KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI, Phẩm Bát-nhã
HT THÍCH THANH TỪ
http://www.thuong- chieu.org/ uni/KinhSachThiK e/Luan/PhapBaoDa n/TRANG_CHINH. htm
Này Thiện tri thức, chớ nghe tôi nói Không liền chấp không, thứ nhất là không nên chấp không, nếu để tâm không ngồi tĩnh tọa, đó tức là chấp vô ký không.
Ngài dạy đừng có nghe Ngài nói không rồi chấp không, như chấp Chân không là không có gì cả, nếu cho thật không có gì cả là lầm. Không có tất cả những vọng tưởng lăng xăng, chớ cái rỗng rang chân thật đâu phải không, cũng như tôi đã thí dụ không có người lao xao trong nhà thiền, chớ không phải cái nhà là không. Nhiều khi chúng ta hiểu lầm nghe nói không là bám vào không, nói là không ngơ rồi nghĩ tu đến chỗ không ngơ đó làm chi. Thế nên chấp không là một bệnh, Lục Tổ mới bảo: “Thứ nhất là không nên chấp không, nếu để tâm không ngồi tĩnh tọa đó là chấp vô ký không.” Có người vì nghe nói giữ tâm mình cho đừng xao xuyến, đừng loạn động, cho nó không ngơ mới đúng, nên khi ngồi để tâm không ngơ, nghĩa là không cho nó có gì hết, như vậy đúng không? Đó là vô ký không, cái không mà không biết gì cả. Trái lại người biết tu, khi không có vọng niệm thì cái Thể tri giác tràn đầy. Cũng như nghe tôi nói trong nhà thiền không có người, quí vị biết đây là nhà thiền trống. Nhà thiền trống chớ không phải không có nhà thiền. Tôi nói trong nhà thiền không có người thì đừng chấp là không có nhà thiền, không là không người, chớ không phải là không có nhà thiền. Cũng thế không có những tâm loạn tưởng, chớ không phải không có trí Bát-nhã thênh thang. Hiểu như vậy thì khi chúng ta lặng hết những vọng tưởng tức trí Bát-nhã thênh thang hiện tiền, hằng nghe, hằng thấy, như thế làm sao nói là không. Thế mà có nhiều người đọc kinh Pháp Bảo Đàn đến đoạn này thì sợ, nói rằng: Thầy dạy con buông xả, đừng để tâm theo vọng tưởng, mãi rồi nó im lìm, nó không ngơ thì lúc đó lạc vào chỗ chấp vô ký không của Lục Tổ nói rồi! Đó là đa số người đã lầm lẫn. Thật ra chúng ta nói không và người không biết mà nói không, hai bên khác nhau. Người không biết khi nói không là để không ngơ luôn không biết chi cả; còn chúng ta nói không vọng tưởng, khi vọng tưởng lặng cái tri giác hay cái hằng tri hằng giác đó hằng nghe hằng thấy. Tôi thường chỉ quí vị tuy không có vọng tưởng, nhưng mắt vẫn thấy, tai vẫn nghe, tất cả giác quan đều có biết thì làm sao nói không được. Không là không vọng tưởng chớ cái hằng giác đó đâu có không, như thế đâu có rơi vào “vô ký không” như Lục Tổ nói. Hiểu thật rõ, quí vị mới không bị lầm. Thế nên người tu chỉ nhích một tí là sai, khéo một chút là đúng.
Tôi thường nhắc quí vị lời dạy của ngài Huyền Giác: “tỉnh tỉnh lặng lặng phải” và “lặng lặng tỉnh tỉnh phải”, lặng lặng là không nhưng hằng tỉnh tỉnh, chớ không phải là không ngơ. Trái lại “tỉnh tỉnh loạn tưởng sai” và “lặng lặng hôn trầm sai”. Thế nên chúng ta phải thấy rõ lặng trong cái tỉnh, tỉnh trong cái lặng thì phải. Nếu tỉnh mà loạn thì sai, khi ngồi tỉnh táo mà nghĩ đủ chuyện thì đó là bệnh. Nếu lặng lặng mà vẫn tỉnh vẫn sáng thì đúng, nếu lặng lặng mà hôn trầm, gật lên gật xuống là sai. Quí vị nhớ đó là một công thức rõ ràng trong khi tu để biết thế nào là đúng, thế nào là sai. Có nhiều người ngồi gật lên gật xuống, nói: “hôm nay tôi ngồi không có chút vọng tưởng nào”, ngồi ngủ thì làm sao có vọng tưởng. Có người nói: “tôi ngồi tỉnh táo” mà thật là nghĩ nhớ đủ chuyện, như thế cả hai đều sai. Phải tỉnh mà lặng, lặng mà tỉnh mới đúng, chớ lặng mà thiếu tỉnh, tỉnh mà thiếu lặng đều là sai. Quí vị phải nhớ lặng là không, tỉnh là hằng giác, như thế luôn luôn cạnh cái không có cái giác chớ không phải là không ngơ, nên không lạc vào vô ký không. Những người không biết, ngồi để tâm không ngơ, đâu biết thế nào là tỉnh, thế nào là lặng nên rơi vào vô ký không, đó là do không biết được cái tỉnh trong cái không; trái lại chúng ta không mà tỉnh, chớ không phải chỉ có lặng, đó là yếu điểm của sự tu.
KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI, Phẩm Bát-nhã
HT THÍCH THANH TỪ
http://www.thuong- chieu.org/ uni/KinhSachThiK e/Luan/PhapBaoDa n/TRANG_CHINH. htm
Trong bộ Pháp Bảo Đàn, phẩm Bát-nhã là phẩm rất quan trọng, tất cả chúng ta học, nếu thâm nhập được phẩm này, mới thấy rõ chủ trương, đường lối tu của Lục Tổ, nên ở đây quí vị nghe hiểu cho kỹ. Tại sao chúng tôi dám nói như thế? Vì Lục Tổ ngộ từ kinh Kim Cang, mà kinh Kim Cang tức là Bát-nhã; cái chủ yếu mà Ngài ngộ được, Ngài diễn đạt lại cho chúng ta biết khiến chúng ta thấy được tầm quan trọng của nó thì sự tu hành mới khỏi lầm lẫn.
Ngày khác, Vi sử quân thưa thỉnh, Tổ đăng tòa bảo đại chúng: “Tất cả nên tịnh tâm niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa.” Lại bảo:
Này Thiện tri thức, trí Bát-nhã Bồ-đề, người đời vốn tự có, chỉ nhân vì tâm mê không thể tự ngộ, phải nhờ đến Đại thiện tri thức chỉ đường mới thấy được tánh. Phải biết người ngu, người trí Phật tánh vốn không có khác, chỉ duyên mê ngộ không đồng nên có ngu có trí.
Mở đầu Lục Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ rằng, tất cả chúng ta ai cũng sẵn có Đại trí tuệ Bát-nhã. Sở dĩ người quên nó, mê tức là quên, do tâm quên không nhận được nên gọi đó là ngu; trái lại người tỉnh giác được Trí tuệ Bát-nhã thì gọi là trí. Vì tất cả chúng ta mê nên phải nhờ Thiện tri thức chỉ dạy, nếu chúng ta nhân lời chỉ dạy của Thiện tri thức, nhận ra được Bản tánh mình tức là từ ngu chuyển thành trí hay là từ mê đổi thành ngộ. Như vậy mê hay ngộ chỉ là do chúng ta biết sống với trí Bát-nhã hay là bỏ quên nó thôi, chớ không phải có người ngộ khác với người mê. Vì ai cũng sẵn có, nhưng người biết sống trở lại thì gọi là ngộ, người quên đi thì gọi là mê, mê ngộ không đồng, lỗi tại quên và nhớ, chớ không có gì lạ cả. Như vậy từ Trí tuệ Bát-nhã, chúng ta suy ra đến Phật cũng thế. Do chúng ta mê Tánh giác nên gọi là chúng sanh, đức Phật ngộ được Tánh giác nên gọi là Phật, thế nên làm chúng sanh hay làm Phật chẳng qua tại mê với ngộ thôi. Cũng thế, chúng ta thành trí, thành ngu cũng do nhớ, biết trở về với tánh Bát-nhã hay không biết đó thôi. Vì thế người học đạo không cần tìm những gì xa xôi, chỉ cần phải khai thác chỗ sâu thẳm nơi mình sẵn có, khai thác được đó là giác, bỏ quên tức là mê, chớ đừng tìm cái gì ở bên ngoài. Đó là điểm chủ yếu Lục Tổ nêu lên, Ngài muốn chúng ta mỗi người nhận ra chớ đừng lầm lẫn tìm kiếm ở đâu khác. Tiếp đến Tổ dạy:
Nay tôi vì nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông, mỗi người được trí tuệ, nên chí tâm lắng nghe, tôi vì các ông mà nói.
Này Thiện tri thức, người đời trọn ngày miệng tụng Bát-nhã nhưng không biết Tự tánh Bát-nhã ví như nói ăn mà không no, miệng chỉ nói Không, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích.
Trước hết Ngài chỉ sự lầm lẫn của chúng ta. Ngài bảo có người trọn ngày cứ tụng Bát-nhã mà không biết Tự tánh Bát-nhã. Tự tánh Bát-nhã tức là tánh Bát-nhã sẵn nơi mình. Hầu hết Phật tử chúng ta ít có người không thuộc kinh Bát-nhã. Ai cũng nói ngày nào tôi cũng tụng đôi ba biến Bát-nhã, nhưng nếu có ai hỏi Tự tánh Bát-nhã là gì thì đều không biết! Như vậy là miệng chỉ tụng mà tâm không thấy, không đạt được, thế nên Ngài mới nói: Ví như người nói ăn mà không no, nói tôi ăn bánh bao, tôi ăn bánh mì v.v... cả trăm thứ bánh nhưng rốt cuộc bụng vẫn đói meo! Nói ăn chưa phải là ăn, ăn phải thực sự ăn, chỉ nói suông chưa đủ. Cũng thế, nếu chúng ta tu mà chỉ một bề đọc tụng, đó chỉ có giá trị bên ngoài, chớ chưa có giá trị thật ở trong, giá trị thật ở trong là giá trị chúng ta nhận được. Đức Phật vì chúng ta chỉ cái chúng ta đã bỏ quên, nhân lời chỉ đó chúng ta nhận ra nó, đó là chúng ta biết tụng kinh để thấy tánh; trái lại chúng ta chỉ một bề đọc tụng cho hay, nhưng không nhận ra Phật muốn chỉ cái gì cho mình, ví như người nói ăn mà bụng không no, thế nên Tổ mới bảo: “miệng chỉ nói không, muôn kiếp chẳng thấy tánh”, như vậy trọn không có lợi ích. Người trí khác hơn người mê ở điểm: Lục Tổ nghe người tụng một câu, chỉ mới nghe thôi mà đã thấy, còn chúng ta hiện nay đích thân tụng mà vẫn không thấy gì cả. Đó là điểm khác nhau. Như vậy chúng ta phải cố gắng lắng nghe lời dạy của Tổ, để biết tinh thần Tự tánh Bát-nhã ra sao, đó là cái chủ yếu mà Ngài cố dạy chúng ta trong phẩm này.
Này Thiện tri thức, Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Đại Trí Tuệ Đến Bờ Kia, nó phải là hành nơi tâm, không phải tụng ở miệng.
Đại Trí Tuệ Đến Bờ Kia hay có chỗ cũng dịch là Trí tuệ cứu kính viên mãn, trí tuệ đó phải nơi tâm mình phát ra, phải ngộ lấy, chớ không phải tụng suông ngoài miệng, nếu cứ cho tụng suông là đủ, là chúng ta không hiểu được trí tuệ này, vì trí tuệ này là trí tuệ của mình nên cần phải hành ở tâm chớ không phải tụng ở miệng.
Miệng tụng mà tâm chẳng hành như huyễn như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm tâm hành ắt tâm và miệng hợp nhau, Bản tánh là Phật, lìa tánh không riêng có Phật.
Câu này nhiều người dễ hiểu lầm. Lục Tổ dạy: “miệng tụng mà tâm chẳng hành như huyễn, như hóa, như sương, như điện v.v...” ý Ngài như thế nào? Có phải tụng kinh Bát-nhã thấy các pháp như mộng, như huyễn, như sương v.v... phải không? Hay là nghĩa như thế nào? Đoạn này ý Ngài bảo: Chúng ta chỉ tụng suông ở miệng thì việc đó chợt qua rồi mất cũng như huyễn, như hóa, như sương, như điện chớp chớ không có thật. Nếu chỉ tụng suông, khi tụng thì còn nói Bát-nhã, dừng tụng thì Bát-nhã mất, cũng như sương mù, điện chớp, chợt thấy rồi mất, không có thật. Thế nên chủ yếu Ngài khuyên chúng ta miệng tụng tâm phải hành, như thế tâm miệng tương ưng, tâm và miệng hợp nhau tự nhiên chúng ta sẽ thấy được Phật tánh, chính Bản tánh ấy là Phật, lìa Bản tánh ra không còn có Phật nào khác.
KINH PHÁP BẢO ĐÀN GIẢNG GIẢI, Phẩm Bát-nhã
HT THÍCH THANH TỪ
http://www.thuong- chieu.org/ uni/KinhSachThiK e/Luan/PhapBaoDa n/TRANG_CHINH. htm
Sao gọi là Ma-ha [Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật]? Ma-ha là lớn, tâm lượng rộng lớn ví như hư không, không có bờ mé, cũng không có vuông tròn lớn nhỏ, cũng không phải xanh vàng đỏ trắng, cũng không có trên dưới dài ngắn, cũng không sân không hỉ, không phải không quấy, không thiện không ác, không có đầu đuôi, cõi nước chư Phật trọn đồng với hư không; diệu tánh của người đời vốn không, không có một pháp có thể được, Tự tánh chân không cũng lại như thế.
Tôi giảng rõ lại một lần nữa, chữ Ma-ha nghĩa là lớn, vì tâm lượng của chúng ta rộng lớn như hư không, tâm lượng đó gọi là tâm lượng Bát-nhã, rộng lớn không có bờ mé, không có các tướng vuông tròn dài ngắn xanh vàng... cho đến không có những tâm niệm phải quấy, tốt xấu v.v… Tâm thể đó bao trùm tất cả cõi nước của chư Phật, giống như hư không; diệu tánh của người đời cũng vậy, vốn không một pháp có thể được, bởi không một pháp có thể được nên gọi là Tự tánh chân không. Như vậy quí vị hiểu chữ Chân Không tôi đặt cho Tu viện chưa? Chân không tức là cái thể thênh thang của Bát-nhã. Bát-nhã là trí tuệ, trí tuệ thênh thang không có bờ mé, không có giới hạn, không có một vật ở trong, chỉ là cái trí tuệ rộng thênh thang, trí tuệ đó gọi là Chân không. Đó là chỗ mà Lục Tổ bảo là “Bản lai vô nhất vật” và do đó mà Ngài được vào cửa Thiền.
Bản lai vô nhất vật là tinh thần của Chân không, không có một vật, vì thể đó thênh thang. Ví dụ như trong nhà thiền này, hiện chúng ta gồm cả trăm người tụ họp nơi đây, khi mãn giờ giảng rồi nhà thiền này như thế nào? Cả trăm người tụ hội thì có tiếng ồn, khi tất cả ra khỏi nhà giảng thì nhà giảng trống không. Trống không là không có người chớ không phải là không có nhà thiền, nhà thiền vẫn có, nhưng không có người, không có tiếng động lao xao nên nói nhà thiền trống. Cũng thế, hiện tâm chúng ta chứa đủ tham sân si nên thương buồn giận ghét v.v... luôn đầy ứ trong đó, do đó chưa bao giờ chúng ta thấy được cái thể rỗng lặng sáng suốt. Sở dĩ chúng ta tu là để loại những niệm tham sân si ra, khi chúng bị loại ra hết thì chỉ còn một cái trí sáng ngời, đó gọi là Chân không; cái không chân thật, không còn những niệm sanh diệt chứa trong đó. Vậy quí vị thử kiểm lại tâm mình xem sao, nó là Chân không hay nó quá đầy đến độ muốn tràn ra nữa? Vì thế cả ngày chúng ta cứ mê muội theo những tướng sanh diệt, nó dẫn chúng ta chạy ngược chạy xuôi rồi buồn, thương, giận, ghét v.v... do đó mặt mày luôn thay đổi, không bình tĩnh, điềm đạm. Nay nếu tâm chúng ta loại hết những niệm đó thì khi ấy tự nhiên là một Tâm thể rỗng rang, và Tâm thể rỗng rang này gọi là Trí tuệ Bát-nhã, có chỗ khác gọi là Chân tánh hay Tự tánh. Quí vị thấy đâu có gì lạ, chính cái đó sẵn nơi mình, chỉ vì chúng ta không thấy được kho chứa mà chỉ thấy những hạt giống chứa trong kho, những hạt giống đó ra vào lăng xăng rồi chúng ta chạy theo chúng mãi, nên quên mất cái kho sáng suốt rỗng rang của chính mình. Khi nào tất cả quí vị không còn một niệm dấy lên, tôi xin hỏi quí vị lúc đó có tri, có giác hay không? Tai có nghe, mắt có thấy hay không? Tướng mạo của cái hay thấy hay nghe đó như thế nào? Quí vị thử diễn tả xem! Khi tất cả vọng tưởng lặng hết chỉ còn cái thấy cái nghe, nghĩa là cảm giác biết tất cả, nhưng không có một niệm nào, khi đó quí vị diễn tả thử xem cái thấy nghe đó tướng mạo ra sao. Nếu có tướng mạo thì có giới hạn, không tướng mạo tức là vô hạn. Nói Đại là như thế, nó không có giới hạn, nó bao trùm tất cả, nhưng hiện nay nó bị khuôn, bị cuộc trong tứ đại này thành bị giới hạn; nếu một ngày nào chúng ta sống được với Thể tánh đó, rời khỏi thân này thì nó trùm cả tam giới. Đây giải nghĩa chữ Đại là như thế.
Rộng lớn thênh thang là khi nào không còn một niệm duyên theo cảnh, chỉ có cái hằng thấy hằng nghe, hay nói gọn hơn là chỉ một Tánh giác, đó mới là thênh thang, mới là rộng lớn. Còn tất cả những niệm tưởng, dù là niệm tưởng hư không cũng có giới hạn. Chữ Đại là thoát ra ngoài tất cả những tướng trạng đối đãi, không còn đối đãi nữa thì tướng mạo của Tâm thể này hay của Trí tuệ Bát-nhã là như thế. Nói thênh thang là để chúng ta thấy rõ nơi chúng ta có một cái rộng lớn thênh thang hằng tri hằng giác, mà chúng ta bỏ quên, rồi bám vào những tướng buồn vui, giận ghét, theo hình sắc, theo âm thanh cho đó là mình, nên chúng ta bị quyện ở trong ấy, như những cọng cỏ bị cuốn trong bánh xe đang quay vùn vụt không gỡ ra được, cứ như thế mà trôi lăn trong sanh tử, lên xuống không có ngày cùng. Nay chúng ta biết gỡ ra, không kẹt vào đó nữa, tự nhiên tâm hồn mình thênh thang. Đó là chỗ mà chư Phật, chư Tổ cố tình muốn chỉ cho chúng ta. Sống được với cái đó rồi, mới thấy nó là cái chân thật. Vì thế quí vị mới thấy rõ chủ trương của đạo Phật dạy chúng ta tu là phải định.
Định là gì? Tức là dừng các vọng tưởng lăng xăng, vui buồn giận ghét lao xao. Dừng được chúng rồi mới thấy Tâm thể thênh thang, mới đi đến chỗ giác ngộ. Tất cả phương pháp, không phương pháp nào ngoài định; định là định những vọng tưởng lăng xăng, mà lâu nay chúng ta cứ chấp nhận là mình, nên nó mới dẫn chúng ta chạy vùn vụt không phút nào ngừng, cả đến giờ nghỉ cũng không nghỉ, chạy riết đến nóng đầu, đó là tại chúng ta đã lầm nhận nó là mình! Như thế bao nhiêu phương pháp của Phật, Tổ dạy cốt để chúng ta dừng được vọng tưởng, dừng được rồi mới thấy Tâm thể thênh thang của chính mình, Tâm thể thênh thang đó gọi là Ma-ha Bát-nhã. Như thế hàng ngày quí vị tụng ba biến, bảy biến Bát-nhã mà những chữ đầu có vẻ chưa thấm. Nếu chúng ta thấm các chữ đó rồi thì tụng Bát-nhã là để chúng ta sống, chớ không phải tụng suông. Đa số người hiện nay cứ tụng suông, tụng rồi tính biến để cộng sổ, kể công với Phật, mà không hiểu điểm quan trọng chính là phải sống trở lại trí tuệ của mình. Chúng ta chỉ nhớ lời Phật dạy mà không biết trở lại cái Thể chân thật của chính mình nên mới lầm lẫn. Nhân giảng Bát-nhã tôi mới nói cho quí vị biết ý nghĩa chữ Chân Không tên của Tu viện chúng tôi. Chính chỗ mà đức Lục Tổ chỉ, chỗ không có một vật, vốn không một pháp có thể được, chỗ đó mới gọi là Tự tánh chân không, tức là tánh của chính mình, thật là rỗng rang không còn một cái gì trong đó.
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks