kết quả từ 1 tới 14 trên 14

Ðề tài: Những truyền thuyết về Thất Sơn kỳ bí

  1. #1

    Mặc định Những truyền thuyết về Thất Sơn kỳ bí


    Vùng Thất Sơn ở An Giang. Ảnh: Anh Việt

    Thất Sơn là tên gọi chung của vùng núi phía tây nam, cận biên giới Campuchia, thuộc hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn của tỉnh An Giang; dân gian thường gọi nôm na là Bảy Núi. Vùng đồng bằng này có đến gần 40 ngọn núi, nhưng chỉ có bảy ngọn nổi bật: Ngọa Long Sơn (núi Dài), Ngũ Hồ Sơn (núi Dài năm giếng), Phụng Hoàng Sơn (núi Cô Tô), Thủy Đài Sơn (núi Nước), Anh Vũ Sơn (núi Két), Liên Hoa Sơn (núi Tượng) và Thiên Cấm Sơn (núi Cấm, cao nhất trong Thất Sơn, 716m).

    Năm non, bảy núi

    Theo dư địa chí, hàng triệu năm trước Thất Sơn là những hòn đảo nằm giữa vùng biển nông ở hạ nguồn Mê Kông. Qua thời gian, phù sa bồi lấp, tạo nên vùng đồng bằng chung quanh Thất Sơn. Rất nhiều câu chuyện kỳ bí về vùng núi này được dân gian truyền khẩu, từ khi tiền nhân ta khai mở miền đất phương Nam bạt ngàn hoang dã, mà lúc ấy, nơi đây còn đầy dẫy thú dữ với ngút ngàn sơn lam chướng khí.

    Ở Thất Sơn, khi cúng kiến, tế lễ, người ta thường hay khấn vái: “Chư vị năm non, bảy núi”. Năm non, bảy núi có ý chỉ những nơi linh thiêng của núi non. Vậy “năm non” ở đâu?

    Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu thì "năm non" là năm ngọn “vồ”. Vồ là chỗ ghềnh đá hoặc đá tảng có hình dạng lạ lùng được truyền tụng về sự linh thiêng, gồm có: vồ Bồ Hong, vồ Đầu, vồ Bà, vồ Ong Bướm và vồ Thiên Tuế. Còn bảy núi là những ngọn núi chính hợp thành Thất Sơn như đã kể trên.

    Sách Đại Nam Nhất Thống Chí mô tả vùng này như sau: “…Hang núi ngậm mây, suối cong nhả ngọc, lại có những cây giáng hương, tóc hương, cây cối xanh um, cầm thú béo mập. Phía đông có ruộng đồng bằng phẳng, phía tây có hồ nước. Ngó xuống ao hồ; đứng trước đồng ruộng, giữa đồi núi cao... lại có suối nước ở trên lưng núi cuồn cuộn chảy ra... Đường tắt quanh co, có dấu người qua lại (...). Ngoài ra, còn nghe gà gáy dưới bóng trăng, chó sủa trong hang động, cảnh huống yên hà ngoài thế giới vậy”.

    Từ chuyện rắn hổ mây...

    Nhà thơ Trần Thế Vinh là người sinh trưởng ở Tri Tôn; anh hướng dẫn chúng tôi đi thăm nhiều nơi và gặp một số nhân vật, kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện kỳ bí của Thất Sơn… Đêm trên vồ Bồ Hong (đỉnh cao nhất của núi Cấm), gió rít vi vu qua những vồ đá, mây bay vùn vụt sát trên đầu. Chúng tôi mặc áo gió, quấn khăn, ngồi uống rượu ở “sân Tiên” và nghe kể chuyện đường rừng.

    Tuấn Thanh làm nghề lái xe ôm, nhà ở ấp vồ Đầu, kể: Thầy Tích Thắt Lô - một sãi cả cao đạo, ông được tôn xưng là “thầy của các thầy thuốc rắn” cùng với các ông Năm Đài, Tư Viên, Tư Cao, Ba Lưới, là những người có tiếng tăm và uy tín ở vùng này, cùng một số người đã từng gặp rắn hổ mây mô tả nó như sau: rắn dài độ 20m, mình to cỡ cái khạp năm cân (khoảng vòng tay ôm), trên lưng có hai sọc đen dài, mình mốc vàng xen kẽ đốm trắng như trái mây, cổ ba khoang nâu sậm, bụng vằn màu trắng sữa, da có vảy bóng, đầu ngất ngưởng vươn cao, có mồng đỏ bầm, miệng ngang, cằm dưới chẻ, lưỡi đỏ hồng, rít the thé như tiếng gà rừng gáy!


    Mảng xà điện U Minh (núi Két). Ảnh: Anh Việt

    Khi di chuyển, săn mồi, đầu rắn hổ mây cất lên cao, đuôi chấm đất làm điểm tựa, phóng rào rào trên đọt cây, lướt nhanh như xé gió… Có một điều lạ là con hổ mây chỉ rượt đuổi và hù doạ người, xưa nay chưa nghe nói chúng ăn thịt ai!? Rắn hổ mây rất thích “xơi tái” heo rừng, nai mễnh, bê con… Vị đạo sĩ cao thâm còn lại của vùng Thất Sơn là ông Ba Lưới, hiện ẩn dật ở vồ Chư Thần. Ông đã từng hai lần giao đấu và hạ hai con rắn hổ mây (một con hơn 100kg, một con khoảng 70kg) bằng đòn gánh!

    Đến... người rừng hay "xà niêng"

    Dân gian vùng Thất Sơn thường kể cho nhau nghe nhiều huyền thoại về “xà niêng”, sống ở nơi rất hẻo lánh, thâm u và luôn né tránh con người. Các truyền thuyết đều cho rằng xà niêng vốn là người đi rừng săn thú, xắn măng hoặc ngậm ngãi tìm trầm rồi lạc trong rừng sâu, ăn tươi, uống sống lâu ngày, trúng độc khí rừng thiêng nên mình mẩy mọc lông lá rậm rạp, cứng lưỡi, ú ớ không nói được tiếng người, dần rồi quên luôn.

    Trong tác phẩm “Biên thùy truyện ký”, tác giả Liêm Châu có kể lại chuyện xà niêng ở vùng Thất Sơn như sau: Có một nhóm người yêu nước thành lập một tổ chức chống Pháp có căn cứ trong vùng Thất Sơn hiểm trở. Họ sinh hoạt giống như một triều đình “cõi trên”, có thánh mẫu, tiên nữ, quân sư, thừa tướng, thần y và nguyên súy, tướng quân cùng sĩ tốt.

    Một hôm, biến cố xảy ra. Thừa tướng Lưu Gia Bảo phản phúc, làm nội gián, dẫn bọn Tây và lính mã tà bất ngờ tấn công “Thất Sơn động phủ”. Căn cứ vỡ. Thánh mẫu và tiên nữ bị bọn Tây đen bắt nhốt vào hang! Một số ít người chạy thoát vô rừng sâu. Phần lớn bá quan văn võ và quân sĩ, dân chúng bị bắt giải về giam ở khám Chí Hòa. Khi ra tòa, các sĩ tốt lãnh án một năm tù ở, các vị có chức sắc bị đày ra Côn Lôn…

    Vốn có ý nghi ngờ Lưu Thừa tướng nên thần y Đỗ Toàn Năng đã cảnh giác và nhanh chân trốn thoát khi vừa xảy ra sự biến. Ông vượt qua biên giới và gặp đoàn khảo sát khoa học người Anh. Nhờ biết tiếng Anh nên vị thần y này được người Anh mời làm người dẫn đường và làm phiên dịch cho họ. Mục đích chuyến đi của họ là tìm những con vật có gốc gác thời tiền sử để nghiên cứu. Họ bắt được cặp xà niêng và đem nhốt xuống tàu đưa về nước.

    Sau khi khảo sát, các bác sĩ nghi ngờ hai sinh vật này có thể là con người, do một hoàn cảnh nào đó đã biến thành xà niêng! Họ có những hành vi nửa giống người, nửa giống thú! Sau một thời gian được uống thuốc và chăm sóc tốt với sự hỗ trợ của thần y, dần dần đôi xà niêng phục hồi được trí nhớ và kể lại quá khứ của họ.

    Dẫu chuyện xà niêng hay người rừng có thể chỉ là huyền thoại, truyền thuyết thường có để giải thích những hiện tượng bí ẩn hoặc những vấn đề thuộc về tâm linh pha chút hoang đường vốn có của dân gian. Chúng ta vẫn thấy ở những câu chuyện này ẩn chứa tính nhân văn và hướng thiện.


    Hồ Tuyền Lâm (núi Cấm). Ảnh: Anh Việt

    Đạo sĩ Thất Sơn

    Đạo sĩ thường là những người tu hành trên núi, có đạo hạnh, nhập thế hành đạo giúp đời, được nhân dân xưng tụng là đạo sĩ. Thực ra, có nhiều vị xưa kia, thời Pháp thuộc, náu mình chốn thâm sơn cùng cốc, tịnh tâm chiêm nghiệm thế sự, tìm kế mưu chống giặc. Các vị ấy thường giỏi võ nghệ, biết nghề thuốc, thỉnh thoảng ra tay trừ bọn cướp, bọn cường hào ác bá, mãng xà, beo cọp…

    Nổi tiếng khắp Tây Nam bộ đời Tự Đức có đạo sĩ Đoàn Minh Huyên, tức Phật Thầy Tây An. Ông là người sáng lập ra Phật Giáo Bửu Sơn Kỳ Hương. Đạo sĩ Đoàn Minh Huyên sinh năm 1807 ở làng Tòng Sơn, tỉnh Sa Ðéc (nay thuộc tỉnh Ðồng Tháp). Thời điểm ông truyền đạo là năm nông dân mất mùa đói kém, nhiều nơi có giặc cướp nổi dậy, bệnh dịch tràn lan, dân tình khổ sở. Ông vừa giảng đạo, vừa chữa bệnh bằng thuốc và nhiều người đã khỏi bệnh. Dân chúng tôn xưng ông là Phật Thầy. Đạo sĩ Đoàn Minh Huyên truyền đạt giáo lý “Tứ ân”: Ân tổ tiên cha mẹ/ Ân đất nước/ Ân tam bảo/ Ân đồng bào, nhân loại.

    Do tín đồ theo đạo ngày càng đông, nên triều đình Huế nghi đạo sĩ Đoàn Minh Huyên có âm mưu nổi loạn, đã sai Tổng đốc An Giang bắt giam ông. Sau đó ông được thả ra, nhưng bị quản thúc phải tu tại chùa Tây An ở núi Sam (Châu Ðốc) và viên tịch tại đây năm 1856. Các vị kế nghiệp của ông vừa hành đạo vừa tham gia chống Pháp như Quản cơ Trần Văn Thành (khởi nghĩa Láng Linh- Bảy Thưa), đạo sĩ Năm Thiếp (Ngô Lợi) người sáng lập đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.

    Đạo sĩ Ngô Lợi tổ chức cho đệ tử khẩn hoang vùng Thất Sơn. Ông đã lập ra 14 thôn ở vùng này. Ông bị bọn thực dân Pháp truy bắt gắt gao nhiều lần nhưng đều thoát khỏi, dân gian đồn đại ông có phép tàng hình, ẩn thân. Ông viên tịch năm 1890 tại núi Tượng.


    Núi Dài (Ngọa Long Sơn). Ảnh: Anh Việt

    Sau ngài Đoàn Minh Huyên, Ngô Lợi, Thất Sơn còn có những đạo sĩ nổi tiếng như ông Bảy Do, Đơn Hùng Tín, Trương Minh Thành, Mười Hột, Sáu Phu, Đạo Dững... Các vị đạo sĩ gần đây thì có các ông Mười Thiệt, Đức Minh, Thiện Quang, Năm Sanh, Ba Sánh, Mười Thành, Thiện Tài, Thiện Huệ, Đạo sĩ Tư, Năm Đức... Nhưng hiện nay còn sống chỉ có mấy người là ông Ba Lưới (Núi Cấm), Thiện Huệ (núi Cấm), Bảy Dị (Núi Bạch Viên).

    Thất Sơn ngày nay đã bớt hoang vu và trở thành một quần thể du lịch sinh thái với nhiều lễ hội hấp dẫn, đặc sắc. Đến Thất Sơn, muốn biết những chuyện kỳ bí của Bảy Núi, bạn hãy tìm đến các vị đạo sĩ hay chí ít cũng là con cháu của họ, để nghe những truyền thuyết và huyền thoại đã trở thành cổ tích của Thất Sơn.


    (Theo TBKTSG Online)
    Last edited by nghiatech; 17-06-2010 at 10:21 PM.

  2. #2

    Mặc định

    Bạn nghiatech thân

    Bài nầy giúp ta có cái nhìn về đời sống khai hoang lập ấp và tu đạo nhập thế của cư dân vùng thất sơn bảy núi ...nó cũng là tinh thần đáng khâm phục và tán thán của tiền nhân ...
    Chân thành cảm ơn bạn nghiatech đã giới thiệu

    gialam

  3. #3

    Mặc định

    Vị nữ tu sĩ và đôi rắn thần

    Cuối năm 1855, có một thiếu phụ tuổi mới gần 30 mà đã sớm vướng víu khổ lụy vì tình. Bà bị trắc trở đường tình duyên khi vừa mới lấy chồng được một năm, nên cô rời bỏ gia đình ở Chợ Lớn (đất Sài Gòn Gia Định) theo ghe đi về biên giới phía Tây và dừng chân ở tỉnh lỵ Châu Đốc xa lạ.

    Sở dĩ bà Lê Thị Thơ, tên người thiếu phụ bạc phận này chọn vùng biên giới Thất Sơn này để dừng chân là do qua lời đồn bà có nghe về một ngôi chùa mới xây dựng của đức Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyền, là chùa Tây An. Vốn nghe danh phật thầy, nên bà Thơ chọn Tây An Tự để xin vào chùa làm công quả. Ngày đó còn nhiều người trú chân tại ngôi chùa này, mà trong số đó có một số người biết bà Thơ khi bà ở Chợ Lớn. Họ gọi tên bà là bà Thợ thay vì là bà Thơ, bởi họ biết khi còn là con gái bà vốn làm nghề thợ may. Cái tên Thợ là chết danh cho người con gái có cái tên đẹp như thơ, cô Thơ, chuyên nghề Thợ.

    Tu ở chùa Tây An chỉ được hơn một năm, nhưng nhận thấy nơi đây quá đông người, thành phần phức tạp, luôn bị chính quyền địa phương dòm ngó, vì nghi số đông đó có thể có những thành phần gây nguy hại cho nền tự an. Bởi thế, nhân khi Đức Phật thầy Tây An viên tịch (ngày l2-8-1856), bà Thợ (Lê Thị Thơ) đã có ý định rời Tây An Tự.

    Một hôm, bà đi bộ vòng theo chân Núi Sam, qua sườn phía Tây, nhận thấy nơi này còn hoang sơ, nhưng phong cảnh đẹp và khí hậu ôn hòa, bà liền lần mò leo lên sườn núi.

    Lên trên lưng chừng núi bà nhận ra nơi này cảnh quan thanh tịnh, rất thích hợp cho người có tâm trạng như bà. Tò mò hơn, bà lần bước theo đường đá cheo leo, cuối cùng phát hiện ra ở đó có một hang sâu mà hình như chưa có dấu chân người lui tới!

    Nếu gặp người phụ nữ khác thì đã sợ, rút lui ngay, nhưng bà Thợ thì không. Bà nghĩ: tại sao mình không chọn nơi này để ở, vì chỗ Tây An Tự quá đông người?

    Nghĩ là làm ngay. Bà Thợ dùng tay không bẻ cành lá, dọn đường ngay khu vực miệng hang, ngẫu nhiên có một nơi trú ngụ lý tưởng vô cùng. Từ hôm đó, bà Thợ ở lại luôn, không trở về Tây An Tự, nhiều người trong chùa đồn rằng bà đi lang thang lên núi đã bị hùm beo ăn thịt rồi!

    Một thân một mình, không thức ăn, nước uống, lại không có chăn màn để ngủ, vậy mà người phụ nữ gan dạ đó đã trụ lại được ở hang đá. Để có cái ăn, bà tự đi tìm đào củ khoai dại ăn đỡ đói, nước thì hứng sương đêm bằng lá cây chứa vào một hốc đá, uống dần. Thỉnh thoảng, bà mới mò xuống chân núi tìm mua một vài thứ cần thiết rồi lại trở lên hang ngay.

    Mỗi ngày bà bới đất chung quanh hang, gieo trồng nhiều loại hạt, cả hạt lúa kiếm được từ dưới núi mang lên và tối thì hứng sương, khi có mưa hứng nước mưa, để dành tưới cây hoa màu. Chẳng mấy chốc quanh bà đã có hẳn một điền trang thu nhỏ, đủ nuôi sống bà quanh năm. Rồi trong bà nảy sinh một ý nghĩ lập một ngôi chùa tại đó.

    Đầu tiên bà gom đá nhỏ, đá lớn, lắp ghép thành bậc thờ, rồi hình phật Tổ, Phật Bà tuy không sắc sảo, nhưng cũng tượng trưng được cho lòng mộ đạo, kính Phật của bà và từ đó hình thành một ngôi chùa trong hang mà bà tự đặt tên là Phước Điền Tự. Tên đó có nghĩa “ngôi chùa giữa ruộng nương mang lại phước lộc cho mọi người”.

    Bà Thợ đương nhiên thành người sáng lập và là trụ trì đầu tiên của Phước Điền Tự, hay còn gọi là Chùa Hang sau này.


    Ăn chay, sống thanh tịnh, ngày ngày chỉ biết tụng kinh, gõ mõ và gieo trồng cho cái điền trang ngày càng xanh tốt, nên bà Thợ, với pháp danh Diệu Thiện từ lúc tu ở Tây An Tự, không hề để ý gì những chuyện khác. Nhất là bà không bao giờ phải lo sợ chuyện hùm beo, thú dữ mà thời đó còn đầy rẫy ở đỉnh Núi Sam. Bà nghĩ, thú dữ sẽ chẳng bao giờ sát hại người tu hành. Cho đến một hôm...

    Lúc đang ngủ, nửa đêm chợt có tiếng lạ phát ra từ phía bên trong hang sâu. Nơi đó từ gần một năm rồi khi đến đây tu hành bà Thợ chưa hề bước chân vào. Tiếng động càng lúc càng lớn và kèm theo là một mùi tanh hôi kỳ lạ bay ra.

    Bà Thợ căng mắt nhìn vào hang tối thì giật mình, bởi từ trong đó có bốn đốm sáng như bốn ngọn đèn pha chiếu ra:

    - Cọp beo cơ?

    Bà Thợ nghĩ ngay tới những con cọp thường xuống núi quấy phá mà lâu nay cư dân hay đồn đãi, lo sợ. Bà chẳng biết phải làm gì, ngoài việc ngồi xếp bằng giữa miệng hang, chấp tay hướng về bậc thờ Phật, mắt nhắm nghiền và lâm râm niệm kinh.

    Phút giây này bà không hề sợ chết mà như chờ đợi nó đến. Lòng bà thanh thản lạ thường...

    Mùi tanh hôi càng lúc càng tăng và tiếng phì phò càng lớn hơn, cộng với tiếng di chuyển của vật gì đó khá lớn. Nó đang hướng thẳng về phía bà Thợ đang niệm kinh, rồi dừng lại.

    Vẫn không mở mắt ra, bà Thợ niệm thành tiếng vừa đủ cho ai có mặt trong hang nghe được:

    - Nếu ai muốn tới để chấm dứt số phận của kẻ này thì xin hãy ra tay ngay, để xác thân này lấy hang này làm đất chôn. Còn nếu không muốn giết thì xin để kẻ tiện nữ này được yên hầu tiếp tục nhang khói cúng Phật.

    Lời bà hình như có tác dụng. Bởi sau đó đến gần nửa giờ mà vẫn không thấy động tĩnh gì thêm. Mùi tanh cũng bớt đi...

    Bà Thợ từ từ mở mắt. Và bà không tin vào mắt mình nữa! Ngay trước bà, cách chỉ năm bảy bước chân, có hai con rắn nằm khoanh tròn lớn như hai bồ lúa.

    - Mô phật! Mô phật!

    Bà Thợ niệm liền mấy tiếng và thấy hai cái đầu lớn như hai trái dừa khô cứ lắc lư, lắc lư...

    Hễ bà ngưng niệm Phật thì hai con rắn tỏ ra không bằng lòng, chúng lại phát ra tiếng phì phò liên tục. Bà Thợ chợt hiểu, hai con rắn bị tiếng niệm kinh thu phục.

    Do vậy, bà lại cất tiếng niệm Phật với tất cả sự thành kính. Giọng bà vang vang, đều đều và rõ ràng hai con rắn nằm im.

    Không biết là bao lâu. Bởi bà Thợ hầu như không còn nhớ thời gian. Bà bị hút vào kinh kệ và đến một lúc như không còn nhớ là bên cạnh đang có hai con ác thú.

    Đến gần sáng...

  4. #4

    Mặc định

    Lúc bà Thợ bừng mắt ra thì không còn thấy hai con vật đâu.
    Mãi khi mặt trời lên cao thì bà Thợ mới đi ra ngoài, “Điền trang” của bà đang chờ bà tưới nước. Đang lúc làm thì chợt có ba người đàn ông từ đâu đi tới. Có một đạo sĩ trong số đó, còn hai người thì có vẻ bặm trợn, tay cầm cung nỏ ra dáng như đang đi săn thú.

    Vị đạo sĩ lên tiếng chào:

    - Xin chào tín hữu.

    Ngẩng lên chào khách, bà Thợ hơi hoài nghi nên hỏi:

    - Quý ngài đến đây chẳng hay có gì cần tìm?

    Vị đạo sĩ chỉ những bụi cây bị nằm rạp xuống đất rồi nói:

    - Tụi tôi đi tìm dấu vết hai con rắn gọi là thanh xà, bạch xà. Theo dõi từ trên đỉnh núi thấy dấu chúng, nhưng rồi tới bờ bên kia thì mất bóng. Đêm qua chúng tôi suýt nữa đã bắn trúng một trong hai con, chúng chạy vào hang trên vồ đá trên kia rồi không còn thấy nữa. Vừa rồi khi đi tới đây bất chợt chúng tôi thấy dấu cây cỏ bị rạp xuống, chứng tỏ đêm rồi đôi rắn đã tới đây. Vậy phiền tín hữu cho chúng tôi trú tạm ở hang này, để theo dõi tiếp và quyết bắt cho được hai con yêu tinh đó.

    Nghe tới đó bà Thợ sa sầm ngay nét mặt:

    - Các ông đi chỗ khác mà săn bắt, nơi đây là chốn tu hành chứ không phải là chốn sát sanh!

