Giấc mơ của thầy A Nan

Một hôm, Phật ở tại giảng đường nơi thành Xá Vệ của vua Ba Tư Nặc, A Nan đứng hầu, trên mặt lộ vẻ buồn lo. Phật hỏi vì sao ra như vậy, A Nan mới thưa rằng trong một đêm, Tôn giả nằm mộng thấy bảy việc kỳ lạ cổ quái khiến lòng hoang mang lo sợ. Phật liền hỏi:

- Ông nằm mộng thấy bảy việc gì?

- Bạch Thế Tôn: Giấc mộng thứ nhất, con thấy nước ở sông to biển cả, đều bị lửa đốt cháy, ánh lửa đốt lên thấu trời xanh.

Đức Phật nghe nói chỉ mỉm cười nhân hậu và giải thích:

- Này A Nan! Bậc Thánh vốn không nói chuyện mộng mị. Nhưng mộng của ông quả thật kỳ quái. Nước sông ngòi biển cả bị lửa thiêu trọn, đó là tượng trưng cho các tỳ kheo trong tăng đoàn tương lai, ác nghịch mạnh, tâm lành ít ỏi, chấp giữ vào sự cúng dường rồi lại sinh ra gây gổ. Như nước trong lặng mát mẻ lại biến thành biển lửa. Giấc mộng thứ hai của ông ra sao?

- Bạch Thế Tôn: Con thấy mặt trời sắp lặn, thế giới Ta Bà tối đen, trên bầu trời không có lấy một ngôi sao.

Đức Phật đã 80 tuổi, lúc ấy rất cảm khái, giải thích:

- Này A Nan! Không bao lâu ta sẽ vào Niết Bàn, các đại đệ tử cũng Niết Bàn, điều ấy biểu thị rằng con mắt của nhân thiên sắp tiêu diệt. Còn giấc mộng thứ ba?

- Bạch Thế Tôn: Con thấy các vị tỳ kheo không theo lời Phật dạy mà cũng đắp ca sa, chúng xuất gia rớt dưới hầm, còn hàng tại gia thì đi trên cầu.

Phật thốt nhiên thở dài nói:

- A Nan! Điếu ấy ám chỉ tỳ kheo đời sau, mở đại hội giảng kinh chỉ nói ngoài miệng, chẳng phụng hành, lại tật đố hại nhau, không sợ quả, rốt cuộc bị đoạ lạc, hàng cư sĩ thừa cơ lên toà cao, khinh chê tam bảo, họ xâm chiếm chùa chiền, phỉ báng tỳ kheo, huỷ hoại tháp miếu. Còn điềm mộng thứ tư?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy tỳ kheo pháp y không đủ, bị mắc kẹt trong đám gai.

Phật lại cảm xúc nói:

- A Nan! Điều ấy nói rằng các tỳ kheo sau này, bỏ pháp y không mặc, xả giới luật ưa thế tục, nuôi nấng vợ con, đó thật là bất hạnh cho Phật Pháp! Mộng thứ năm ra sao?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy trong rừng rậm um tùm, có rất nhiều heo rừng đào bới gốc rễ các đại thọ chiên đàn.
Phật lộ vẻ lo buồn nói:

- Ôi! Điều ấy nói lên các tỳ kheo sau này chỉ tính toán sinh kế, buôn bán Như Lai, tụng kinh làm nghề nuôi thân. Mộng thứ sáu?

- Bạch Thế Tôn! Con thấy voi lớn bỏ rơi voi con, sư tử là chúa loài thú chết, hoa thơm rơi trên đầu, cầm thú kinh sợ bỏ chạy, chẳng bao lâu trong thân sư tử sinh trùng bọ, trở lại cắn rỉa thịt sư tử.

Phật chỉ còn biết lắc đầu, nói:

- Voi lớn bỏ voi con, đó là báo hiệu các vị trưởng lão đời sau tự lo lợi riêng, không nâng đỡ lớp thanh niên hậu bối! Trùng trong thân sư tử ăn thịt sư tử, đó là ám chỉ không phải ngoại đạo phá hoại Phật Pháp, mà chính là hàng đệ tử xuất gia tại gia tự phá hoại giáo pháp của ta. Còn giấc mộng thứ bảy của ông ra sao?

- Con thấy đầu con cao ngang đỉnh núi Tu Di.

Phật trầm ngâm hồi lâu mới nói:

- A Nan! Sau ba tháng nữa ta sẽ nhập Niết Bàn, các tỳ kheo, tỳ kheo ni, trời người người dân chúng đều nhờ ông kết tập kinh điển.

Bảy điều mộng của A Nan, qua sự giải thích của đức Phật, đã dự đoán sự suy đồi của Phật giáo về sau, và sự đổi thay thời đại.

“Như trùng trong thân sư tử, lại ăn thịt sư tử, đó là điều chê cười hàng tăng tục hiện nay. Chỉ thị ấy đối với chúng ta là một sự đau đớn khốc liệt thấu xương.”

Chúng ta có thể phỏng đoán, vào những năm đức Phật về già, vì các điềm mộng của A Nan mà giải nói một cách cảm khái như vậy, tâm tình thật trầm trọng. Hổ thẹn cho chúng ta sinh nhằm thời mạt pháp, phải làm thế nào cho đức Thế Tôn hoan hỷ, để cho lời dự đoán kia không thành sự thật.

(Trích "10 đại đệ tử Phật")



Tám điều đáng quý của chánh pháp

Có một hôm nọ đứng nói chuyện với ngư dân ven biển, đại đức Ananda hỏi các ngư dân này nghĩ gì về biển cả. Một người đàn ông cao lớn, nước da xạm nắng, dáng người rất đẹp, nói với thầy:

- Biển có những đặc tính rất lớn và tôi ưa biển vì những đặc tính ấy. Đặc tính thứ nhất là biển có những bãi cát thoai thoải đưa ta đi từ từ xuống nước, khiến cho việc thả thuyền và kéo lưới trở nên rất dễ dàng. Đặc điểm thứ hai là biên luôn luôn ở tại chỗ, biển không bao giờ dời chỗ. Mình muốn ra biển thì mình biết hướng nào mà tìm đi. Đặc điểm thứ ba là biển không chấp nhận thây chết. Khi có thây chết, biển luôn luôn đẩy nó lên bãi. Đặc điểm thứ tư là biển chấp nhận nước của tất cả các dòng sông, dù đó là sông Ganga, sông Yamuna, sông Aciravati, sông Sarabhu hay sông Mahi. Sông nào ra tới biển thì cũng bỏ tên riêng của mình để mang tên biển cả. Đặc điểm thứ năm là tuy ngày đêm muôn sông liên tiếp đổ nước về biển, biển cũng không vì vậy mà có khi vơi khi đầy. Đặc điểm thứ sáu là nước biển ở đâu cũng mặn. Đặc điểm thứ bảy là trong lòng biển có biết bao nhiêu thứ san hô, xà cừ và ngọc quý. Đặc điểm thứ tám là biển làm chỗ dung thân cho hàng triệu loài sinh vật, trong đó có những loài rất lớn dài hàng trăm do tuần, và những loài nhỏ bé như cây kim hoặc hạt bụi. Thưa các thầy, tôi chỉ nói có chừng đó, các thầy cũng thấy tôi yêu biển đến chừng nào.

Ananda nhìn kỹ bác ngư dân. Bác này làm nghề chài lưới mà nói năng như là một thi sĩ. Thầy hướng về phía Bụt:

- Thế tôn, bác ngư dân này ca tụng biển rất hay. Thế tôn, bác ngư dân yêu biển thế nào thì con cũng yêu đạo pháp giác ngộ như thế. Con thấy đạo pháp của Thế tôn có rất nhiều đặc tính tuyệt vời. Đạo pháp này cũng bao la như biển cả. Mong Thế tôn dạy cho chúng con.

Bụt mỉm cười, đưa tay chỉ ghềnh đá:

- Chúng ta hãy tới ngồi trên những tảng đá kia. Tôi sẽ nói cho các vị nghe về những đặc tính của đạo pháp giác ngộ.

Mọi người theo Bụt leo lên ngồi trên ghềnh đá. Các bác ngư dân cũng được mời theo. Khi mọi người đã an toạ quanh Bụt, Bụt cất tiếng:

- Này quý vị, bác ngư dân vừa nói tới tám điều đáng yêu của biển. Tôi cũng sẽ nói tới tám điều đáng yêu của chánh pháp.

- Thứ nhất, nếu biển có những bờ cát thoai thoải có thể đưa ta đi từ từ xuống nước, khiến cho việc thả thuyền và kéo lưới trở nên dễ dàng, thì chánh pháp cũng vậy. Trong đạo pháp này, mọi người có thể đi từ dễ tới khó, từ thấp tới cao, từ cạn tới sâu. Chánh pháp mở rộng cho tất cả mọi người thuộc đủ loại căn tính: ai cũng có thể đi vào chánh pháp được cả. Dù là em bé, người già, người trí thức, kẻ thiếu học…tất cả đều tìm thấy pháp môn tu học thích hợp với mình trong đạo pháp này.

- Thứ hai, nếu biển luôn luôn ở tại chỗ mà không dời đi nơi khác, không cuốn phăng đi xóm làng và thành thị thì chánh pháp cũng thế. Những nguyên tắc của chánh pháp luôn luôn không thay đổi, và giới luật của người thọ trì chánh pháp đã được quy định rõ ràng. Ở đâu có sự học hỏi và thực hành đúng theo những nguyên tắc ấy và những giới luật, ấy là ở đó có chánh pháp, không thể nào sai chạy được.

- Thứ ba, nếu biển không bao giờ dung túng một thây chết trong lòng nó thì chánh pháp cũng vậy. Chánh pháp không dung túng được vô minh, biếng lười và hành động phạm giới. Một người không tu trong một đại chúng có tu không thể nào cư trú lâu dài được. Người đó sớm muộn gì cũng phải bị đẩy ra khỏi đoàn thể và giáo pháp.

- Thứ tư, nếu biển chấp nhận nước của tất cả các dòng sông không phân biệt kỳ thị thì chánh pháp cũng thế. Từ giai cấp nào trong bốn giai cấp xã hội, người ta cũng được đón tiếp một cách bình đẳng trong đạo pháp này. Cũng như khi nước các dòng sông chảy ra biển, chúng bỏ lại sau lưng mình tên của dòng sông và bắt đầu lấy tên biển cả, những người đi vào trong đạo pháp của tôi không còn mang theo giai cấp, dòng dõi và địa vị xã hội của họ: tất cả đều được gọi chung là người khất sĩ.

- Thứ năm, nếu biển không vơi đi và cũng không đầy thêm dù đêm ngày muôn sông vẫn tiếp tục chảy về, thì chánh pháp cũng vậy. Chánh pháp là chánh pháp, không phải vì có nhiều người đi theo mà mới là chánh pháp, không phải là vì ít người đi theo mà đạo pháp không phải là chánh pháp. Sự thịnh suy không đánh giá được chân lý của đạo pháp này.

- Thứ sáu, nếu nước biển ở đâu cũng chỉ có một vị là vị mặn, thì chánh pháp cũng thế. Dù giáo pháp được trình bày thành nhiều cách, dù có hàng ngàn hàng vạn pháp môn, thì chánh pháp cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Không có công năng giải thoát thì đó không phải là chánh pháp.

- Thứ bảy, nếu trong lòng biển có vô số các loại san hô, xà cừ và ngọc quý thì chánh pháp cũng thế. Trong đạo pháp ta có nhiều pháp môn vi diệu và quý báu như tứ diệu đế, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lục, thất bồ đề và bát chánh đạo.

- Thứ tám, nếu biển là chỗ dung thân thoải mái cho hàng triệu loài sinh vật trong đó có những loài vật nhỏ như hạt cát và dài lớn đến hàng trăm do tuần, thì chánh pháp cũng thế. Trong đạo pháp ta, một em bé hay một người ít học vẫn có thể có cơ hội để tu học thoải mái. Trong đạo pháp ta, những bậc đại nhân có kích thước lớn như những vị bồ tát có thể có cơ hội tu học và hoằng hoá trong một môi trường thênh thang. Trong đạo pháp ta cũng có vô số các vị đã chứng đạt quả vị Nhập lưu, Nhất hoàn, Bất hoàn và A la hán.

- Này quý vị, biển cả là một nguồn cảm hứng, là một kho tàng vô tận. Chánh pháp cũng thế. Chánh pháp là một nguồn cảm hứng, là một kho tàng vô tận.

Đại đức Ananda chắp tay nhìn Bụt:
- Thế tôn, người là một vị đạo sư, nhưng người cũng là một thi sĩ.

(Trích "Đường xưa mây trắng", thày Thích Nhất Hạnh)


Tám điều giác ngộ của bậc đại nhân

Một hôm đang ngồi ở vườn Bhesakala ở Sumsumaragiri, Phật bảo các vị khất sĩ:

- Này các vị, tôi muốn nói để các vị nghe về tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân. Tám điều này đã từng được đại đức Anurudha chiêm nghiệm và nói tới, hồi tôi gặp đại đức tại Vườn Tre xứ Ceti, nơi đại đức ẩn cư. Đây là tám điều mà những bậc giác ngộ có thể đem ra dạy dỗ và giáo hoá để đưa người từ cõi mê lầm đến bờ giải thoát.

- Điều thứ nhất là giác ngộ rằng vạn pháp là vô thường và vô ngã. Quán sát về tính vô thường và vô ngã của vạn pháp thì tránh được khổ đau và dần dần đạt tới giải thoát và an lạc.

- Điều thứ hai là giác ngộ rằng càng nhiều ham muốn thì càng nhiều khổ đau. Giảm bớt ham muốn tức là làm cho đời bớt khổ.

- Điều thứ ba là giác ngộ rằng tri túc đem tới an lạc. Biết sống đơn giản thì sẽ có thì giờ và tâm lực để tu đạo và để giúp đời.

- Điều thứ tư là giác ngộ rằng chỉ có sự tinh cần mới đưa ta đến quả vị giác ngộ. Lười biếng và hưởng thụ chỉ đưa đến sự đoạ lạc vào thế giới của ma chướng và phiền não.

- Điều thứ năm là giác ngộ rằng sống trong quên lãng và vô minh thì sẽ bị giam hãm đời đời trong cõi sinh tử ràng buộc. Chỉ có đời sống chánh niệm và tỉnh thức mới đưa tới sự thành tựu trí tuệ giác ngộ và khả năng giáo hoá.

- Điều thứ sáu là giác ngộ rằng bố thí là một phương tiện quan trọng để độ người. Vì nghèo khổ mà phần đông bị giam hãm trong oán hận và căm thù, do đó mà cứ tạo thêm nghiệp xấu. Người hành đạo phải thực hiện phép bố thí, coi kẻ ghét người thương bằng nhau, bỏ qua những điều ác mà người ta làm đối với mình và không đem tâm ghét bỏ những ai đã vì nghèo khổ mà lỡ phạm vào tội lỗi.

- Điều thứ bảy là giác ngộ rằng người hành đạo tuy đi vào đời để hoá độ mà không bị chìm đắm trong cuộc đời. Người xuất gia khi đi vào đời để cứu độ chỉ nên lấy y bát làm vật sở hữu duy nhất của mình, luôn luôn sống nếp sống thanh bạch mà hành đạo, giữ phạm hạnh cho thanh cao và đem lòng từ bi mà tiếp xử với tất cả mọi người và mọi loài.

- Điều giác ngộ thứ tám là không chỉ bo bo lo việc giải thoát cho riêng mình mà phải biết nỗ lực phục vụ cho kẻ khác, để tất cả cùng hướng về nẻo giác ngộ.

- Này các vị khất sĩ ! Trên đây là tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân. Tất cả các bậc đại nhân đã nhờ tu tập theo tám điều này mà được giác ngộ. Khi đi vào đời họ cũng đem tám điều này để khai mở và giáo hoá cho mọi người, để cho ai nấy đều biết được con đường đưa tới giác ngộ và giải thoát.

(Trích "Đường xưa mây trắng", thày Thích Nhất Hạnh



Hạt giống chúng tôi là niềm tin

Một lần đang đi khất thực ngang qua cánh đồng ở làng Ekanala, Phật và các vị khất sĩ bị một nông dân chặn đường. Nông dân này tên là Bharadvaja. Ông là một nhà triệu phú. Ông có hàng ngàn mẫu ruộng. Đây là mùa cày ruộng, ông đang đốc thúc dân cày đi cày. Có hàng trăm người đang cày ruộng cho ông trong ngày hôm đó. Chận đường Phật và các vị khất sĩ, ông nói:

- Chúng tôi là nông dân, chúng tôi phải cày sâu cuốc bẫm, gieo trồng, bỏ phân, chăm bón và gặt hái mới có được gạo ăn. Còn các vị không làm gì cả, không sản xuất gì hết mà các vị cũng ăn. Các vị không có lợi ích gì cho đời cả. Các vị không cày, không cuốc, không gieo trồng, không bỏ phân, không chăm bón, không gặt hái…

Phật bảo Bharadvaja:

- Có chứ, chúng tôi cũng có cày, cuốc, gieo trồng, bỏ phân, chăm bón và gặt hái.

- Cày của quý vị đâu, cuốc của quý vị đâu, bò của các vị đâu, hạt giống của các vị đâu? Các vị chăm bón cái gì, săn sóc cái gì, gặt hái cái gì?

Phật nói:

- Hạt giống chúng tôi là niềm tin. Đất của chúng tôi là chân tâm. Cày của chúng tôi là chánh niệm. Bò của chúng tôi là sự tinh tiến. Mùa màng của chúng tôi là sự hiểu biết và thương yêu. Điền chủ! Nếu không có niềm tin, sự hiểu biết và lòng thương yêu thì cuộc đời sẽ khô cằn và đau khổ lắm. Chúng tôi cũng gieo trồng và cũng gặt hái như điền chủ.

Vị chủ ruộng rất thích thú được nghe lời Phật nói. Ông truyền gia nhân đem thức ăn trưa dành cho ông ta tới để cúng dường Phật. Thức ăn là cơm gạo thơm nấu với sữa. Phật từ chối.

Người nói:

- Tôi thuyết pháp không phải với mục đích là được cúng dường. Các vị khất sĩ không đánh đổi giáo pháp với phẩm vật cúng dường. Nếu điền chủ muốn cúng dường, xin để đến hôm khác.

(Trích "Đường xưa mây trắng", thày Thích Nhất Hạnh


VOLUONGTAMPHAP