kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Ðề tài: cõi Tịnh độ theo kinh Duy Ma Cật

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #1

    Mặc định cõi Tịnh độ theo kinh Duy Ma Cật

    Khi nói về cõi Tịnh độ, kinh Duy Ma Cật cũng có dạy rằng:

    Các Bồ-tát Chúng Hương hỏi: Bồ-tát ở thế giới Ta bà thực hành những pháp gì không bị thương tổn, không dính mắc để có thể sanh sang ở tịnh độ. Ông Duy Ma Cật đáp: Bồ-tát ở cõi này thành tựu được tám pháp thì không còn lầm lỗi và được sanh về cõi Tịnh độ: 1)Làm lợi ích chúng sinh mà không mong cầu đền đáp (vô cầu) . Thi ân bất cầu báo nghĩa là làm ơn mà không cầu đền ơn đáp nghĩa hay cho người vật gì mà không tiếc nuối.

    2)Thay tất cả chúng sinh, gánh chịu những thiệt thòi khổ não (từ bi). Thông thường khi con mình bị đau bệnh hay chết chóc thì cha mẹ thường hay than thở muốn gánh chịu nổi khổ đau của con mình. Cái tâm này chính là tâm Bồ-tát khi thấy chúng sinh đau khổ, thiệt thòi. Đây là việc khó làm mà làm được mới gọi là Bồ-tát.

    3)Bao nhiêu công đức mình làm đều ban hết cho tất cả chúng sinh (hỉ, xả, lợi tha). Ngay cả việc tu hành, gây dựng công đức thì Bồ-tát cũng cho hết tất cả chúng sinh. Gầy dựng công đức là việc khó làm mà có rồi lại đem cho hết là việc rất khó làm vì thế Bồ-tát mới thong dong tự tại là như vậy.

    4)Dưới khiêm nhường chúng sinh, trên cung kính Bồ-tát. Cứ sống rất khiêm tốn, rất tầm thường miển sao mình giữ được phẩm chất đạo đức của con người thì sẽ không có tự ti hay tự phụ mà rất bình đẳng đối với chúng sinh. Cung kính Bồ-tát không có nghĩa là vái lạy để cầu xin điều nầy điều nọ. Mà cung kính là tán thán việc làm lợi ích cho chúng sinh và nguyện sẽ đi vào con đường mà Bồ-tát đã và đang làm.

    5)Cầu học những điều chưa biết, không nghi ngờ. Phật pháp có cạn có sâu vì căn cơ chúng sinh cao thấp không đều cho nên rất nhiều kinh điển liễu nghĩa thượng thừa thì người sơ cơ khó thấu hiểu. Không hiểu không có nghĩa là kinh điển nói sai mà khả năng thu nhận của mình còn thấp. Ngày xưa khi Phật nói Kinh Pháp Hoa thì có trên năm ngàn đệ tử bỏ đi vì không đồng ý với lời Phật dạy.

    6)Không chống trái với hàng Thanh văn (không khinh chê người tu kém mà phải dùng phương tiện hay để dẫn dắt họ tiến lên). Toàn bộ triết lý Đại thừa không ngoài mục đích khuyến khích hàng Thanh văn tiến tu mà hoàn thành Phật đạo chớ đừng tự mãn ở địa vị A La Hán. Nói một cách tổng quát là Bồ-tát luôn khuyến khích chúng sinh tiếp tục tu học để phát triển trí tuệ mà tự giải thoát cho mình chớ đừng ham vui ở những cảnh giả tạm của thế gian.

    7)Không ganh ghét tật đố, không khoe mình chê người. Đây là muốn nhắc nhở chúng sinh phá chấp ngã, chấp pháp để mở rộng tâm Bồ-đề.
    8)Thường xét lỗi mình, không nói đến lỗi của người, hằng nhất tâm cầu công đức.
    Ngày xưa Lục Tổ Huệ Năng cũng nói rằng:”Nếu là người tu đạo chân thật thì không thấy lỗi lầm của người khác trong thế gian”. Cái khó trong thế gian là lúc nào con người cũng thấy lỗi của người mà không nhìn lại lỗi của mình. Luật nhân quả đã khẳng định là cho dù người khác có làm lỗi lầm gì chăng nửa thì chính họ phải nhận chịu quả nghiệp sau nầy. Nhân quả của người khác thì chúng ta không thể nhận chịu thay thế cho họ mà quan trọng nhất là chú ý đến nhân quả của mình. Không thấy lỗi của người mà luôn xét lỗi của mình để tu tâm dưỡng tánh thì công đức mới được vun bồi.

    Nếu Bồ-tát thực hành đứng đắn tám phương thức ở trên hay nói một cách rộng rãi là cho tất cả những ai muốn tu theo hạnh Bồ-tát Đại thừa thì chính họ đã phá được chấp ngã, chấp pháp, phát triển tâm từ bi hỉ xả mà làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Không còn tánh tham tật đố, dưới cứu giúp chúng sinh trên mong viên thành Phật đạo. Không tán kỷ hủy tha, khen mình chê người. Chỉ nhìn lỗi mình mà không thấy lỗi người. Làm mà không chấp việc mình làm và nếu có được chút ít công đức gì thì ban hết cho chúng sinh cùng thành Phật đạo.

    Khi thành tựu tám pháp ở trên thì Bồ-tát được sanh về cõi Tịnh độ, nhưng thật ra nếu Bồ-tát hay bất cứ chúng sinh nào thành tựu tám pháp ở trên thì chính họ đã được giải thoát rồi. Chính họ đang sống trong cõi Tịnh độ thế gian rồi chứ đâu cần phải sanh về cõi nào nữa. Đây chính là thâm ý của kinh vậy. Ngược lại nếu chúng sinh còn chấp ngã, chấp pháp, tánh tham tật đố không chừa thì cho dù có vào được cõi Tịnh độ thì cũng vẫn sống trong điên đảo khổ đau như thường. Nhắc lại muốn được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà thì chúng sinh phải niệm Phật đến chỗ Nhất Tâm Bất Loạn thì mới được Phật đến rước. Nhất tâm là tâm không còn vọng tưởng, không còn tạp niệm, tâm rỗng rang thì cái tâm nầy chính là Chơn tâm, là tự tánh thanh tịnh bản nhiên, là Phật tánh của tất cả mọi người. Có được cái tâm nầy thì chính mình đang sống trong cõi Tịnh độ rồi chớ còn tìm Tịnh độ ở nơi nào nữa. Đây mới là giáo lý tối thắng Đại thừa vậy.

    Tới đây một số Phật tử vẫn còn thắc mắc về cảnh giới Tịnh độ Tây phương Cực Lạc của Phật A Di Đà, chúng tôi xin trích đăng nguyên văn một đoạn trong Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng, phẩm giải quyết nghi hoặc để quý vị tư duy quán chiếu:

    Vị Sứ Quân đảnh lễ rồi nói:

    Đệ tử thấy Tăng chúng, đạo, tục, thường niệm A Di Đà và nguyện vãng sanh Tây phương. Xin hòa Thượng giải thích rõ cho đệ tử xem người ta có thật sự vãng sanh ở đó được không, ngỏ hầu để dẹp tan mối nghi ngờ của đệ tử? Lục Tổ đáp:

    Sứ quân lắng nghe, Huệ Năng tôi sẽ giải thích cho ông. Thế Tôn lúc ở Xá Vệ quốc, thuyết giảng về Tây phương để dẫn hóa chúng sinh. Kinh văn nói rõ ràng rằng:”Tây phương cách đây không xa. Chỉ vì muốn dạy những người có căn cơ thấp mới nói là xa, còn nói gần là để dạy người có trí tuệ cao. Tuy con người có hai loại, Pháp chẳng hề có “bất đồng”. Giữa mê và ngộ có sự khác biệt, cũng như kiến giải có mau có chậm. Kẻ mê thì niệm Phật hy vọng vãng sanh Tây phương, người ngộ chỉ thanh tịnh tâm mình. Cho nên Phật nói:”Tùy kỳ tâm tịnh, tắc Phật độ tịnh”. Sứ quân! người ở phương Đông (ám chỉ chúng sinh ở cõi Ta bà) nếu chỉ cần tịnh tâm là lập tức hết tội chướng. Người ở Tây phương Tịnh độ mà tâm không tịnh là lập tức có lỗi lầm. Kẻ mê nguyện vãng sanh Đông phương hay Tây phương, còn người ngộ thì bất cứ ở đâu cũng là Tịnh độ cả. Chỉ cần tâm không có bất tịnh thì cõi Tây phương chẳng cách xa đây. Còn như tâm mà khởi bất tịnh thì dù có niệm Phật để cầu vãng sanh cũng khó mà đạt được. Trừ được mười điều ác tức là đi được mười vạn dặm, không có tám điều tà là đã vượt qua được thêm ngàn dặm. Song nếu tu hành Chơn tâm, mình sẽ thấy Tây phương trong nháy mắt.

    Sứ quân! chỉ nên lo tu thập thiện, cần gì phải nguyện vãng sanh. Nếu như ông không đoạn cái tâm làm mười điều ác, Phật nào đến đón ông đây? Nếu giác ngộ được giáo pháp đốn ngộ vô sanh, chỉ trong sát na là ông thấy Tây phương. Nếu như không ngộ giáo lý đốn ngộ của Đại thừa, con đường niệm Phật để mong vãng sanh quá xa vời, làm sao mà đạt đến được?

    Lục Tổ nói tiếp:

    Để Huệ Năng tôi trong một sát na (một giây) dời Tây phương đến ngay trước mắt cho Sứ quân thấy. Sứ quân có muốn thấy chăng? Sứ quân cúi lạy nói: Nếu như đệ tử có thể thấy Tây phương ở đây, còn cần gì phải vãng sanh nữa. Xin Hòa Thượng từ bi làm cho Tây phương hiễn hiện trước mắt đệ tử thì tốt lắm thay. Lục Tổ dạy:

    Đại chúng! Xin hãy cẩn thận lắng nghe. Sắc thân của người đời là một thành phố. Mắt, mũi, tai, lưỡi là cửa thành. Bên ngoài có năm cửa, bên trong có cửa của ý thức. Tâm tức là đất, Tánh tức là vua. Tánh còn thì vua còn, Tánh đi thì vua không còn. Tánh còn thì thân tâm còn, Tánh đi thì thân tâm hoại. Phật là do tự Tánh mà ra, chớ nên hướng ra ngoài thân mà cầu. Mê mờ tự Tánh thì Phật là chúng sinh, giác ngộ tự Tánh thì chúng sinh tức là Phật. Từ bi là Quán Thế Âm, hỷ xả là Đại Thế Chí, năng tịnh là Thích Ca, bình đẳng chơn thực là Di Lặc, nhân ngã chấp là núi Tu Di, tà tâm là biển lớn, phiền não là sóng, tâm độc là rồng dữ, trần lao là cá rùa, hư vọng là thần quỷ, tam độc là địa ngục, ngu si là súc sanh, thập thiện là thiên đường. Nếu không chấp nhơn ngã, núi Tu Di tự lở, trừ tà tâm, nước biển lập tức cạn. Không có phiền não, sóng tự nhiên hết. Trừ độc hại, cá rồng sẽ hết. Hãy để giác Tánh Như Lai trên tâm địa của mình, phóng ánh sáng trí tuệ lớn, chiếu sáng sáu cửa và bằng ánh sáng thanh tịnh ấy chiếu phá sáu cõi trời của Dục giới. Nếu bên trong tự Tánh chiếu sáng, tam độc sẽ bị trừ và địa ngục sẽ lập tức tiêu diệt. Nếu trong ngoài gì đều trong sáng thấu suốt thì đây cũng chẳng khác gì Tây phương. Nếu như không tu hành pháp môn này, làm thế nào có thể đến bên ấy được?

    Ý của Lục Tổ trong câu: Sắc thân của người đời là một thành phố nghĩa là sắc thân tứ đại có sinh có diệt, nay có mai không, không bền không chắc. Năm cửa thành là năm căn và cửa bên trong là căn thứ sáu. Đó là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Tâm là đất bởi vì đất là do chữ địa nên đất là tâm. Tất cả muôn sinh vạn vật cũng từ đất mà ra và sau cùng cũng trở về với đất. Tâm thì cũng thế, con người có nghĩ thiện nghĩ ác cũng từ tâm và có làm việc tốt, việc xấu cũng phát xuất từ tâm. Tánh tức là vua nghĩa là tánh là chủ thể của con người bởi vì cho dù tâm có biến hiện thế nào đi chăng nửa nhưng tự Tánh vốn không sanh diệt, không thay đổi, luôn luôn tự tại. Tánh còn thì vua còn, Tánh đi thì vua không còn nghĩa là khi chúng sinh biết sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên, với chơn tâm hay Phật tánh của mình thì con người sẽ có thanh tịnh an vui tự tại. Ngược lại nếu chúng sinh quên bỏ tự tánh mà chạy theo vô minh phiền não thì chắc chắn đau khổ sẽ đeo mang. Tánh còn thì thân tâm còn, Tánh đi thì thân tâm hoại. Sống với tự Tánh thì mình làm chủ thân tâm của mình nghĩa là thân tâm được an vui tự tại. Ngược lại không sống với tự Tánh (Tánh đi) mà chạy theo vọng trần ô nhiễm thì chắc chắn thân tâm bất toại.

    Lục Tổ dạy thêm rằng:

    Này các thiện tri thức! Nếu như muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần phải ở chùa. Nếu như ở chùa mà không tu thì có khác chi những người ở Tây phương Tịnh độ mà tâm địa độc ác. Còn ở tại gia mà tu hành thì cũng như người ở Đông phương mà tu thiện pháp. Chỉ cần ở tại gia mà tu thanh tịnh thì đó tức là Tây phương!

    Hòa Thượng Tuyên Hóa trong Kinh Phật Thuyết A Di Đà giảng rằng:

    "Chúng ta niệm danh hiệu A Di Ðà Phật, đó là chúng ta bắt đầu trang nghiêm và thành tựu thế giới Cực Lạc của chính mình. Thế giới Cực Lạc dù nói là xa cách đến mười vạn ức cõi Phật, nhưng cũng chẳng phải nhứt định là xa cách đến mười vạn ức cõi Phật đâu, vì nó vẫn không ra ngoài một tâm niệm của chúng ta, cũng chính là nói thế giới Cực Lạc tức là ở trong tâm chúng ta vậy. Thế giới Cực Lạc tức là chơn tâm sẵn có của chính mình. Khi mình đến được chơn tâm sẵn có của mình thì sẽ sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu không rõ chơn tâm sẵn có của mình thì không thể nào đến cõi nước kia được. Thế giới Cực Lạc tức là ở trong tâm chúng ta chứ không phải ở ngoài tâm. Thế giới Cực Lạc thanh tịnh không ô nhiễm thì chúng ta một niệm Chơn tâm hiện tiền cũng thanh tịnh không ô nhiễm. Nếu từ bỏ được mọi chấp trước thì tức khắc là thế giới Cực Lạc, tức khắc thấy được Phật A Di Ðà. Phật A Di Ðà và chúng sanh không có phân biệt, cho nên nói thế giới Cực Lạc không phải là xa như thế đâu.

    Một niệm hồi quang biết rằng mình vốn là Phật; vốn là Phật chính là thế giới Cực Lạc. Dứt trừ tâm ô nhiễm đi, cũng chính là dứt trừ tạp niệm tư dục không còn tâm đố kỵ, tâm chướng ngại, tâm tự lợi và tâm ích kỷ nữa. Lúc đó mình giống như Bồ-tát làm lợi ích cho người, giác ngộ tất cả chúng sanh. Không còn tạp niệm, vọng tưởng nữa, thế thì không phải là thế giới Cực Lạc sao? Cho nên không cần phải đi tìm ở đâu bên ngoài."

    Có biết đạo, có hiểu đạo và sống với đạo tâm thanh tịnh thì cũng như chúng ta đã:

    “Thân tuy ở cõi Ta Bà

    Mà lòng đã gửi bên tòa hoa sen.”

    Kính chúc quý Phật tử được vô lượng an lạc, kiết tường như ý và sớm viên thành Phật đạo.

    Nam Mô A Di Đà Phật

    Cư Sỹ Lê Sỹ Minh Tùng
    Last edited by Vân Quang; 17-04-2010 at 03:55 PM.

    Tính KHÔNG chẳng phải lặng, mà động
    Động bên ngoài tỉnh tận bên trong
    Càng sâu vào TÂM càng tỉnh thức
    Lặng thấu chơn không luống nhiệm mầu

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Niệm thí thực theo pháp Mật tông
    By minhtuan08 in forum Mật Tông
    Trả lời: 88
    Bài mới gởi: 23-09-2025, 01:08 PM
  2. Trả lời: 27
    Bài mới gởi: 27-08-2008, 03:28 PM
  3. Nên Tu Theo Pháp Môn Nào ?
    By sutu in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 08-08-2008, 05:30 PM
  4. Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 28-07-2008, 02:42 AM
  5. Con đường Giác Ngộ Theo Kinh điển Nykaya
    By langtuhn in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 08-11-2007, 02:40 AM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •