Nguồn : BaoSonTemple.
Tác giả : Bé Ti.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Ngưỡng vọng Giác Linh Thầy


Những dòng chữ này được con viết lên khi Thầy không còn hiện hữu trên cõi đời này nữa. Thầy đã viên tịch vào ngày 22 tháng 3 năm Ất Dậu, 2005. Con nhớ lại một quá khứ tươi đẹp và bình yên bên cạnh bậc Thầy quý kính của con nơi ngôi chùa Trúc Viên Lan Nhã ở Suối Tre (thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai). Bài viết này của con như một nén tâm hương được thắp lên tưởng niệm Thầy trong mùa Vu Lan báo hiếu, mùa của sự đền báo Tứ Trọng Ân, vì Thầy là Người Mẹ Tâm Linh mà con vô cùng kính ngưỡng. Tuy con được Thầy “sinh ra” khi vùng đất đỏ Suối Tre đón bước chân du hóa của Thầy từ năm 1975, nhưng con không là Sư chị của ai hôm nay ở Trúc Viên Lan Nhã. Bởi vì hai chữ nhân duyên muôn đời là quy luật, là sự xếp đặt diệu kỳ, thú vị của vạn hữu. Ngày nay, sau khi được quy y, rồi được dự vào đoàn thể xuất gia của đệ tử Phật, con đã có nhiều cái tên mới từ nơi Pháp danh, Pháp tự, Pháp hiệu, nhưng con vẫn thích thưa với Thầy rằng con là Bé Ti và con thích được Thầy gọi lại “Bé Ti của Thầy” như ngày nào. Chắc Giác linh Thầy cũng hoan hỷ và đang gửi nụ cười cho con. Với con thì niềm vui nhẹ nhàng lành mạnh thường nuôi dưỡng tâm hồn mình, và con luôn muốn đón nhận những niềm vui như vậy.

Mùa hè năm 1980, lúc ấy con vừa học xong lớp Một, con được theo Mẹ đi chơi, thế là Bé Ti nhà ta đã có những ngày nghỉ hè thật vui tươi, thật hạnh phúc tại một ngôi chùa quê trong làng Xuân An rợp bóng mát cao su của khu du lịch Suối Tre (Long Khánh). Duyên lành đã đưa Thầy cùng với một người bạn đồng tu thân thiết (bấy giờ con gọi là Thầy Phó) về ngôi chùa này cuối năm 1975, thời điểm có nhiều đổi thay của đất nước… Sự có mặt của hai mẹ con và có tiếng nói cười của trẻ thơ, ngôi chùa như ấm lại, bớt đi vẻ quạnh quẽ thường ngày. Mỗi tối, sau giờ cơm hay sau thời Tịnh độ, Thầy trò mình quây quần bên nhau. Thầy nằm thư giãn trên võng, con được “chễm chệ” trên đùi Thầy. Thầy Phó và Mẹ con cũng cười vui theo những câu chuyện không ra đầu ra đuôi của hai Thầy trò. Mẹ con thấy Thầy sống thật tâm lý, bình an và yêu trẻ. Còn cảm nhận của con lúc ấy là giọng cười của Thầy như giọng cười của một ông vua vui tính, thường cười hả hê sau những đối thoại ngây thơ, hồn nhiên của trẻ nhỏ. Con được Thầy cưng quý, Thầy thì có một đứa trẻ để giải khuây sau một ngày lao động mệt nhọc trên rẫy xa theo tinh thần Bách Trượng... Thời gian đầu đời của con nằm trong thời gian khó khổ của Thầy, vậy mà Thầy đã nuôi nấng, dạy dỗ con thật chu đáo; đối với con đây là những tháng ngày vô cùng quý giá vì ngập tràn hạnh phúc!

Kỷ niệm cũ thật êm đềm, con không thể nào quên được. Tại đây, sau những ngày hè thú vị, được gần gũi, được tiếp xúc với hai Thầy, được sống trong tình Thầy trò êm ấm, con không muốn theo Mẹ về lại Nha Trang, con đã nắm chặt tay Thầy và “tỉnh bơ” khi chia tay với mẹ. Thế là hai mẹ con đã gợi cảm cho Thầy làm thơ tặng:



Ti Ti còn bé

Đã biết đi chùa

Lại biết thi đua

Tụng kinh trì chú.

Từ sư đến tục

Ai cũng yêu vì

Các bé bằng Ti

Lại càng mến chuộng.

Mẹ Ti đã muốn

Cho Ti thoát luôn

Cái vòng khổ hải

Khổ nối khổ lây.

Từ mấy hôm nay

Vào thăm Long Khánh

Ti đã ở chùa

Xuân An ấp nhỏ.

Mẹ Ti hỏi dọ

Xem thử ý ti

Có thích quy y

Thiền gia tịch tịnh.

Ti đang cương quyết

Nhất định không về

Vì mến chốn quê

Có chùa vắng vẻ.

Mẹ của con có quan hệ với hai Thầy rất đặc biệt:


- Trước năm 1975, ngày hai Thầy còn làm việc và tu học ở Ni viện Diệu Quang Nha Trang, Mẹ con là bạn đồng nghiệp cùng dạy chung với hai Thầy tại trường Bồ-đề Vĩnh Thái.

Khi hai Thầy về Long Khánh, Mẹ con thủ nhiều vai hơn:

- Một người bà con thường từ Nha Trang về thăm hai Thầy vào mỗi kỳ nghỉ phép của công chức hằng năm.

- Một người bạn thân thương của hai Thầy, được hai Thầy thích sẻ chia những khổ vui, đắc thất trong cuộc đời hành đạo, tu đạo - vì Mẹ con rất hiểu, rất thương quý hai Thầy, và ngược lại…

- Một người đệ tử ngoan đạo, thích tiếp thu những kinh nghiệm, những chỉ bảo thân tình từ hai Thầy. Nhất là với Thầy Phó, Mẹ con như một người em gái, được thương cũng có mà bị quở trách cũng nhiều…


Trước sự cương quyết ở lại chùa của con, Thầy đã bàn với Mẹ: “Con cứ yên tâm đi về, để Ti ở lại đây chơi đến hết hè. Nếu cháu thích hợp với dưa muối, tương chao thì Thầy nuôi luôn. Nếu cháu đòi Mẹ, nhớ Bà (hai mẹ con cùng ở với Bà Ngoại) thì Thầy sẽ tin cho con vào đem cháu về”. Trải qua 3 tháng hè, con không hề nhớ Mẹ, chẳng đòi về; thế là Mẹ con rút hồ sơ từ Nha Trang chuyển về để Thầy xin cho con đi học tại Trường Tiểu Học Xuân An, gần chùa. Lúc ấy Thầy lại tặng thơ cho hai mẹ con:


Mùa hè năm nay

Ti về Long Khánh

Ở chùa Xuân An

Suối Tre ấp nhỏ.

Tuy còn tấm bé

Đã biết chọn đường

Không muốn vấn vương

Theo đường thế tục.

Mẹ Ti thúc dục

Chọn đường cho Ti

Mẹ Ti so bì

Khi bằng tuổi ấy

Không hướng đạo sư

Nên phải lao người

Trong vòng khổ hải.

Mẹ Ti nghĩ lại

Tiếc nuối vô cùng

Cho nên phải dùng

Mọi lời thuyết phục

Ngoại Ti và Ti

Bây giờ là lúc

Phải hiểu rõ ràng

Con đường vinh quang

Chỉ về với Đạo.


Qua sự chăm sóc, giáo dưỡng thật đặc biệt và chu đáo của hai Thầy, ở chùa mới 6 tháng, con trở thành một chú Tiểu ngoan của chùa. Con vừa đi học, vừa hành điệu; vừa học kinh niệm chú vừa phụ hai Thầy lảy bắp hoặc lột chuối đem phơi. Thời hàn vi của Trúc Viên Lan Nhã, hai Thầy đã không quản ngại khó khổ, làm nhiều việc để tự lực cánh sinh mà hành đạo. Đây là thời gian hai Thầy đã dành rất nhiều công sức để chăm sóc, giáo dục, rèn giũa con nên người: Lúc ấy - mới lên 7 tuổi - con đã có thể tự hồi chung bảng và thỉnh khánh hầu Quá đường, một mình đi Tịnh độ, đi Cúng ngọ, đi Công phu chiều với tay chuông tay mõ nhịp nhàng, dứt khoát. Học ở trường thì chữ viết đẹp hơn. Những tiến bộ của con đã đem lại rất nhiều mừng vui cho Mẹ con. Nếu con ở nhà với Mẹ, với Bà, chắc gì ở tuổi này con được như thế! Một hôm, Thầy giúp con gửi thư cho Mẹ:



Thư Ti gửi Mẹ.



Mẹ yêu của con ơi!

Con kính lời thăm Mẹ

Thăm cả Chị Hai, (chị) Ba.

Đêm đêm con cầu nguyện

Mẹ trẻ mãi không già

Con biết Mẹ hằng nghĩ

Ấp ủ những thiết tha

Lo đường con đi tới

Mẹ đã định thật xa.

Tuổi con vừa lên bảy

Đã tìm cách xa nhà

Cho vào lò thử lửa

Nung nấu dẹp “Cái Ta”.

Trường đời là sân khấu

Diễn tuồng khổ Ta-bà

Con biết Mẹ vấp phải

Nên Mẹ mãi xót xa

Tiếc nuối thì đã muộn

Khoảng đời trước cho qua

Con vâng lời Mẹ bảo:

“Phải học tập xuất gia”.


Có một hôm, thời khóa Cúng ngọ của con đã làm xúc động một anh Bộ đội Cụ Hồ nhân đi dạo quanh vùng mình công tác, anh đến trước chùa và thả hồn theo lời kinh trưa của con dâng lên cúng Phật. Trong ngôi Phật điện trang nghiêm, giữa những tôn tượng uy nghi, trầm mặc mà sinh động, tất cả như đang lắng lòng theo dòng kinh trưa, chiếc mũ cối trên tay anh Bộ đội đã rơi độp xuống nền chánh điện lúc nào không hay. Anh cho biết: “Tôi rất xúc động, không ngờ một bé gái xíu xiu đã biết tụng rành kinh Phật với nhiều câu thần chú, đôi khi người lớn còn khó nhớ, khó học. Một mình em với chuông mõ trên hai tay, thật là tự nhiên…”. Khi nghe chuyện, Thầy cũng xúc động theo và Thầy lại cảm tác một bài thơ tứ tuyệt với âm chữ Hán:

Vãng cảnh thiền môn tự Xuân An

Đương thời ngọ Phật ngã bàng hoàng

Âm thanh vi diệu chi nhất tiểu

Sử ngã quy tâm đương lạc quan.


Rồi Thầy dịch bài này ra thơ Việt:



Lời kinh trưa



Chùa làng trưa thanh vắng

Chuông cúng ngọ vang vang

Ngôi Phật điện tôn kính

Lòng nghe phải bàng hoàng

Mũ tôi rời tay nắm

Tưởng như vào Lạc bang.

Ai biết dòng kinh trưa

Hòa chuông mõ rõ ràng

Êm đềm và trong lắng

Vang đều môi bé thơ.

Đối với con, thơ của Thầy mộc mạc nhưng ý nghĩa thật sâu lắng. Những bài thơ Thầy làm cho con, con đã thuộc lòng và còn nhớ mãi cho đến hôm nay. Nó là những nốt nhạc vui trên dòng kẻ 37 năm con làm người, và chắc chắn âm vang của nó sẽ mãi mãi còn lưu lại trong con trên suốt hành trình con theo bước chân Thầy tìm về quê cũ.

Học hết năm lớp Hai, con bị Bà Ngoại tìm cách đem về vì bà không chịu nổi sự nhớ nhung đứa cháu ngoại nhỏ nhất của bà, và theo bà: tuổi thơ mà cho ở chùa là điều tội nghiệp. (“Bà ngoại thương quý của con ơi! Ai không hiểu được lý tưởng phụng sự cao quý của người xuất gia mới là tội nghiệp đấy!!”). Nhưng nhờ Mẹ con mến Đạo, tuy đem con về Mẹ con vẫn thường cho con theo Mẹ đi lễ chùa, tụng kinh, sám hối; cho con gần gũi các bậc Minh sư (ba chị em con đều quy y Sư cụ Hồng Ân - thượng Viên hạ Minh - và được Sư cụ trao truyền 5 giới quý báu), tham gia các sinh hoạt Phật giáo, học tập Phật pháp, tham dự các khóa tu Chánh niệm… Nhờ vậy, hạt giống xuất gia trong con vẫn được tưới tẩm, con vẫn giữ được niềm tin và nuôi lớn lý tưởng của mình. Nối bước người chị cả của con xuất gia vào năm 1991 (chị là đệ tử của Cố Ni trưởng thượng Trí hạ Hải) đến năm 2001 con cũng lên đường theo tiếng gọi của khối óc và trái tim không biên giới. Khi được tin con xuất gia, Thầy hài lòng lắm, con đã không phụ lòng tin và sự giáo dưỡng của Thầy.

Bây giờ nghĩ lại, con thấy Thầy như một người thợ tạc tượng yêu nghề, là nghệ nhân sáng tác và chăm sóc sinh vật cảnh của mình. Giống như Thầy đã hết lòng nuôi dạy con ngày trước, sau này Thầy cũng đã nuôi dạy quý Sư chị, Sư em của con bằng tất cả tâm huyết của mình, Thầy trút hết tình thương vào những người đệ tử mà không hề mong ai đền đáp. Như tình thương của Người Mẹ dành cho con cái, chỉ biết cho đi mà không đòi lại bao giờ! Nuôi dạy đệ tử, Thầy luôn mong sao người xuất gia phải là những bậc Chúng Trung Tôn, làm sao cho đệ tử của mình xứng danh Thích Tử. Thầy như một nghệ nhân điêu khắc, để hết tâm ý vào những pho tượng mình đang làm, cố tạo nên những tác phẩm để đời, đem lại nhiều lợi ích cho người chiêm ngưỡng.


Kính lạy Giác linh Thầy,


Nhân duyên là quy luật, nhân duyên đã đưa đẩy con không được ở cạnh Thầy là chuyện tự nhiên. Điều đáng nói là hôm nay con vẫn sống đời Tu sĩ như lòng Thầy mong muốn; và sự cống hiến của con cho đời, cho nhiều người được nhiều niềm vui và hạnh phúc là phẩm vật cúng dường của con kính dâng lên Giác linh Thầy trong mùa Vu Lan năm nay và mãi mãi. Con nguyện sẽ tiếp nối hoài bão cao đẹp của Thầy…

Một lần nữa, con xin thành kinh hướng về Giác linh Thầy dâng hương và đảnh lễ, người Thầy đầu tiên trong cuộc đời xuất gia của con.

Nam mô Chứng Minh Sư Bồ-tát.


Bé Ti ngày xưa của Thầy