    Hai tay bặm trợn gầm gừ:

    - Hai con rắn tinh đó mà tới đây thì bà sẽ là người chết trước cho coi.

    Họ nói xong hậm hực bỏ đi. Nhớ lại cảnh hai con rắn nằm nghe kinh tối qua, bà Thợ chép miệng:

    - Người ta cứ gọi hùm beo, rắn rết là ác thú, mà thật ra những con người như họ mới là ác nhân.

    Khi bà làm xong công việc, trở vào hang thì ngạc nhiên vô cùng khi thấy ở giữa bậc thờ Phật có nguyên một quày chuối chín cây nằm đó.

    Ai đã đem vào đây?

    Bà Thợ tự hỏi, rồi chợt hiểu, chính là của hai con thanh xà, bạch xà. Bằng chứng là những vật chung quanh bậc thờ đều ngã đổ ngổn ngang. Bà Thợ chấp tay niệm Phật liên hồi...


    Ngày hôm sau, khi xuống chợ mua nhang đèn, bà Thợ nghe nhiều người đồn ầm lên về cái chết của ba người đàn ông trên vồ đá trên đỉnh Núi Sam. Qua mô tả của những người thấy tận mắt ba cái xác thì bà Thợ giật mình:

    - Chính là họ sao?

    Họ ở đây là lão đạo sĩ và hai gã thợ săn ngày hôm qua mà bà đã gặp. Một người mô tả tỉ mỉ:
    - Cả ba người chết đều mất cả tứ chi, giống như bị con gì đó cắn!

    Người khác nghe vậy liền nói:

    - Chắc là con cọp ba cẳng bên núi Cấm về và cắn chết họ!

    Nhưng một người rành về các loài ác thú đã nêu nhận xét:

    - Nếu con beo vồ thì chúng cắn cổ nạn nhân trước, sau đó xé xác từ bụng và ngực, chứ không khi nào cắn cụt chân tay cả!
    Một đồn mười, mười đồn trăm. Chẳng mấy chốc mà cả vùng đều hay tin chuyện ấy. Có người biết bà Thợ tu trên hang hẻo lánh đã tỏ ý e ngại, nói với bà:

    - Rắn tinh một khi đã giết người rồi thì say máu, bà coi chừng! Tốt hơn hết là bỏ hang đi, xuống dưới này người ta cất cho cái am mà tu đỡ.

    Nhưng bà Thợ tự tin nói:

    - Người ta sống chết có số. Vả lại, thú dữ cũng đâu phải bạ đâu giết người đó. Nếu thế thì còn gì là cư dân vùng này. Tôi nghĩ hùm beo, rắn rết gì cũng chỉ hung dữ, giết người là khi nào chúng nó bị tấn công, dồn vào chân tuờng.

    Nghe có lý, nhưng mọi người cũng sợ sệt, lát sau kéo nhau đi hết. Bà Thợ ung dung trở lên hang sống đời thanh tịnh của mình.

    Liên tiếp nhiều ngày sau đó hễ đêm đến thì cặp rắn dị thường kia lại tới. Bữa nào bà Thợ vì lý do yếu trong người đọc chỉ vài hồi kinh rồi đi nằm nghỉ, thì y như rằng lũ rắn kéo đến với thái độ khó chịu, bò chung quanh hang như muốn quậy phá, chứ không chịu yên. Những lúc như thế, nếu bà Thợ dậy và đọc vài đoạn kinh thì lạ thay, hai con rắn lại nằm im, mắt lim dim như đang lắng nghe.

    Bà Thợ phát hiện ra điều đó và chợt hiểu, hai con thanh xà, bạch xà này đang thèm nghe kinh Phật. Chúng đã ghiền tiếng kinh, tiếng mõ tụng niệm của bà Thợ kể từ khi bà vào hang tu hành.

    Hiểu như vậy rồi, nhưng vài ngày sau đó bà Thợ vẫn cố thử lần nữa. Bà xuống chợ mua mấy con gà, vài con thỏ, đem nhốt trong lồng, rồi làm như vô tình, để vào trong hang, nơi thường khi hai con rắn lui tới. Những vật đó vốn là mồi ngon của lũ rắn. Tuy nhiên khi đêm đến, hai con rắn vào và chúng âm thầm tha nguyên cái lồng ra ngoài, phá lồng và thả những con vật đi hết.

    Sáng ra bà Thợ nhìn lại cái lồng tan hoang, bà tưởng hai con rắn đã ăn thịt gà, thỏ. Tuy nhiên sau đó bà bắt gặp chúng đi nhởn nhơ trong vườn. Thì ra hai con rắn đã thả chúng ra, thay vì ăn thịt.

    Cảm động lắm từ hôm đó bà Thợ đều đặn, đúng giờ đọc kinh vọng vào trong hang. Hai con rắn hiền từ như những thầy tu ngoan đạo, mỗi đêm đều ngoan ngoãn tới nghe kinh, hưởng mùi nhang khói.


    Vào một đêm trăng rằm...

    Có một phụ nữ tuổi trung niên, trên tay ẵm đứa con còn trong tháng, từ dưới núi đi lên tới gần chùa hang thì dừng lại rất lâu. Hình như chị ta lưỡng lự việc phải đặt đứa trẻ ở đó, hay vẫn bế theo khi chị quyết định một việc trọng đại?

    Đôi ba lần đặt xuống rồi ẵm lên. Cuối cùng chị ta ôm cứng đứa con vào lòng, mắt nhắm nghiền lại và... gieo mình từ chỗ đá cao xuống, phía dưới là vực sâu thăm thẳm.

    Chết là cái chắc.

    Nhưng như có một phép màu! Như có một cánh tay ai đó vươn ra từ vách đá, tóm chặt lấy hai mẹ con, giật nhẹ nhàng lên trên vồ đá.

    Khi chị này mở mắt ra thì không khỏi kinh hoàng khi thấy ngay trước mắt mình là một con rắn to như cái cột nhà.

    - Á... a...!

    Tiếng kêu của chị ta chưa dứt thì đã ngất đi lần nữa!


    Khi choàng tỉnh dậy thì chị nọ thấy mình nằm trong hang, chung quanh là nhang khói thơm lừng.

    - Tỉnh rồi hả? Mau cho con nó bú đi, thằng nhỏ đói rồi đó!
    Người vừa lên tiếng chính là bà Thợ. Trên tay bà đang ẵm đứa trẻ đang khóc. Chị nọ hốt hoảng:

    - Tôi... tôi chưa chết sao?

    Giọng bà Thợ hiền từ:

    - Chết thì dễ, sống mới khó. Cháu là người mẹ quá ích kỷ, chỉ muốn giải thoát cho mình mà không nghĩ tới sinh linh bé bỏng này. Cháu mới ra đời, đâu có tội tình gì đâu, sao lại bắt nó chết theo!

    Rồi bà hỏi nguồn cơn. Người phụ nữ kể hết... chị ta lấy phải anh chồng bê tha rượu chè, bài bạc, nữ sắc, đến đổi bán hết đồ đạc trong nhà và sau cùng là cầm cố cả ngôi nhà duy nhất của cha ông để lại. Nói mãi chồng không nghe, nên chị ta buồn lòng bỏ đi lang thang và tới vồ đá định quyên sinh, thì chẳng biết ai ra tay cứu.

    Bà Thợ bảo:

    - Chính con thanh xà đã cứu kịp nếu không cháu và đứa bé này đã tan xác rồi.

    Chị này hốt hoảng:

    - Con rắn tinh đó sao lại cứu cháu?

    Bà Thợ kể rõ hơn, rồi kết luận:

    - Đến loài rắn độc ấy mà còn không cho cháu chết vậy tại sao cháu lại muốn chết?

    Nghe xong, chị Nguyễn Thị Tâm, tức người phụ nữ định quyên sinh đã ôm bà Thợ mà khóc òa.

    - Con biết lỗi rồi. Con không muốn chết nữa!

    Từ hôm đó, bà Thợ nuôi mẹ con chị Tâm trong hang. Chính chị này đã góp một tay để bà Thợ mở rộng điền trang chung quanh hang.

    Ngày tháng thắm thoát trôi qua…

  5. #5

    Mặc định

    Cái hang vắng dần trở thành một ngôi chùa hang. Bởi tiếng lành đồn xa, khách thập phương ngày càng tới viếng chùa nhiều hơn. Đặc biệt có những người kéo tới hang chỉ vì muốn tận mắt nhìn cặp rắn tinh biết sám hối!

    Tuy nhiên đâu phải ai cũng có may mắn được thấy hai con rắn nằm nghe kinh. Bởi chúng chỉ bò ra khỏi hang sâu vào những đêm thanh vắng. Bởi vậy mới có chuyện xảy ra…


    Năm Thì là một phú hộ trong vùng. Ông ta có điền sản vài ngàn mẫu, cả chục chiếc ghe chài chuyên chở lúa gạo và gần chục nhà máy xay lúa ở khắp nơi. No cơm rửng mở. Bởi vậy chuyện ông ta sinh thói tiểu sắc là chuyện thường. Nhưng lần ấy thì khác...

    Đã chạng vạng tối mà người ta còn thấy Năm Thì xuống xuồng như chuẩn bị một chuyến đi xa, ông ta cột kín mui ghe như muốn che đậy vật gì đó bên trong, không một thuộc hạ, gia nhân nào đi theo. Ra đến sông Cái, bị gió thổi mạnh, đôi lần Năm Thì để cho chiếc ghe nhỏ chồng chềnh muốn chìm.

    Và cuối cùng ghe chìm thật! Năm Thì muốn kêu cứu, nhưng do ở giữa dòng sông, đêm lại khuya, không có bóng người, nên dẫu có kêu thì chắc không một ai cứu kịp. Chiếc ghe bị vô nước chìm dần...

    Không quan tâm tới vật chứa trong ghe, Năm Thì nhìn trước nhìn sau rồi bất thần lao thẳng xuống dòng sông đang chảy xiết!

    Nếu có ai nhìn thấy chắc sẽ lo cho tính mạng của ông ta. Chỉ có Năm Thì là bình thản lướt nhẹ theo dòng nước và chỉ năm bảy sải tay là ông ta bám được vào một chiếc thùng dầu trôi lờ đờ trên sông. Hình như chiếc thùng này đã được bố trí trước, được cột sẵn vào man thuyền và khi nhảy xuống nước Năm Thì chỉ việc đưa tay đỡ lấy và tha hồ bơi một cách an toàn.

    Trong khi ông ta ra sức bơi vào bờ và thoát, thì ghe của lão đang chìm dần xuống lòng sông sâu. Có nhiều tiếng đập, đạp nhỏ cố tung ra để thoát của một ai đó bị nhốt trong ghe đang chìm.

    Năm Thì lên bờ và đi nhanh về nhà. Bà vợ của lão ta đón chồng trong tâm trạng vui mừng:

    - Xong hết hả mình?

    Năm Thì cười hớn hở:

    - Kế độc của Năm Thì này mà.

    Bà vợ hỏi lại cho chắc ăn:

    - Mình nhốt nó trong khoang ghe mà bên ngoài có cột, khóa chặt lại không? Kẻo nó thoát ra được thì mệt lắm đó.
    Năm Thì nheo mắt đắc ý:

    - Chẳng những cột chặt bên ngoài, mà tôi còn trói chặt tay, chân nó lại nữa. Khi ghe chìm nó chìm theo vùng vẫy cho lắm thì vài phút sau cũng phải chết thôi.

    Vợ chồng hắn hoan hở bởi đã thực hiện thành công một mưu đồ tội ác. Đêm đó cả hai tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị một cuộc hoan lạc để tự mừng thành công. Tuy nhiên khi cả hai vừa ôm nhau trên giường thì bỗng người lại nhấc tung lên rồi lại bị lôi đi như cơn lốc cuốn.

    Họ ngất đi. Cho đến lúc tỉnh lại thì hoảng hồn khi thấy trước mặt mình là hai con rắn lớn dị thường cất cao đầu nhe hai răng độc ra như sắp ăn tươi nuốt sống họ.

    - Rắn!

    Người lên tiếng la là bà Thợ:

    - Hai ngài xà tinh đây đã bắt các người về. Đã biết tội chưa?
    Vợ Năm Thì mồm loa mép giải, lên tiếng:

    - Tụi tôi đang ngủ ở nhà chứ có làm gì đâu, sao lại bắt tụi tôi?
    Bà Thợ đưa tay chỉ vào một cô gái đang ngồi co ro phía sau đôi rắn:

    - Vậy người này là ai?

    Vừa nhìn lên thì vợ chồng Năm Thì đã kêu thét kinh hãi:

    - Con Hai Tuyết?

    Bà Thợ nghiêm khắc:

    - Tội ác của các ngươi là sau khi gạt để cô gái này mang bầu rồi tìm cách thủ tiêu để phủ trách nhiệm. Giết một mạng người quá dễ như vậy nên trong đầu hai ngươi còn định hại bao nhiêu người nữa?

    Năm Thì lẩm bẩm:

    - Tui đã cột chặt cửa mui ghe rồi mà. Nó lại bị trói nữa!

    Bà Thợ chỉ sang cặp rắn:

    - Chính hai ngài đã ra tay cứu cô gái này đó! Đúng ra hai ngài đã nuốt chửng các ngươi rồi để trị tội, nhưng ta đã xin, nên mạng các ngươi mới còn đây.

    Hai con thanh xà, bạch xà vươn cao đầu lên, lưỡi lè ra cả tấc khiến cho vợ chồng Năm Thì sợ tè trong quần.
    May là bà Thợ đã lên tiếng:

    - Thôi, như thế đã đủ rồi. Tha cho hai ngươi, nhưng buộc hai ngươi nuôi dưỡng người con gái này cho tới ngày cô ấy sinh mẹ tròn con vuông. Nếu hai ngươi sanh tâm phản trắc thì hai ngài đây sẽ có mặt tức thời, lúc đó thì chỉ có trời cứu!

    Vợ chồng Năm Thì lạy như tế sao và long trọng hứa đủ điều…

    Về sau này chính bà Thợ đã ra công tu bổ và dựng lên một ngôi chùa khang trang bên cạnh hang, gọi là Phước Điền Tự, nhưng người ta vẫn thích gọi đó là chùa Hang. Bà Thợ viên tịch năm được hơn tám mươi tuổi.

    Tương truyền từ khi bà mất thì đôi rắn thần cũng bỏ đi luôn...

    (Sưu tầm)

  6. #6

    Mặc định



    Anh Vũ sơn còn gọi là núi Két, vì trên đỉnh có1 một tảng đá lớn nhô ratrông xa giống đầu con chim két

    Nghe kể đôi ba câu chuyện cũ…

    Nếu có dịp đi đến vùng Bảy núi (Thất sơn) thuộc tỉnh An giang, các bạn sẽ được nghe kể rất nhiều câu chuyện nửa thực, nửa hư.

    Tin tưởng mức độ nào, tùy bụng người nghe nhưng có một điều ai nấy đều gật đầu là qua chúng, ta sẽ dễ dàng mến yêu một miền đất lắm sông nước nhiều vườn ruộng trĩu xanh; cảm nhận được“cá tính” của những con người đất phương nam: trọng nghĩa khinh tài, Làm cật lực chơi hết mình, tính nết chơn chất, ít so đo, dễ gần gũi vv… Và luôn sẵn sàng quên thân khi đứng trước cái ác, cái xấu…

    I.Anh Vũ sơn (núi Két): là một trong 7 núi của vùng “Thất Sơn mầu nhiệm”.Núi này thuộc xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên, cách Trung tâm thành phố Long Xuyên khoảng 70km về hướng tây theo Quốc lộ 91 rồi rẽ qua tỉnh lộ 948.



    Núi Két tiếp giáp với thị trấn Nhà Bàng và được bao bọc bởi những ngọn nói như núi Dài, núi Đất, núi Trà Sư, núi Bà Đắc. Tạo cho nơi đây một phong cảnh thiên nhiên hữu tình.

    Đến đây, quý khách sẽ được tham quan các di tích và thắng cảnh như: Bửu Sơn Linh Tự, Bửu Minh Tự, Đình Thới Sơn… Đi dần lên núi các bạn có thể ghé qua Hang Dơi, Điện Ngọc Hoàng, Giếng Tiên, Sân Tiên, Điện Bạch Vân… và sẽ được nghe kể với truyền thuyết dân gian, ngoài ra còn được ôn lại truyền thống đấu tranh chống xâm lược của quân và dân vùng “Thất sơn mầu nhiệm”…

    II.Phật Thầy Tây An & giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương:



    Người khai sáng giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, được dân trong vùng tôn xưng là Phật thầy Tây An.

    Ông tên thật là Đoàn Minh Huyên, sinh năm Đinh Mão (1807), quê quán làng Tòng Sơn, Sa Đéc, xưa thuộc trấn Vĩnh Thanh, nay là tỉnh Đồng Tháp.

    Là một chí sĩ yêu nước, có tinh thần cách mạng, bất mãn triều đình phong kiến, thường ra tay cứu độ dân lành nên bị nhà cầm quyền nghi là gian đạo sĩ nên tạm giam ông tại Châu Đốc; sau ông bị buộc phải đến tu ở chùa Tây An trong thời kỳ Thiền sư Hải Tịnh Nguyễn Văn Giác trụ trì (đời thứ nhất- Thiệu Trị thứ 7 năm 1847).

    Vị hòa thượng mới này ngoài việc tu hành còn có tài làm thuốc trị bệnh cho nhân dân rất hiệu quả nên sau khi ông mất, đồng bào suy tôn ông là Phật thầy Tây An và danh hiệu này vẫn được gọi cho đến bây giờ.

    Nói gọn lại, mặc dù viên tịch sớm, nhưng Đoàn Minh Huyên đã làm được rất nhiều việc như chữa bệnh miễn phí, chu du vùng Bảy Núi, Cái Dầu, Đồng Tháp…thành lập nhiều trại ruộng để khẩn hoang sản xuất và sau này những nơi ấy đều trở thành căn cứ chống quân Pháp xâm lược



    Ông cũng có rất nhiều đại đệ tử thân cận, trong đó có Quản cơ Trần Văn Thành, người đề xướng cuộc khởi nghĩa ở Láng Linh- Bảy Thưa một thời làm giặc Pháp khiếp sợ (năm 1873). Ngoài ra, ông còn nhiều đệ tử nổi tiếng khác như các ông: Tăng Chủ, Đình Tây, Đạo Xuyến, Đạo Ngoạn, Đạo Lập…

    Phật thầy Tây An viên tịch ngày 12 tháng 8 năm 1856, lúc mới 50 tuổi; với lời dặn dò là mộ dành an táng ông không được đắp nấm. Hiện mộ ở phía sau chùa Tây An.

    Nhưng thật đáng tiếc, khác với đức tính giản dị của Phật Thầy, người đời sau lần lượt tô son trát vàng lòe loẹt lên chùa, lên mộ khiến mất dần dáng vẻ, phong quang cũ; …

  7. #7

    Mặc định


    Trại ruộng - di tích của Phật Thầy Tây An ở Nhà bàng Tịnh Biên -AG

    Đôi nét về giáo phái :

    Chủ trương của Phật Thầy là lấy đạo Phật làm căn gốc, nhưng không thờ hình tượng Phật, không gõ mõ tụng kinh, không đầu tròn áo vuông, không hành nghề thầy đám, không cúng kiến chè xôi & tu đâu cũng được…

    Theo giáo lý của ông thì người tu cốt tránh ác làm lành, rửa lòng trong sạch, giữ tâm thanh tịnh và hằng thực thi “tứ ân” lớn : ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân Tam bảo, ân đồng bào nhân loại.

    Tên giáo phái có nghĩa:

    Bửu Sơn là núi qúi báu, tức là Thất Sơn mà đỉnh linh thiêng nhất là núi Cấm; Kỳ Hương tức là mùi thơm lạ.

    Người là còn gọi tên giáo phái là đạo Lành, theo nghĩa đạo dạy việc làm lành lánh dữ.

    Có người cho rằng đấy là đạo của ông Trần Văn Thành (một đại đệ tử của Phật Thầy, người khởi xướng cuộc khởi nghĩa Bảy thưa-Láng Linh ) vì kiêng tên ông nên tín đồ đọc trại ra đồng thời cũng để che mắt thực dân, để chúng hiểu lầm là đạo chỉ dạy người làm điều lành chớ không hề chủ trương chống phá bọn họ…

    III.Ông Tăng Chủ và truyền thuyết hàng phục mãnh hổ:

    Ông Tăng Chủ tức Bùi Văn Thân, cũng gọi là Bùi Thiền Sư, là anh chú bác với ông Đình Tây.

    Hai ông như nhiều vị đệ tử của Phật Thầy đều có đức lớn, đạo pháp uyên thâm, võ dũng phi thường nên rất được dân tùng phục. Những nông trại tại Hưng Thới, Phước Điền, Xuân Sơn đều do hai cụ thừa lịnh Phật Thầy mà dựng lên.

    Những người dân cũng là những tín đồ lam lũ chất phác, ban ngày đi khai hoang, đêm về thì lễ bái, niệm Phật, tham thiền và lĩnh hội những lời hay ý đẹp của hai ông.

    Và mỗi khi người ta nhắc đến ông Đình Tây, nhớ ngay chuyện ông “Năm chèo” thì mỗi khi nói tới ông Tăng Chủ, họ không sao quên được những câu chuyện thuần phục mãnh hổ của ông.

    Chuyện kể:

    Một lần cọp về xóm vào chập tối, người ta rút lên trên gác đóng cửa kín mít, đánh mõ tre báo động vang trời. Ông Tăng một mình cầm mác trèo xuống thang rượt cọp. Dưới ánh trăng mờ, cọp nhào tới phủ lên mình ông Tăng. Ông lẹ làng ngồi xuống, một tay dựng đứng mác thong lên, một tay thủ thế chờ cọp rơi xuống. Cọp hoảng hốt, liền né sang một bên.

    Trong lúc cọp mất thăng bằng chao mình trên lưng chừng, thì ông Tăng đấm lẹ vào hông nó một quả đấm thôi sơn và thuận chân bồi thêm vào hạ bộ nó một miếng đá nặng đòn.

    Cọp róng lên một tiếng vang rừng rồi ngã lăn bất tỉnh.

    Ông Tăng không giết cọp, bước tới vực nó dậy, miệng lẩm bẩm:
    Tao tha cho, từ nay phải bỏ tánh ngang tàng, đừng tới đây nữa mà mất mạng!

    Cọp gầm mặt xuống đất, kéo la lết cái chân què vào rừng và từ đó không dám bén mảng đến xóm nữa.

    Thêm một câu chuyện khác:

    Ở tại đình Xuân Sơn, cách đây chừng 800 thước, một hôm ông Tăng đi thăm ruộng về thì trời tối. Khi đến gần cửa, ông trông thấy bóng một con cọp nằm lù lù bên mé đường mòn. Thấy ông, nó đứng dậy hả miệng, quào cổ rồi cúi đầu tỏ vẻ đau đớn lắm.

    Ông Tăng hiểu ý nó, bảo:

    Mắc xương rồi đó chớ gì! Sao không tới đây sớm tao cứu cho mà đến nỗi ốm o quá vậy? Thôi, nếu mắc xương thì ngay cổ ra.

    Con cọp riu ríu vâng lời. Ông Tăng co tay ấn vào cổ nó một cái. Lập tức nó sặc lên mấy tiếng rồi khạc ra một thỏi xương lớn.

    Vài hôm sau, cọp cõng tới trước sân trại ruộng ông Tăng một con heo rừng vừa quật chết để đền ơn cứu mạng.

    Về sau ông Tăng có cất một cái miếu nhỏ tại đình làng Thới Sơn để thờ con hổ biết lễ nghĩa ấy.

    Khi ông tịch ( ngày 27 tháng 10- tài liệu không ghi năm ) người nhà đem an táng ông ở làng Xuân Sơn. Là nơi trước đây có một ngôi chùa do Tăng Chủ và Đình Tây dựng lên để tu. (Sau khi ông Đình Tây viên tịch và cũng được an táng tại đây, người ta đổi lại thành đình. Tuy vậy, trong đình ngày nay vẫn còn có một toà thờ Phật )

  8. #8

    Mặc định


    Khu Mộ Ông Đình Tây .
    IV Ô.Đình Tây & truyền thuyết về “ông Năm Chèo”

    Ông tên Bùi Văn Tây, sinh năm 1802(?) mất ngày 23 tháng 2 năm Canh Dần 1890, thọ 88 tuổi; không thấy sách nào ghi gốc gác ông ở đâu.
    Chỉ biết tướng mạo ông cao lớn, khi già thì lưng còm và mình mẩy trổ đồi mồi.

    Đình Tây có 2 người vợ. Vợ trước sanh được 1 trai ở Năng gù, vợ sau sanh được 3 gái ở làng Thới sơn. Chính cô thứ ba cất giữ mấy báu vật mà Phật Thầy Tây An trao cho Đình Tây để sau này bắt con sấu 5 giò mà người đời vì kinh sợ gọi tôn là “Ông Năm chèo”.

    Ông là một học trò tài giỏi nhất của Phật thầy.Ngoài tài võ nghệ, tài trị bệnh, sức mạnh ít ai sánh kịp; ông còn có tấm lòng yêu nước sâu xa. Bởi vậy ông đã đóng góp nhiều tài lực trong công cuộc chống thực dân Pháp vào cuối đời Tự Đức.

    Đặc biệt, cách chữa trị của ông thật lạ, bất cứ ai đau bệnh gì ông chỉ dùng miểng sành cắt cho thì hết bệnh, nên trước nhà ông hồi đó có một đống miểng ngùn ngụn lối chừng bốn năm chục giạ lúa…

    Hiện nay người đến viếng đình Thới sơn sẽ thấy một hồ nước rộng chứa nước sinh hoạt cho cả vùng.Và chính tại hồ này khi xưa là nơi ông Đình Tây lén thả nuôi con sấu hung dữ ấy.

    Cách đình khoảng vài trăm mét là mộ ông bà Đình Tây, mãi tận bây giờ lúc nào cũng nghi ngút khói hương…

    Truyền thuyết về “ông Năm Chèo”:

    Những người lớp trước nói lại, số là có ông Đình Tây, người cận kề Phật Thầy Tây An khi ngài còn tại thế.

    Một hôm ngài sai ông Đình Tây xuống Láng Linh, một trại ruộng của ngài, giúp đỡ đẻ cho một sản phụ vì chồng đi bắt rùa rắn nuôi gia đình chưa về. Khi người chồng về, biết ông Đình giúp đỡ gia đình mình như vậy, bèn tặng ông một con sấu con rất lạ kỳ. Con sấu có năm chân, mình màu đỏ với nhiều chấm bông hoa lốm đốm...

    Khi ông Đình mang con sấu về, Phật Thầy xem qua, bảo là con quái vật phải trừ đi, nhưng ông Đình thương con sấu quá, bèn giấu thầy, đem con sấu xuống trại ruộng Xuân Sơn nuôi tiếp. Con sấu năm chân này có sức lớn phi thường. Sau một đêm mưa gió lớn, nó đã bứt gãy xích sắt và đi mất.

    Ông Đình buồn lo quá vì không biết hậu họa như thế nào khi con sấu năm chân này lớn thêm nữa. Ông mới bèn thú thiệt với Phật Thầy và xin tạ lỗi. Thầy rất buồn bã và sau đó ngài mới trao cho ông Đình một cây mun, một lưỡi câu và hai cây lao, tất cả đều rèn bằng sắt, rồi dặn ông Đình nên cất các vật dụng này phòng khi con quái vật này xuất hiện.

    Thời gian rồi cũng qua, Phật Thầy đã viên tịch. Bỗng một mùa lụt nước dâng ngập ruộng nương nhà cửa; sấu năm chân nay đã quá lớn , trườn lên vùng Láng Linh rượt bắt thiên hạ làm náo động cả một vùng. Dân chạy lại báo với ông Đình. Ông Đình mang “bửu bối” tới. Sấu biến mất dạng.

    Từ đó, mỗi khi có sấu năm chân xuất hiện, dân trong vùng cứ đồng loạt hô lớn “Bớ ông Đình! ông Năm Chèo dậy!”(vì sấu dữ có 5 chân, trông gần giống 5 mái chèo dùng để chèo xuồng), tức thì con sấu thần biến mất.

    Nhưng để trừ hậu họa về lâu, ông Đình về Láng Linh rình bắt sấu hoài mà không gặp. Lần sau cùng, ông Đình mới vừa nói, vừa như hăm dọa :”Nếu sấu thần chưa tới số, thì từ nay nên yên lặng, đừng nổi lên phá hoại xóm làng. Còn như mạng căn đã hết, thì hãy sớm chịu oai trời, đừng để phải phiền ta!” !

    Từ đó, ông Năm Chèo không còn xuất hiện miệt Láng Linh nữa, nhưng dân thương hồ và chài lưới thời bấy giờ đều ớn ông, vì sợ có ngày ông sẽ dậy lên nhận chìm xuồng ghe mỗi khi phải đi ngang qua các khúc sông đó…

    (Sưu tầm từ nguồn: Bùi Thụy Đào Nguyên, soạn
    Tài liệu tham khảo:
    - Nửa tháng trong miền Thất Sơn. Nguyễn Văn Hầu
    -Cá tính miền Nam. Sơn Nam .Nxb Trẻ 1997)
    Last edited by nghiatech; 17-06-2010 at 11:34 PM.

  9. #9

    Mặc định

    Bài viết này chứng nỏ VN mình đâu có thua TÀU ,MIÊN suốt từ trong nam ra bắc luôn có 1 số vùng nối tiếng về phép thuật đấy chứ.

  10. #10

    Mặc định

    Đạo sĩ cuối cùng trên đỉnh Cấm Sơn

    Háo hức với huyền thoại về các đạo sĩ một thời tạo nên truyền kỳ Thất Sơn, chúng tôi quyết định vượt dốc ngàn lên núi Cấm với hy vọng có chút cơ duyên gặp lại các truyền nhân mai danh ẩn tích. Anh xe ôm tên Lành quả quyết rằng trên núi này còn nhiều đạo sĩ lắm, đạo sĩ Tư Cao, đạo sĩ Năm, Ba Lưới. Vị đạo sĩ thâm niên nhất là Ba Lưới, có mặt trên núi Cấm thời trai trẻ và từng đánh chết mãng xà. Ba Lưới được dân núi kính trọng bởi ông sống một đời hiền lương. Ông cũng là người thông thạo các loại thuốc quý hiếm trên đỉnh Thất Sơn và hết lòng bốc thuốc cứu người.

    Trước mắt chúng tôi là một đạo sĩ đạo mạo với gương mặt đẹp lão. Năm nay đã 88 tuổi nhưng ông Ba Lưới vẫn còn minh mẫn, tinh anh. Theo ông Lưới thì sau thời ông Trương Minh Thành, ở Vồ chư thần có hai anh em là Sáu Hột, Mười Phu tu luyện cùng thiên nhiên, mây ngàn. Hai ông rất giỏi võ và dùng võ học đánh thú dữ, trừng phạt kẻ bạo ngược. Những vị này đã tạ thế nhưng đạo hạnh và tấm lòng vì dân vẫn được truyền tụng.



    Ba Lưới kể, ông tên thật là Nguyễn Văn Y, quê gốc ở Chợ Mới, An Giang. Năm 20 tuổi, mến cảnh rừng thiêng nên một mình can đảm vượt non xanh tầm sư. Lúc đó, núi Cấm đường dốc trơn tuột chưa có lối mòn sẵn như bây giờ, cây to che phủ tứ bề, sơn lam chướng khí trùng trùng, 3 - 4 giờ chiều là nắng hết rọi tới. Mỗi khi trèo non vượt núi phải gánh gạo, mắm thóc theo nên đi đứng khó khăn lắm. Giữa chốn u tịch hoang vắng rợn người này ai chân yếu, tâm linh xằng bậy, một tiếng hổ gầm, rắn độc ngáng lối cũng có thể khiến bủn rủn té nhào. Những năm 1945 - 1947, cọp beo, rắn rít, heo rừng tràn đầy, có lúc gặp cả thú hiếm như bạch hổ và hắc hổ. Còn rắn mãng xà to cỡ như rắn hổ mây thì lềnh khênh!

    Ông Ba Lưới còn nhớ, nếu không có võ công và đảm lược mình đã làm mồi cho hổ mây đen. Trưa đó đang lên dốc núi, đột ngột thấy một khúc đen thui nằm vắt ngang cây, ông lạnh mình khi thấy đó là con rắn hổ mây trên 140 kg. Nghe động, nó ngóc đầu dậy nhìn ông bằng cặp mắt đỏ ngầu. Biết không tránh khỏi cuộc ác đấu nên ông lùi lại cầm cây đòn gánh xuống tấn thủ bộ. Từ trên cây, rắn rít lên và vung đuôi lao tới như gió lốc. Ông Ba Lưới bình tĩnh nhìn rõ cái chóp đuôi di chuyển rồi lấy sức quét cây đòn gánh vào cổ rắn. Chỉ nghe một tiếng rốp khô khan con rắn bất tỉnh và cây đòn gánh gãy làm đôi.
    Lần thứ hai, ông Ba Lưới lại đụng đầu con rắn hổ mây đen khoảng 60 kg và cũng đánh chết nó. Ông Ba Lưới nói, 15 năm trước ông cũng mở cửa nhận môn đồ dạy võ công nhưng phần đông học để khoe mã, cậy thế làm xằng nên chán nản ông đóng cửa bế môn.
    Nhưng núi Cấm đâu chỉ có hùm beo, mãng xà, nó còn là kho thuốc với các loại dược liệu quý hiếm. Trầm hương, một loại cây quý cũng từng mọc ở nơi này. Mỗi vị thuốc công năng công dụng khác nhau được ông Ba Lưới hết lòng vun dưỡng, nuôi trồng phòng ngừa giúp người gặp nạn. Người dân đánh nhau u đầu bể trán hoặc bệnh thổ tả, sốt rét hay đau khớp, gai sống, viêm thần kinh, động phong, đau đầu, đều tìm đạo sĩ Ba Lưới cầu cứu. Trên đỉnh núi xa lắc xa lơ này nếu không có những bài thuốc quý và tấm lòng như Ba Lưới dân núi khi lâm bệnh hiểm nghèo khó mà xoay xở được.....

  11. #11

    Mặc định

    Ông Ba Lưới chỉ buồn một nỗi: "Các cây thuốc hiếm hồi xưa mọc nhiều nay mười phần tiêu hết tám. Mấy thứ dược liệu như dây điển điển núi, sâm đất, ngải móng trâu, đỗ trọng, hồng khấu, sa nhơn, kỳ nam, ngải tượng, cam thảo... khó tìm lắm, có khi phải mò khắp mấy triền núi vắng mới mong có mà bốc thuốc cho bệnh nhân. Ngày xưa, tao tầm được thuốc quý phải khấn vái chư thần, coi cây nào nhổ được cây nào dưỡng, không phải nhổ ráo trọi, bứng gốc bẻ cành láng lềnh như mấy "ông thầy bà" bây giờ đâu!".

    Huyền thoại và sự thật về các đạo sĩ Cấm Sơn chân tu xưa nay là vậy. Song lần hồi, cuộc sống xô bồ xô bộn, nhiều "đạo sĩ dỏm" đã dựa vào chốn linh thiêng, lừa gạt nhân gian làm điều bất chính. Chẳng hạn như "đạo sĩ" H.K ở núi Bạch Hổ mượn các trò đồng cốt, hay như "đạo sĩ" H. mở am truyền đạo thu hút nhiều nữ đệ tử bày trò mờ ám. Hoặc là chuyện "đạo cô" Tư hay ngồi dưới gốc cây bồ đề gần chùa Phật Lớn để xủ quẻ bói xằng bậy cho khách…

    VIII.Tạm kết bài viết :

    Không có cái dáng dấp hùng vĩ và trùng điệp như những dãy núi ở Tây Nguyên, nhưng nơi núi non này nổi tiếng là vùng bốn mùa cây lá xanh tươi, khí hậu mát mẻ, trong lành; nên được mệnh danh là "Đà Lạt 2".Một ý nghĩa khác nữa, núi Cấm ở An Giang còn là một phên dậu mà thiên nhiên đã ban tặng để bảo vệ vùng đất phía tây của đất nước.
    Điều đáng nói nữa là 70% cư dân trên núi Cấm sống nhờ vào nương rẫy như trồng su, tiêu, cải xà lách xon… nên cũng khá bấp bênh.Chỉ một số ít sống được nhờ vào “du lịch”.Kề cận chùa Phật Lớn giờ đây đã có nhiều nhà trọ giá rẻ; một khu chợ, hàng hóa cũng khá đủ đầy.Dọc đường đi, du khách có thể thưởng thức món trái su non đem luộc chín nguyên trái, tôi bảo đảm món bầu bí luộc phải nhường cho nó đứng đầu. Nhưng khoái khẩu nhất là món bánh xèo, bánh chay hay mặn đều có, ăn kèm với đủ loại rau rừng lắm hương vị mà ở đồng bằng không sao tìm được; với giá cả khá dễ chịu…
    Hiện nay, tỉnh An Giang cho tráng nhựa tuyến đường mòn từ chân núi đến chùa Phật Lớn. Đây là tuyến đường chính giúp khách hành hương vừa rút ngắn cuộc hành trình vừa đỡ vất vả. Trong tương lai, sẽ có thêm các loại hình giao thông từng đoạn như cáp treo, xe ngựa...

    Khu du lịch cũng sẽ ra sức bảo tồn rừng nhiệt - ôn đới, gồm cây, thú, rừng đặc chủng, rừng hỗn giao, rừng trồng để xanh hóa môi trường và làm phong phú cảnh quan, đồng thời mở thêm các cụm dịch vụ du lịch với các khu nghỉ dưỡng, khu di tích và làng văn hóa, khu du lịch hành hương với diện tích cả ngàn hec-ta, đặc biệt là khu chùa Vạn Linh nằm cạnh khu rừng bốn mẫu trồng toàn tràm bông vàng và keo tai tượng, quanh năm xanh mát.
    Khi chùa Phật Lớn được trùng tu, nâng cấp, hồ chứa nước 60.000m3 đưa vào sử dụng, núi Cấm sẽ hình thành nét hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên với cảnh quan nhân văn, giữa công trình kiến trúc và công trình thiên tạo…
    Tất cả sẽ giúp nhiều người dân nơi đây có cuộc sống đủ đầy hơn và núi Cấm khi ấy thật sự trở thành khu du lịch sinh thái, văn hóa, giáo dục, lịch sử; thật sự mang một sắc thái riêng của Đồng bằng sông Cửu Long.

    Sưu tầm từ nguồn:

    Bùi Thụy Đào Nguyên, biên soạn

    Tài liệu tham khảo:

    -Nguyễn Văn Hầu, sách “Nửa tháng trong miền Thất Sơn”.
    -Theo Bảo Tuấn, báo Nhân Dân…
    -theo web của sở du lịch An Giang
    -Thanh Dũng, báo Thanh Niên ra ngày 01 tháng 01 năm 2002
    -Trần Quang Mùi, báo Thất Sơn số 40, tháng 6 năm 1998

  12. #12

    Mặc định

    Đức Phật Thầy Tây An
    Vị Giáo Tổ Bửu Sơn Kì Hương

    Đức Phật Thầy Tây An, Giáo tổ tông phái Bửu Sơn Kì Hương, tên thật là Đoàn Minh Huyên, đản sanh vào giờ ngọ, ngày rằm tháng mười năm Đinh Mão (1807), đời vua Gia Long thứ sáu. So với triều đại Trung Hoa thì bấy giờ nhằm vào đời Thanh Nhân Tông, niên hiệu Gia Khánh thứ 12.

    Chánh quán của Phật Thầy tại làng Tòng Sơn, tổng An Tịnh, huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh (1). Tỉnh An Giang hồi ấy chưa có. Mãi đến niên hiệu Minh Mạng thứ 13 (1832), một chỉ dụ hạ lệnh cho Gia Định Thành cắt đặt tỉnh An Giang với hai phủ, bốn huyện thì Tòng Sơn thuộc về An Giang. Hiện nay Tòng Sơn nằm về bản đồ hành chánh huyện Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc (nay là Đồng Tháp.)

    Thuở nhỏ học hành làm sao, sinh hoạt thế nào, không biết. Lớn lên, rời quê quán, có lẽ là để đi tu hành. Nhưng cả thân thuộc Ngài cũng không ai biết tông tích. Hình bóng của Ngài đã vùi mất từ lâu trong kí ức của mọi người có ít nhiều liên hệ.

    Nhưng Phật Thầy lại trở về làng Tòng Sơn sau khi đã xuất hiện tại Gò Công năm Giáp Thìn (1844) rồi vân du qua các xứ Mõ Cày, Bến Tre, Cần Chông, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá và miền Thất Sơn.

    Thật ra, Ngài về đúng vào tháng năm nào, không có gì để xác nhận. Tuy vậy, vẫn có những dấu hiệu cho biết rõ là vào đầu năm Kĩ Dậu (1849) thì Phật Thầy đã hiện diện ở đây. Với dáng dấp của một người ngây ngây, lời ăn tiếng nói khi hư khi thực, rồi cộng với những việc làm có lộ vẽ huyền diệu, Ngài mới bắt đầu gây được sự chú ý cho ít kẻ hiếu kì. Chẳng hạn như chuyện cây da bên rạch Tòng Sơn trốc ngã, làm tắt nghẽn lưu thông, mà chỉ bằng một cử chỉ nhẹ nhàng, Phật Thầy đã giúp làm cho cây da xếp lại. Như chuyện Ngài hằng đêm đốt lá da để lấy ánh sang thay đèn, để lấy lửa đun nước và khi thấy có người lo sợ rằng hỏa hoạn có thể xảy ra do hành động đó của Ngài, thì Ngài trả lời bằng những câu úp mở, tỏ ra có đủ quyền năng để bảo đảm việc ấy. Nhưng, như đã nói, mới đầu Ngài chỉ gây được sự chú ý cho những ai hiếu kì, còn phần đông thì hoặc họ không biết đến Ngài, hoặc có người biết đến thì chỉ tỏ vẻ khinh bạc. Nhưng hình như Đức Phật Thầy không buồn nghĩ đến việc ấy mà hằng ngày lộ vẻ trầm ngâm, thường tìm đến chỗ tịch mịch để suy tư. Cái suy tư của một đạt nhân mang hoài bão lớn, muốn giải thoát cho đời mà thời cơ chưa đến!

    Ngài nghèo nàn, cô độc, môt mình hiu quạnh nương tựa tại mái hiên sau của ngôi đình Tòng Sơn cũng nghèo nàn như Ngài.

    Năm ấy thời hành dịch tả nổi lên, tại làng Tòng Sơn bắt đầu thấy có người nhiễm bệnh. Dân làng lo sợ vái van, dự phòng thuốc men ngừa khi tăm tối xa thầy vắng chợ; còn hương chức làng thì tự thấy có trách nhiệm trước thánh thần, cho nên họ họp lại để làm lễ “tống gió”, gà heo vái cúng.

    Thấy hành động của hương chức làng trái với chánh pháp, nên Phật Thầy ra trước mặt họ tỏ ý không tán thành. Ngài khuyên đừng nên làm việc sát sanh vô lý và ích kỷ như vậy. Mình không ưa “gió” thì “tống gió” cho ai! Nhưng chức việc làng bác bỏ lời Ngài, họ thản nhiên làm theo ý định.

    Những lời biện giải nhân từ và hợp lý của Phật Thầy hay đâu lại là điều làm phật ý mọi người. Người ta đồng lòng xua đuổi Ngài ra khỏi mái hiên đình, một nơi tuy âm thầm quạnh quẽ nhưng là một tổ ấm thân yêu mà Ngài đã nghỉ đổ tự bấy lâu nay. Ngài chấp nhận lời họ, nhưng xin được thiết lễ ra mắt để tự chiêu khai lý lịch đã.

    Trước đông người, Ngài cho biết tên họ của mình, nói rõ danh tánh ông bà cha mẹ mình và xin mời những người thân thuộc của Ngài đến. Dòng họ của Đức Phật Thầy lúc bấy giờ chỉ còn có vài người, nhưng trong vài người ấy, ông Đoàn Văn Điểu và ông Đoàn Văn Viên, cũng không nhận diện được Ngài. Ngài phải nó hết căn do lưu lạc, việc tu hành của Ngài như thế nào, thì anh em mới nhìn được nhau.

    Rồi Đức Phật Thầy cáo biệt.

    Chuyện vở lẽ, mọi người đều bịn rịn, khẩn cầu Ngài ở lại. Nhưng Phật Thầy quyết định lên đường, vì thời cơ và sứ mạng đã đến lúc khế hợp. Từ ấy người ta thấy Phật Thầy vân du nhiều chỗ. Tại Trà Bư (cách xa chợ Cái Tàu Thượng chừng non 10 cây số), tại Tân Phước (trên lòng rạch Cái Dứa), tại Mỹ Hưng khoảng đầu Cù Lao Giêng), tại Cái Tre (bên kia bờ Tiền Giang, ven Đồng Tháp), thiên hạ đều thấy có bóng dáng Ngài thoạt đó thoạt đây. Ngài đi trên một chiếc xuồng bần, bơi bằng một thanh tre, gặp bịnh thì trị bịnh, gặp người thiện duyên thì thuyết pháp dạy tu. Cá nhân Ngài gắn liền với đám dân cùng khổ.

