Tôi nghe như vầy, một thuở Ðức Phật ở núi Khư La Ðể Sí nương chỗ sở trụ của Mâu ni tiên (tiên tịch mặc) cùng với vô lượng chúng đại Tỳ kheo, lại cùng với vô lượng vô biên a tăng kỳ hằng hà sa số đại Bồ tát mà đều từ những cõi Phật phương khác đến. Lúc bấy giờ, Ðức Thế Tôn muốn vì đại chúng nói Kinh Tứ Biện Tài, Tam Minh, Phạm Hạnh Trụ, Phá Ác Nghiệp Chướng Ða la ni. Bấy giờ, phương Tây, qua khỏi tám mươi lần hằng hà sa thế giới, có một cõi Phật tên là Nhất Thiết Hương Tập. Chúng sinh ở trong cõi ấy thành tựu năm trược. Nước đó có Ðức Phật hiệu là Thắng Hoa Phu Tạng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn. Ðức Phật đó hiện nay đang vì các đại chúng chuyển bánh xe diệu pháp. Ở đó có vị đại Bồ tát tên là Hư Không Tạng đã theo Ðức Phật kia nghe pháp thâm diệu, đắc được các thiền định. Vị Bồ tát đó thấy ở phương khác vô lượng vô biên a tăng kỳ số những vị đại Bồ tát phi thân lên hư không nhằm hướng Ðông mà đi đến. Ông lại từ xa nhìn thấy thế giới phương Ðông có ánh sáng lớn, liền đi đến chỗ Ðức Phật Thắng Hoa Phu Tạng, đầu mặt lễ dưới chân, nhiễu quanh trăm ngàn vòng, hồ quì chắp tay mà bạch Ðức Phật rằng: Thưa Ðức Thế Tôn! Con thấy ở tha phương vô lượng vô biên a tăng kỳ số các Bồ tát, thân thăng lên hư không nhằm hướng Ðông mà đi đến. Lại nữa, con thấy từ xa thế giới phương Ðông có ánh sáng lớn. Vì nhân duyên gì mà có việc ấy? Nguyện xin ngài vì con giải nói đầy đủ!” Ðức Phật Thắng Hoa Phu Tạng bảo Bồ tát Hư Không Tạng rằng: “Này thiện nam tử! Phương Ðông cách đây tám mươi hằng hà sa thế giới có một cõi Phật tên là Ta Bà. Chúng sinh trong cõi ấy thành tựu năm trược. Nước đó có Ðức Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, nay đang ở tại núi Khư La Ðể Sí, nương chỗ sở trụ của Mâu ni tiên. Vì khiến cho pháp lưu hành chẳng đoạn tuyệt, vì khiến cho Tam Bảo thường trụ ở đời, vì hàng phục các ma kiến lập pháp tràng, vì đóng cửa sinh tử mở cửa Niết bàn, vì các vị đại Bồ tát và cả Thanh văn, những đại chúng từ nơi khác đến nên ngài muốn nói kinh Bốn biện tài, Ba minh, Phạm hạnh trụ, Phá ác nghiệp chướng Ðà la ni. Ngài muốn khiến cho tất cả Bồ tát của các cõi Phật mười phương từ bậc Hoan Hỷ địa cho đến bậc Bổ Xứ, trụ ở Bất cộng pháp, chẳng theo người khác tin, giỏi phương tiện, đủ vô ngại biện... những đại sĩ như thế này đều vân tập. Do đó Ðức Phật kia phóng ra ánh sáng ấy. Những vị Bồ tát kia thấy ánh sáng này rồi liền cỡi hư không mà đi đến ác thế giới ác đó vì các chúng sinh nói Ðà la ni phá ác nghiệp chướng. Quốc độ của Ðức Phật đó cũng đủ năm trược cùng thế giới này không có khác. Nay ông nên đến thế giới Ta Bà lễ bái, cúng dường, thính thọ chánh pháp cùng vì các chúng sinh ác của nước đó nói Ðà la ni phá ác nghiệp chướng”. Ðại Bồ tát Hư Không Tạng nghe Ðức Phật nói rồi, vui mừng nhảy nhót cùng tám mươi ức Bồ tát đồng thời phát thanh mà bạch Ðức Phật rằng: “Thưa Ðức Thế Tôn! Con nay khát ngưỡng muốn diện kiến Ðức Phật đó! Hôm nay con sẽ thừa uy thần của Ðức Phật đi đến chỗ đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới Ta Bà, lễ bái cúng dường, thính thọ chánh pháp, cũng vì các chúng sinh ác của nước đó, nói Ðà la ni phá ác nghiệp chướng”. Ðức Phật Thắng Hoa Phu Tạng đáp đại Bồ tát Hư Không Tạng rằng: “Hay thay! Hay thay! Ông tự biết thời điểm”. Ngài đại Bồ tát Hư Không Tạng liền cùng với tám mươi ức Bồ tát đều đảnh lễ dưới chân Ðức Phật, thân thăng lên hư không, đi đến thế giới Ta Bà. Lúc bấy giờ, ở phương Tây có ánh sáng của ngọc báu Như Ý xuất hiện với vô lượng báu Thích-ca-tỳ-lăng-già vây quanh. Ánh sáng ngọc ấy che trùm ánh sáng của tất cả người, trời, tám bộ, Thanh văn, Bồ tát, mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đất nước, lửa, gió có sẵn trong cõi ấy đều biến mất. Ðại chúng trong hội chỉ nhìn thấy ánh sáng của Ðức Phật và cả ánh sáng của ngọc vô lượng vô biên, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể nói năng, lại không có hình sắc khác chỉ thấy toàn là hư không.

Lúc bấy giờ, quang tướng ánh sáng của Ðức Như Lai soi sáng thì đại chúng trong hội đều chẳng tự thấy mình, cũng chẳng thấy người khác. Tất cả các hình sắc đều diệt hết không còn là đối tượng của mắt. Họ chẳng có được hình mạo sắc tướng của thân mình và đối với sự chạm xúc cũng không đó, không đây và không trung gian. Tùy theo phương hướng nhìn thấy đều như vậy cả. Họ cũng lại chẳng thấy mặt trời, mặt trăng, tinh tú, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới. Hết thảy đều không còn là đối tượng của mắt. Tai chẳng nghe tiếng, mũi chẳng ngữi hương, lưỡi chẳng biết vị, thân chẳng chạm biết, các pháp số của tâm cũng không sở duyên, đối với ngã và ngã sở khởi lên tướng nữa, cũng không tưởng sáu nhập phân biệt, chẳng thấy được những đại chúng từ nơi khác đến mà chỉ thấy ánh sáng đức Phật và ánh sáng ngọc. Ngọc ấy thuần dùng vô lượng báu Thích Ca Tỳ Lăng Già làm bao quanh. Ðịa vị của các đại Bồ tát trong chúng hội ấy lên đến Thập Trụ, được Thủ Lăng Nghiêm tam muội và Nhất sanh bổ xứ. Những Bồ tát ấy thấy tướng này rồi thì thân tâm yên ổn, chẳng kinh, chẳng sợ. Vì sao vậy? Vì hiểu rõ pháp tướng tự tính chân thật và do ở Như đệ nhất nghĩa không. Số Bồ tát còn lại và chúng Thanh văn, trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Cưu ban trà, ngạ quỉ, Tỳ xá già, Phú đơn na, Ca tra phú đơn na, người, chẳng phải người v.v... thấy tướng này rồi đều kinh sợ, mê muộn. Lòng họ nhiễu loạn, đều chẳng thấy nhau, cũng không chỗ hỏi han, lòng tự suy nghĩ, chẳng biết vì duyên gì mà có tướng lạ lùng này, cũng lại chẳng biết là thần lực của ai. Bấy giờ, trong chúng, có một vị Bồ tát Ma ha tát tên là Phạm Ðảnh cúi đầu dưới chân Ðức Phật, quì dài, chắp tay mà nói kệ rằng:

Tự tánh tất cả pháp
Chúng sinh không biết thông
Ràng buộc vào sắc ấm
Bị ngu hoặc sáu tình
Chẳng thấy ở một ấm
Sắc ấm tìm kiếm luôn.
Sinh nghi với Phật pháp
Người này nay hiện lên(đã có rồi)
Nguyện nói quyết định pháp
Vì lưới nghi đoạn tan
Khiến biết bờ đây đó
Chứng được nhẫn hư không
Dũng kiện vào tam muội
Chẳng thể nói tướng thân
Ngọc báu lớn Như ý
Ở trên đỉnh ấy luôn
Thích ca tỳ lăng báu
Mà lấy làm vây quanh.
Hội này, các Ðại sĩ
Ðều Thập Ðịa trở lên
Ðược Thủ Lăng Nghiêm định
Và Bổ xứ nhất sanh.
Những vị Bồ tát ấy
Ðều ở từ xa trông
Thấy tướng điềm lành ấy
Ắt biết thắng sĩ đến
Lễ hầu Ðấng Vô thượng
Nhân nói pháp diệu thâm
An ủi chúng sinh sợ
Quy y thầy thiên nhân
Việc hành xử dũng mãnh
Giáo hóa (thuần) thục chúng sanh.

Bấy giờ, Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:

Hay thay! Như ông nói
Chỗ hành xử người thiền (định)
Thân tướng chẳng thể thấy
Tu tuệ hay kiếm tìm.
Ðây là Hư Không Tạng
Thường xử sự hành, dừng
Không nương, không hí luận
Lực tam muội hiện lên.
Chúng sinh chấp hai kiến
Nên bị mê hoặc luôn
Do họ bị mê hoặc
Bờ đây đó chẳng thông (biết).
Muốn lìa khỏi hai kiến
Hạnh chẳng thể nói (tu) hành
Mau chóng được cứu cánh
Các Ðịa đủ hoàn toàn.

Lại nữa, này thiện nam tử! Ðại Bồ tát mới phát tâm, đầu tiên có thể nói tướng và vin duyên tướng tu sáu Ba la mật, cho đến biết địa, thủy, hỏa, phong, hư không và thức là tướng sinh diệt, tánh như thật. Bồ tát lại biết các pháp chẳng thể nói, không có tự tánh, không sanh, không diệt, không có vin vào duyên, chẳng động, chẳng lay, không có sở hữu. Tất cả các pháp như vậy tu hành, lìa khỏi đoạn kiến, thường kiến chẳng sinh ra sợ hãi, đối với tất cả pháp chẳng khởi lên xúc tưởng, lòng không vin vào duyên, rỗng không, không sở hữu. Tu hành như vậy thì mau chóng đầy đủ sáu Ba la mật, lại chẳng trụ trong đoạn kiến, thường kiến nữa.