BỐ THÍ
(Tiếp theo)
Toàn Không
V )- Trưởng giả Bạt Đề và Bà Nan Đà được độ
Theo quyển 2 Tăng Nhất A Hàm, từ trang 32 đến 48, có nói trường hợp đức Phật và các Thánh Tăng độ cho hai người keo kiết biết mở lòng nhân và gây nghiệp lành như sau:
Khi đức Phật ngự tại thành La Duyệt, vườn Ca Lan Đà cùng 500 Tỳ Kheo (Tăng). Lúc ấy có bốn đại đệ tử của đức Phật là các Tôn giả Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Na Luật, và Tân Đầu Lư cùng bàn luận riêng với nhau: “Chúng ta nên xem xét trong thành có ai không tạo công đức, hãy đến độ cho họ để làm cho họ được lợi ích”.
Sau khi bàn thảo, mọi người đều đồng ý có hai người giàu có mà phước cũ đã sắp hết, nhưng họ không trồng cội phúc mới. Hai người này rất giàu có, vàng bạc châu báu, kho chứa của cải vô số, nhưng họ có tà hiến không tin vào sự làm phước lành tránh ác. Họ cho rằng bố thí chỉ là phí của chẳng được lợi lộc gì, chẳng tin qủa báo thiện ác đời này đời sau. Họ không tin có nghiệp báo luân hồi, và cho rằng chết là hết chẳng còn gì mà phải bận tâm bố thí tạo phúc v.v…
Hai người giàu có ấy lại là hai chị em, mỗi người ở một nơi. Cả hai chị em đều có dinh thự qúy giá, nhà có nhiều lớp hàng rào bao quanh kiên cố, rào cao cổng kín, lại có người canh giữ cẩn thận. Họ không cho một người hành khất nào được vào bên trong để xin ăn. Lại còn cho làm lướt sắt ở bên trên, chim cũng không chui lọt xuống được, để phòng người lạ trèo rào vào nhà v.v…
Các Tôn giả bàn: “Chúng ta nên đến nhà trưởng giả Bạt Đề trước và phân chia ai đến trước ai nên đến sau.
1)- Trưởng giả Bạt Đề được độ:
Sáng hôm sau, trưởng giả Bạt Đề đang ăn sáng, ăn bánh, tôn giả A Na Luật ôm bình bát từ dưới đất nhà Trưởng giả đứng lên, chui lên, bước tới gần rồi chìa bát về phiá Trưởng giả. Trưởng giả thấy người khất thực hết sức buồn không nói lời nào, bỏ một miếng bánh vào bát, Tôn giả được bánh, bèn ra về. Khi ấy Trưởng giả nổi giận, ra cổng bảo người giữ cổng:
- Ta đã ra lệnh không cho người vào, sao lại có người vào như thế?
Người canh cổng thưa:
- Cửa nẻo chắc chắn, canh giữ kỹ càng, đâu có ai vào được, không hiểu người ấy làm sao vào được? Lạ thế?
Trưởng giả im lặng không nói, đi vào nhà ăn bánh tiếp. Tôn giả Đại Ca Diếp ôm bát đến. cũng từ dưới đất chui lên, đi vào đưa bát trước mặt Trưởng giả. Trưởng giả hết sức buồn bực, không nói không rằng, bỏ một miếng bánh vào bát. Ngài Ca Diếp được bố thí liền ra về. Trưởng giả càng thêm bực tức, ra bảo người canh cổng:
- Trước ta đã ra lệnh không cho bất cứ ai vào nhà, cớ sao để cho hai Sa Môn (hai Tăng) vào nhà khất thực?
Các người giữ cổng thưa:
- Chúng tôi không thấy người nào vào từ cổng này, mà cũng chẳng thấy Sa Môn nào từ cổng này ra, không biết họ đi bằng ngả nào? Lạ qúa!
Trưởng giả nói la lớn:
- Các Sa Môn trọc đầu khéo dùng huyển thuật mê hoặc người, lừa gạt, họ chẳng có hạnh chân chính đâu.
Bà vợ Trưởng giả đã thấy hai vị Tôn giả, lại nghe chồng nói như thế thì không đồng ý, bà bèn ra bảo chồng:
- Ông nên giữ mồm miệng, chớ nên nói Sa Môn dùng huyển thuật mê hoặc người, vì sao? Các Sa Môn có đức độ, có đại oai thần, họ đến nhà là có lợi cho ông. Ông có biết người đến trước và người đến sau là ai không?
- Tôi không biết.
- Người đến trước là con vua Hộc Tịnh nước Ca Tì La Vệ, tên A Na Luật, vị này rời Vương gia đi học đạo đắc A La Hán, là người có Thiên nhãn bậc nhất. Còn vị thứ hai là con của Phạm chí Ca Tỳ La giàu có nhiều tiền của tính không hết, có 999 con trâu cày. Ở trong thành La Duyệt này ai mà chẳng biết. Phạm chí ấy có con tên Tỳ Ba La Da Đàn Na, cưới vợ cho con là Bà Đà, người đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Nếu đem vàng chở bằng xe bốn ngựa đến rước cô ấy cũng bị dẹp ra chỗ khác. Thế mà vị thứ hai này bỏ vợ ngọc nữ báu ấy để xuất gia học đạo, và đã đắc A La Hán hành hạnh đầu đà đi khất thực. Nay ông được lợi ích lớn mới được các vị ấy đến độ cho ông, ông không nên nói bậy như thế, chớ nên phỉ báng bậc Thánh hiền.
Trưởng giả sau khi nghe vợ nói lai lịch của hai Sa Môn và giải thích, nên không còn bực tức nữa trở vào ăn tiếp. Một lúc lâu sau, tôn giả Mục Kiền Liên ôm bát bay lên không trung đến nhà Trưởng giả, biến thành nhỏ tí chui qua lưới sắt mà xuống, khi qua rồi thân hình trở lại như thường, nhưng ngồi kết già lơ lửng trên không ngoài cửa. Trưởng giả thấy thế, sợ hãi nói:
- Ngài là Trời hay Thần Càn thát Bà?
- Tôi chẳng phải Trời cũng chẳng phải Thần.
- Ông là Qủy hay là La Sát ăn thịt người?
- Tôi chẳng phải Qủy cũng chẳng phải La Sát. Tôi là đệ tử Phật, tên là Mục Kiền Liên.
- Ông có điều gì muốn nói với tôi?
- Tôi muốn thuyết pháp cho ông nghe.
Khi ấy Trưởng giả liền nghĩ: “Các đạo sĩ suốt đời để ý đến ăn uống, nếu nói về ăn ta sẽ không muốn nghe” Tôn giả Mục Kiền Liên biết tâm ý của Trưởng giả liền nói kệ:
Như Lai thuyết hai thí,
Pháp thí và tài thí,
Nay sẽ thuyết pháp thí,
Chuyên tâm nhất ý nghe.
Trưởng giả nghe nói sẽ thuyết pháp thí, vui mừng nói:
- Mong Ngài nói cho, tôi nghe rồi sẽ được hiểu biết.
- Trưởng giả nên biết, Như Lai thuyết năm đại thí, nên nhớ thực hành suốt đời.
Trưởng giả lại nghĩ: “Vừa rồi nói pháp thí, nay lại nói năm đại thí là thế nào?” Tôn giả biết tâm suy nghĩ của Trưởng giả, nên vội nói tiếp:
- Như Lai nói hai thí là pháp thí và tài thí, bây giờ tôi chỉ nói về pháp thí chứ không nói về tài thí.
Trưởng giả nghe vậy yên tâm hỏi:
- Cái gì là năm đại thí?
- Không được sát sinh, đây gọi là đại thí, suốt đời không nên làm. Không trộm cướp, đây gọi là đại thí, suốt đời nên tránh phạm. Không tà dâm vợ người, không nói dối, không uống rượu, đây gọi là đại thí, suốt đời nên gìn giữ vâng làm. Đó là năm đại thí. Nếu Trưởng giả ưng làm năm đại thí này sẽ được lợi lộc vô cùng không biết đâu mà nói hết được.
Trưởng giả Bạt Đề nghe những lời ấy rồi hết sức hân hoan nghĩ: “Ngày nay ta chẳng kham sát sinh, của cải mình đâu thiếu mà phải trộm cướp lấy của người khác, vợ mình nết na thông minh lại đẹp đẽ đâu cần lang chạ với đàn bà khác. Ta cũng chẳng ưa nói láo xưa nay, và ngày nay lớn tuổi ta chẳng nghĩ đến rượu có hại cho sức khỏe huống là nếm ư? Tất cả năm việc này đều hợp với ta, có thể làm được, chỗ diễn thuyết lại chẳng cần mất bảo vật mà được lợi lộc như thế. Phật Thích Ca thuyết pháp qủa là hay, hợp với ta”. Nghĩ như thế nên Trưởng giả nói:
- Năm đại thí này tôi có thể vâng nhận làm được.
Rồi Trưởng giả lại nghĩ: “Ta nên mời Tôn giả Mục Kiên Liên ăn cơm”, nên liền nói:
- Ngài nên hạ cố xuống đây ngồi.
Tôn giả liền hạ xuống ngồi, Trưởng giả tự mang các thức ăn thức uống ra mời Tôn giả ăn uống. Ăn xong, Trưởng giả lại nghĩ: “Ta nên tặng Tôn giả một tấm vải dạ trắng”, liền đứng lên vào nhà kho muốn lựa tấm xấu lại cầm nhầm tấm tốt, Trưởng giả liền bỏ xuống lựa tấm khác lên cũng nhầm tấm tốt như thế ba lần. Tôn giả biết tâm niệm Trưởng giả liền nói kệ vọng vào:
Thí cùng tâm tranh đấu,
Phúc này bậc Hiền bỏ,
Lúc cho không đấu tranh,
Mới gọi tùy tâm cho.
Trưởng giả nghe hiểu nghĩ: “Tôn giả biết ý ta”, ông liền thôi lựa chọn, cầm tấm dạ trắng mang ra dâng Tôn giả. Tôn giả nói kệ chú nguyện cho Trưởng giả:
Quán sát thí đệ nhất,
Biết có người Hiền Thánh,
Trong thí là tối thượng,
Ruộng lành sinh hoa trái.
Tôn giả Mục Kiền Liên chú nguyện xong, nhận tấm dạ cho Trưởng giả được phúc vô cùng. Tôn giả thuyết giảng cho Trưởng giả nghe về thí luận, giới luận, luận sinh cõi Trời, dục là bất tịnh. Tôn giả nói về khổ, nguyên nhân gây ra khổ, làm sao diệt khổ, và con đường Tám đạo phẩm Hiền Thánh: Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mang, chính tinh tấn, chính niệm, và chính định sẽ đưa đến giải thoát an lạc đời đời. Trưởng giả thâu nhận hết không còn nghi ngờ, ông tự quy y Phật, Pháp, Tăng, và xin thọ ngũ giới. Trưởng giả thưa:
- Từ nay về sau, xin Thế Tôn và bốn chúng nhận lời thỉnh của con mãi mãi, con sẽ cung cấp y phục, thức ăn, thuốc men không luyến tiếc.
Tôn giả Mục Kiền Liên thuyết pháp xong ra về. Các Tôn giả nói với tôn giả Tân Đầu Lư: “Chúng tôi đã độ cho trưởng giả Bạt Đề xong, bây giờ đến lượt Hiền giả”.
2)- Bà Nan Đà được độ:
Hôm sau, lúc ấy bà Nan Đà đang làm bánh sữa, Tôn giả Tân Đầu Lư ôm bát vào thành La Duyệt, đi khất thực từ đầu thành, dần dần đến nhà bà Nan Đà. Tôn giả từ dưới đất nhà bà vọt lên, đến gần chỗ bà đang làm bánh đứng chìa bát khất thực. Bà thấy Tôn giả tự nhiên ở đâu mà vào nhà được, nên đâm ra bực tức nói:
- Tỳ kheo nên biết, dù ông có lòi mắt ra hay tự treo ngược trên không, ta cũng không cho.
Tôn giả liền dùng sức thần thông treo ngược lên và hai mắt lòi ra ngoài. Bà thấy thế càng tức giận hơn nói dữ:
- Dù ông có phun ra khói, toàn thân bốc cháy hay toàn thân ra nước, ta cũng không cho.
Tôn giả dùng sức tam muội cho toàn thân ra khói, rồi toàn thân bốc cháy, sau toàn thân phun ra nước. Bà thấy rồi, giận dữ càng tăng nói ác:
- Dù ông có chết trước mặt ta ngay tức thì, ta cũng chẳng cho ăn.
Tôn giả liền nhập Diệt tận định nằm chết quay ra đất. chỉ ngáp một cái rồi không còn cử động nữa. Chờ một lúc lâu không thấy Tôn giả đứng lên, bà liền tới coi hơi thở, mạch tim đập, tất cả đều không còn. Bà đâm ra hoảng, sợ hãi cuống quýt, bà nghĩ: “Sa Môn này là con dòng họ Thích nhiều người biết, Quốc Vương, Đại Thần đều biết, nếu họ biết ông này chết ở nhà mình, chắc là ta không tránh khỏi gặp rắc rối phiền toái”. Bà liền nói:
- Sa Môn, Sa Môn, sống lại đi, tôi sẽ cho ăn, tôi hứa là sẽ cho ăn, mau tỉnh lại đi.
Không thấy cử động, bà đâm ra hoảng, càng sợ hãi hơn, và lay gọi nói như thế đến ba lần mới thấy Sa môn mở mắt cử động. Bà lại nói:
- Tôi hứa là sẽ cho ăn, đứng dậy đi.
Tôn giả Tân Đầu Lư tỉnh lại, đứng lên, bà nghĩ “Cái bánh này lớn qúa, làm cái nhỏ hơn cho ông ta”, rồi nói:
- Chờ một lúc, tôi sẽ làm cho ông một cái bánh.
Bà lấy một chút bột làm cái bánh nhỏ, nhưng bánh lại phồng to hơn cái bánh trước, rồi bà lại làm cái khác. Cũng vậy, cái sau lại lớn hơn cái trước. Bà làm đi làm lại nhiều lần, vẫn thấy cái sau lớn hơn cái trước! Cuối cùng bà định lấy cái đầu tiên để cho, nhưng các bánh lại dính chặt vào nhau không tách ra được. Bà biết là Tôn giả dùng sức oai thần nên như thế, bà nói:
- Tỳ Kheo! Ông cần ăn thì tự lấy mà ăn, cớ sao làm phiền nhiễu như thế?
Tôn giả Tân Đầu Lư nói:
- Thí chủ nên biết, tôi chẳng cần ăn, chỉ muốn nói với bà.
- Tỳ Kheo muốn răn dạy điều gì?
- Thí chủ nên biết: “Nay ta đem số bánh này đến chỗ đức Phật, Thế Tôn, nếu Ngài có dạy điều gì, chúng ta sẽ cùng vâng làm”.
- Việc này rất phải.
Bà tự bưng bánh theo sau Tôn giả đến chỗ đức Phật ngự, cúi đầu lễ Phật. Tôn giả Tân Đầu Lư thưa:
- Bà Nan Đà, chị của trưởng giả Bạt Đề, cúi xin Thế Tôn thuyết pháp cho bà được lợi lạc.
Đức Phật bảo:
- Bà hãy đem bánh thí cho Như Lai và các Tỳ Kheo.
Bà vâng lời, đem dâng Phật và hết lượt các Tỳ kheo, xong bà thưa:
- Thưa Ngài, bánh còn dư,
- Bà thí cho Như Lai và chúng Tỳ Kheo lần nữa.
Bà lại thí lần nữa, xong bà lại thưa:
- Thưa Ngài, bánh vẫn còn dư.
- Bà đem ra ngoài bố thí cho người đi đường.
Bà đem bánh ra ngoài, gặp ai cũng tặng, một lúc lâu bà trở vào thưa:
- Bạch Ngài, bánh vẫn còn thừa.
- Bà đem bánh ấy bỏ chỗ đất sạch hay bỏ vào nước sạch, vì Như Lai không thấy Sa Môn, Phạm Chí, Bà La Môn, Trời, Qủy, Thần, Người có thể tiêu được bánh còn lại ấy.
Bà Nan Đà liền đem ra ngoài bỏ bánh còn lại vào chỗ nước trong sạch, tức thời lửa bùng lên. Bà thấy thế ôm lòng sợ hãi, trở lại chỗ Phật cúi lạy rồi ngồi qua một bên. Đức Phật thuyết pháp, bà nghe dần dần được tín tâm, không sợ hãi hết nghi ngờ do dự, phát tâm vui vẻ tin Tam Bảo, thọ trì Ngũ Giới và phát tâm bố thí rộng rãi v.v…
VI )- Bố thí được phúc đức gì?
Người bố thí tài có dịp chiến thắng lòng bỏn sẻn tham lam ích kỉ, và nới rộng lòng bác ái từ bi của mình, người này có ngay tâm vui vẻ vì thấy mình làm được việc hữu ích cứu giúp người. Người bố thí đời này an vui, danh tiếng, kính ngưỡng, sinh cõi trời, đời sau gặp nhiều sự giúp đỡ nếu sinh trở lại cõi người.
Người bố thí pháp cũng là để tự nhắc nhở mình những điều Phật dạy, noi theo và tinh tấn tu hành để giải thoát. Sự lợi ích của bố thí pháp còn bao gồm cả những sự chỉ dạy phương pháp, nghề nghiệp chân chính cho người để tự nuôi sống, tăng tiến trong cuộc sống; hay chỉ bảo những điều hay lẽ phải của thế gian để chỉ bày cho người những lợi ích trong đời sống đạo đức.
Người bố thí vô úy là để có dịp thử thách lòng vị tha và sự chấp ngã của mình.
Người nhận bố thí do sự che chở đùm bọc vỗ về an ủi nên vô cùng sung sướng, ví như họ được uống nước cam lộ của người tặng vậy.
Người bố thí sẽ có nhiều công đức khi bố thí đúng lúc, không vụ lợi, tự tay, tự nguyện vì lợi người, không mong báo đáp bất cứ hình thức nào. Người bố thí còn phải biết bố thí cho bậc chân tu, bậc Thánh, và nguyện đem công đức này bố thí cho tất cả chúng sanh.
Những cách bố thí với tâm trong sạch đúng với ý nghĩa của bố thí Ba La Mật như thế. Người bố thí đã bước được một bước đầu tiên quan trọng trong Lục Độ là bố thí, rồi tiếp đến là nhẫn nhục, trì giới, tinh tấn, thiền định và trí huệ để bước qua bờ giải thoát an vui đời đời.,.
Toàn Không
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks