thời gian tìm kỳ nam thì dân các nơi đến tìm trúng trầm bắp (kỳ nam), riêng thôn Kỳ Lộ không “đụng” được vảy nào. Khi cây dó bầu đã bị diệt sạch họ chuyển sang moi đất tìm trầm bì từ cây dó gạch. Cách đây 3 năm, mỗi chuyến đi cả tháng trời, ai may mắn lắm kiếm được vài chục triệu là cùng, riêng năm nay họ hốt bạc trầm bì.

    Ông Nguyễn Văn Tuân ở xã Xuân Quang 1 cho biết: “Hôm qua thằng Đại ở thôn Kỳ Lộ trúng cục bằng cổ tay, bèo lắm cũng trên 500 triệu đồng. Năm qua, hết tốp này đến tốp khác ở Kỳ Lộ thay phiên nhau trúng trầm. Gần tết họ sắm sửa vật dụng trong nhà thoải mái, còn lại họ mua xe, xe tay ga dựng bóng loáng, như nhà ông Ba Can có đến 3 chiếc tay ga”.


    Những người dân xã Xuân Quang 1 đi tìm trầm trên đường về

    Trước thông tin nhiều người phu trầm chuyên nghiệp ở Kỳ Lộ trúng đậm trầm bì, những người có của ăn, của để quanh vùng cũng cất bước lên đường. Mới đây, ông Chín Thanh nhà có hẳn một cái đại lý bán hàng tạp hóa, cũng lên núi cuốc đất, chuyến đi 7 người, nằm trên núi 1 tuần cố moi móc bán được 1 triệu đồng.

    Chẳng phải ai cũng có thể kiếm được tiền triệu như vậy. Nhắc đến bà Hai Nhờ, ở xã Xuân Quang 1, ai cũng biết, họ đều tặc lưỡi thương cho hoàn cảnh của bà. Năm nay gần 70 tuổi, không biết bao nhiêu chuyến đi trầm nhưng rồi cũng “phủi” tay về không. Bà Hai Nhờ sinh được 2 người con, người lành lặn thì bị trúng gió chết cách đây đã lâu, còn đứa con tật nguyền sống lay lắt với bà. Nghe nói nhiều người trúng trầm, bà ráng lên núi tìm trầm về chữa bệnh cho con, càng ráng đi thì càng không có. “Vài chuyến đầu, mỗi chuyến kiếm vài trăm ngàn đủ sắm chuyến, càng về sau thì không có đồng nào” – Bà Hai Nhờ mếu máo nói.

    Anh Nguyễn Văn Nam ở thôn Suối Cối 1 (xã Xuân Quang 1) – một người “ăn dầm, nằm dề” tìm trầm kéo dài gần cả tháng ở đây nói: “Tìm trầm đã trở thành một nghề ở địa phương này từ khá lâu rồi. Anh Nam cho hay, mỗi chuyến đi thường kéo dài một tháng. Người tìm trầm phải dùng tay moi lá ủ, cuốc đất tìm trầm bì. Chuyến đi vừa rồi, nhà Nam cả 3 anh em trai cùng đi. 30 ngày, tìm được ít trầm bì, cả 3 bán được 8,5 triệu đồng chia nhau. Tuy không nhiều nhưng Nam cho biết “vậy là tạm được”, bởi lẽ có những chuyến các anh ở lùng sục trong rừng hàng chục ngày trời vẫn phải trở về tay không…

    “Chúa rừng” nuôi trầm

    Trước sự ồ ạt đi tìm trầm thì cây dó bầu ở rừng sâu này đã bị diệt chủng, cây dó gạch chỉ còn thưa thớt mấy cây nhỏ vừa mới mọc 3-5 năm tuổi. Xót xa trước “mỏ trầm” cạn kiệt và những cây dó gạch trước nguy cơ bị hàng trăm tay cuốc bứng gốc, ông Phạm Thành Đồng, ở xã Xuân Quang 1, bỏ công bứng cây dó gạch còn may mắn sống sót đem về trồng bảo quản trong lán trại.

    Trồng cây dó gạch ông không màng đời mình được hưởng trầm vì quá trình tạo trầm trong một thời gian rất dài. Ông chỉ mong muốn các ngành chức năng có phương án trồng lại cây dó gạch để con cháu được hưởng “lộc rừng”.

    Tại khu rừng Hà Đan, UBND tỉnh Phú Yên cấp giấy phép cho Công ty TNHH Cây Xanh (trụ sở đóng tại khu Công nghiệp An Phú, TP Tuy Hòa) với 1.600 hécta rừng để trồng cây dó bầu. Ông Phạm Thành Đồng được công ty này thuê bảo quản khu vực trên. 8 năm qua vợ chồng, con cái “đùm túm” lên ở nơi biệt lập giữa núi rừng để trông coi, chăm sóc cây dó bầu. Từ lán trại của ông, hàng trăm người từ các tỉnh đến ở nhờ. Ban đầu biết mặt, sau nhiều chuyến đi họ kết nghĩa bầu bạn với ông. Ông Đồng kể, thời kỳ tìm kỳ nam “năm thì mười họa” mới có tốp người trúng trầm bắp (kỳ nam nhung), đến thời gian tìm trầm bì trước đây trúng lai rai, riêng chỉ có năm nay trầm rộ nhiều. Thấy họ trúng nhiều đến nỗi ông khuyên con trai đi moi trầm. “Ông xui tôi từ miền Tây ra chơi, thấy trúng trầm cũng ở lại moi tìm, chàng rể tôi cũng đang cuốc rừng trên đó” – Ông Đồng tâm sự.

    Tuy nhiên, chứng kiến cảnh phu trầm tận diệt các loại cây dó mà ông thấy đau nhói lòng mình. Ông Đồng phân tích: Để tìm được trầm, khi các phu trầm phát hiện được cây dó, họ dùng rựa dạt (băm) vào thân cây lấy từng miếng dăm rồi dùng lửa đốt xem có bay mùi thơm không (có mùi thơm thì trầm đã tích tụ). Những cây dó bầu ở vùng đất tốt “sung sức” to bằng vòng tay người ôm, chưa tích tụ trầm họ vẫn băm để chỗ thương tật đó tạo trầm. Từng tốp thợ trầm “thử” như vậy dạt năm này qua năm khác đến nỗi cây không còn nhựa sống, ngã chết rục. Đối với cây dó gạch, phu trầm cũng “tìm trầm” như vậy để tìm trầm sánh (từng miếng trầm bám sánh trong thân cây có màu đỏ quạch, có người gọi là hầu). Loại cây dó gạch này quá trình hình thành trầm sớm hơn, khoảng 10 năm đã có trầm cám bám ngoài da, khi chịu không nổi “sức ép” của phu trầm, cây cũng chết rục. Ngược lại khi bị lá ủ, quá trình mưa nắng chôn vùi dưới lòng đất trầm cám vẫn “ăn” cây, tích tụ trầm, gọi là trầm bì mà hiện nay các phu trầm kỳ công tìm.

    Xót “của quý” nơi rừng già, 2 năm qua ông Đồng lặn lội tìm cây dó gạch khắp ngõ ngách đem về gần lán trại trồng, trông coi. Cây dó gạch là loại cây to không còn, một ngày bỏ công đi khắp rừng bứng được một vài cây con từ 3-5 năm tuổi về nuôi. Hai năm qua tôi dăm được gần 50.000 ngàn cây. Nếu nhà nước đầu tư trồng dó gạch thì tôi có giống tại rừng” – Ông Đồng cho biết.

    Ông Nguyễn Lộc, Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ Đồng Xuân cho biết: “Qua khảo sát trên 22.000 ha rừng đầu nguồn huyện Đồng Xuân, trong đó có 17.000 ha rừng phòng hộ và 5 ha rừng sản xuất thì cây dó bầu hiện không còn, chỉ có cây dó gạch loại cây con còn sót lại thôi”. Giải pháp ngăn chặn người tìm trầm ồ ạt vào rừng, để nuôi dưỡng được cây dó thì theo ông Lộc khó mà ngăn chặn vì giữa vùng rừng núi rộng bao la họ đến đây bằng nhiều con đường.

    (petrotimes)

  10. #10

    Mặc định

    chị love oi em cũng mói hiễu biết chút ít về trầm huong lên muốn học hỏi chút ít kiến thúc nếu chị có thêm thông tin j về trầm làm ơn send mail cho em học hoi voi honhtravel@gmail.com

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Người tình Hồi giáo có hương thơm kỳ dị của Hoàng đế Càn Long
    By Bin571 in forum Lịch sử, giai thoại, truyền thuyết của các nước khác
    Trả lời: 6
    Bài mới gởi: 17-02-2011, 07:10 PM
  2. Ngậm ngãi tìm trầm
    By Bin571 in forum Ngãi
    Trả lời: 13
    Bài mới gởi: 15-01-2011, 11:15 AM
  3. Người bí ẩn hiện trong mơ của 2.000 người
    By Bin571 in forum Sưu Tập Khác...
    Trả lời: 3
    Bài mới gởi: 10-01-2011, 10:35 AM
  4. Bí ẩn của linh hồn
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 08-01-2011, 09:55 PM
  5. Tưởng Giới Thạch - Bí ẩn lần đưa tiễn cuối cùng
    By Bin571 in forum Lịch sử, giai thoại, truyền thuyết của các nước khác
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 26-12-2010, 04:07 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •