Căn Bản Trung Quán Luận Tụng
(Mulamadhyamika- karika - Dbu ma rtsa ba'i shes rab)
Trước tác: Long Thọ Bồ Tát
Dịch từ bản Anh ngữ của dịch giả Wulstan Fletcher[1]
http://quangduc. com/mattong/ 305canbantrunglu an.html
Phẩm thứ 26
Quán thập nhị nhân duyên
1. Chúng sanh do vô minh,
Khởi sinh ba loại hành.
Nên luân hồi tái sinh,
Tùy hành thọ nghiệp báo.
2. Tùy nhân duyên của hành,
Thức thọ thân lục đạo[15].
Khi thức đi tái sinh,
Tăng trưởng thành Danh sắc.
3. Khi danh sắc tăng trưởng,
Từ đó sinh lục nhập.
Lục nhập hòa trần thức[16],
Sáu xúc khởi sinh ra.
4. Xúc ấy khởi chỉ vì,
Nương nhãn, sắc, tâm hành.
Nên nhãn thức khởi sinh
Bởi nương vào danh sắc.
5. Tập hợp ba thứ này --
Nhãn, sắc, thức -- là xúc
Từ xúc mà sinh ra,
Thành ba loại cảm thọ.
6. Nhân từ nơi cảm thọ,
Ái sinh, càng khát thọ.
Ái khởi thì thủ sinh --
Thủ gồm có bốn loại.
7. Do thủ, nên có hữu.
Do người thủ, khởi ra,
Nếu thủ ấy không có,
Sẽ giải thoát, chẳng hữu.
8. Hữu chính là ngũ uẩn.
Do hữu nên có sinh,
Và lão tử, khổ đau,
Khóc than, cùng sầu não,
9. Tâm khổ đau, phiền não:
Phát khởi ra từ sinh.
Từ đó tạo thành uẩn
Chỉ là khối khổ đau.
10. Hành là gốc luân hồi.
Người trí ngưng tạo nghiệp.
Kẻ si cứ tác nghiệp;
Người trí không như thế,
Vì đã thấy tánh Không.
11. Nếu vô minh dứt trừ,
Hành sẽ không khởi sinh.
Muốn dứt vô minh phải,
Nhờ trí tuệ vi diệu,
Và thiền định tánh Không.
12. Vì vòng khoen này diệt,
Nên khoen sau chẳng sinh.
Khối khổ đau tự nó,
Đoạn diệt đến tận cùng.
Đến đây chấm dứt Căn Bản Trung Quán Luận Tụng, phẩm thứ 18, 24 và 26.
Lời dịch giả (Việt ngữ):
Chúng tôi đã cố gắng giữ lại thể thi kệ bốn câu trong toàn bài, tuy nhiên ở một số chỗ, chúng tôi bắt buộc phải tăng số câu lên để tôn trọng ý văn nguyên thủy. Ngoài ra, chúng tôi cũng phải chú thích bằng số thêm ở vài chỗ để giải thích về các từ hán-việt đã sử dụng bởi các chư tôn đức trong truyền thống Phật giáo Việt Nam. Vì các từ ngữ này quá xúc tích, cô đọng nên chúng tôi nghĩ đó là một sự cần thiết để cho độc giả dễ hiểu. Còn các chú thích dùng dấu hoa thị là của nhà dịch giả Anh ngữ. Sau cùng, chúng tôi cũng biết là đã có một số các bản dịch trước của chư vị chư tôn đức, lẽ ra chúng tôi dùng thẳng các văn bản đó, nhưng vì văn bản của nhà dịch giả Wulstan Fletcher mang những ưu điểm đặc thù, và là một dị bản đưa ra những điểm riêng biệt của nó. Do đó, chúng tôi xin được dịch bản này đúng theo quan điểm của dịch giả Wulstan Fletcher, hy vọng góp thêm vào vườn hoa Phật giáo một bông hoa lạ.
Bản Anh ngữ 2006, do dịch giả Wulstan Fletcher biên soạn.
Bản dịch Việt ngữ do Sonam Nyima Chân Giác (Canada) và Diệu Hạnh Giao Trinh (France) biên soạn chuẩn bị cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nantes tháng 8, 2008, với sự tham khảo các văn bản sau:
1. Kalachakra 2004: Select Practice Texts in English & Tibetan.
Published by The Canadian Tibetan Association of Ontario, 2004.
2. The Fundamental Wisdom of The Middle Way.
Nagarjuna’s Mula-Madhyamaka- Karika. Translated and commentary by Jay L. Garfield.
Oxford University Press, 1995.
3. Luận giải Trung Luận: Tánh khởi và duyên khởi.
Hồng Dương Nguyễn Văn Hai, Viện Cao Đẳng Phật Học Hải Đức, 2003.
4. Yếu Chỉ Trung Quán Luận, Thích Duy Lực.
5. Trung Luận, Phạm Chí Thanh Mục thích, Cưu Ma La Thập Hán dịch, Thích Thiện Siêu Việt dịch, 2001.
© Ly Bui & Giao Trinh Vo - 2007
________________________________________
[1] Chuẩn bị cho pháp hội thuyết giảng của Đức Đạt Lai Lạt Ma tại Nantes tháng 8, 2008. Bản dịch Việt ngữ do Sonam Nyima Chân Giác và Diệu Hạnh Giao Trinh biên soạn, phối hợp với các từ ngữ dùng trong bản Hán dịch.
[2] Ngã nghĩa là “cái tôi”, ngã sở nghĩa là “cái của tôi”.
[3] Nên chứng vô ngã trí.
[4] Nếu còn thấy có tự tánh (ngay cả khi nhìn chư A la hán đã chứng vô ngã là có tự tánh) thì vẫn chưa hiểu được
tánh Không, nghĩa là còn sở chấp.
[5] Biến kế là tâm nhìn sự vật bị méo mó sai lầm, như nhìn cuộn giây mà nghĩ là con rắn.
[6] Các dị bản trước dịch là: Thực tướng của các pháp. Tâm hành ngôn ngữ đoạn.
[7] Chư pháp cũng dịch là nhất thiết pháp.
[8] Trung Quán Bát Bất: Bất sinh diệc bất diệt. Bất thường diệc bất đoạn. Bất nhất diệc bất dị. Bất lai diệc bất xuất.
* Nghĩa là trí tuệ ngộ khổ đế, đoạn trừ tập đế, thiền định trên đạo đế và chứng quả diệt đế.
[9] Đắc tức là tứ quả và hướng tức là tứ hướng, là tám bậc Hiền Thánh trong Thanh văn.
Tứ quả gồm: quả Tu đà hoàn, quả Tu đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán.
Tứ hướng gồm: Tu đà hoàn hướng, Tu đà hàm hướng, A na hàm hướng, A la hán hướng.
[10] Đệ nhất nghĩa đế.
[11] Nghĩa là tất cả mọi sự vật. Nguyên câu Hán Việt là: Dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thiết pháp đắc thành.
[12] Vì tự tánh thì chẳng vô thường.
[13] Tập là thói quen.
[14] Sở tác ở đây là cái mà mình làm.
[15] Các cõi của sáu nẻo luân hồi.
[16] Trần là cảnh vật bên ngoài, hòa hợp với thức là nhận biết tạo ra sáu xúc chạm.
---o0o---
Trình bày: Phổ Trí
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks