NGỌN ĐÈN SOI ĐƯỜNG GIÁC NGỘ hay là Bồ Đề Đạo Đăng Luận

Tác giả : Lama Atisa

Lama Atisa

Con xin tán dương

Đức Diệu Cát Tường
Văn thù Bồ Tát


1

Với lòng tôn kính

Con xin tán dương

Phật, là những đấng

Đại hùng của khắp

Mười phương ba thời;

Pháp, là giáo pháp

Do Phật truyền lại;

Tăng, là những vị

Bước theo Phật Pháp.

Đáp lời thỉnh cầu

Đệ tử cao trọng

Tên Jangchub O,

Con xin thắp sáng

Ngọn đèn soi đường

Dẫn đến giác ngộ.


2

Căn cơ người tu

Vốn có 3 loại

Thấp, vừa và cao,

Vì vậy thầy sẽ

Nói rõ căn cơ

Của từng loại người.


3

Có người vận dụng

Đủ loại phương tiện

Để tìm cho mình

Lạc thú thế gian.

Những người như vậy

Là bậc sơ căn.


4

Lại có người vì

An lạc cá nhân

Mà từ bỏ hết

Lạc thú thế gian,

Hết thảy ác nghiệp,

Họ đều không làm.

Những người như vậy

Là bậc trung căn.


5

Lại có những người

Đã từng phải chịu

Rất nhiều khổ não

Nên mang tâm nguyện

Tận diệt khổ đau

Cho mình, cho người.

Những người như vậy

Là bậc thượng căn.


6

Vì bậc thượng căn

Hướng về thượng Pháp,

Thầy sẽ nói về

Phương tiện tuyệt hảo

Do các đạo sư

Ân cần truyền dạy.


7

Đối trước tranh vẽ

Hay trước hình tượng

Của đấng vô thượng

Chánh đẳng chánh giác,

Đối trước bảo tháp

Và trước kinh điển,

Các con hãy tùy

Khả năng bày biện

Hương hoa cúng dường.


8

Thành tâm hiến cúng

Thất chi Phổ hiền

Theo hạnh nguyện vương,

Lập chí kiên quyết

Nguyện không quay lại

Nếu chưa đến được

Bến bờ nẻo giác.


9

Lòng tin kiên định

Đặt nơi Tam bảo,

Hãy quì một chân,

Và chắp hai tay,

Đọc câu phát nguyện

Qui y ba lần.


10

Rồi hãy để cho

Tâm Từ rộng mở,

Yêu thương hết thảy

Các loài chúng sinh.

Nhìn rõ chúng sinh

Vướng trong khổ não,

Khổ trong ác đạo,

Khổ vì sinh tử.

Hãy nhìn cùng khắp,

Đừng sót một ai.


11

Vì mong chúng sinh

Thoát hết tất cả

Khổ khổ, hoại khổ

Cùng với hành khổ,

Thoát cả nguyên nhân

Tạo nên nỗi khổ,

Nên lập đại nguyện

Phát tâm bồ đề

Quyết không thoái chuyển


12

Phát tâm như vậy

Mang ý nghĩa gì,

Đều đã được đức

Di lạc từ tôn

Giải thích rõ trong

Kinh Thân Tỏa Rộng.


13

Nhờ đọc kinh này,

Hay nhờ nghe giảng,

Mà hiểu tường tận

Lợi ích vô lượng

Phát tâm bồ đề.

Hiểu rồi phải gắng

Liên tục phát tâm,

Cho tâm bồ đề

Ngày thêm tỏa rạng.


14

Trong bộ Vira-

datta vấn kinh

Có giải thích về

Công đức Bồ đề.

Nay thầy nói lại

Ba câu chỉnh cú

Tóm lược ý kinh..


15

Công đức bồ đề

Nếu như có thân,

Thân ấy nhất định

Đầy ắp không gian,

Và còn tỏa rộng

Quá hơn vậy nữa.


16

Ai mang châu báu

Lấp đầy cõi Phật

Nhiều bằng số cát

Có trong sông Hằng

Để mà hiến cúng

Chư Phật Thế tôn,


17

Thì công đức ấy

Vẫn không thể sánh

Với đôi tay chắp

Tâm hướng bồ đề.

Vì công đức này

Bao la vô tận.


18

Tâm nguyện bồ đề

Một khi đã phát,

Phải hằng ghi nhớ

Phát triển không ngừng;

Đời này kiếp sau

Không bao giờ xa

Giới hạnh bồ tát.


19

Nhưng Tâm bồ đề

Sẽ không phát sinh

Nếu không dấn thân

Phát tâm thọ giới.

Vậy con hãy gắng

Thọ giới bồ tát

Cho bồ đề tâm

Bắt rễ đâm chồi.


20

Muốn đủ điều kiện

Thọ giới Bồ tát

Thì phải thọ giữ

Một trong bảy bộ

Giới Ba la đề (Praktimosha).


21

Chư Như lai thuyết

Về bảy bộ giới,

Cao nhất là giới

Dành cho tỷ kheo

Và tỷ kheo ni.

22

Làm theo lời kinh

"Thập Địa Bồ Tát"
Trong chương "Giới Luật",

Con hãy đi tìm

Vị thầy có đủ

Khả năng truyền giới.



23

Thầy đủ khả năng

Phải là vị thầy

Khéo biết nghi thức

Truyền giới Bồ tát,

Trang nghiêm giới hạnh

Đầy đủ tự tín

Và tâm từ bi

Truyền giới cho người.



24

Nếu tìm không gặp

Vị thầy như vậy,

Vẫn còn một cách

Thọ giới Bồ tát.



25

Trong Kinh Trang Nghiêm

Văn Thù Tịnh Độ

Có kể tường tận

Câu chuyện khi xưa

Khi ngài Văn thù

Còn là quốc vương

Am-ba-ra-da [Ambaraja],

Đã từng phát tâm

Theo phương pháp này.

Bây giờ thầy sẽ

Giải thích rõ ràng

Phương pháp phát tâm

Đúng theo như vậy.



26

"Con xin đối trước

Các bậc Hộ pháp,

Nguyện xin phát tâm

Vô thượng bồ đề.

Mời chúng sinh về

Chứng giám cho con,

Nguyện sẽ quảng độ

Chúng sinh thoát khỏi

Ràng buộc luân hồi”



27

"Từ nay đến ngày

Con đạt giác ngộ,

Nguyện từ bỏ hết

Tâm lý ô nhiễm,

Ác ý, giận dữ

Keo bẩn, ganh ghen.



28

"Nguyện giữ giới hạnh

Từ bỏ ác, tham,

Vui việc giữ giới

Nối gót chư Phật.



29

"Nguyện không vì mình

Mà ham mau chóng

Thành tựu giác ngộ.

Nguyện luôn ở lại

Làm người sau cùng.



30

"Nguyện sẽ làm sạch

Vô lượng cõi giới,

Làm nên tịnh độ

Không thể nghĩ bàn.

Nguyện vì những người

Gọi đến tên con,

Mà khắp mười phương

Con đều có mặt.



31

"Nguyện làm thanh tịnh

Hết thảy ác nghiệp

Từ thân ngữ ý

Mà phát sinh ra.

Mọi việc bất thiện,

Con đều không làm.

Trang nghiêm giữ gìn

Giới hạnh Bồ tát.



32

Lấy tâm bồ đề

Mà khéo giữ gìn

Ba loại giới luật,

Tâm sẽ kiên định

Vững tin nơi Giới.

Đây chính là nhân,

Khiến thân ngữ ý

Trở nên thanh tịnh.



33

Bồ tát phát tâm,

Kiên trì giữ giới,

Sẽ gom đầy đủ

Tư lương thành tựu

Vô thượng bồ đề.



34

Chư Phật dạy rằng

Nhân duyên khiến cho

Sung mãn hai bồ

Tư lương phước tuệ,

Chính là đạt Định.



35

Tựa như chim non

Không thể cất cánh

Vút lên trời cao;

Người thiếu Định lực

Không thể làm việc

Lợi ích chúng sinh.



36

Nếu chưa đạt Định

Thì dù cố gắng

Tu hàng trăm kiếp,

Được bao công đức

Vẫn không thể sánh

Công đức một ngày

Khi đã có Định.



37

Ai muốn nhanh chóng

Tích lũy hai bồ

Tư lương phước tuệ,

Thành tựu viên mãn

Vô thượng bồ đề,

Thì đừng biếng nhác.

Phải luôn kiên trì

Tu cho đạt Định.



38

Muốn cho đạt Định,

Tâm phải an trú.

Vậy phải không ngừng

Kiên trì cố gắng,

Tu Xa-ma-tha.



39

Nhưng nếu nhân duyên.

Đạt Xa-ma-tha

Vẫn chưa gom đủ,

Thì dù thiền chỉ

Kiên trì liên tục

Trăm ngàn vạn năm

Vẫn không thể nào

Khiến tâm an định

40

Vậy phải cố gắng

Gom đủ yếu tố

Đạt Xa-ma-tha

Như đã ghi trong

Công Đức Thiền Chỉ.

Hãy chọn đề mục

Để mà nhiếp tâm.



41

Bao giờ thành tựu

Được Xa-ma-tha,

Khi ấy cũng sẽ

Thành tựu được Định.

Nhưng nếu còn thiếu

Tuệ giác toàn hảo,

Vẫn không thể nào

Tận diệt tất cả

Các loại chướng ngại.



42

Muốn dẹp tất cả

Chướng ngại áng ngữ

Giải thoát, Giác ngộ,

Phải luôn tu Tuệ

Kết hợp cùng với

Phương tiện thiện xảo.



43

Tuệ thiếu Phương tiện

Phương tiện thiếu Tuệ

Đều thành dây trói

Ràng buộc luân hồi.

Vì vậy cần phải

Kết hợp cả hai.



44

Để tan nghi vấn

Về ý nghĩa của

Trí Tuệ, Phương tiện,

Thầy sẽ nói rõ

Về sự khác biệt

Giữa hai điều này.



45

Chư Phật dạy rằng

Ngoài hạnh thứ sáu

Là Tuệ Toàn Hảo,

Năm hạnh còn lại,

Kể từ hạnh Thí

Cho đến hạnh Định

Đều là Phương tiện.



46

Bất cứ là ai

Thuần dưỡng Phương tiện

Vận dụng trí Giác

Quán Tuệ Toàn hảo

Sẽ chóng thành tựu

Vô thượng bồ đề;

Chứ không thể chỉ

Quán về vô ngã

Mà thành tựu được.



47

Thấy được các uẩn

Và căn, thức, trần

Đều là vô sinh,

Nhờ đó chứng ngộ

Tất cả các pháp

Đều không tự tánh :

Đó là Trí Tuệ.

48

Nếu như tự tánh

Của một vật gì

Là thật sự có

Thì chính vật ấy

Vốn không làm sao

Có thể phát sinh.

Nếu như tự tánh

Của một vật gì

Là thật sự không

Thì giống như hoa

Hiện ra giữa trời,

Vốn không có gì

Để mà nói tới.

Cả hai điều này

Phi lý như nhau.

Sự vật khởi sinh

Vốn không như vậy.



49

Sự vật sinh ra

Không phải tự sinh;

Cũng không phải do

Yếu tố bên ngoài

Mà phát sinh ra;

Cũng không phải từ

Hai điều nói trên

Mà phát sinh ra;

Cũng không phải là

Không có nguyên nhân

Mà phát sinh ra.

Sự vật sinh ra,

Vốn không tự tánh.



50

Quán chiếu tận tường

Tất cả các pháp

Xem là đồng nhất

Hay là dị biệt,

Sẽ không thể thấy

Có một pháp nào

Hiện hữu độc lập.

Nhờ đó thấy rõ

Các pháp hoàn toàn

Không có tự tánh.



51

Bảy mươi chỉnh cú

Tụng về tánh Không

Hay Luận Trung Quán

Của ngài Long thọ

Đều giải thích rằng

Chân tánh các pháp

Chính là tánh Không.

52

Biển luận văn này

Vô cùng phong phú

Thầy không thể trích

Hết cả ra đây,

Chỉ xin tóm lược

Đôi câu kết luận

Xác định tông môn,

Tiện cho các con

Thiền quán tu hành.



53

Quán về vô ngã,

Thấy ra sự vật

Không có tự tánh:

Đó là tu Tuệ.

54

Vận dụng Trí Tuệ

Mà quán vạn pháp,

Sẽ không thể thấy

Pháp có tự tánh.

Tương tự như vậy,

Quán về Trí Tuệ

Sẽ thấy Trí Tuệ

Cũng không tự tánh.

Các con hãy gắng

Siêu việt khái niệm

Mà quán như vậy.



55

Toàn bộ cõi sống

Đều từ khái niệm

Mà phát sinh ra

Vì vậy cõi sống

Vốn thật chỉ là

Khái niệm phân biệt

Tách lìa phân biệt

Là đại niết bàn



56

Đức Phật nói rằng

Khái niệm phân biệt

[Chấp có tự tánh]

Là đại Vô minh,

Ném chúng ta vào

Luân hồi sinh tử.

Tách lìa phân biệt,

Nhập định vô niệm,

Khi ấy cảnh giới

Siêu việt khái niệm

Tựa như không gian

Hiện ra trong sáng.


57

Trong Đà la ni

Nhập tâm vô niệm,

Đức Phật dạy rằng;

"Nếu chư bồ tát

Con của Như lai

Lìa tâm phân biệt

Để mà quán chiếu

Thì dù khái niệm

Khó vượt đến đâu

Cũng sẽ từng phần

Vượt qua được cả,

Bước vào cảnh giới

Siêu việt khái niệm.


58

Có được trí tuệ

Đến từ học hỏi

Và từ tư duy

[Văn tuệ, Tư tuệ],

Hiểu rằng các pháp

Không từng khởi sinh,

Không có tự tánh,

Khi ấy các con

Từ sự hiểu này

Mà thiền chỉ quán

Siêu việt khái niệm.



59

Chỉ quán cảnh giới

Chân thật như vậy

Sẽ tiến từng phần

Trên đường giác ngộ

Thành tựu "nội hỏa"

Thành tựu "đại lạc"

Cùng những điều khác.

Rồi chẳng bao lâu

Sẽ thành tựu được

Vô thượng bồ đề.



60

Nếu muốn mau chóng

Tích tụ tư lương

Thành tựu bồ đề,

Có thể nương nhờ

Năng lực minh chú,

Hành trì các pháp

Hàng phục, tăng trưởng.



61

Đồng thời nương vào

Năng lực của tám

Thành tựu vĩ đại,

Hay thành tựu khác,

Ví dụ như là

Đại định Bình Quí,

Nếu muốn bước vào

Con đường tu Mật,

Thuận theo các bộ

Nghi Thức, Lễ Bái,



62

Và nếu muốn nhận

Đại pháp quán đảnh

Đạo sư Kim Cang,

Phải đối với thầy

Hết lòng tận tụy,

Phụng sự, cúng dường,

Chăm chỉ làm theo

Những điều thầy dạy.



63

Đạo sư hoan hỉ

Ban cho đại pháp

Quán Đảnh Đạo Sư,

Khi ấy tất cả

Ác nghiệp chướng ngại

Đều tiêu tan cả.

Tâm sáng thanh tịnh,

Đồng vị niết bàn.



64

Trong Đại Mật Kinh

Đức Phật Bản Lai

Hết lòng nghiêm dạy

Các vị tỷ kheo

Và tỷ kheo ni

Giữ giới thuần tịnh

Tuyệt đối không được

Nhận hai mật pháp

Quán đảnh Kín mật,

Quán đảnh Trí tuệ.



65

Là người giữ gìn

Phạm hạnh thanh tịnh

Mà nhận hai pháp

Quán đảnh nói trên

Là phá giới hạnh.



66

Nếu như đang giữ

Phạm hạnh nghiêm mật

Mà nhận pháp này

Là phá hủy giới,

Sa đọa trầm luân

Tận cùng ác đạo,

Không thể có được

Chút thành tựu nào.



67

Tuy vậy nếu là

Nhận pháp quán đảnh

Đạo Sư Kim Cang

Thể hội Chân Như

Thì vẫn có thể

Nghe giảng mật pháp,

Hay tự mình giảng,

Thi hành nghi lễ

Thiết lập đạo tràng,

Cúng lửa, sám hối,

Mà không phạm lỗi.



68

Tôi là trưởng tử

Shri Dipamkara,

Đã học điều này

Từ nơi kinh luận.

Vì lời yêu cầu

Của Jangchub O

Mà viết ra đây

Bài giảng ngắn gọn

Vạch ra đường tu

Tuần tự giác ngộ.


Lời ghi xuất xứ
Đến đây chấm dứt bài kệ Đèn Soi Đường Giác Ngộ do đại đạo sư Dipamkara Shri Jnana [Atisha] soạn và đích thân dịch sang Tạng ngữ với sự góp sức của vị tỷ kheo dịch giả người Tây tạng tên Geway Lodro. Bài pháp này được viết tại tu viện Tholing ở Zhang Zhong.
Hồng Như chuyển Việt ngữ tháng 07/2005, dựa trên bản dịch Anh ngữ của Alexander Berzin, 1980, tham khảo với bản dịch của Ruth Sonam, Dharamsala, 01/1997 và của Gonsar Tulku và Brian C.Beresford (1975, 1976, 1978).


http://nalanda.batnha.org/giaophapte...atisha-hn-text