    Ngài an ủi, cứu trợ, khuyên dỗ, thương xót họ như tình thương bao la của mẹ với con....

  13. #13

    Mặc định

    Nhưng chỗ Đức Phật Thầy ngụ lại hơi lâu là tại Trà Bư.

    Bấy giờ bịnh dịch lan tràn dữ dội. Đầu trên xóm dưới chết. Đau một giây một giờ rồi chết. Mà chết nhiều không kịp chôn. Thiên hạ hoảng sợ. Bè tống ôn tống gió bềnh bồng đầy sông. Ngoài đường vắng người đi. Ban đêm chó không dám sủa. Mà thỉnh thoảng có vài tiếng chó sủa thì người ta lại tưởng tượng là có âm binh về. Hễ nghe tiếng lộp cộp là ớn da gà, biết rằng trong xóm có một nắp quan tài vừa đậy lại. (2)

    Nhân dân Tòng Sơn sợ hãi, hối tiếc rằng mình có Phật trong nhà mà đi cầu ma ngoài đường, nên yêu cầu ông Đoàn Văn Điểu cùng đi với chức việc làng đến Trà Bư thỉnh Đức Phật Thầy trở về. Bấy giờ tại Trà Bư người ta đến cầu Ngài chữa bịnh đông như kiến cỏ, nên Phật Thầy không về Tòng Sơn. Ngài dạy các ông ấy hãy trở về đình, nơi Ngài nghỉ đỗ trước kia, tìm cái nang bằng mo cau dùng làm đảy đựng vật dụng mà Ngài còn để lại, sẽ có “cây thẻ năm ông” trong đó. Hãy cầu vái Phật Trời rồi thỉnh thẻ ấy mà uống thì tật bịnh tiêu trừ.

    Thật vậy, trong cái mo nang còn lại, người ta thấy có một cuốn Sấm Giảng, một tấm trần đỏ và một cây cờ ngũ sắc. Tấm trần đỏ tức thời được thượng lên thờ tại đình, quyển Sám Giảng được chuyền tay nhau đọc; còn cây cờ ngũ sắc thì chỉ trong ít ngày, người ta thỉnh về uống sạch (3). Chẳng những vải cờ mà cho đến cả cán cờ, chưn nhang và tro nhang trên bàn cũng không còn. Bằng phương pháp đơn sơ như vậy, Đức Phật Thầy đã chận đứng được con bịnh ở thôn Tòng Sơn.

    Tháng 8 năm ấy, Ngài đến Xẻo Môn, thôn Kiến Thạnh (giờ đây là xã Long Kiến) xuất hiện như một người cuồng, gây kinh dị không ít cho dân chúng. Nhưng rồi ai nấy vô cùng thán phục bởi đức độ và tài năng của Ngài. Ngài vừa chữa bịnh, vừa thuyết pháp dạy tu, người quy y đông vô số.

    Chỉ bằng một mảnh giáy vàng xé nhỏ, một chút nước lã hoặc một miếng giáy áo nhang, Phật Thầy không những trị bịnh thiên thời mà còn trị cả đến các bịnh ho, suyễn, cùi, phong, điên; bịnh hậu thổ huyết, bịnh trùng tang thằng bố. Mà trị đâu thì hết đó, tiếng đồn vang khắp, khiến người đến chiêm ngưỡng Ngài như nước triều dâng.

    Những người quy y với Phật Thầy đều được phát cho một lòng phái bằng giấy vàng hay giấy bạch, trên đóng ấn triện có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương. Tông phái nầy coi như được sáng khởi vào mùa Thu năm Kỷ Dậu (1849) mà Đức Phật Thầy Tây An là Giáo Tổ.
    Ngài luân lưu chữa bịnh, thuyết pháp và truyền giáo tại Lòng Ông Chưởng ít nhất là vào mấy tháng của mùa thu năm ấy; các địa điểm có mang vết chân Ngài được biết chắc chắn là tại đình thần thôn Kiến Thạnh (xưa ở Chưng Đùng), tại cốc ông Kiến (nay là Tây An Cổ Tự) và tại chùa Sư Nhựt (thôn Kiến An). Nhưng kế rồi Ngài lâm nạn, phải ngưng hoạt động.

    Viễn nhân đưa đến hoạn họa cho Đức Phật Thầy là do sự nghi kỵ của chánh quyền đương nhiệm. Nguyên là miền Nam cho đến cuối đời Gia Long, vẫn còn là một biên phương ô tạp. Theo Đại Nam Chánh Biên Liệt Truyện, Đại nam Thực Lục Chánh Biên và nhiều cổ sử thư thì người Thổ, Người Minh Hương, người Đồ Bà, người Chàm… và người Việt ta chung sống trên một vùng đất rộng ven các nhánh sông Tiền và Hậu. Tín ngưỡng quá phức tạp. Mê tín thì dẫy đầy. Đồng bong ma quỷ như thường xuyên lẫn lộn bên nhau. Những tụ tập làm loạn thường dựa vào tình trạng phức tạp đó mà nổi dậy, khiến chính quyền phải cấm ngăn phù thủy. Cãi thì trừng phạt bằng roi, hoạc bắt khổ sai xay lúa, giã gạo. Thế mà các đám giặc chòm vẫn cứ tiếp tục nổi lên, trong đó thường có các tăng sải chủ mưu. Theo sách Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện (4) thì giặc Sải Kế là một loạn đảng quá dữ dằn, dám xưng vương, cướp phá lung tung các hạt trên Miên và tràn xuống đến Định Tường để cáp duồng, cướp bóc vào nhữg tháng thượng bán niên Canh Thìn (1820). Kế đến năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), nhiều cuộc loạn lại nổi lên ở Miên do các tên đầu đảng là Đột và Cố. Nước Xiêm nhân đó đưa đưa Nặc Ông Đôn về Miên cướp quyền bảo hộ của Việt Nam, xúi dân làm loạn, cướp phá đến kinh Vĩnh Tế (5). Rồi thầy sãi Lâm Sâm (cũng gọi là Sư Sâm) thừa cơ dậy giặc ở Vĩnh Long và Trà Vinh, y có tới bảy tám ngàn đồ đảng, tất nhiên là có nhiều “thầy tu” chỉ huy, chiếm cứ Lạc Hoá, giết cả đến quan Bố Chánh Trần Tuyên và quan Tri Huyện Huỳnh Hữu Quang (6). Tiếp theo là Thiệu Trị thứ năm và thứ sáu (1845, 1846) Cao Miên liên tiếp có loạn, làm rối rắm Nam Kỳ, trong đó thường có sự tham gia của các sư sãi người Miên. Chính vì vậy mà khi nghe tin Đức Phật Thầy có uy lực tụ tập mỗi ngày hàng ngàn người, tự nhiên là triều đình phải sợ.

    Còn cận nhân gây ra tai nạn cho Phật Thầy là do bọn thầy cúng, bọn lang băm và bọn phù thủy bất học vô thuật. Chúng ganh tỵ trước sức thu hút quần chúng quá lớn lao của Đức Phật Thầy, vì Ngài có thể gây thất nghiệp cho chúng. Chúng tìm mọi cách để chỉ trích các phương pháp chữa bịnh, truyền giáo và hành giáo của Ngài. Đói ăn rau, đau uống thuốc, Đức Phật Thầy chữa bịnh không dùng thuốc, là một cái nghi. Thầy chùa thì phải đầu tròn áo vuông, Ngài đầu vẫn búi tóc, càm vẫn để râu, là hai cái nghi. Lễ Phật thường thì tụng kinh gõ mõ, giờ sao dạy lâm râm mặc niệm, không la ó gì, là ba cái nghi. Thờ Phật lâu nay chỉ thờ tượng cốt, nay lại thờ trần điều, là bốn cái nghi. Cúng Phật thường cúng chè xôi, lý do gì lại bác bỏ hết mà chỉ cúng hoa tươi nước lã, là năm cái nghi. Tất cả các nguyên cớ dẫn trên tập hợp lại thành một lưới nghi, khiến chánh quyền kết luận rằng Phật Thầy không phải là một nhà tu hành chân chính, mà là một gian đạo sĩ, chuẩn bị quần chúng để làm một cuộc nội loạn.

    Đức Phật Thầy bị quan Tổng Đốc An Giang xuống lịnh bắt Ngài đưa về Châu Đốc câu lưu.
    Tại Châu Đốc, Phật Thầy đã đem tài hùng biện và dùng những huyền nhiệm để ứng phó với các viên chức chánh quyền. Những lời đe dọa, những cuộc thẩm vấn gắt gao, cùng với những trò thử thách đều được đưa ra, nhưng không hề làm lung lay được tâm hồn hiền thánh. Sau đó, không rõ là bao lâu, người ta phóng thích Ngài.
    Tuy nhiên để hợp thức hoá Phật Thầy như một nhà sư bình thường của đạo Phật và để kiểm soát, theo dõi mọi hoạt động của Ngài, người ta buộc Ngài phải thế phát và phải vào tu tại chùa Tây an, một ngôi chùado chánh quyền cất sẵn từ năm Thiệu Trị thứ bảy (1847) qua bàn tay kiến trúc của quan Tổng Đốc Doãn Uẩn. (7).

    Từ đó, PhậtThầy, trên phương diện pháp lí, là một nhà sư của chùa Tây An. Để tự túc sinh sống, chánh quyền có cấp cho Ngài tám mẫu ruộng bên chân núi Sam. Tại đây đã có sẵn một sư trụ trì thuộc phái Lâm Tế, có nhiều tượng cốt Phật, có gõ mõ tụng kinh!

    Ngộ biến tùng quyền, mặc dù trong một hình thức trái với chủ trương cải cách tôn giáo của Ngài, Phật Thầy vẫn ẩn nhẫn tùy thời để thi hành sứ mạng lập tông hành giáo.
    Tưởng nên nói rõ rằng chủ trương của Phật Thầy là lấy Đạo Phật làm căn, nhưng không thờ Phật cốt, không gõ mõ tụng kinh, không đầu tròn áo vuông, không hành nghề thầy đám, không cúng kiến chè xôi và tu đâu cũng được. Theo giáo lí của Ngài thì người tu cốt tránh ác làm lành, rửa lòng trong sạch, giữ tâm thanh tịnh và hằng thực thi bốn ân lớn: ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại (8).

    Cũng tại chùa Tây An núi Sam, Phật Thầy cảm hóa được vị thiền sư chủ chùa và thu hút hằng chục vạn thập phương thiện tín. Người ta xem Ngài như một Hoạt Phật và tôn xưng Ngài là Phật Thầy Tây An. Danh hiệu này là thế tôn, không phải Ngài tự đặt.

    Ngài cũng chỉ thị cho các đại đệ tử mở rộng việc truyền giáo ra khắp bốn phương, tiếp tục phát phù trị bịnh, tiếp tục cấp lòng phái Bửu Sơn Kì Hương để thu nhận thêm nhiều đệ tử. Cái bối cảnh Xẻo Môn trước kia giờ đây bộc hiện tại núi Sam với một niềm tin mãnh liệt và với một tinh thần phấn khởi hơn trước đối với người tin. Để tránh sự khủng bố của chánh quyền mà Phật Thầy tiên liệu là sẽ khó khỏi nếu cứ cho tập trung ở đó để truyền giáo theo chủ trương của mình, nên Ngài cho lệnh di tản tín đồ đi khai hoang tản mạn nhiều nơi. Các vùng cực xa xôi hoang vắng, chưa có vết chân ai bén mảng, là chỗ tốt cho sự thành lập các cơ cấu Bửu Sơn Kì Hương....

