Vũ Trụ Quan Tây Phương và Đông Phương

Nguyễn Thế Đăng


Một con đường Trung đạo thu góp những tinh hoa của hai bên và bỏ bớt những gì cực đoan đã gây ra và sẽ còn gây ra những rắc rối đau khổ chắc hẳn là con đường tối ưu cho nhân loại ngày nay.

VŨ TRỤ QUAN CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐẠI

Vũ trụ của chúng ta được tạo thành từ một vụ nổ lớn gọi là Big Bang cách đây khoảng 14 tỷ năm. Lúc đó toàn bộ vũ trụ chỉ lớn bằng đầu kim. Vật lý học không thể biết cái gì trước thời điểm 10ˉ43 giây của vụ nổ, vì chúng ta đụng phải “bức tường Planck”: khoa học không thể biết đó là trạng thái gì khi lực hấp dẫn ở mức cực độ.

Vũ trụ tiếp tục giãn nở đến 10-32 giây, các hạt quark, electron, nơtrinô cùng các phản hạt của chúng xuất hiện từ chân không. Các hạt và phản hạt hủy nhau, nhưng không biết tại sao cứ 1 tỷ phản quark xuất hiện từ chân không thì có 1 tỷ + 1 hạt quark xuất hiện.

Tỷ số 1 trên 1 tỷ này đã làm cho vật chất có được để tạo thành vũ trụ.

Vũ trụ hiện vẫn đang giản nở với tốc độ càng lúc càng nhanh và sự tiến hóa của vũ trụ là phức tạp hóa. Nói theo ngôn ngữ triết học là từ cái một đến cái nhiều, từ cái đơn dạng đến đa dạng.

Lúc ba tỷ năm vũ trụ vẫn giãn nở, bắt đầu có các đám mây hydro và hêli, chúng co lại tạo thành những thiên hà. Hệ mặt trời hình thành sau Big Bang khoảng 10,4 tỷ năm.

Sau đó 1 tỷ năm trái đất nguội nhiều, mưa làm nước ngập ba phần tư bề mặt trái đất. Sinh vật đơn bào, dạng sự sống sơ đẳng đầu tiên xuất hiện cách đây 3,8 tỷ năm. Sự sống đã cần 300 triệu năm để tiến hóa từ vật chất vô sinh đến vật chất hữu sinh và khoảng 3 tỷ năm để từ đơn bào lên đa bào.

Cách đây 500 triệu năm là các động vật có xương sống. Khoảng 70 triệu năm, các loài chim và thú. Và khoảng 2 triệu năm, bắt đầu loài người.

Trong tìm hiểu sự sinh thành vũ trụ có rất nhiều khâu chưa thể giải thích, chưa thể kết nối. Chẳng hạn hiện nay chúng ta mới chỉ biết có 7% vật chất của vũ trụ chúng ta (phải luôn luôn nhấn mạnh vũ trụ của chúng ta vì đây là vũ trụ chúng ta đang kinh nghiệm và có thể có những vũ trụ khác, những Big Bang khác trước, sau hay đồng thời với chúng ta nhưng nằm ngoài mức hiểu biết vật lý của chúng ta), còn lại khoảng 93% thì chúng ta chưa biết, do đó chúng ta gọi là “vật chất tối”.

Chẳng hạn một nỗ lực gần 40 năm cho tới cuối đời của Einstein nhằm tìm ra một lý thuyết “Trường thống nhất” đã không làm được. Sau đó các nhà vật lý cũng tìm cách kết hợp thuyết tương đối và cơ học luợng tử nhưng cũng chưa thành. “Lý thuyết dây” có vẻ triển vọng nhất nhưng cũng chưa hoàn tất, chưa vượt hết những khó khăn.

Ở đây, chúng ta chỉ nêu lên ba vấn đề, vì chúng có liên quan đến những phần sau.

Năm 1801, nhà vật lý Anh – Thomas Young làm thí nghiệm, một nguồn sáng trước một mặt phẳng có hai khe hở, phía sau là một tấm màn sẽ tạo ra hiện tượng giao thoa. Nếu che khe phải thì những photon chỉ đi qua khe bên trái, photon sẽ đến một chỗ xác định trên màn. Giảm nguồn sáng chỉ để nó phát ra mỗi lần một photon và bắn qua khe bên trái, photon sẽ đến một chỗ xác định trên màn.Chuyện lạ là mở luôn khe phải và vẫn bắn qua khe trái một hạt photon như trước thì thay vì hạt này đến cùng một chỗ với hạt thứ nhất, nó lại đến một chỗ khác.

Hạt photon thứ hai như biết rằng khe phải đã được mở. Rồi tiếp tục bắn từng hạt , không nhắm vào khe nào, chúng ta lại có hiện tượng giao thoa. Thế thì tại sao các hạt photon tự biết chọn lựa qua đồng đều cả hai khe để thành giao thoa? Theo R.Feynman, “Thí nghiệm khe kép mang trong nó trái tim của cơ học lượng tử. Quả thực nó chứa đựng điều huyền bí duy nhất”.

Năm 1935, Einstein, Podolsky và Rosen đã tưởng tượng ra thí nghiệm EPR (viết tắt ba tên tác giả) để chống lại tính chất may rủi xác suất và hiện tượng bất định vị (non-locality) của cơ học lượng tử. Einstein nói. “Thượng đế không gởi đi các tín hiệu ngoại cảm”, “tương tác ma quái” (spooky interaction), “tác động ma quỷ từ xa”. Báo Guadian năm 2002 cho rằng ‘Hiện tượng này còn bí ẩn hơn cả sự tồn tại của vũ trụ’.

Quan điểm của Bohr để trả lời cho EPR là: Hai hệ thống hay hai hạt trong thí nghiệm ý tưởng của EPR không thể được xem là hai hệ thống khác nhau sau khi chúng đã tương tác với nhau, mà là một hệ thống lượng tử duy nhất. Cho nên mỗi sự thay đổi ở một hệ thống sẽ gây ra ảnh hưởng tức thì ở hệ thống kia, dầu chúng cách xa đến bao nhiêu. Đây là tính toàn thể không thể chia cắt của vũ trụ. Ý kiến này về sau được John Bell chứng minh, nghĩa là sự phản bác cơ học lượng tử của Einstein đã sai lầm.

Năm 1964, Bell công bố “ Về nghịch lý EPR” với bất đẳng thức Bell, nói rằng: cơ học lượng tử là phi cục bộ, các hạt tác động với nhau bất chấp thời gian không gian, nhanh hơn ánh sáng, không do bốn lực trong vật lý hiện đại hay sự truyền tín hiệu giữa các hạt.

Về sau, David Bohm xem cái thế giới này là trật tự ẩn (implicate order) so với thế giới hiện tượng của chúng ta là trật tự hiển (explicate order) (xem 2 chương The Implicate Order và The Edge of Something Unknow-Infinite Potential, David Peat, 1997). Nhà hóa học Nobel 1977 là Prigogine nói đến “một trường thông tin vũ trụ” hay một “Lý trí vũ trụ”. Chúng ta thấy lý thuyết Siêu Dây cũng nói đến một vũ trụ hòa âm như một toàn thể.

Vấn đề thứ hai là vấn đề sinh học. Nếu sự sống hữu sinh ngẫu nhiên đột khởi từ thế giới vật chất vô sinh thì để tạo thành một phần tử AND, thiên nhiên phải mò mẫm thí nghiệm trong 1015 năm, tức là 100.000 lần lâu hơn số tuổi vũ trụ.

Xác suất để một con vi-rút thành hình theo lối kết hợp ngẫu nhiên các phân tử trong vòng 1 tỷ năm (từ khi có trái đất cho đến lúc có tế bào đầu tiên) trong món súp nguyên thủy của trái đất là 10-2.000.000. (Hỗn độn và Hài hòa, Trịnh Xuân Thuận, tr367). Vì thế, Jean Guitton, triết gia Pháp hiện đại, kết luận: ‘Bản thân của vũ trụ là thông minh’ (Dieu et la Science, Jean Guitton, Igor và Grichka Bogdanow, 1990).

Francis Crick, giải Nobel Sinh học nhờ khám phá AND nói: “Một người thành thật được trang bị bằng tất cả hiểu biết của hôm nay phải chấp nhận rằng nguồn gốc đời sống quả là một phép lạ, bởi vì phải có không biết bao nhiêu điều kiện được tập hợp để có ra đời sống”.

Jacques Monod, một nhà sinh học của Pháp được xem là nhà vô thần nổi tiếng nói, “Một trong những thuộc tính cơ bản đặc trưng cho tất cả cơ thể sống là chúng được giao cho một dự định mà chúng vừa thể hiện trong cấu trúc vừa thể hiện bằng những khả năng của mình. Thay vì từ chối thuộc tính đó (như một số nhà sinh học đã làm), chúng ta nhất thiết phải thừa nhận nó như một thuộc tính căn bản của các cơ thể sống. Các cơ thể sống khác biệt với tất cả các cấu trúc khác trong vũ trụ là do thuộc tính này, thuộc tính mà chúng tôi gọi là ‘cứu cánh luận’ (téléonomie)” (Le Harsard et la Nécessité, 1970, trích từ Hỗn độn và Hài hòa, tr.358).

Đặc trưng của sự sống là sự tổ chức, tự trao đổi với môi trường chung quanh và sự sanh sản, thế nên Edgar Morin gọi là sự tổ chức sinh thái (auto-éco-organisation) (La vie de la vie,1980, tr.65-70). Chính đặc tính ‘tự’ này cho chúng ta nhận xét rằng mỗi tế bào sự sống đều như có trí thông minh, có cái biết trong nó.

Vấn đề thứ ba là sự xuất hiện của con người. Đây là một bí ẩn mà khoa học ở thế kỷ XX chưa giải quyết được. Sự đột khởi từ loài động vật đến loài người, nói theo chữ của Monod, không thể xảy ra do ‘ngẫu nhiên’ hay ‘tất định’.

Còn tiếp.

http://www.phattuvietnam.net/nghiencuu/28/11122.html