Thấy bài Kinh này hay hay và ý nghĩa nên KD mạo muội post lên để chia sẻ cùng quý đạo hữu.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
.........................




Thiện Sinh là tên chàng thanh niên thuộc dòng dõi Ba-la-môn, Phạn âm là Sigala (Thi-Ca-La-Việt) người Ấn Độ.

Vào một buổi sáng, Đức Phật gặp một chàng thanh niên Singala làm lễ lạy 6 phương ở ngoài thành Xá Vệ. Phật hỏi lý do về việc lễ lạy đó, Singala trả lời: Khi cha con sắp qua đời có dặn con sáng sáng phải lễ 6 lễ cho các phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, phương trên và phương dưới. Nhân đó Đức Phật liền dạy cho Singala lễ 6 phương theo đạo Phật thì có ý nghĩa rất hay chứ không chỉ lễ mà không hiểu như vậy. Lễ 6 phương là nội dung nếp sống đạo đức của người Phật tử tại gia.

Để dễ hiểu, dễ nhớ bản kinh này tôi đã lược dịch thể diễn ca dành cho Phật tử dễ đọc.

Bản dịch đã được cấp giấy phép xuất bản số 313/CXB ngày 6-11-1991, in 5000 cuốn. Đọc diễn ca Kinh Thiện Sinh sẽ hiểu nội dung và ý nghĩa của lời Phật dạy.



LỄ SÁU PHƯƠNG


LỜI PHẬT DẠY VỀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH



Khi xưa Phật ở trên đời,
Tại thành Vương Xá sớm trời ra đi.
Thấy non Kê Túc phía xa,
Có chàng trai trẻ lễ đà sáu phương;
Thi-Ca-La-Việt tên chàng,
Phật liền đến hỏi "sáu phương là gì?"
Bạch rằng: "Thân phụ xưa kia,
Dạy con làm thế chớ hề đơn sai.
Nên con chỉ biết lễ hoài,
Nghĩa thì không biết xin ngài dạy cho"
Phật rằng: Anh đã lầm to,
Lời cha anh trước dặn dò thiết tha:
Sáu điều dữ phải tránh xa,
Đó là sáu thứ lễ mà noi theo.



- Một là hay uống rượu nhiều,
Hai là cờ bạc lêu têu hàng ngày,
Ba là ngủ sớm dậy chày,
Bốn là thiết khách rượu say lu bù,
Năm là bạn ác giao du,
Sáu là sát hại gian thu của người,
Gió giăng nam nữ chơi bời;
Sáu điều trong sạch lễ thời là đây,
Không chừa lễ vậy chẳng hay,
Hại thân, phá tán gia tài không ngăn.
Bạn lành ta hãy nên thân,
Còn như bạn dữ ta cần lìa xa.

I

"Dạy cho sáu lễ phương là,
Hướng Đông, đối với mẹ cha năm điều:
Một là hiếu kính sớm chiều,
Mẹ cha vui vẻ đủ điều làm con;
Hai là gắng sức trông nom,
Bữa ăn gióng giả ấm êm gia đình;
Ba là đỡ mẹ cha mình,
Những khi vất vả xót tình làm thay;
Bốn là phải nhớ hàng ngày,
Công cha nghĩa mẹ sánh tày non cao;
Năm là cha mẹ yếu đau,
Thuốc thang phụng dưỡng lo âu vẹn tròn.
- Mẹ cha đối với các con,
Cùng năm điều tốt răn luôn cho rành;
Một là bỏ dữ làm lành;
Hai là trí thức tốt lành nên thân;
Ba là việc học chuyên cần;
Bốn là đến tuổi hôn nhân kịp thì;
Năm là chẳng tiếc của chi;
Liệu bề cung cấp phải khi tiêu xài.

II

"Hướng Nam, trò đối với thầy"
Một là kính nể hàng ngày không sai;
Hai là ghi tạc lời thầy;
Ba là giúp việc khi nay thầy cần;
Bốn là chăm sóc tiến thân;
Năm là bảo vệ ân nhân mọi chiều.
- Với trò thầy cũng năm điều:
Một là dạy dỗ bao nhiêu không chồn;
Hai là muốn trò mình hơ;
Ba là kiến thức vững bền khôn lay;
Bốn là giải đáp điều hay;
Năm là trò giỏi hơn thầy càng mong.

III

Hướng Tây, vợ đối với chồng:
Một là vui vẻ thấy chồng tới nơi;
Hai là chồng vắng mái ngoài;
Sẵn sàng cơm nước bữa thời chờ mong;
Ba là trinh tiết một lòng;
Bốn là chòng mắng cũng không nổi khùng;
Chẳng hề tư túi của chung;
Năm là đêm ngủ sau chồng phút giây;
Soát xem nhà cửa đó đây,
Mọi bề chu đáo mới hay đi nằm.
- Phận chồng đối xử cũng năm:
Một là tình vợ một niềm yêu đương;
Hai là ăn uống nhịn nhường,
Không khe khắt để vợ thường được vui;
Ba là ăn mặc tùy thời,
Rộng cho tô điểm bề ngoài đoan trang;
Bốn là giao phó sẵn sàng,
Tề gia nội trợ đảm đang gia đình;
Năm là nam nữ phân minh,
Thập thò thú vị vợ mình sinh nghi.

IV


"Lễ quay hướng bắc những gì?
Là tình bè bạn nghĩa thì có năm:
Một là bạn có lỗi lầm,
Lựa lời giải thích can ngăn kịp thì;
Hai là bị bệnh nạn gì,
Sẵn sàng giúp đỡ nếu khi bạn cần;
Ba là chuyện kín gia nhân,
Chớ nên tiết lộ vạch trần nhau ra;
Bốn là lui tới thăm nhà,
Lỡ khi va chạm xuề xòa cho nhau;
Năm là tương trợ lẫn nhau,
Giàu nghèo chẳng chút thấp cao sinh lòng,

V

"Lễ quay xuống đất nói chung,
Chủ nhà, người phục vụ cùng nêu gương:
Một là chủ biết xót thương,
Những khi đói rét liệu chừng mà sai;
Hai là đau ốm chẳng may
Thuốc thang cứu chữa cho ngay được lành;
Ba là chớ có đành hanh,
Chỉ hay đánh đập thiếu tình thứ tha;
Bốn là riêng của người ta,
Thì đừng nhòm ngó để mà chiếm đi,
Năm là người sẵn giúp vì,
Cho gì bọn họ phải chia đúng phần.
- Về người phục vụ mấy vần:
Một là dạy sớm chuyên cần tận tâm;
Hai là thấy việc đáng làm,
Không chờ sai bảo phải chăm phận mình;
Ba là của cải gia đình,
Không nên lãng phí tội tình chủ nhân;
Bốn là chủ vắng xa gần,
Quan tâm những lúc chủ nhân đi về;
Năm là danh dự chủ nhà, Phải nên bảo vệ thật là trơn tru.

VI

"Hướng lên trời lễ dạy cho,
Cúng dàng tôn trọng thầy tu, bạn lành:
Một là thật sự trung thành;
Hai là tận tụy hết mình quản chi,
Ba là chăm hỏi đạo nghi;
Bốn là tu học tư duy phép mầu;
Năm điều hiểu rộng thấm sâu,
Nhất tâm niệm Phật, ra vào thiền-môn.
- Bề cũng lại dạy luôn:
Một là "lục độ" giữ trong thân tâm,
Hai là đức hạnh chẳng lầm;
Ba là kiểm điểm "nói - làm" hợp nhau;
Bốn là lễ phép đã làu,
Lại thường thương xót khắp hầu sinh linh;
Năm là phát nguyện làm lành
Hướng về Tịnh-độ, phát sinh Bồ-đề.
Lợi dân, ích nước chẳng nề,
Giúp đời an lạc mọi bề làm gương.
Đó là phép "lễ sáu phương"
Vâng lời cha dạy chủ trương thực hành"
Phật liền thuyết kệ chứng minh, T
Thiện Sinh lạy tạ chí thành tin theo.