  14. #14

    Mặc định

    Các cơ cấu tôn giáo vừa nói đều được Phật Thầy mệnh danh là trại ruộng. Tất cả tín đồ đều là cư sĩ tại gia, vừa làm lụng sanh nhai vừa tu hành tinh tấn. Các nông trại được coi như các chùa chiền và các đại đệ tử của Ngài được gọi là các Ông Đạo để làm những việc như các tăng sư truyền giáo.

    Năm 1851, từng đoàn tín đồ của Phật Thầy chia nhau ra đi.

    Đoàn khai hoang thứ nhất vào Thất Sơn, bên chân núi Két, nơi mà rừng bụi rậm rì, hổ báo lúc nào cũng có thể xuất hiện để đe dọa hoặc làm hại người ta được. Đoàn này chia làm hai nơi, một do ông Bùi Văn Thân tức Tăng Chủ Bùi Thiền Sư, một do ông Bùi Văn Tây tức Đình Tây chỉ huy. Nơi đây nông trại Hưng Thới và Xuân Sơn được dựng lên (9).

    Đoàn khai hoang thứ hai do ông Quản Thành tức Đạo Thành (10) điều khiển, đem nhau đến Láng Linh, một vùng bùn lầy, mùa lụt như biển cả mà mùa hạn thì như bải cát hoang. Địa thế không thuận lợi mấy cho nông nghiệp nhưng rất đắc địa cho khách ẩn cư tịch mịch. Tại vùng này, một trại ruộng mệnh danh là Bửu Hương Các được dựng lên.

    Đoàn thứ ba do ông Đặng Văn Ngoạn đưa về miền Cần Lố, bên kia bờ Tiền Giang (vùng Đồng Tháp Mười). Một ngôi chùa được dựng lên tại Trà Bông để các tín đồ chiêm bái; còn ruộng rẫy thì mở ra khắp nẻo rạch Trà Bông, trong lòng Cần Lố, lạch ông Bường (11).

    Đoàn thứ tư về Cái Dầu, nay là xã Bình Long, sát hữu ngạn Hậu Giang, nơi có nhiều phù sa, tuy không phải chỗ hoàn toàn hoang lâm, nhưng vẫn còn mênh mông đất rộng, ông Nguyễn Văn Xuyến, tức Đạo Xuyến, đã cai quản các tín đồ sinh hoạt tại địa điểm này (12).

    Tất cả các nhân vật điều khiển các nông trại Bửu Sơn Kì Hương mà chúng ta vừa biết đều là những người đạo đức gương mẫu, thông Phật pháp, giỏi võ nghệ, đầy lòng vị tha:

    Bùa linh đốt cứu người đau đớn,
    Phù Phật dành dưng kẻ thiện duyên…

    Họ kiên nhẫn và bất vụ lợi, tinh thần khoáng đạt:

    Giày cỏ đến lui trời đất rộng,
    Áo sen xài xạc núi sông dài (13).

    Cho nên với cuộc sống đơn bạc, họ đã động viên hằng ngàn nhân lực đến mỗi nơi để sau đó thành lập thôn ấp, phát triển đạo đức.

    Nhiều làng xã như Hưng Thới, Xuân Sơn, Bình Long, Thạnh Mĩ, Vĩnh Hanh…(thuộc Long Xuyên – Châu Đốc) hoặc ở Đồng Tháp (thuộc Sa Đéc - Kiến Phong), ở Trà Bang (Rạch Giá)… đều đã do bàn tay, lưỡi cuốc khai phá của người tín đồ Bửu Sơn Kì Hương mà nên.

    Chặng đời từ 1851 trở đi, tuy tiếng là tại núi Sam, nhưng thật ra Phật Thầy luôn luôn vân du hóa độ. Tài liệu chắc chắn có thể kiểm chứng được cho thấy ngoài Châu Đốc – Đông Xuyên, nơi có sự trông nom của Đức Phật Thầy và ông Đạo Thành, công việc truyền giáo về cao Miên có ông Đạo Lãnh, Bà Năm Chòm Dầu; về Sa Đéc – Vĩnh Long có ông Đạo Ngoạn; về các tỉnh Biên Hoà - Định Tường có ông Đạo Xuyến; về Hà Tiên - Rạch Giá có ông Đạo Lập (14). Những tu sĩ nầy được mật truyền tâm pháp và thảy đều nổi tiếng là những bậc chân sư.

    Phật Thầy thọ 50 tuổi, viên tịch tại Chùa Tây An núi Sam vào giờ Ngọ, ngày 12 tháng 8 năm Bính Thìn (1856).

    Nhìn Bửu Sơn Kì Hương qua hành chỉ của vị Giáo Tổ, qua giáo lí và các tổ chức sinh hoạt của tông phái này, chúng ta thấy thể hiện ở đây một cải cách lớn, một sáng tạo đặc biệt chẳng riêng cho Phật Giáo Việt Nam mà là một đóng góp xứng đáng cho cả một dân tộc (15).

    Giữa khi mà đất nướcli loạn liên miên gây ra bởi tham vọng của con người đồng chủng (chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn Ánh, tranh chấp Minh Mạng – Lê Văn Khôi), bởi tham vọng của những kẻ dị chủng (mấy trận xâm lăng của Xiêm và những dấy loạn của Miên) kế đến là những tà quỉ mị đạo mê hoặc lợi dụng, những cướp của sát nhân của những tên gian đạo sĩ (đồng cốt bóng chàng lường gạt trân tráo đến phải phạt khổ sai mà không bỏ; nào loạn Sải Kế, nào giặc Sải Sâm), rồi tới nền kinh tế phát triển quá mức trên một vùng phì nhiêu nhất của đất nước làm thu hút đủ loại người chen đua, giành giựt, hư hèn (miền Hậu Giang hồi thế kỷ 19 đã tập trung nhiều giống người Chàm, Xiêm, Miên, Lào, Đồ Bà, Trung hoa ở lẫn với Việt Nam) v.v… giữa lúc ấy nếu không xuất hiện một phong trào chấn hưng đạo đức thích ứng như công đức hoằng hóa của Bửu Sơn Kì Hương thì chắc chắn miền Nam này sẽ trở thành cái rún biển chất chồng tội ác, hoặc là một trong những ung nhọt của thế giới văn minh rồi.

    Nội bấy nhiêu đó cũng đủ làm bừng sáng ý nghĩa trong sự hiện diện của Bửu Sơn Kì Hương.


    Sưu tầm từ nguồn:

    GS Nguyễn Văn Hầu.

    CHÚ THÍCH:
    (1) Năm Gia Long thứ bảy (1808) bắt đầu đặt trấn Vĩnh Thanh, thuộc quyền Gia Định thành, có một phủ (Định Viễn) và ba huyện (Vĩnh Bình, Vĩnh an và Tân An).
    (2) “Nửa Tháng Trong Miền Thất Sơn”, Hương Sen xuất bản, 1971.
    (3) Phải chăng là để nhắc lại việc này, Đức Huỳnh Giáo Chủ có viết trong bài Thiên lý ca hai câu rất đúng với sự kiện và cảnh ngộ.
    Bửa xưa Giảng kệ một nang,
    Bởi vì ta mắc đời thoàn cảnh xa.
    Đức Phật Thầy Tây An quả đã để lại đình thần Tòng Sơn một mo nang Giảng kệ và trên chiếc xuồng bần, Ngài đã dời thoàn ra đi, không trở lại
    (4) Mục Minh Mạng nguyên niên, tờ 8a.
    (5) Xem Thoại Ngọc Hầu và Những Cuộc Khai Phá Miền Hậu Giang, Hươ ng Sen xuất bả n, 1973.
    (6) Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện, mục Thiệu Trị nguyên niên, tờ 21b.
    (7) Đại Nam Nhất Thống Chí, phần An Giang tỉinh, mục Tự quan, tờ 29b. Trong quyển Mùa Đông đã chép sai chi tiết này.
    (8) Nhận Thức Phật Giáo Hòa Hảo, Hương Sen xuất bản, 1969.
    (9) Thất Sơn Mầu Nhiệm, Từ Tâm tái bản, 1972.
    (10) Cuộc Khởi Nghĩa Bảy Thưa, Tân Sanh xb 1956.
    (11) Theo Đạo Ông Giảng Tập của Đặng Công Hứa bản Nôm lục bát, không đề năm sang tác. Nội dung nói về cuộc đời hành đạo của ông Đạo Ngoạn.
    (12) Sự Thôn Thuộc và Khai Thác Đất Tầm Phong Long. Sử Địa số 19, 20, 1970.
    (13) Trích Liên Hoàn Thập Thủ của ông Đạo Lãnh (có thể do Phật Thầy bảo viết).
    (14) Xem Thất Sơn Mầu Nhiệm, Từ Tâm tái bản, 1972.
    (15) Những xưng hô về sau phần nhiều là những lạm dụng hoặc lợi dụng. Người ta bắt chước theo một vài điều gì đó của căn gốc Phật Thầy rồi tự xưng mình cũng thuộc tông phái của Ngài để lấy uy tín. Sự thật đều là sai lạc chánh truyền. Chẳng hạn họ thấy Bửu Sơn Kì Hương có ân đất nước, có tranh đấu cứu quốc nên lợi dụng để quyến rũ quần chúng. Trường hợp “Lá Cờ Phản Nghịch” có mang bốn chữ Bửu Sơn Kì Hương kèm theo những phù chú nhăng nhít của một nhóm Thiên Địa Hội làm từ năm Ất Mão (1915), bị thực dân Pháp bắt được năm 1916 mà giáo sư G. Coulet đã đề cập (Drapeau de l’insurrection de 1916 en Cochinchine) là một. Một trường hợp khác là có một số người lạm dụng tấm trần đỏ của Đức Phật Thầy để tôn thờ nhưng không tu học đúng tôn chỉ của Ngài. Điều này đã được Đức Giáo chủ PGHH minh giải: “Từ trước chúng ta thờ Trần Điều là di tích của Đức Phật Thầy Tây An để lại. Nhưng gần đây có nhiều kẻ thờ trần điều tự xưng cùng tong phái với chúng ta làm sái phép, sái với tôn chỉ của Đức Phật, nên toàn thể trong đạo đổi lại màu dà. (Tôn Chỉ Hành Đạo, xb tháng 6 năm 1965).

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 07-06-2010, 09:58 PM
  2. Truyền Thuyết Sông Nhà Bè
    By saigon-tuan in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 24-09-2008, 11:58 AM
  3. Truyền thuyết Thần Trụ Trời
    By Bin571 in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 27-05-2008, 09:25 AM
  4. Truyền thuyết về giếng rồng ở chùa Phật Tích là có thật
    By Bin571 in forum Tâm linh – Tín ngưỡng – Siêu hình học – Ngoại cảm
    Trả lời: 2
    Bài mới gởi: 03-12-2007, 09:12 PM
  5. Tin mới về Truyền Thuyết Mỵ Châu-Trọng Thủy
    By Bin571 in forum Truyền thuyết - Giai thoại - Lịch sử VIỆT NAM
    Trả lời: 5
    Bài mới gởi: 01-12-2007, 05:44 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •