Vấn đề cảm ứng có thực hay không? l

Thứ ba, 28 Tháng 10 2008 09:59 Diêụ Âm link :http://www.vienduc.de/vi/index.php?o...hiep&Itemid=71

Hỏi :Vấn đề cảm ứng có thực hay không?

Trả lời:
Sự cảm ứng chắc chắn có. Nhưng có lúc thực, có lúc giả. Đây là điều chúng ta cần bàn tới.

"Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng". Quang minh của Phật ở khắp mọi nơi, ở ngay trong nhà của mình, ở sát bên cạnh mình. Người thành tâm cầu nguyện thì tự nhiên đều được cảm ứng.

Hữu cầu tức là: CẢM, tất ứng tức là: ỨNG. Như vậy sự cảm ứng sao lại không có!

Những chứng minh cụ thể. Ví dụ như những người trước phút lâm chung, được hộ niệm, bạn đồng tu luôn luôn nhắc nhở người sắp xả bỏ báo thân phát tâm niệm A-di-đà Phật nguyện cầu vãng sanh về Tây-phương. 10 người thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh, lại được hộ niệm đúng pháp thì 9 người được vãng sanh, tướng hảo xuất hiện bất khả tư nghì.

Được vãng sanh là được CẢM ỨNG đạo giao.

Nếu không có cảm ứng đạo giao thì thời này làm sao có được 1 người vãng sanh thoát vòng sanh tử.

Ngài Thiện Đạo đại sư đời nhà Đường bên Trung Quốc nói, niệm Phật nếu không được nhất tâm bất loạn thì khi lâm chung phải cần đến sự hộ niệm. Niệm Phật và được hộ niệm thì 100 người tu 100 người đắc, 1000 người tu 1000 người được đi, gọi là: "Muôn người tu muôn người chứng".

"Tu" ở đây là niệm Phật; "Chứng" có nghĩa là vãng sanh, vì Ngài đang nói về pháp môn Niệm Phật. Sự chứng đắc này không phải là tự tu tự chứng, mà người niệm Phật thành tâm tha thiết cầu vãng sanh, được cảm ứng đến Phật lực gia trì, cảm ứng với 48 đại nguyện của đức A-di-đà Phật mà được Phật tiếp độ. Có cầu tất ứng, thành tâm cầu nguyện thì được linh ứng, Phật không bỏ sót một người nào hết.

Phật dạy như thế, chư Tổ cũng dạy như thế, chúng sanh nên y giáo phụng hành. Trên thực tế cũng đã có rất nhiều chứng minh cụ thể. Những người niệm Phật, được hộ niệm cẩn thận, 10 người ra đi, có đến 9 người vãng sanh. Xác xuất này quá cao. Trong thời này, có tu cách nào khác mà thành tựu được như vậy đâu?

Nhưng tại sao trong 10 người niệm Phật, vẫn còn có 1 người bị lọt lại trong lục đạo, nghĩa là bị chết, không được vãng sanh?

Vì, một là, bản thân người đó không tin tưởng pháp môn niệm Phật, không chuyên tâm niệm Phật, còn tham chấp chuyện thế gian, còn luyến lưu lục đạo, còn ham muốn sự nghiệp, còn mơ đến công danh, còn muốn đi lòng vòng trong sanh tử, còn muốn chịu cảnh luân hồi... chứ không thấy sự vãng sanh là quí. Họ là người không quyết lòng buông xả để niệm Phật cầu vãng sanh! Nếu ai cũng vướng những điều này, thì cả 10 người đều bị chết, vô số người không được vãng sanh chứ không phải chỉ có 1 người!

Tu hành mà tạp loạn quá cũng khó đưọc vãng sanh. Trong ba điều không nên (gọi là kỵ) của pháp niệm Phật vãng sanh là: nghi ngờ, tạp nhạp, gián đoạn, thì tu tạp nhạp tạo nên sự trở ngại lớn nhất làm mất phần vãng sanh. Tu nhiều pháp môn quá thuộc về Giáo-hạ, chỉ dành cho người thượng căn hoặc trung-thượng căn mới làm nổi. Người hạ căn trong thời này rất khó thành tựu.

Hai là, vì người thân trong gia đình quá tham chấp danh vọng hão huyền, cứ chạy theo tập tục sai lầm của thế gian, không tin tưởng Phật pháp, không coi trọng sự hộ niệm, không biết vãng sanh là gì, không muốn người thân của mình vãng sanh, sát sanh hại vật để cúng tế, đãi đằng. Nói chung, không hiểu Phật pháp, không chịu hoặc chống phá việc hộ niệm vãng sanh, v.v...

Ba là, vọng tưởng nhiều lại không thấu hiểu đạo lý, mập mờ đường giác ngộ, bị oan gia trái chủ lợi dụng phá hoại, gạt gẫm mà bị lạc đường..

Bốn là, vì không cầu Phật lực gia trì, chỉ tự lực phá nghiệp (mà thực ra là phá nghiệp không nổi). Vì thế, bị nghiệp báo hiện hành bức khổ chịu đựng không nổi mà bị loạn tâm. Loạn thì mất tịnh, mất tịnh thì hôn mê, bất giác, chắc chắn phải theo cảnh loạn ác mà chịu nạn.

Chính vì vậy mà không được vãng sanh

Quí đạo hữu nên nhớ rằng, tâm của chư Phật đại từ đại bi, nguyện của chư Phật rộng lớn như thái không, gọi là "Tâm bao thái hư, lượng châu sa giới", Quí Ngài muốn cứu độ tất cả chúng sanh, không bỏ một người. Cho nên cũng có câu, "Phật thị môn trung, bất xả nhất nhân". Bất xả nhất nhân là không bỏ một người nào. Trong kinh Phật nói, dẫu cho một người tội chướng sâu nặng, Quí Ngài cũng không bỏ. Chỉ cần thành tâm sám hối rồi niệm Phật vẫn được cứu độ. Chính vì thế mà niệm Phật rất dễ được vãng sanh. Đáng tiếc, con người không nghe lời Phật nên mới phải bị nạn! Tâm Phật luôn luôn là tịch tịnh, có cảm thì tự nhiên ứng, giống cái chuông, hễ có đánh thì tự nhiên phát thành tiếng. Không có CẢM, Phật không có ỨNG. Tất cả đều do tâm tạo. Cảm ứng đạo
giao cũng do chính tâm mình khởi CẢM trước.

Như vậy, người "niệm Phật" mà mất phần vãng sanh là tại mình, chứ không phải tại Phật!

Điểm chính yếu vẫn là vì niềm tin quá cạn cợt. Niềm tin cạn cợt chính vì chưa đủ thiện căn. Niềm tin thuộc về thiện căn. Người còn nghi ngờ lời Phật, nghi ngờ câu niệm A-di-đà Phật thuộc là người thiếu thiện căn! Dù cho hình tướng có như thế nào vẫn là thiếu thiện căn! Còn mở tâm niệm câu Phật hiệu thuộc về phước đức. Người không chịu niệm Phật chính vì cái phước báu không khéo vun trồng trong quá khứ. Thiếu thiện căn, thiếu phước đức, thì nghiệp sanh tử nặng, nó xui khiến họ không tin, không thích niệm Phật, họ rất hững hờ với cơ hội thoát ly tam giới, vĩnh đoạn sanh tử, một đời thành Phật này.

Nghi ngờ lời Phật, là một trong 6 thứ căn bản phiền não (tham-sân-si-mạn-nghi-ác kiến) làm cho họ mất phần giác ngộ. Một khi xa lìa kinh Phật thì chắc chắn tham đắm những tư tưởng hão huyền, mê say những thứ thế trí biện thông, ưa nói huyền nói diệu, thích khoe khoang những thứ triết lý vô thực để sau cùng hưởng lấy những cảnh hão huyền, vô thường, đọa lạc!

Tưởng cũng nên nhắc điều này, rất nhiều người cứ lầm tưởng rằng, ngưòi triết lý hay, lý luận giỏi là người ngộ đạo. Đây là ý nghĩ vô cùng sai lầm! Ngộ đạo là người biết đường một đời này thành đạo, chứ đâu phải là người nói hay! Ngài Vĩnh Minh là một đại quốc sư, đại Thiền sư đã chứng đắc, "Minh tâm kiến tánh" đời nhà Tống, nói rằng, ... người tu niệm Phật (cầu sanh tịnh độ) thì vạn người tu vạn người được vãng sanh. Vãng sanh thì gặp được A-di-đà Phật, gặp được A-di-đà Phật rồi thì lo gì không khai ngộ! Còn không niệm Phật, dù tu có giỏi, có chứng đắc (như Ngài), nhưng lúc lâm
chung, chỉ cần khởi một niệm đắn đo, do dự, thì ấm cảnh liền hiện tiền, tức thì nó lôi mình theo nẻo luân hồi sanh tử! Một đại Thiền sư mà vẫn ngộ đạo bằng câu A-di-đà Phật.

Như vậy, một bà cụ già hiền lành, thành tâm niệm Phật, tha thiết cầu vãng sanh, mới chính là người giác ngộ. Vì sao vậy? Vì chính bà cụ này chắc chắn sẽ vãng sanh, gặp A-di-đà Phật, viên mãn Phật đạo trong một đời này.

Còn người giảng giải hay, ưa lý luận cao siêu, nhiều khi có thể chỉ vì có năng khiếu ăn nói, hoặc là, cái tự điển nói, vọng tưởng nói, tâm lý nói, tình thức nói... chứ chưa chắc là thực tâm nói. Nói hay nhưng làm không được thì bị Lão Tử chê là "Ngôn giả bất tri"; Nho gia nói, "Tri hành bất nhất"; còn Phật thì nói, "Giải hành bất tương ưng". Dị âm đồng nghĩa! Có nhiều khi nói hay nhưng hành động trái ngược thì quả thật là tệ hại và tạo nên hậu quả nghịch! Ví dụ, giảng về "Tùy hỷ công đức", mà thấy ai làm một điều gì, bất kể tốt hay xấu, cũng tìm cách chê bai, hạ bệ. Người không phải chân tu thường thể hiện bản chất này. HT Tịnh Không nói, đây là thứ tập khí căn bản của chúng sanh, nó chướng ngại rất lớn cho đường vãng sanh của họ. Ngài Ấn Quang nói, đây là hạng người hẹp hòi, tiểu nhơn, không tốt! Người biết tu hành, đang niệm Phật cầu vãng sanh cần phải chú ý tránh xa điều này.

Còn người có đủ thiện căn phước đức, thì cơ duyên gặp câu Phật hiệu, họ sẽ thành tâm niệm Phật quyết cầu vãng sanh. Nếu người trong gia đình cũng tin tưởng, quyết lòng hộ niệm cho người thân, thì sự vãng sanh hầu như được chắc chắn. Đồng lòng, đồng nguyện, một hướng như vậy, gọi là "Hiển Cảm". Những buổi hộ niệm có khai thị, có hướng dẫn, có nhiếp tâm niệm Phật, v.v... tất cả mọi người đều chí thành khẩn thiết, thì đây gọi là Hiển Cảm. Có hiển cảm thì rất dễ được "Hiển Ứng". Hiển Ứng là sự gia trì của Phật Bồ tát hiển hiện rõ rệt, ai cũng có thể thấy được.

Thường thường trong các cuộc hộ niệm vãng sanh, chư vị đồng tu dễ chứng kiến được những sự hiển ứng này. Sự hiển ứng xuất hiện dưới rất nhiều dạng thức khác nhau. Vì dụ: Một người bệnh ung thư, đáng lẽ phải chịu đau đớn dữ dội, nhưng khi niệm Phật thì tự nhiên không còn đau đớn nữa. Cụ Lưu Lầu ở Canada vừa mới vãng sanh ngày 15/10/2009 là một ví dụ cụ thể. Ngày 11/9/2009, khi còn nằm trong bệnh viện, bác sĩ báo cho gia đình biết là cụ sắp chết. Cụ bị đau đớn vô cùng. Hễ hết than đau thì liền mê man bất tỉnh (vì tác dụng của thuốc morphine). Nhưng khi xuất viện đem về nhà để hộ niệm, chúng tôi yêu cầu giảm dùng thuốc morphine đến mức tối thiểu, thì ngay đêm đầu tiên niệm Phật, cụ đã tỉnh lại liền. Sau khi bị ói ra một chút, cụ ăn luôn 2 tô cháo và không cảm thấy đau đớn nhiều nữa. Sau đó, Cụ tiếp tục tỉnh táo để niệm Phật, vui vẻ nói chuyện, dặn dò con cháu niệm Phật, dạy người nhà làm thiện làm lành, v.v... Những ngày sau Cụ còn đi lại, thỉnh thoảng đùa vui và con cháu quây quần chung quanh để nghe cụ nói chuyện. Cụ thường tự phát nguyện rằng, cụ quyết lòng vãng sanh, không để lạc đường, vãng sanh xong rồi sẽ về cứu độ tất cả những người đã đến giúp cụ vãng sanh. Có khi cụ còn bảo con cháu dẫn đi dạo vườn để ngắm cảnh. (Nên nhớ đây là tự nhiên được giảm đau chứ không phải là dùng thuốc morphine nữa đâu. Dùng nhiều chất morphine sẽ bị mê man bất tỉnh, một trạng thái tối kỵ cho người muốn vãng sanh).

Có nhiều người vãng sanh, trong ngày vãng sanh có nhiều hoa đồng loạt nở rộ ra, ví dụ như: Cụ Lai Thị Mãnh, cụ Trịnh Kim Tuấn, cụ Nguyễn Minh Công... Có người được chim tụ về (cụ Trịnh kim Tuấn). Có người có hương thơm, có ánh sáng, có ánh rán vàng trên không trung, nước uống tự nhiên biến vị thành ngọt ngào, v.v... Nhiều lắm. Sự hiển ứng xuất hiện bất khả tư nghì, kể không hết...

Ngoài hiển cảm, hiển ứng, còn có "Minh Cảm, Minh Ứng". Minh Cảm là âm thầm cầu nguyện, Minh Ứng là sự âm thầm gia trì, điều này phải chú ý mới nhận ra được. (Vì thư đã khá dài, xin luớt qua!).

Nói chung, sự cảm ứng chắc chắn có. Vì có cảm ứng nên người niệm Phật mới được vãng sanh. Nếu không có cảm ứng thì không thể vãng sanh được. Vì sao vậy? Vì thời này, chúng sanh nghiệp nặng, chướng sâu, rất khó tự giải thoát. Nếu không nhờ đến Phật lực cứu độ thì vĩnh viễn không có một người đắc đạo giải thoát. Hầu hết người được vãng sanh trong thời này không phải là do tự tu hành chứng đắc mà chính là lòng thành tâm cầu nguyện mà cảm đến Phật ứng hiện tiếp dẫn về Tây-phương Cực-lạc.

Tổ Ấn Quang nói, vãng sanh không phải là chứng đắc, mà do lòng chí thành chí kính cầu nguyện mới CẢM đến Phật mà được tiếp dẫn vãng sanh. Cảm đến Phật tức là được CẢM
ỨNG.

Người tu hành mà không niệm Phật, không có tâm chí thành cầu nguyện vãng sanh, gọi là tự tu tự chứng, nếu không phải là bậc thượng căn thượng trí, thì chắc chắn không ai có thể phá trừ được nghiệp hoặc. Chính vì thế, sau cùng họ phải bị theo nghiệp thọ báo, không có thể thoát ly tam giới. Nghĩa là, phải kẹt trong sanh tử luân hồi. Hơn nữa, người căn tánh hạ liệt mà quyết tự tu chứng, không cần đến sự cảm ứng của Phật tiếp dẫn vãng sanh, đây chính là một thứ tập khí phát sinh từ bản chất ngã mạn. Tâm ngã mạn này đoạn mất phần cảm ứng, không được hưởng cái phước phần "Đới nghiệp vãng sanh"! Trong nhiều giảng ký, HT Tịnh Không nói, bây giờ thì họ nói hay lắm, nhưng chúng ta biết họ phá không được nghiệp hoặc. Còn nghiệp thì phải tùng nghiệp thọ báo, chắc chắn họ sẽ bị chết và bị lọt lại trong lục đạo luân hồi. Còn chúng ta, vì biết niệm Phật cầu vãng sanh, ta được Cảm Ứng đến Phật lực gia trì mà được vãng sanh Tịnh-độ. Vãng sanh xong ta sẽ thành Phật, thành Phật rồi về cứu họ.

Niệm Phật và cẩn thận sự hộ niệm thì được vãng sanh vững vàng, dễ dàng. Rất nhiều hiện tượng vãng sanh đã xảy ra khắp nơi. Ở VN trong mấy năm gần đây, hàng trăm cuộc vãng sanh hiển hiện bất khả tư nghì, sự thật này đến nay đã quá rõ ràng, khỏi cần phải tuyên truyền nữa. Thành quả này chính là nhờ Niệm Phật và được Hộ niệm vậy.

Còn niệm Phật mà không có hộ niệm, xác xuất vãng sanh thật sự còn quá thấp! Vì sao vậy? Như đã nói bên trên, chúng sanh trong thời này căn cơ thấp, nghiệp chướng nặng, tâm lực quá yếu, không đủ sức đạt đến cảnh giới "Niệm Phật tam muội hay Nhất tâm bất loạn". Ngược lại, vọng tưởng nhiều, ma chướng quá mạnh, oán thân tráí chủ nhiều, tất cả trở lực này sẽ dồn lại công phá lúc lâm chung, làm người ra đi vượt qua không nổi chướng ngại, nên vẫn có thể bị nạn. Nếu có được hộ niệm, thì nhờ lực hộ niệm của đại chúng giúp họ dễ dàng vượt qua chướng nạn và an toàn vãng sanh.

Cũng xin xác định rõ điều này, hộ niệm là niệm Phật hỗ trợ cho người sắp xả bỏ báo thân biết rõ đường về Tây-phương Cực-lạc, chứ không phải niệm Phật để cho người bệnh chết, rất nhiều người đã lầm lẫn như vậy! Thực ra, hộ niệm là giúp cho người bệnh an toàn, an toàn vãng sanh, hoặc an toàn hết bệnh. Nếu phần số đã mãn thì được an toàn vãng sanh, tránh các cạm bẫy hiểm nghèo, không bị lạc vào các đường xấu ác. Nếu phần số chưa hết thì nhờ tín nguyện hạnh đầy đủ mà tự nhiên bệnh tình sẽ thuyên giảm, nhiều khi bình phục luôn. Đây là sự thực mà chư Tổ Sư thường xuyên nhắc nhở.

Một ví dụ rất điển hình vừa mới xảy ngay trong tháng 10/2008 này, ở Đức (Germany) có một sự Cảm Ứng đăc biệt, một người bị ung thư, 42 tuổi, đã đến giai đoạn chót, chờ chết. Nhờ phát tâm niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, chỉ trong vòng vài tháng mà bệnh ung thư đã hoàn toàn tự biến mất. Bác sĩ DO THI VAN HUONG, người chuyên trị về bệnh ung thư ở Đức, và cũng là người trong gia đình của người bị ung thư này, đã chứng kiến sự nhiệm mầu của pháp niệm Phật, nên quyết định sẽ đưa vấn đề niệm Phật và hộ niệm lên Hội Đồng Y Khoa Đức. Công việc này đang được bác sĩ VAN HUONG, hội ý với nhiều bác sĩ người Đức khác, để hợp sức thực hiện dự án này.

Đây là một tin rất hay, trong mấy ngày qua chúng tôi có gởi đến chư vị tin này. Cầu chư Phật Bồ-tát gia trì cho bác sĩ VAN HUONG thành công, đưa Phật học vào lòng người Âu châu, cứu độ chúng sanh.

(Chư đạo hữu nào muốn biết rõ thêm về sự phát tâm của bác sĩ VAN HUONG, xin liên lạc với Diệu Âm, Diệu Âm sẽ gởi chính lời thư phát tâm của Bác sĩ VAN HUONG cho quí vị xem qua. Và cũng xin nhắn nhủ rằng, người chí thành niệm Phật đã được cảm ứng là điều rất tốt. Được cảm ứng rồi thì xin quí đạo hữu hãy giữ vững lòng tin, quyết tâm thành khẩn niệm Phật, tha thiết cầu cuối đời được vãng sanh bất thối thành Phật, thì đạo nghiệp của mình mới hoàn thành. Đừng nên mãn nguyện với cảm ứng này mà sanh lòng tự mãn, sanh lòng tự mãn rất dễ bị thối tâm, làm mất sự lợi ích về sau).

Như vậy, sự cảm ứng đạo giao chắc chắn có thực, xin chư vị đừng nghi ngờ.

Tuy nhiên, (xin nhấn mạnh, rất mạnh vào hai chữ TUY NHIÊN này), chư vị cũng cần chú ý đến một điều: Tâm chơn ứng cảnh chơn, tâm vọng ứng cảnh vọng. Nếu tâm ta thực sự chân thành thì cảm ứng sự chân chánh. Nếu tâm ta không chân thành thì cảm ứng đến quả báo tà vạy. Xin hãy tự hỏi lại rằng, tâm ta có thật sự chân thành hay không?

Câu này thực sự rất khó trả lời cho xác đáng! Vì sao vậy? Vì ai cũng nghĩ mình chơn thành, ít có ai nghĩ rằng mình đang vọng tưởng. Trong thực tế, tâm vọng thì nhiều vô số kể, còn tâm chơn thì rất hiếm có, hoặc có mà không bền! Cái khổ nạn vẫn còn nhiều chính vì ở chỗ này đây!

Ví dụ, có một vị kể rằng, tôi thường thấy Phật, thường được Bồ Tát Quán Thế Âm ứng mộng, thường được chư bề Trên khải thị, v.v... Hỏi rằng việc này có đúng không?

Trong nhiều giảng ký, HT Tịnh Không có nói rằng, người thành tâm niệm Phật, chư Phật, Bồ-tát đôi khi cũng phương tiện ứng hiện để khuyến tấn. Đây là sự thật. Nhưng một vài lần thì được, chứ còn ứng đều đều, thường xuyên thì coi chừng chính người đó có vấn đề...!

Thường những người mới phát hiện ra một chân lý, mới ngộ ra được đạo pháp, họ phát tâm rất mạnh. Chính cái sơ phát tâm mạnh mẽ này tạo ra những sự cảm ứng mạnh mẽ. Nhưng đáng tiếc, phát tâm thì cao, nhưng định lực không cao, lý đạo chưa vững, đối với những cảm ứng tốt đẹp họ tham chấp vào. Đã tham chấp thì tâm vọng, tâm vọng thì cảm ứng biến thành vọng. Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh. Tâm chơn sanh cảnh chơn, tâm vọng sanh cảnh vọng! Khi tâm đã vọng tưởng, thì cảnh vọng đã thay cho cảnh chơn, nhưng vì tâm đã vọng nên họ không còn sáng suốt nhận ra sự giả vọng, vẫn cứ tưởng rằng chơn. Đây là điều đáng tiếc!

HT Tịnh Không thường dạy rằng, dù sao mình cũng cần giữ tâm thanh tịnh mới an toàn tốt đẹp. Cho nên chúng ta cần giữ tâm thành thực, tận tụy mà làm đạo. Chú ý kiểm soát đừng để vấn đề danh văn lợi dưỡng chen vào mà biến chất, không tốt! Nói cho dễ hiểu hơn, hãy giữ tâm hồn bình thản, an nhiên, thoải mái, vui vẻ, hiền hòa, khiêm nhường, coi mọi chuyện nhẹ nhàng, tất cả đều vô tư lự... đây vẫn là điều căn bản của người biết tu hành.

Phật dạy, "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Sự cảm ứng của mình khi chân thành thì linh hiển, chân chính. Khi tham đắm thì hư huyển. Chân chánh (hay gọi là chân thật cũng được) hoặc hư huyễn nó biến đổi trong từng một sát na. Sát na trước, lòng chí thành chí kính, sự cảm ứng là thật. Sát na sau, tâm vừa khởi niệm tự hào, vui mừng khấp khểnh, thì lập tức biến thành vọng rồi. Vọng là hư vọng, hư vọng vì tâm mình bị loạn. Rõ ràng từ một cảnh chơn biến thành cảnh vọng chỉ trong vòng một niệm. Phật dạy, "Nhất thiết pháp như mộng huyễn bào ảnh, như lộ diệc như điện", là chỉ cho tâm vô thường, cảnh vô thường vậy.

Người giữ tâm thanh tịnh, có định lực thì không tham chấp vào cảnh hư huyễn, thì cảm ứng tốt hay không tốt đối với họ đâu còn có nghĩa gì nữa! Từ đó, khi cảm ứng được một điều tốt họ chắc chắn được thọ đắc tốt, cảm đến điều xấu họ cũng cảm đắc tốt luôn. Vì sao vậy? Vì tâm họ thanh tịnh, tốt hay xấu đối với họ cũng là nhẹ nhàng, vô sự!

Còn người không có định tâm thì thường buồn vui bất chợt, thương ghét vô thường, lòng chân thành, thanh tịnh ban đầu dễ biến thành tham chấp, hiếu kỳ, vọng cầu, v.v.... Sự biến chuyển này quá nhanh, quá tế vi, nhiều lúc chính họ không hay. Chính vì vậy, từ cái tâm chơn dễ biến thành cái mê vọng! Những người tu hành trước thì có được nhiều cảm ứng khá tốt(!), nhưng sau lại chuyển thành không tốt, nguyên nhân chính là vì tâm còn lao chao quá, hiếu kỳ quá, chưa đủ sức định vậy.

Ngài Ấn Quang dạy, tu hành luôn luôn phải tự nghĩ rằng mình công phu còn yếu, coi mình là phàm phu. Ngài dạy như vậy để chúng sanh tinh tấn lo tu hành, mới có hy vọng thành đạo. Còn người khoe mình đã chứng đắc thì khó tránh khỏi nạn tai về sau!

Ấn Tổ, là Đại Thế Chí bồ-tát tái thế, nhưng Ngài chưa từng tuyên bố mình đắc đạo. Ngược lại, Ngài luôn luôn tự nhận mình nghiệp nặng để làm gương cho chúng sanh. Ấy thế, trong đời này, có rất nhiều người lại dám tự khoe rằng mình đã đắc đạo, đã minh tâm thấy tánh, đã được niệm Phật nhất tâm bất loạn, đã được Phật thọ ký rồi, dám mạnh dạn nói ra những cảnh giới bất bình thường!!!

Trong năm 2007, khi về VN có một vài người tới thăm tôi và họ tự giới thiệu rằng chính họ đã chứng đắc rồi, là người đã vãng sanh rồi, họ còn khoe rằng sư phụ của họ ban đêm thì về Tây phương Cực lạc nghỉ, sáng xuống trần cứu độ chúng sanh. Họ hỏi tôi:
- Anh Diệu Âm niệm Phật đã chứng đắc tới đâu rồi?
Tôi thành thật nói, tôi chưa chứng đắc được gì cả. Câu trả lời này làm cho họ thất vọng ê chề! Họ nghĩ rằng tôi đã chứng đắc cao lắm, và yêu cầu tôi nói sự chứng đắc của tôi xem thử có bằng họ không. Nhưng họ đã hiểu lầm và tôi cũng đành xin lỗi!
Thôi, hy vọng hay thất vọng là việc riêng của họ, tôi chẳng dám nói sai sự thật...

Cũng xin nhắc lại điều này, trong năm 2007, có một tờ báo ở VN đã đăng một bài viết nói về cảnh giới "Nhất tâm bất loạn", người viết lấy bút hiệu là Diệu Âm. Nhiều người đọc được tưởng rằng là tôi viết, điện thoại tới chúc mừng. Khi nghe đến tôi rất đỗi ngỡ ngàng và đã nhiều lần lên tiếng đính chính việc này. Xin thưa rằng, người viết đó không phải tôi. Hôm nay, nhân bàn về sự cảm ứng, tôi khẳng định thêm một lần nữa rằng chính tôi chưa bao giờ chứng đắc được cảnh giới Nhất tâm bất loạn, chưa bao giờ dám diễn tả điều nhất tâm bất loạn với ai.

Xin chư vị nhớ cho, người thế gian đồng tên đồng hiệu là chuyện thường. Diệu Âm (Úc châu) vẫn còn nguyên là kẻ phàm phu nghiệp chướng sâu nặng! Xin chớ nhầm lẫn!

"Nhất tâm bất loạn" là danh từ của Tịnh-tông, cảnh giới chứng đắc này tương đương với "Minh tâm kiến tánh" của Tông-môn, "Đại triệt đại ngộ" của Giáo-hạ, là sự chứng đắc của các vị không những phá được kiến-tư nghiệp hoặc, phá được trần-sa hoặc mà còn phá được một phẩm Vô-minh chứng một phần Pháp thân, thành bậc đại thừa Bồ tát Sơ Trụ, bậc Pháp-thân Đại-sĩ ở cảnh giới Hoa Nghiêm chứ đâu phải thường. Những người chứng đắc này, thực tế đối với họ vạn pháp đã giai không rồi. Nghĩa là, nói cho dễ hiểu, họ có thể đi xuyên qua bức tường dễ dàng. Có khả năng này hay không, người cho mình đã chứng đắc hãy tự kiểm lấy đi!

Như vậy, đã gọi là "Nhất tâm bất loạn", đã "Minh tâm kiến tánh", v.v... thì chắc phải biết rõ rằng, "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Đã hư vọng rồi mà còn dám khoe ra, kể ra những cảnh chứng đắc nữa sao!?

Thành tâm nêu lên vấn đề này, mong chư vị bạn hữu đồng tu gần xa, hãy cố gắng tập tánh khiêm nhường, đừng nên hiếu kỳ mà lỡ gặp điều khó khăn về sau mà bị trở ngại, không tốt!

Ấn Tổ cảnh cáo rằng người thời nay tu hành thường bị trở ngại vì tánh hiếu kỳ. Tu hành có hạ thủ công phu, có được thành tựu thì tốt. Nhưng cần chú ý, nhiều người vừa đạt được một điều gì hơi lạ thì vội vã khoe ra, nói khuếch đại đến 100 lần, đến 1000 lần nhiều hơn. Ngài Tịnh Không nói, định lực của quí vị đã bị phá tan rồi. Ấn Tổ nói, tội này lớn hơn sát đạo dâm vọng đến trăm đến ngàn lần, vì nó nhiễu loạn lòng người, (nhất là người sơ cơ, hiếu kỳ), có thể phá tan Phật pháp. Ngài nói tiếp, nếu không chịu khiêm hạ, cứ tham đắm vào đó, đến lúc nặng quá rồi, dẫu chư Phật 10
phương xuống cứu cũng không nổi!

Lời Tổ căn dặn đã quá rõ ràng, xin chư vị lưu tâm nhớ lấy.

Cầu nguyện tất cả đều giữ đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh, thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh. Cầu nguyện tất cả hết báo thân này cùng được cảm ứng đạo giao, đều được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc.

Diệu Âm (25/10/2008)