Buà chú và phù phép
03.11.2010 14:52



Bùa chú là một loại bí thuật trấn yểm để giúp người cầu xin đạt được ước vọng của họ, nhưng bùa chú cũng là hành vi ma thuật để hại người khi muốn trả thù hoặc triệt hạ một ai đó không vừa ý.

Bùa có thể là một tờ giấy, một bông hoa, một tượng Phật, một hình nhân , một cành cây hay một vật thể nào đó để thầy pháp họa bùa hoặc khoáng bùa trên đó, chú là câu niệm, câu đọc cầu xin được giúp đở để thỏa mãn yêu cầu.

Bùa có nhiều loại như bùa yêu, bùa thuốc, bùa ngãi, bùa úm (bùa chài ếm), bùa trấn yểm.
Trên thế giới nước nào dân tộc nào cũng có bùa chú. Như bùa chú trấn yểm Kim Tự Tháp ở Ai Cập với lời chú ai quấy nhiểu Pharaon đều bị tử vong, và thực sự đã có nhiều người khi đi sâu vào hầm mộ bị nhiễm độc mà chết rất đau đớn.

Ở miền Nam có người đã dùng bùa ngãi để giữ nhà đề phòng trộm đạo khiến kẻ gian cứ đi lẩn quẩn trong nhà không biết lần lối nào mà ra.
Theo Hàn Phong “Thuật bùa chú có linh nghiệm hay không là do công phu tu luyện nội ngoại khí công và khả năng phát công của đạo sĩ vẽ bùa. Một tấm bùa có 2 tác dụng là tích trữ khí và truyền thông tin, tương tự như môn khí công-thư pháp. Người giỏi khí công khi viết thư pháp luôn phóng ra một trường khí trên giấy, trường khí này có ảnh hưởng nhất định đến vật chất xung quanh mà mức độ tùy thuộc vào công lực người viết…
Lý Thiết Bút, tác giả cuốn “Linh phù hiển linh quang” nổi tiếng Trung Quốc, cho hay, nguyên động lực của vẽ bùa là ở hai chữ “Thành” và “Tín”. Thành là thành tâm thực ý, chí thành thì linh, động đến trời đất; tín là tin tưởng hết lòng, tự nhiên sáng suốt, pháp lực vô cùng. Đó là một dạng tĩnh công. Lòng tĩnh lặng thì tạp niệm tiêu trừ, tà niệm không sinh, ác niệm không khởi, tâm-thần-khí-lực hợp nhất.

Mặt khác, để lá bùa trị bệnh hiệu nghiệm, các đạo sĩ phải biết kết hợp với tri thức y dược học. Các nhà khoa học Trung Quốc đã khám phá ra rằng các loại giấy, mực để vẽ bùa của các đạo sĩ là có công dụng trị bệnh theo đông y. Chẳng hạn, giấy ma chỉ có tác dụng cầm máu, giấy thanh chỉ làm lành vết thương, giấy thảo chỉ làm tan khối u… Các loại chu sa, hùng hoàng dùng vẽ bùa là các dược liệu có tác dụng dưỡng thần, trấn kinh… và còn rất nhiều phương pháp phối dược khác tùy theo trình độ của đạo sĩ.” (Thanhnien Online).

Trong các tự điển Việt hay Nôm “ bùa” thường được cho là tiếng thuần Việt nhưng lại là tiếng có gốc từ tiếng Hán Việt “phù” và đều được viết dưới dạng 符 ( phù). Quốc Ngữ viết là Bùa thiêng thì Hán Việt viết là Linh phù .
Nhưng có thật như vậy không? Khảo sát Thuyết Văn Giải Tự sẽ cho ta câu trả lời.


Một trang Thuyết văn giải tự


Theo Đỗ Thành: “Sách “Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự” do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm 2 phần là Thuyết văn và Trọng Văn.
- Phần Thuyết văn gồm 9.353 chữ, chia theo 540 bộ chữ.
- Phần Trọng Văn gồm 1,163 chữ, chỉ ra những chữ cùng âm cùng nghĩa nhưng mà cách viết khác nhau.

Sách Thuyết Văn gồm 14 chương chính và 1 chương mục lục, tổng cộng có 133.441 chữ trong lời ghi chú để giải thích chữ nghĩa. Năm Vĩnh Nguyên thứ 12 (Công nguyên, năm 100), sách Thuyết-văn được hoàn tất nhưng mãi đến năm Kiến Quang thứ nhất (Công nguyên, năm 121 ), Hứa Thận mới giao cho con là Hứa Xung dâng lên triều đình Hán .
Nguyên bản của Thuyết văn đã thất lạc, cũng là nhờ các thư tịch khác thời Hán và các đời sau đã dùng Thuyết văn để dẫn chứng nhiều, cho nên, sau nầy người ta có tài liệu biên soạn lại sách Thuyết văn. Thời Bắc Tống , rồi đến thời Mãn Thanh đều có người nghiên cứu và hiệu đính.
Sách Thuyết văn dùng 2 phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn. ( Nguồn gốc Chữ Nôm-Anviettoancau.net)

Khi dùng Phù để đọc theo lối phiên thiết thì thường cho ra các chữ có phụ âm đầu là “ph”
氛 fen1 祥气也。 符分切
(Phân [fen1] tường khí dã. Phù phân thiết)
Phân (fen1) khí lành. Phù phân = Ph+ân=phân)

咈 fu2 違也。” 符弗切
(Phất [fu2],vi dã , phù phất thiết) .
Phất (fu2), trái, phù phất = ph+ất= phất

吠 fei4 犬鳴也。 符廢切
(Phệ [fei4], khuyển minh dã, phù phế thiết).
Phệ, chó sủa, phù phế = ph+ế=phế =phệ

逢 feng2 遇也。 符容切
( Phùng [feng2], ngộ dã, phù dung thiết)
Phùng (feng2), gặp, phù dung thiết = ph+ung = phung = phù dung phản= phùng du=phùng.

Tuy nhiên nếu ta vẫn giữ nguyên âm “phù” để đọc theo cách phản thiết các chữ sau đây thì sẽ không đọc được vì các chữ này có phụ âm đầu là “b”

苹 ping2 蓱也。無根,浮水而生者。 符兵切
(Bình [ping2], bình dã, vô căn, phù thủy nhi sanh giả. Phù binh thiết)
Bình (ping2), bèo, không rễ, nổi trên mặt nước mà sống.
Chữ này nếu đọc với âm phù sẽ không cho ra âm bình mà ra phinh hay phình như vậy là sai, chứng tỏ âm phù không dùng được. Nhưng nếu ta đọc âm khác của phù là “bùa” thì đọc mới đúng, Bùa binh = b+inh= binh= bùa binh phản= bình bua=bình.

Các chữ dưới đây cũng tương tự như vậy:

皮 pi2 剥取獸革者謂之皮。。 符羈切
(bì[ pi2], bác thủ thú giả vị chi bì. Bùa ki thiết)
Bì (pi2) lột lấy da thú gọi là bì. Bùa ki = B+i= Bùa ki phản= bì kua= Bì

脾 pi2 土藏也。 符支切
(Tì [pi2], thổ tạng. Phù chi thiết)
Tì (lá lách), tạng thổ, Bùa chi = bi = bùa chi phản= bì chua = Bì->Tì

平 ping2 語平舒也。 符兵切
Bình [ping2] ngữ bình thư dã. Bùa binh thiết.
Bình (ping2) thư giãn, thỏa mái. Bùa binh= b+inh= binh = bùa binh phản= bình bua = Bình

貧 pin 2 財分少也。 符巾切
Bần [pin2] tài phân thiểu dã. Bùa cân thiết.
Bần (pin2), nghèo, Bùa cân = B+ân = bân = bùa cân phản = bần cua = Bần

疲 pi2 勞也。符羈切
Bì [pi2], lao dã. Bùa ki thiết
Bì (pi2) mệt mỏi. Bùa ki = B+I = bi = bùa ki phản = bì kua = Bì

痞 pi3 痛也编。 符鄙切
Bỉ[pi3]thống dã biên. Bùa bỉ thiết
Bỉ (pi3) , đau bên hông (chỗ lách). Bùa bỉ = B+ỉ = Bỉ

圮 pi3 毀也。 符鄙切
Bĩ [pi3], hủy dã, Bùa bỉ thiết
Bĩ (pi3), đổ nát, hủy hoại, Bùa bỉ = B+ỉ = Bĩ

Như vậy chữ 符 có thể đọc là phù mà cũng có thể đọc là bùa, hiện tượng này cho thấy bùa là một âm rất cổ, âm đó chỉ được lưu giữ tại Việt Nam. Tại sao người Việt giữ được hai âm cùng lúc mà người Hoa chỉ phát triển có một âm khiến cho họ không thể đọc đúng cách đọc phiên thiết do Hứa Thận ghi lại cách đây gân 2000 năm. Điều này chỉ có thể giải thích là người Hoa đã học tiếng với người Việt, tiếng Hoa có gốc từ tiếng Việt, người Hoa không giữ được âm gốc.
Mặt khác các chữ trên đọc theo lối thiết cũng không chính xác, chỉ có cách đọc theo lối phản tức là nói lái theo kiểu người Việt thì phát âm mới chuẩn.
Đây chỉ là một trong nhiều chứng dụ sẽ được trưng dẫn về sau. Ở đây cũng có thể kiểm chứng bằng một ví dụ khác:
Chữ Phụ 附 có thể đọc là bu4 hoặc fu4. Fu4 là phụ có nghĩa là thêm vào, như phụ bản, phụ biên, phụ chú. Còn âm bu4 chính là âm bù.
Ta có thể gọi âm Bù (附 ) và âm bùa (符) thuộc Tiền Nôm cho ra tiếng Hán Việt Phụ và Phù, để phân biệt với Nôm được cho mới xuất hiện vào đời Trần , Bù được viết là 補 hoặc 蒲 hay 哺.

nguyễn thiếu dũng