MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN
Toàn Không
Quán 12 Nhân Duyên trừ si mê
I )- Nhân duyên là gì?
Nhân là nguyên nhân trực tiếp sinh ra một vật khác, như hạt lúa là nhân sinh ra cây lúa.
Duyên là trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp cho một vật khác được thành, như đất nước ánh sáng không khí nhân công v.v… là trợ duyên cho hạt lúa thành cây lúa. Vậy nhân duyên là chỉ các sự việc làm nhân và cũng là trợ lực trợ duyên cho nó được thành. Mọi sự vật trong vũ trụ không thể đứng riêng một mình mà có được, mà phải nương vào nhau, từ vật nhỏ đến vật lớn, từ vật hữu hình đến vô hình, đều do nhân duyên mà có (chư pháp tùng duyên sinh).
Nhân duyên còn chỉ các vật đều là nhân, các nhân đó duyên với nhau mà thành ra vật khác, như gạch ngói xi măng gỗ nhân công v.v… là nhân, các nhân này duyên với nhau mà thành cái nhà chẳng hạn. Các pháp (các vật) trùng điệp làm nhân duyên cho nhau mà thành vật khác, như xi măng là do người ta làm bột vôi trộn với bột đất sét v.v… mà thành, vôi là do người ta nung đá mà thành v.v…Vạn pháp (vạn vật) trong vũ trụ trùng trùng điệp điệp làm nhân làm duyên cho nhau mà thành ra vật nọ vật kia như thế (vạn pháp trùng trùng duyên khởi). Con người cũng là một vật trong vũ trụ, nên cũng không ra ngoài nguyên tắc ấy.
Tóm lại, pháp duyên khởi là đây có nên kia có, đây khởi nên kia khởi, như duyên Vô Minh có Hành, duyên Hành có Thức, duyên Thức có Danh Sắc, duyên Danh Sắc có Lục Nhập, duyên Lục Nhập có Xúc, duyên Xúc có Thụ, duyên Thụ có Ái, duyên Ái có Thủ, duyên Thủ có Hữu, duyên Hữu có Sinh, duyên Sinh có Già Chết.
II )- Con người chuyển biến như thế nào?
Muốn biết con người chuyển biến như thế nào, Phật Giáo có thuyết “Mười Hai Nhân Duyên” Để hiểu vấn đề chuyển biến luân hồi sinh tử, chúng ta phân tích lần lượt:
01)- Vô minh: Vô minh là gì? Có nhiều nghĩa giải thích cho nhân duyên “vô minh”.
- Vô minh là không biết như thật, không tỏ ngộ chân tâm, không thấy Phật tánh của mình.
- Vô minh là không biết chân thật về mọi sự việc, thật cho là giả, giả cho là thật, phân biệt chấp mình, chấp người, chấp mọi sự trên đời.
- Vô minh là tối tăm, mê mờ, ngu si, không biết nghiệp báo lành ác, nên khởi tham lam, sân hận, do đó phiền não khổ đau sinh ra. Vô minh là không biết Khổ, không biết nguyên nhân gây ra khổ, không biết diệt khổ, không biết Đạo.
02)- Hành: Là làm, tạo tác. Vì vô minh, con người suy nghĩ, nói năng, hành động lành dữ gọi là “hành”. Khi con người suy nghĩ, nói năng, hành động thiện ác là đã tạo ra cái nghiệp tương ưng tốt xấu. Cái nghiệp tương ưng ấy huân tập vào thức thứ tám gọi là A Lại Đa Thức của mỗi người thành “nghiệp thức” phải mang.
03)- Thức: Là tám thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỵ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt Na thức, và A Lại Đa thức. A Lại Đa ghi nhận cất giữ tất cả các dữ kiện lành ác do Mạt Na thức mang vào, gọi là Thần thức, thức thiện ác hay Nghiệp thức thuộc tinh thần. Khi chết, Thần thức đi lãnh qủa báo khổ hay vui ở đời sau, nghĩa là sẽ đi huân tập nhập vào nguồn sống mới, tức là vào trong bụng mẹ để bắt đầu một cuộc sống khác gọi là Tâm thức.
04)- Danh Sắc: Tại môi trường sống mới, Tâm thức (không có hình tướng) cùng tinh huyết nhục thể gọi là “Sắc” (vật chất) hòa hợp nên có “Danh Sắc”, Danh là tên gọi của Tâm thức gồm “Thụ, Tưởng, Hành, Thức”, Sắc là nhục thể mới gồm bốn đại “Đất, Nước, Gió, Lửa”, hai thứ tinh thần và thể chất hòa hợp với nhau là Danh Sắc.
05)- Lục Nhập (Lục xứ): Gọi là sáu chỗ vào. Từ Danh Sắc dần dần thành thân thể có sáu nội nhập xứ “sáu căn” (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), là chỗ đến của “sáu trần” (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) nên gọi là chỗ “sáu nhập”. Ở trong bụng mẹ phát triển đầy đủ tất cả bộ phận.
06)- Xúc: Là tiếp xúc. Khi đủ ngày tháng ra khỏi bụng mẹ, lớn dần lên, sáu căn tiếp xúc sáu trần, như mắt thấy cảnh, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc bên ngoài, ý tiếp xúc pháp trần ( pháp trần là các sự kiện đã được năm căn trên tiếp nhận).
07)- Thụ: Là lãnh thọ. Có ba loại thụ là thụ khổ, thụ vui, thụ không khổ không vui. Khi lớn dần lên tiếp xúc sáu trần sinh ra phân biệt, đó là “cảm thọ” mắt thấy cảnh đẹp xấu, tai nghe tiếng thấy hay dở, mũi ngửi mùi thấy thơm thối tanh hôi, lưỡi nếm vị thấy mặn nhạt, ngọt bùi, đắng cay, thân tiếp xúc thấy nóng lạnh, êm nhám cứng mềm, ý nghĩ muôn vật khác biệt. Khi tiếp xúc rồi sẽ lãnh thọ những cảnh vui buồn, sướng khổ hay bình thường không vui buồn không sướng khổ.
08)- Ái: Là yêu thích. Có dục ái, sắc ái, và vô sắc ái. Lúc cảm thọ, sinh ra ưa thích hay không thích, đó là “ái ố”, yêu ghét. Khi thọ vui sướng ưa thích, sinh tham muốn làm sao cho được, khi thọ buồn khổ ghét chê sinh giận hờn, tìm cách gạt bỏ. Đây là động cơ thúc đẩy “ý khẩu thân” tạo nghiệp.
09)- Thủ: Là giữ lấy. Vì tham ái nên tìm cầu nắm lấy giữ lấy cái ưa thích, chấp đắm ghi nhớ mãi không quên gọi là “thủ”, và ghét bỏ nhớ mãi cái không ưa cũng gọi là thủ. Mục đích của thủ là cố tìm phương này kế nọ để thỏa mãn cho bản ngã yêu ghét của mình, do đó mà tạo ra nghiệp. Có bốn loại thủ là dục thủ, kiến (thấy) thủ, giới (6 căn dính mắc 6 trần,) thủ, và ngã (chấp ta) thủ.
10)- Hữu: Là có. Nghiệp sẽ chiêu cảm qủa báo sau này nên gọi là “hữu”, tức là “có” cái nhân lành dữ cho kiếp sau, gồm có ba loại hữu là dục hữu sắc hữụ vô sắc hữu.
11)- Sinh: Là sinh ra. Đã có “hữu” là cái hạt mầm, hết đời này thế nào cũng “sinh” ra ở kiếp sau, tùy theo nghiệp lành ác mà được sinh đến một trong sáu cõi: Trời, Thần, Người, Ngạ Qủy, Súc Sinh, Địa Ngục để lãnh qủa báo lành hay dữ. Như vậy nếu mỗi chúng sanh có một thân, các loài trải qua sự hòa hợp sinh ra được ấm (Sắc, thụ, tưởng, hành, thức), được giới (gồm tứ đại đất nước gió lửa), được nhập xứ (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), được mệnh (có sự sống).
12)- Già Chết: Mọi người khi già tóc bạc, răng rụng, khí lực hao mòn, các căn rã rời, tay chân yếu kém, lẩm cẩm, lú lẫn, làm việc gì cũng khó khăn mệt mỏi, đó là già. Khi một hơi thở ra không thở vào nữa thì mạng sống chấm dứt, hơi ấm không còn, thân hư hoại, đó là chết. Khi đã sinh phải “già chết”, dù ở cõi nào cũng vậy.
Tóm lại, có cái này thì có cái kia. Không có cái này thì không có cái kia, nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thụ diệt, thụ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt
thì già chết diệt.
Trong 12 nhân duyên chia ra như sau:
- Hai nhân duyên Vô Minh và Hành thuộc về đời qúa khứ vì mê lầm mà tạo nghiệp nhân.
- Năm nhân duyên Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ là năm qủa hiện tại nhận lãnh do nhân qúa khứ gây ra.
- Ba nhân duyên Ái, Thủ và Hữu là nhân đời hiện tại tạo nghiệp cho qủa ở kiếp sau, đó là hai nhân duyên Sinh và Già Chết.
Như thế, từ nhân đời qúa khứ (Vô minh, Hành) sang qủa đời hiện tại (Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thụ), trong khi gặt qủa đời hiện tại lại tạo nhân (Ái, Thủ, Hữu) cho qủa đời tương lai (Sinh, Già Chết). Ba đời cứ thế nối tiếp mãi không ngừng, như một bánh xe quay tròn mãi mãi. Nhưng việc luân hồi không phải chỉ ở cõi Người mà tùy theo nghiệp thức dẫn dắt, nếu làm lành được hưởng sinh trở lại cõi Người, cõi Trời hay cõi Thần, nếu làm ác, bị nghiệp kéo xuống Địa Ngục, Ngạ Qủy hay Súc Sinh.
Vô minh thuộc về mê “Hoặc” (hoặc là nghi ngờ, lừa dối, mê loạn). Hành thuộc về tạo “Nghiệp” (thiện, ác). Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thụ thuộc về qủa “Khổ”. Ái thuộc về mê “Hoặc”. Thủ, Hữu thuộc về tạo “Nghiệp”. Sinh, Già Chết thuộc về qủa “Khổ”.
Nếu người nào đối với pháp (hữu vi) không biết như thật, không biết như thật pháp tập (sinh ra), không biết như thật pháp diệt, không biết như thật pháp diệt đạo tích (con đường đạo), người ấy chẳng thể tự thấy pháp, chẳng tự biết như thật đối với sự Già Chết, cách diệt Già Chết, con đường đạo để ra khỏi Già Chết.
Cũng như vậy người ấy không biết như thật đối với “Sinh, hữu, thủ, ái, thụ, xúc, sáu nhập, danh sắc, thức, hành , vô minh” (Còn tiếp).
Toàn Không
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks