kết quả từ 1 tới 10 trên 10

Ðề tài: Thọ trì Ngũ Giới có 83 quả phúc

  1. #1
    Người Khăn Trắng
    Guest

    Exclamation Thọ trì Ngũ Giới có 83 quả phúc

    1- Không Sát Sanh có 23 quả phúc.
    2- Không Trộm Cắp có 11 quả phúc
    3- Không Tà Dâm có 20 quả phúc.
    4- Không Nói Dối có 14 quả phúc.
    5- Không Uống Rượu có 15 quả phúc.
    (Theo quyển: “Cư Sĩ Giới Pháp”, Tỳ Kheo Giác Giới, Theravada, Webmaster: binhanson.com)
    Như vậy, đối với người thọ trì Ngũ Giới cho được tròn đủ thì (bản thân của) NGŨ GIỚi là DUYÊN cho những Nhân Thiện trổ quả lành trước, như vậy, Nhân Bất Thiện THIẾU DUYÊN để trổ quả. Thêm vào đó, 83 quả phúc lành của Ngũ Giới cũng là DUYÊN “xóa mờ” lối vào 4 ác đạo và là DUYÊN đưa người giữ Ngũ Giới (được tròn đủ ấy) xa dần, xa dần lối vào 4 đường ác đạo. Nếu người ấy tu tập để “Giới năng sanh Định”, thì các tầng trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới lại là DUYÊN “ngăn sông, cách núi” lối vào 4 ác đạo. Nếu người ấy tu tập để “Định năng sanh Tuệ” và Giải Thoát, Giác Ngộ, Niết Bàn thì …chấm dứt tất cả DUYÊN (để Nhân nương vào sanh Quả).
    Như vậy, những Bất Thiện Nghiệp đã làm của một người trước khi giữ tròn Ngũ Giới đã nhờ Giới nâng đỡ, đã nhờ Giới làm DUYÊN , đã nhờ 83 quả phúc của Giới làm DUYÊN “đóng cửa” lối vào Atula, Súc Sanh, Ngạ Quỷ, Địa Ngục.
    Và như thế, không những chỉ có những tác ý tạo Ác Nghiệp rơi vào những sát-na tâm thứ 7 của Tâm Đống Tốc (9-15) thiếu duyên để trổ Sanh Báo Nghiệp, mà tất cả những tác ý tạo Ác Nghiệp rơi vào những sát-na tâm thứ 2 (10), sát-na tâm thứ 3 (11), sát-tâm thứ 4 (12), sát-na tâm thứ 5 (13), sát-na tâm thứ 6 (14) đều thiếu duyên để trổ Hậu Báo Nghiệp.


    Tôi kính gửi trích đoạn về Ngũ Giới - trong quyển “Cư Sĩ Giới Pháp” đến Huynh và đến những ai muốn tránh xa 4 đường ác đạo.

    “Ngũ giới là năm giới căn bản mà người cư sĩ phải giữ đến trọn đời nên ngũ giới cũng được gọi là Thường nhật giới (niccasīla), gồm năm điều là:

    1- Kiêng tránh sát sanh (pāṇātipātā veramaṇī), tức là tránh sự giết hại các sinh vật, loài có thức tánh. Gọi là giới sát sanh.
    2- Kiêng tránh trộm cướp (adinnādānā vera-maṇī), tức là tránh sự đoạt lấy tài sản sở hữu của người khác mà người đó chưa bằng lòng cho. Gọi là giới trộm cắp.
    3- Kiêng tránh tà hạnh dục lạc (kāmesu micchā-cārā), tức là tránh sự quan hệ tình dục bất chính với người khác ngoài vợ hoặc chồng của mình. Gọi là giới tà dâm.
    4- Kiêng tránh sự nói dối (musāvādā), tức là tránh nói lời không đúng sự thật, lừa dối người khác; thậm chí không nói dối để vui cười. Gọi là giới nói dối.
    5- Kiêng tránh sự uống rượu và chất say (surā-merayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī) tức là tránh sự say sưa rượu chè, không uống các loại chất say. Gọi là giới uống rượu.

    CHI CỦA GIỚI (Aṅga)
    Chi của giới, tức là những điều kiện để kết luận một hành động sai phạm mà chỉ là bất tịnh giới hay hư hoại giới. Một hành động sai phạm mà gọi là đứt giới phải hội đủ chi phần; nếu chưa hội đủ chi giới thì chỉ là bất tịnh thôi.
    Ở đây không nói riêng biệt chi của ngũ giới và chi của bát quan trai giới, mà chỉ nói chung những điều giới cần phải biết.
    * "Giới sát sanh" có 5 chi:
    1- Đối tượng bị hại là sinh vật có thức tánh (pāṇa).
    2- Kẻ giết biết rõ đối tượng là sinh vật (pāṇa-saññī).
    3- Có tâm sát hại (vadhakacitta)
    4- Hành động cố sát (upakkamo)
    5- Đối tượng bị chết vì sự cố sát ấy (tenama-raṇaṃ)
    Hội đủ 5 chi này mới gọi là phạm giới sát sanh.
    * "Giới trộm cắp" có 5 chi:
    1- Vật bị lấy là vật có chủ bảo quản (paraparig-gahitaṃ).
    2- Kẻ lấy biết rõ là vật có chủ (paraparigga-hitasaññī)
    3- Có tâm trộm cắp (theyyacittaṃ)
    4- Cố sức lấy trộm (upakkamo)
    5- Vật đã bị đem đi khỏi chỗ do sự trộm ấy (tena haranaṃ)
    Hội đủ 5 chi này mới gọi là phạm giới trộm cắp.
    * "Giới tà dâm" trong ngũ giới, có 4 chi:
    1- Đối tượng không nên đi đến (agamanīyat-thānaṃ), tức là người không hợp pháp cho quan hệ tình dục.
    2- Có tâm muốn hưởng dục với người ấy (tasmiṃ sevanācittaṃ)
    3- Cố gắng hành động (upakkamo)
    4- Đã hành động tình dục (maggena maggappa-ṭipādanaṃ)
    Hội đủ bốn chi này gọi là phạm giới tà dâm.
    * "Giới hành dâm" trong bát quan trai giới, có 4 chi:
    1- Có lỗ khiếu để hành dâm (bhedanavatthu), tức là trong thân có 3 khiếu, tính theo hạng người tổng cộng có 30 khiếu.
    2- Có tâm muốn hướng dục (sevanācittaṃ)
    3- Cố gắng hành động theo ý muốn (tajjovā-yāmo)
    4- Đã hành động tình dục (maggena maggappa-ṭipādanaṃ), là đã làm cho khiếu chạm khiếu.
    Hội đủ 4 chi ấy gọi là phạm giới hành dâm.
    * "Giới nói dối" có 4 chi:
    1- Chuyện không thật (atathaṃvatthu) tức là chuyện có nói không, chuyện không nói có.
    2- Có tâm muốn nói sai (visaṃvādanacittaṃ)
    3- Cố gắng nói sai (tajjo vāyāmo)
    4- Người nghe đã tin chắc lời nói đó (parassa tadatthavijānānaṃ)
    Hội đủ 4 chi này gọi là phạm giới nói dối.
    * "Giới uống rượu" có 4 chi ":
    1- Thức uống là chất say (majjanīyavatthu), tức là nước uống có nồng độ
    2- Có tâm muốn uống (Pātukamyatācittaṃ)
    3- Cố sức uống chất say ấy (tajjo vāyamo)
    4- Đã uống nước say ấy (tassa pānaṃ), tức là dù một giọt rượu nuốt khỏi cổ cũng gọi là uống rượu.
    Hội đủ 4 chi này gọi là phạm giới uống rượu.

    PHÁP HỔ TRỢ CHO GIỚI.
    Người cư sĩ cần phải tu tập năm pháp lành (kalyānadhamma), là pháp hỗ trợ cho sự giữ giới tốt đẹp (atthakathā):
    1) Từ bi (mettākaruṇā), tính hài hoà vô sân, có lòng trắc ẩn trước đau khổ của chúng sanh mọi loài. Khi người cư sĩ tu tập đức tính này thì sẽ không nỡ hại chúng sanh, không nỡ đoạt mạng sống các sinh vật. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ nhất (tránh sự sát sanh).
    2) Chánh mạng (sammā-ājiva), có sự tinh tấn trong việc nuôi mạng, quyết không nuôi mạng bằng nghiệp bất thiện. Khi người cư sĩ vui sống chánh mạng sẽ không nghĩ đến gian tham trộm cướp tài sản của kẻ khác. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ hai (tránh sự trộm cắp).
    3) Phòng hộ dục trần (kāmasaṃvara). Kềm giữ tâm không đam mê sắc dục, luôn thấy được sự nguy hiểm của ngũ trần. Khi người cư sĩ có sự thu thúc như vậy sẽ không khởi lên tà ý với vợ con người khác. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ ba (tránh sự tà dâm).
    4) Chân thật (sacca). Tính ngay thẳng trung thực, ưa thích sự thật, không thích dối trá. Khi người cư sĩ vui trong pháp chân thật sẽ khó chịu nếu nói dối. Đây là pháp hỗ trợ giới thứ tư (tránh sự nói dối).
    5) Chánh niệm tỉnh giác (satisampajañña). Sống kiểm soát và nhận thức, ghi nhớ và suy niệm. Khi người cư sĩ quen sống chánh niệm tỉnh giác sẽ không có sự dể duôi quên mình. Đó là pháp hỗ trợ giới thứ năm (tránh uống rượu).

    QUẢ PHÚC CỦA SỰ TRÌ GIỚI
    Sự trì giới có rất nhiều lợi ích. Trước hết là giữ giới có năm điều lợi ích thiết thực (Ud.86):
    1- Nhờ sự không dể duôi mà đạt được tài sản lớn.
    2- Có danh thơm tiếng tốt đồn xa.
    3- Đi đến hội chúng, tâm dạn dĩ ung dung
    4- Lúc chết không hôn mê
    5- Sau khi chết, được sanh vào nhàn cảnh thiên giới.
    Có lợi ích thiết thực khác nữa (A.V.1) như Đức Phật dạy cho tôn giả Ānanda rằng:
    "Này Ānanda, giới là thiện, giới có mục đích là bất hối, có lợi ích là bất hối".
    Khi người giữ giới không làm những điều lỗi lầm tội ác, do vậy, người ấy không bị ray rứt lương tâm, không sống trong trạng thái hối hận, tâm được an lạc tự tại.
    Người cư sĩ thọ trì chín chắn ngũ giới, nếu nói riêng mỗi điều giới thọ trì có quả phúc như sau:

    "Không sát sanh" có 23 quả phúc:
    1- Được trường thọ
    2- Thân không tàn tật
    3- Ít bệnh hoạn
    4- Thân hình vừa vặn
    5- Thân thể xinh tốt
    6- Tướng khoan thai cao ráo
    7- Cử chỉ linh hoạt
    8- Bước chân đi dáng đẹp
    9- Vẻ mặt tươi sáng
    10- Tính tình nhu hòa
    11- Tinh thần an vui
    12- Tâm dạn dĩ dũng cảm
    13- Có nhiều sức mạnh
    14- Nói năng bặt thiệp
    15- Không bị quần chúng bắt nạt
    16- Không có sự kinh hoàng sợ hãi
    17- Không bị kẻ thù hãm hại
    18- Không bị chết do người cố sát
    19- Không có chuyện bực mình
    20- Thân thể sạch sẽ
    21- Có đông tùy tùng
    22- Được mọi người thương mến
    23- Không gặp cảnh sanh ly tử biệt

    "Không trộm cắp" có 11 quả phúc:
    1- Có nhiều của cải
    2- Có thực phẩm đầy đủ
    3- Kiếm được thực phẩm dễ dàng
    4- Có được tài sản chưa có
    5- Tài sản có rồi được giữ vững
    6- Muốn gì được đó
    7- Tài sản không bị tiêu hao do thiên tai, hoả hoạn, trộm cướp, tịch biên hay do người thân.
    8- Có được tài sản không bị tranh đoạt.
    9- Không bị nghe và biết "sự không có".
    10- Ở đâu cũng được an vui.
    11- Dễ đạt được tài sản Siêu thế.

    "Không tà dâm" có 20 quả phúc:
    1- Không bị thù địch
    2- Không bị người ganh ghét
    3- Không bị tai nạn do người hại
    4- Ít bị xa lìa người thương
    5- Là chỗ thương yêu của mọi người
    6- Có nhiều thân hữu quí mến
    7- Tìm cái ăn, cái mặc, chỗ ở dễ dàng
    8- Ngủ nghỉ được an vui
    9- Thức giấc được an vui
    10- Nằm ngồi chỗ nào cũng an vui
    11- Sinh kế không khó khăn
    12- Không dễ bực mình
    13- Không sanh khổ cảnh
    14- Không sanh làm người bán nam bán nữ
    15- Tánh người nghiêm túc
    16- Làm việc minh bạch
    17- Tướng mạo uy nghi
    18- Ngũ quyền (mắt, tai ... ) đầy đủ
    19- Cổ không cúp, "Tức là có oai phong"
    20- Không gục mặt, "Tức là có uy quyền"

    "Không nói dối" có 14 quả phúc:
    1- Có ngũ quyền (mắt, tai ... ) được trong sáng
    2- Có lời nói thanh tao
    3- Có hàm răng khít khao đều đặn
    4- Không quá mập
    5- Không quá ốm
    6- Không quá cao
    7- Không quá lùn
    8- Được hưởng xúc lạc
    9- Miệng thơm như hoa sen
    10- Lưỡi mỏng đỏ như cánh sen
    11- Không câm ngọng
    12- Có được kẻ tùy tùng tín cẩn
    13- Lời nói được tín nhiệm
    14- Tâm trí không bị rối loạn

    "Không uống rượu", có 15 quả phúc:
    1- Làm người có trí nhớ tốt, không bị lẫn
    2- Không bị điên khùng, đờ đẫn
    3- Có sự hiểu biết mau lẹ
    4- Thành người đa trí
    5- Làm người tri thức
    6- Làm người hiểu biết điều lợi ích và điều không lợi ích.
    7- Làm người không hoảng hốt
    8- Làm người không có sự bực bội
    9- Không bị người vu khống
    10- Làm người nói năng nghiêm túc
    11- Làm người siêng năng chăm chỉ
    12- Làm người tính trung thực
    13- Làm người có liêm sỉ
    14- Luôn có sự an vui
    15- Luôn được người kính nể.
    Đó là những quả phúc của việc trì giới”

  2. #2
    Người Khăn Trắng
    Guest

    Mặc định

    Bạn nào mà giữ được luôn cả Bát Quan Trai giới thì Quả Báo còn khủng khiếp hơn nữa.

    Trong Kinh Tăng Chi Bộ Phật dạy: " Người tu tập Bát quan trai giới thanh tịnh chỉ trong một ngày đêm hơn một đời vua cai trị toàn xứ Ấn Ðộ". Tuổi thọ khi sanh về nơi đó thì thôi khỏi nói nhé.

  3. #3
    Người Khăn Trắng
    Guest

    Mặc định

    Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammasambuddhassa

  4. #4

    Mặc định

    Trích dẫn Nguyên văn bởi Người Khăn Trắng Xem Bài Gởi
    Bạn nào mà giữ được luôn cả Bát Quan Trai giới thì Quả Báo còn khủng khiếp hơn nữa.

    Trong Kinh Tăng Chi Bộ Phật dạy: " Người tu tập Bát quan trai giới thanh tịnh chỉ trong một ngày đêm hơn một đời vua cai trị toàn xứ Ấn Ðộ". Tuổi thọ khi sanh về nơi đó thì thôi khỏi nói nhé.
    :) :)
    Last edited by Nhất Niệm; 15-03-2012 at 06:34 PM.
    Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Pháp môn Tịnh Độ thệ nguyện học. Như Lai vô biên thệ nguyện sự. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

  5. #5
    ๑۩۞۩๑ Gấu ๑۩۞۩๑ Avatar của Đầu gấu
    Gia nhập
    Feb 2012
    Bài gởi
    108

    Mặc định

    A: "bà ăn chay à, ăn chay tốt lắm đó"
    B: "ừ, tui ăn chay trường"
    A: "chay trường cơ à, hay thế, mà tui nói bà nghe nè, ăn chay k đủ chất đâu, lâu lâu cũng nên ăn mặn"
    B: "ơ..., hồi nãy bà mới bảo 'ăn chay tốt lắm đó' mà...?!!"
    A: "nói thì nói thế, ăn thì ăn ngày rằm mùng một thôi, bà còn lo gia đình, ăn vầy sao có sức, bà ăn chay rồi cơm nước ở nhà thì sao?"
    B: "tui thấy tui khoẻ mà, cơm nước thì đứa nào ăn chay chung với tui thì tui nấu, k thì thôi"
    A: "vậy tội nghiệp tụi nhỏ, tủi nó đang tuổi lớn, ăn như bà sao mà lớn, còn học nữa chứ"
    ...
    ...

  6. #6

    Mặc định

    Trì giới như thế nào hợp với trì giới Ba La Mật ?

    - 1 . Trì giới luật chấp tướng : Giữ có lệ hình thức bên ngoài còn bên trong rất nghiễm ô : háo thắng được khen, tự cao tự đại cho mình hơn người còn khinh dễ người phạm giới, giữ giới bị áp lực, thiếu hoan hỷ, miễn cưỡng…Đó không phải là trì giới Ba La Mật.

    - 2 . Trì giới không chấp tướng : Giữ đúng giới luật hoàn toàn mà không vì danh lợi, không háo thắng, không bị hoàn cảnh ép buộc. Hãy tự coi như một phận sự cần phải tuân để được an toàn cho mình và người. Đó là trì giới Ba La Mật.

    Tóm lại nghiêm trì đúng giới luật chắc chắn thân nhẹ nhàn tâm thanh thoát dủ năng lực dũng mảnh trên bước đường phật sự như thân giáo, khẩu giáo mới có hiệu nghiệm hòa nhập vào tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, tâm xã của hàng thánh nhân. Tu phải hành bằng tự tâm không phải là bổn phận bắt buộc mà là phận sự tuân chỉ và thi hành như lái xe hãy quan sát thật kỷ những bản hướng dẫn khỏi pham luật và giữ an toàn cho mình và người để hoàn thành sứ mệnh, chính mình chọn lấy.

    Hỏi : Thưa Rinpoche, trong tăng đoàn (sangha) của chúng ta, việc uống rượu và các liên hệ ái dục rất là lan rộng, đôi khi đưa đến tình trạng hỗn loạn bởi vì mọi người không biết đối xử làm sao cho đúng đối với các việc này. Nếu chúng ta thọ giới để là một người tu tập tại gia, thì có thể chúng ta là người duy nhất trong tăng đoàn làm như thế và điều ấy rất khó mà kiên trì được.
    Rinpoche : Nếu chúng ta thọ giới, thì rất tốt; nhưng ngay dù không thọ giới, chúng ta vẫn có thể tu tập giới. Vấn đề ở đây là vấn đề ý định trong tâm mình. Trong Túc Sinh Truyện (Jataka), các truyện kể về các đời trước của đức Phật, có một câu truyện khi đức Phật là một thuyền trưởng của một con tàu với năm trăm thủy thủ. Tên của Ngài vào lúc ấy là "Đại Đảm". Có một kẻ rất ác có y định giết hết cả năm trăm hành khách trên tàu bằng cách đục tầu thủng một lỗ. Đại Đảm thấy người kia sắp đục thủng tàu và nghĩ rằng đó là một tội lỗi lớn của kẻ kia đi giết năm trăm người như vậy. Đại Đảm nghĩ, "Nếu ta giết kẻ ác này, thời sẽ cứu được mạng của năm trăm người kia và cũng cản được kẻ ác kia khỏi rơi vào địa ngục". Thế nên Đại Đảm giết kẻ kia bằng cách dùng búa đập vào đầu hắn. Thế nên giết một kẻ có ác tâm không phải là một tội lỗi của Đại Đảm, đúng hơn lại là một hành động phúc đức. Đó là lý do tại sao ý định trong tâm rất quan trọng. Trở lại vấn đề rượu và ái dục mà anh nói là mâu thuẫn với sự tu tập pháp (dharma). Dựa trên các hành động này, nhiều người sẽ càng để ý đến và có thái độ đối với việc tu tập pháp. Tôi cho rằng rượu và dâm dục không phải là điều xấu cho người tại gia. Tuy nhiên, đối với các tăng ni đã thọ giới, thì vấn đề lại khác hẳn.

    Giới luật cũng là một loại giáo điều trên phương diện cư xử trong đời sống hằng ngày. Trong luật Tứ Phần nói 12 năm đầu, đức Phật chưa chế giới luật vì Tăng chúng thanh tịnh. Ðến năm thứ 13, có những vị xuất gia sau, tu hành thiếu xót, gây ra nhiều phiền phức, lúc đó Phật mới tùy phương tiện chế ra giới luật, tùy bệnh cho thuốc. Nhưng lại có những người chấp thuốc thành bệnh. Thí dụ trong luật Tỳ Kheo cấm không được leo cây cao quá đầu người, thế rồi ngày kia có vị Tỳ Kheo đi vào rừng gặp cọp dữ, hoảng sợ bỏ chạy, bám vào cây nhưng không dám leo lên cao quá đầu vì sợ phạm giới, nên bị cọp nhẩy lên vồ trúng ăn thịt. Các vị Tỳ Kheo khác biết chuyện về thưa lại, đức Phật mới sửa thêm vào là trừ khi có nạn hay nhân duyên thì khai cho. Trong giới luật có giới tánh, giới tướng, có sự khai, giá, trì, phạm. Giới luật được chế ra tùy nhân duyên, căn cơ của đệ tử và bối cảnh xã hội đương thời. Từ lúc thành lập Tăng đoàn cho đến khi nhập diệt, đức Phật đã chế ra 250 giới cho hàng Tỳ Kheo trong 45 năm. Nếu đức Phật còn sống cho đến ngày nay thì chắc Tỳ Kheo phải có ít nhất là 2500 giới.

    Trong Kinh Mahaparinibbana (Ðại Bát Niết Bàn) thuộc Trường Bộ Kinh, trước khi nhập diệt, đức Phật có nói với A-Nan, từ nay trở đi cho phép các Tỳ Kheo tùy nghi bỏ các giới cấm nhỏ nhặt. Trong kỳ kết tập Kinh điển lần thứ nhất, Ca Diếp đã trách A-Nan sao không hỏi lại Phật giới nào là giới nhỏ nhặt. Và Tăng chúng lúc bấy giờ có lẽ vì kính nể Phật hoặc không thấy giới nào là nhỏ nhặt cả nên đã giữ lại hết.

    Tu hành cần phải có giới luật vì giới luật là hàng rào giúp cho hành giả khỏi bị sa ngã. Nhưng giới luật cũng cần được uyển chuyển, khi khai khi trì tùy theo căn cơ và bối cảnh xã hội.

    Nếu bạn là một Phật tử chân chính chắc chắn bạn cũng muốn giữ giới tinh nghiêm. Giữ giới là việc rất tốt, đáng khen nhưng làm sao đừng rơi vào quá khích và ngã mạn.

    Tôi có biết một Thầy, Thầy này chủ trương giữ giới nghiêm khắc, khi nói chuyện với phụ nữ thì đứng xa ba thước. Lỡ khi có cô nào đi ngang vô ý đụng vào Thầy thì liền sau đó Thầy đi thay và giặt ngay bộ áo. Vả khi có Thầy nào vô ý nói chuyện hơi lâu với nữ Phật tử thì Thầy này cũng tới cho hay là nói chuyện "quá giờ" rồi. Trong chùa ai nấy đều nể và ngán Thầy vì Thầy giữ giới tinh nghiêm. Nhưng sau vài năm, không hiểu vì sao chính Thầy lại bỏ ra đi cưới vợ.

    Về phần tôi, khi mới thọ giới Tỳ Kheo xong cũng muốn giữ giới kỹ lắm. Nếu giữ phần mình thì không nói làm chi. Ðàng này lại đi dòm ngó người khác xem họ có giữ giới không? Nếu ai giữ giới thì mình nể, không thì mình khinh. Nhiều lúc lại lên mách sư phụ nữa chứ. Có những lúc đi Phật sự, ngủ chung phòng với quý Thầy khác, mặc dù mỏi lưng mỏi cổ muốn quay sang trái nhưng vì lỡ làm "Ðại Ðức" nên cũng phải ráng nằm im bên phải giống như tượng Phật lúc nhập Niết Bàn.

    May cho tôi, từ lúc làm du Tăng có dịp tiếp xúc với nhiều truyền thống khác, quan niệm về giới luật của tôi cũng thay đổi và trưởng thành, không còn ngây thơ như trước nữa.

    ( sưu tầm nhiều nguồn )

    Giới luật của Phật chế ra xưa kia tùy thuộc vào bối cảnh phong tục tập quán của xã hội Ấn thời bấy giờ. Ngày nay muốn cai dân trị nước một cách hữu hiệu, các chính phủ cũng phải sửa đổi luật pháp cho hợp thời thế, không những hợp với tình thế quốc nội mà cũng phải hợp với sự biến chuyển của quốc tế nữa. Ðương thời, sau khi chế giới, đức Phật đâu có độc tài, lúc cần ngài cũng uyển chuyển khai thị sửa đổi kia mà (ở đây nói về những giới Ba Dật Ðề, Pacittiya, trở đi).

    Bàn về giới luật, tôi không có tham vọng sửa đổi vì tôi dư biết là không ai dám cả gan sửa đổi giới luật của Phật, dù đó là một Tăng Thống hay Ðại Lão Hòa Thượng. Mục đích của tôi muốn nhắc nhở bạn, nếu thọ giới thì đừng thọ cho nhiều để khi dễ kẻ khác, khi giữ giới thì đừng cho mình trong sạch hơn kẻ khác, khi học giới thì nên ý thức giới luật không phải là giới điều bất di bất dịch mà chỉ là phương tiện.

    Dù muốn dù không, giới luật của Phật đã có hơn 2500 tuổi rồi, kính lão đắc thọ, điều mình có thể làm được là lập ra những giới mới thích hợp với thời đại hơn. Ðây là trường hợp giới Tiếp Hiện của Thầy Nhất Hạnh. Trong những giới mà tôi được biết, có thể nói giới Tiếp Hiện là giới hợp lý và hợp thời nhất với xã hội ngày nay. Tiếp Hiện có 14 giới, nhưng tôi thích nhất 2 giới đầu.

    Giới thứ nhất: Không được thờ làm thần tượng bất cứ một chủ nghĩa hay một lý thuyết nào, kể cả chủ nghĩa và lý thuyết Phật Giáo. Những hệ thống giáo lý trong Ðạo Phật phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn tu tập mà không là những chân lý tuyệt đối để bảo vệ và thờ phụng.

    Giới thứ hai: Không được yên trí rằng những kiến thức mình hiện có là những chân lý bất di bất dịch, như thế để tránh sự trở thành cố thủ và hẹp hòi. Phải học thái độ phá chấp và cởi mở để đón nhận quan điểm của kẻ khác...

    Ðến đây xin bạn đọc đừng hiểu lầm là tôi quảng cáo cho Thầy Nhất Hạnh. Vì tôi chưa thọ giới Tiếp Hiện và có lẽ sẽ không bao giờ thọ thêm giới nào nũa. Tôi đã thọ quá nhiều giới luật rồi, nào là giới Tỳ Kheo, giới Bồ Tát, rồi thêm 24 giới của Kim Cang Thừa Tây Tạng. Giới luật đã làm tôi ngộp thở vì tôi dại dột không nhận ra chúng chỉ là những giới điều.

    Cho tới bây giờ, giới luật của các tôn giáo thường có tính cách tiêu cực, cấm làm cái này cấm làm cái kia, nếu lỡ làm thì phạm tội, gọi chung là giới cấm. Nếu cần thọ giới, tôi sẽ đi tìm giới tích cực, đó là những giới khuyên ta nên làm điều lợi ích. Xin lấy thí dụ để hiểu:

    Giới tiêu cực : Không được trộm cắp
    Giới tích cực : Nên bố thí, giúp đỡ kẻ nghèo khó

    Giới tiêu cực : Không được sát sinh
    Giới tích cực : Nên tìm cách cứu mạng sinh vật

    Giới tiêu cực : Không được tham sân si
    Giới tích cực : Nên học thương yêu, hiểu biết


    Mới nhìn qua, bạn có thể thấy hai cái không khác nhau mấy, nhưng thật ra khác nhau nhiều lắm. Nếu học giới tích cực bạn sẽ thấy cuộc đời mang một màu sắc mới, không còn màu sắc của ảm đạm, u buồn, đáng ngán. Một người biết thương yêu giúp đỡ kẻ nghèo khó làm sao có thể ăn trộm ăn cắp được? Giới tích cực bao trùm giới tiêu cực, nhưng giới tiêu cực không bao trùm được giới tích cực.

    Tôi không trộm cắp nhưng tôi cũng không bố thí giúp đỡ ai cả.
    Tôi không sát sinh nhưng ai chết thì mặc kệ, đâu liên quan gì đến tôi.

    Giới tiêu cực là những hàng rào ngăn cấm. Giới tích cực là những chân trời mở rộng thênh thang, những cánh đồng bát ngát đón mời ta vào thế giới tự tại và do đó không thể gọi là giới được vì giới tức là hàng rào. Chỉ vì so sánh với giới tiêu cực nên tạm gọi là giới tích cực mà thôi.

    Thích Trí Siêu

    RĂN BẢO VỀ GIỚI.

    1- Tự mình phải giữ Giới Cấm thanh tịnh, nhưng thấy kẻ khác phạm Giới thì hãy xót thương và đừng ghét bỏ.

    2- Làm Thầy mà không dạy bảo Đệ tử giữ Giới nghiêm túc chính là kẻ phá hoại Phật pháp, phải đọa vào Địa Ngục.

    3- Không hiểu Giới Luật mà truyền Giới cho người khác, là trái lời đức Phật dạy và phạm tội rất nặng.

    4- Phá Giới thì tội nặng hơn so với phạm lỗi Kinh, Luận. Vì Giới là nền tảng để hết thảy thiện pháp sinh khởi và thành tựu, để hội nhập Niết-Bàn.

    5- Là Tỷ-kheo mà không tụng đọc Giới Luật, nhưng hàng ngày vẫn thọ dụng tài sản của thường trú Tăng, là phạm tội trộm cắp.

    6- Phạm Giới mà không tàm quý sám hối, lại kiêu ngạo tự đắc, chính là kẻ phá Giới; phá Giới đồng nghĩa phá Kiến là tội nặng nhất.

    7- Phạm Giới tất nhiên phải đọa vào một trong Ba đường ác.

    8- Kẻ phạm Giới, phá Giới, thì không thể đảm nhiệm Phật sự. Người giữ Giới thanh tịnh thì có thể giáo hóa Trời, Người.

    9- Tỷ-kheo mà hủy báng Giới Luật, thì không được gọi là người xuất gia; vì Giới Luật là thuyền bè để vượt qua dòng sanh tử khổ đau.

    10- Không giữ Giới thì không phải Đệ tử của đức Phật.

    11- Không giữ Giới thanh tịnh thì không thể tu tập Thiền định.

    12- Tỷ-kheo mà không tin Phật pháp, không giữ Oai nghi, lễ nghĩa, Giới Cấm; khi đau ốm lại không niệm Phật mà cầu khẩn Tà Thần. Hạng người này, tất nhiên không phải Đệ tử của đức Phật, và sau khi chết sẽ bị đọa vào Ba đường ác.

    13- Thọ Giới mà không giữ Giới, lại vui thích chuyện thế gian, sống theo Tà Đạo, mạo xưng làm Phật sự; đây là hạng Đệ tử của Ma giả dạng phụng sự Phật. Thọ Năm Giới dù chết vẫn giữ Giới, tin Nhân quả, thường nghĩ về Chánh Pháp; đây là hạng Trời, Người phụng sự Phật. Thọ Năm Giới, hiểu rộng Phật pháp, không làm việc Tà vạy, tu Trí tuệ, Lục độ, hiểu rõ Tam giới là khổ; đây là hạng Đệ tử đức Phật phụng sự Phật.

    14- Xuất gia là vì cầu giải thoát, nếu không giữ Giới thì thiện pháp không sanh khởi. Tương tự như người không đầu thì các cơ quan hủy hoại, gọi là người chết.

    15- Tỷ-kheo không giữ Giới, dù tụng đọc nhiều Kinh điển cũng giống như viên ngọc quý rơi vào hầm phẩn.

    16- Không giữ Giới lại còn kiêu ngạo, bất kính với Tam Bảo, loại người này được coi như người đã chết.

    17- Do Tham mà phạm Giới thì nhẹ hơn do Sân.

    18- Giữ Giới mà cầu phước báo Nhân, Thiên là phá Giới.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  7. #7

    Mặc định

    19- Tỷ-kheo phá Giới, phải trải qua trăm ngàn vạn kiếp cắt da thịt để trả nợ cho thí chủ; sau đó, phải đọa làm thân trâu ngựa để kéo nặng chở nhiều.

    20- Phá Giới mà còn ở trong chúng Tăng, dù ăn một miếng cơm cũng không thể tiêu được, và mảnh đất Già -lam không dung chứa một bước chân của kẻ ấy.

    21- Phá Giới là hủy hoại tất cả các thiện pháp của mình, như cơn mưa đá phá hoại tất cả mọi vật.

    22- Người phá Giới, không được mười phương chư Phật hộ niệm. Tỷ-kheo phá Giới thì không nằm trong hàng ngũ của Tăng, mà là Đệ tử của Ma.

    23- Là Tỷ-kheo mà còn chú ý lắng nghe tiếng vòng xuyến của người nữ là phá Giới, làm ô-uế phạm hạnh.

    24- Là Tỷ-kheo thì không được đến năm trú xứ: Thứ nhất, nhà mại dâm; thứ hai, nhà có gái chưa chồng; thứ ba, nhà có quả phụ không đứng đắn; thứ tư, nhà có bán rượu bia; thứ năm, nhà kẻ trộm cướp. Nếu đến là phạm trọng tội.

    25- Ăn thịt cá là đánh mất Tín căn, đánh mất tâm Từ bi, đoạn tuyệt hạt giống Hiền Thánh, cắt đứt Pháp luân của đức Phật. Tất cả mọi việc bất thiện đều phát xuất từ việc ăn mặn. Là Đệ tử của đức Phật thì không nên khởi lên một tư tưởng ăn thịt cá, huống gì là trực tiếp ăn nhậu.

    26- Bồ-Tát Hoa Tụ dạy rằng, Tôi có thể cứu giúp những kẻ tạo tội Ngũ nghịch, Tứ trọng; nhưng, những kẻ trộm cắp tài sản của Tăng thì Tôi đành chịu.

    27- Tất cả tai họa đều phát xuất từ Miệng, hãy bảo vệ cái Miệng cẩn thận còn hơn là bảo vệ ngọn Lửa dữ.

    28- Tỷ-kheo hủy báng Kinh Pháp, hủy báng Kinh Giới là đọa Địa Ngục.

    29- Phá Mười Giới mà không tàm quý sám hối là đồng tội với Ba-la-di. Vì hủy hoại tất cả quả vị Tam Hiền, Thập Thánh, Đẳng Giác, Diệu Giác. Bởi lẽ, Mười Giới là Giới hạnh căn bản của hết thảy chư Phật, chư vị Bồ-Tát.

    30- Giai đoạn Phật pháp sắp diệt thì Ma giả dạng Tỷ-kheo để hủy hoại Đạo pháp, hủy báng Hiền Thánh, chẳng giữ Giới Cấm, chẳng tụng Kinh, chẳng làm việc thiện; trái lại, siêng làm những việc ác độc, tà đạo. Những Tỷ-kheo Ma này, khi chết bị đọa vào Địa Ngục Vô gián, trải qua vô số kiếp, đến thời điểm được làm người thì sanh vào vùng biên địa chẳng có Tam Bảo.

    31- Phạm tội tà dâm, khi chết đọa vào Địa Ngục để nằm giường sắt nóng, ôm trụ đồng cháy đỏ, ra khỏi Địa Ngục lại đọa làm Súc Sanh.

    32- Tỷ-kheo nhận vật bố thí không đúng Pháp, sẽ gặp tai họa trong tu tập, như giải đãi, phóng túng, chẳng làm việc thiện. Về người bố thí không đúng Pháp thì sẽ bị đọa vào Ba đường ác.

    33- Người xuất gia có bốn phiền não vi tế để đọa vào Địa Ngục. Đó là: Thứ nhất, thấy kẻ khác được lợi lộc khởi tâm tật đố; thứ hai, được học Kinh, Luật mà lại hủy phạm; thứ ba, sống trái với lời đức Phật dạy, che giấu tội lỗi không sám hối; thứ tư, biết mình phạm Giới mà vẫn nhận sự cúng dường.

    34- Đời Mạt Pháp có những kẻ ngu lạm mặc Pháp phục giống như Tỷ-kheo, do mặc Pháp phục mà được kính trọng, cúng dường nên rất vui mừng. Nhưng khi chết phải bị đọa vào đại Địa Ngục Cực nóng, bị hành hình bởi dụng cụ cực nóng, như mặc áo sắt cực nóng, ăn viên sắt cực nóng v.v…

    35- Vọng ngữ là cội gốc của hết thảy tội ác.

    36- Giới Luật là thuyền bè để sang sông, phá Giới là hủy hoại thuyền bè tất phải chết đuối.

    NGƯỜI đã thọ giới phải giữ giới, dầu cho mất thân mạng cũng không nên phá giới. Tại sao? Giới là nền tảng của người tu Đạo, là một lối đi vững chắc qua Trời Người lên cõi Phật, là một bí pháp hết lậu nghiệp, là con đường thẳng vào thành Niết Bàn, là chốn an lạc giải thoát đời đời.

    Người giữ giới được thanh tịnh, công đức ấy vô lượng vô biên; ví như biển lớn, sâu không đáy, rộng không bờ, thâu nạp muôn loài, như A Tu La Ma Kiệt ngư, cùng tất cả các loài thủy tộc.

    Giới cũng như thế, thâu nạp những người tam thừa, sinh trưởng ở đó.

    Biển lớn kia có rất nhiều vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách.

    Nhân có giới mới sinh ra các pháp lành; bốn phi thường, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, thiền, tam muội, giải thoát, giải thoát tri kiến v.v…

    Bể lớn kia đáy bằng ngọc kim cương, chung quanh bằng núi kim cương, có bốn sông lớn chảy vào luôn luôn, mà nước bể vẫn không đầy vơi.

    Biển giới cũng thế, lấy giới làm đáy, lấy luận làm núi vây quanh, bốn A hàm làm sông, muôn dòng nước chảy vào trong bằng phẳng không thêm bớt.

    Tại sao các sông vẫn chảy vào biển, mà nứơc biển vẫn không đầy? Vì sức lửa ở ngục A Tỳ bốc lên, nên nước biển vẫn không đầy, các sông thường chảy ra biển, nên nước biển không bao giờ vơi.

    Biển giới của Phật Pháp cũng thế, không phóng dật tham lam cảnh dục nên không tăng, đủ công đức nên không giảm. Như thế biết rằng giữ giới là một công đức lớn lao.

    Sau thời Phật vào Niết Bàn, nước An Đà có một vị Tỷ Khưu, tu hạnh Đầu Đà thích ở nơi vắng vẻ, oai nghi đầy đủ, giới đức hoàn toàn.

    Khi Phật còn tại thế, Ngài thường khen các vị tu hành Đầu Đà!

    Những vị Tỷ Khưu tu hạnh Đầu Đà không hay ở chung với Tăng chúng; vì những vị ấy ít lòng dục, tri túc, không bỏn xẻn tham lam tích trữ, thường ngày đi xin ăn ngồi trơ trên mặt đất, không nhà không cửa, ngày chỉ một bữa ăn, với một tấm áo là đủ, lại chăm tọa thiền tụng kinh. Những người như thế rất đáng tôn trọng, mới xưng đáng ngôi Pháp Vương Tử.

    Trái lại những vị Tăng không có một trong đức hạnh nói trên, phần nhiều chỉ đa dục, lòng tham không biết chán, súc tích tiền của, tham lam tật đố, ghen ghét đầy lòng si ái mê muội, bởi thế cho nên mất công đức lớn, khiến cho người dân chán ghét, có khi còn làm cho người ta phỉ báng Tam Bảo là khác.

    Vị Tỷ Khưu nói trên đức hạnh thuận hòa, có đủ lục thông, tam minh và tám phép giải thoát oai nghi đĩnh đạc, tiếng khen vang dội muôn phương, đáng làm một vị Sa Môn.

    Bấy giờ có một người Ưu Bà Tắc tin kính ngôi Tam Bảo, giữ năm điều răn cẩn thận, lại chăm bố thí tu đức, được nhiều người khen ngợi Ưu Bà Tắc nguyện chung thân cúng dàng vị Tỷ Khưu nói trên.

    Phúc cúng dàng theo nhân hưởng quả: Nếu thỉnh Tăng đến nhà cúng dàng các vị phải đi đường xa, hoặc nóng, lạnh, gió, giá, rét, bị mỏi mệt xảy ra thì làm phế bỏ sự hành đạo của chư Tăng. Người thí chủ sau có được hưởng quả báo tốt lành nhưng phải mệt nhọc, còn các vị đi ngoài đường khất thực thì không kể, mới có thể được, phúc báo ấy thì hơn, còn những vị tại chùa mình mang thức ăn lại nơi cúng dàng thì lai sinh được hưởng phúc báo tự nhiên, không khó nhọc mà vật chất tự nhiên đầy đủ tùy ý muốn.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  8. #8

    Mặc định

    Phật thuyết minh vì sao chẳng nên thấy lỗi người khác? Có đạo lý đấy! Trong Giới kinh thường nói kẻ phá giới Phật vẫn có biện pháp cứu được, nhưng mất chánh kiến, Phật không còn cách nào cứu nổi. Những người kia tuy phá giới, nhưng không phá chánh kiến. Vì sao? Vì họ tin tưởng Tam Bảo sâu xa, vẫn còn cứu được!

    Thí dụ rõ ràng nhất là như chuyện pháp sư Oánh Kha đời Tống được chép trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục là một thí dụ rất hay. Lúc còn sống, sư Oánh Kha phá giới, tạo tác rất nhiều ác nghiệp. Sở dĩ sư được cứu là vì tin tưởng Tam Bảo, vẫn tin tưởng nhân quả, tự nghĩ mình nhất định đọa địa ngục A Tỳ. Nghĩ đến chuyện ấy, sư sợ run, cầu hỏi bạn đồng tu có cách nào cứu giúp hay không? Bạn đồng tu của sư cũng rất hiếm có, tặng sư một cuốn Vãng Sanh Truyện, bảo hãy tự xem. Sư đọc thấy người ta niệm Phật vãng sanh, tâm liền chấn động, thật sự phát nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ. Tâm sư chân thành, khẩn thiết, niệm đến ba ngày ba đêm cảm đức A Di Đà Phật hiện thân.

    A Di Đà Phật dạy ông: “Ông còn sống được mười năm nữa, hãy gắng tu tập, mười năm sau, lúc ông mạng chung, ta sẽ đến rước ông”. Oánh Kha cũng hiếm có, sư thưa cùng A Di Đà Phật: “Con nghiệp chướng rất nặng, chẳng chống cự nổi những dụ dỗ, mê hoặc, người ta dẫn dụ là con lại phạm tội, phạm tội nữa thì chẳng biết mười năm sau con tạo không biết bao nhiêu là tội nghiệp, con chẳng cần sống thêm mười năm nữa đâu, bây giờ con cứ theo Phật thôi!” Phật cũng từ bi đáp ứng: “Ba ngày sau ta sẽ đến tiếp dẫn ông”. Ba ngày sau sư liền vãng sanh.

    Kinh A Di Đà nói niệm một ngày, hai ngày đến bảy ngày là thật đấy, chẳng phải giả đâu. Vì sao chúng ta niệm Phật đã lâu như vậy mà chẳng được vãng sanh? Chúng ta chỉ ưa thích vãng sanh nơi cửa miệng, chứ trong tâm tham luyến thế giới này , bỏ chẳng được! Phật biết rất rõ ràng, minh bạch, biết những lời quý vị nói đều là giả, nói không thật, nên Ngài chẳng đến; quý vị thật sự muốn vãng sanh, Phật sẽ đến. Quý vị chẳng nói lời chân thật, miệng đúng, tâm sai, nên có niệm suốt đời, Phật cũng chẳng nghĩ đến, còn người ta niệm chỉ ba ngày là Phật liền nghĩ đến ngay, là vì nguyên nhân nào? Vì thật sự niệm. Nếu như ở đây chúng ta đả Phật thất đúng như thế, niệm Phật bảy ngày liền vãng sanh thì sẽ chẳng còn ai đến đây nữa đâu! Đúng vậy đó, sau bảy ngày là phải chết rồi, còn ai dám đến đây nữa!

    Đoạn kinh này nói về người phá giới, nhưng chẳng phá chánh kiến, [vẫn còn là] chánh tri, chánh kiến, chẳng phải là tà tri, tà kiến. Chánh kiến đó là nhân để giải thoát, họ sẽ được cứu, được vãng sanh, không chỉ vãng sanh mà lắm khi phẩm vị vãng sanh còn rất cao nữa kia! Qua kinh điển, chúng ta thấy vua A Xà Thế, chẳng hạn theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, vua từng giết cha, hại mẹ, theo Đề Bà Đạt Đa phá hoại Tăng đoàn, tạo tội ngũ nghịch, thập ác. Đề Bà Đạt Đa đọa địa ngục, còn vua lúc lâm chung mới sám hối, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, Phật bảo nhà vua là thượng phẩm trung sanh, thật là ngoài sức tưởng tượng của chúng ta!

    Bởi thế, chúng ta mới hiểu được rằng: Có hai loại người vãng sanh Tịnh Độ, một là hạng bình thời niệm Phật tích công lũy đức, hai là khi lâm chung sám hối, phẩm vị cao hay thấp phụ thuộc sức sám hối của người đó. Vua A Xà Thế chân tâm sám hối, nên đạt được phẩm vị cao như thế. Bởi thế, chúng ta chẳng được khinh mạn những người tạo ác nghiệp, “chẳng nên thấy lỗi họ”.

    Trích Phát Khởi Bồ Tát Thù Thắng Chí Nhạo Kinh Giảng Ký
    Chủ giảng: Hòa Thượng Thích Tịnh Không
    Cư sĩ Truyền Tịnh chỉnh lý
    Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

    Nguồn: duongvecoitinh.com

    Lại nữa, Bồ-tát do tâm đại bi mà trì giới, được đến Phật đạo, ấy gọi là Thi-la Ba-la-mật.

    Lại nữa, Bồ-tát trì giới có thể phát sanh sáu Ba-la-mật, ấy gọi là Thi-la Ba-la-mật.

    - Thế nào là trì giới có thể sanh giới? Nhân năm giới mà được Sa-di giới, nhân Sa-di giới mà được Luật nghi giới. Nhân Luật nghi giới mà được Thiền định giới. Nhân Thiền định giới mà được Vô lậu giới, ấy gọi là sanh giới.

    - Thế nào là trì giới có thể sanh bố thí? Bố thí có ba: 1- Tài thí, 2- Pháp thí, 3- Vô úy thí. Trì giới thì tự kiểm thúc không xâm phạm tài vật của hết thảy chúng sanh, ấy là tài thí. Chúng sanh gặp được, kính mộ việc làm đó, nên lại thuyết pháp cho họ, khiến được khai ngộ. Lại tự suy nghĩ: “Ta sẽ kiên trì tịnh giới, để làm ruộng phước cho hết thảy chúng sanh cúng dường để chúng sanh được vô lượng phước. Các thứ như vậy, gọi là pháp thí. Tất cả chúng sanh đều sợ chết, trì giới không làm hại, ấy là vô úy thí.

    Lại nữa, Bồ-tát tự suy nghĩ: “Ta sẽ trì giới, do quả báo của trì giới, mà vì các chúng sanh làm Chuyển luân Thánh vương, hoặc làm vua cõi Diêm-phù-đề, hoặc làm vua trời, khiến cho chúng sanh được đầy đủ tài vật, không bị thiếu hụt, vậy sau mới ngồi dưới gốc cây Bồ-đề, hàng phục Ma vương, phá các Ma quân, thành Vô thượng đạo, vì các chúng sanh thyết thanh tịnh pháp, khiến vô lượng chúng sanh vượt qua biển lão, bệnh, tử”. Ấy là nhân duyên trì giới sanh Ðàn Ba-la-mật.

    - Thế nào là trì giới sanh nhẫn nhục? Người trì giới tâm tự nghĩ rằng: “Ta nay trì giới vì tự tâm, nếu trì giới mà không nhẫn nhục, sẽ đọa địa ngục. Tuy không phá giới, song vì không nhẫn nên không khỏi sa ác đạo. Sao được buông lòng giận mà không tự chế tâm? Chỉ do vì tâm mà đọa vào trong ba ác đạo. Thế nên, phải tự khéo cố gắng, siêng tu nhẫn nhục.

    Lại nữa, hành giả muốn cho giới được kiên cường, hãy tu nhẫn nhục, vì sao? Vì tu nhẫn là sức lớn, làm bền chắc giới, khiến không lay động. Lại tự suy nghĩ: “Ta nay xuất gia thân hình khác tục, đâu thể buông thả như tâm thói người đời. Nên tự cố gắng, lấy nhẫn điều phục tâm. Do thân miệng nhẫn, mà tâm cũng dược nhẫn, nếu tâm không nhẫn, thân miệng cũng vậy”. Cho nên hành giả nên làm cho thân, miệng, tâm đều nhẫn, dứt hết sự giận dữ.

    Lại nữa, giới ấy lược nói thời có tám vạn, nói rộng thời vô lượng, ta phải làm sao giữ đủ vô lượng giới pháp? Chỉ phải nhẫn nhục, thì mới tự đầy đủ các giới. Ví như có người đắc tội với vua, vua chở người tội trên xe đao, bốn phía đặt mũi nhọn, không chỗ xen hở, rong chạy vội vã, đi không chọn đường, nếu khéo giữ mình thì không bị dao đâm, thế là giết mà không chết, người trì giới cũng như vậy. Giới là đao bén, nhẫn là giữ mình, nếu tâm nhẫn không vững thì đao giới đâm người. Lại ví như người già đi đêm, không gậy là bị té ngã. Nhẫn là gậy của giới, giúp đỡ người đi đến đạo, nhân duyên phước lạc, không lay động được. Các thứ như vậy, gọi là trì giới sanh Sằn-đề Ba-la-mật.

    - Thế nào là trì giới sanh tinh tấn? Người trì giới, trừ bỏ phóng dật, tự sức siêng tu tập quán vô thượng, bỏ vui thế gian, vào trong thiện đạo, chí cầu Niết-bàn để độ hết thảy, tâm lớn không biếng nhác, lấy việc cầu đạo làm gốc, ấy là trì giới sanh tinh tấn.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  9. #9

    Mặc định

    Án Ma Ni Bát Di Hồng

    ( OM MANI PADME HUM)

    Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng vào năm 1971

     

    Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng lạn.

     

    Sáu chữ nầy gọi là “Chú Lục Tự Đại Minh”, mỗi chữ đều có thể phóng ra một luồng ánh sáng.

    Mật tông chuyên nghiên cứu về lời và ý nghĩa của thần chú. Phật giáo phân thành năm tông phái là: Thiền tông, Giáo tông, Luật tông, Mật tông và Tịnh Độ tông. Thiền tông chuyên về tham thiền tĩnh tọa; Giáo tông chuyên về giảng kinh thuyết pháp; Luật tông thì tu trì, nghiêm tịnh giới luật, làm mô phạm trong ba cõi. Về Mật tông, thì “mật” là bí mật, là “không biết lẫn nhau” (hỗ bất tương tri). Tịnh Độ tông thì chuyên trì danh hiệu, niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A Di Đà Phật”.

    Trong năm tông phái nầy, có người cho rằng Thiền tông là hơn hết; có người lại cho Giáo tông hay nhất; lại có người cho Luật tông là đứng đầu; người tu theo Mật tông thì nói Mật tông của mình là cao siêu nhất; người tu theo pháp môn Tịnh Độ thì nói pháp môn Tịnh Độ là số một, không gì sánh bằng. Trên thực tế, các pháp đều bình đẳng, không có cao thấp—“thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ”. Cho rằng một pháp nào đó tối thắng, chẳng qua chỉ là cái thấy của cá nhân, mình thích tông nào thì cho tông đó là nhất.

    Bây giờ chúng ta đang nói về Mật tông. Theo cách hiểu thông thường của mọi người thì Mật tông là Lạt Ma giáo. Kỳ thực, Mật tông không phải là cái gì bí mật. Trong Hiển giáo thì Hiển-Mật viên thông—trong Hiển giáo cũng có Mật giáo; như Chú Đại Bi, Chú Lục Tự Đại Minh đều là “mật” cả. Chú Lăng Nghiêm lại càng “mật” hơn nữa. Nên nói “mật” chính là, không biết lẫn nhau.

    Người không hiểu thì cho rằng cái gì bí mật mới tốt nhất, vì nó không được truyền bá công khai. Có một số người không hiểu Phật Pháp, lại càng làm ra vẻ thần bí, bảo: “Cái nầy không thể giảng cho ông nghe được. Mật tông của tôi ấy à, không thể giảng cho ông nghe được đâu!” Quý vị không thể giảng cho người khác nghe, thì tại sao quý vị lại đề cập đến nó chứ? Tại sao quý vị lại nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải không nói gì cả mới đúng, tại sao quý vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Quý vị nói rằng mình không thể giảng, song, như thế có phải là quý vị đã giảng rồi không? Đó chính là quý vị đã giảng rồi đấy! Thế tại sao còn nói là không thể giảng được? Là vì không hiểu rõ Phật Pháp, căn bản không hiểu được cái gì gọi là “Mật Tông”!

    Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe về Mật tông. Lời chú, thật ra không có gì bí mật cả. Sở dĩ được gọi là Mật tông, vì khi quý vị trì tụng lời chú, bản thân quý vị sẽ nhận được sự linh cảm mà tôi không thể biết được; khi tôi trì tụng lời chú, thì bản thân tôi sẽ có được sự linh cảm mà quý vị không thể biết được. Vì chúng ta không thể biết được công năng và sức mạnh của lời chú đối với mỗi người, cho nên gọi là Mật tông; chứ bản thân bài chú tuyệt đối không phải là Mật tông. Chính năng lực của chú mới là “mật”. Đó là ý nghĩa của Mật tông vậy.

    Nếu lời chú là bí mật, thì quý vị không nên truyền cho người khác; một khi quý vị đem truyền cho người khác thì nó không còn là bí mật nữa. Cũng thế, Lục Tổ và Huệ Minh có một đoạn đối đáp như sau:

    Huệ Minh hỏi: “Ngoài mật ngữ mật ý Ngài vừa giảng, còn mật ý nào nữa chăng?”

    Lục Tổ đáp: “"Ðiều tôi nói với ông đó chẳng phải là mật. Nếu ông phản chiếu, thì mật ấy ở ngay nơi ông."

    Quý vị thấy không, đoạn đối đáp trên đã nói rất rõ ràng: Điều mà quý vị có thể nói ra thì chẳng còn là bí mật nữa. Những gì có thể trao truyền cho quý vị cũng giống như thế. Nếu là bí mật thì không nên truyền. Sự bí mật vốn ở ngay nơi quý vị, sát bên cạnh quý vị. Đây mới chính là cái được gọi là bí mật.

    Tôi tin rằng ngay cả các Pháp sư của Mật tông cũng không biết cách giải thích về “mật tông” như thế nào; họ chỉ cho rằng bài chú là bí mật. Nhưng bài chú nào cũng đều có thể trao truyền cho mọi người, lời chú nào cũng đều có thể nói ra; không có bài chú nào là không thể nói ra cả! Nếu không được nói ra thì họ sẽ không có cách nào để truyền cho quý vị, có đúng vậy không nào? Chúng ta giảng chân lý nầy là vì nó có thể được truyền đạt cho quý vị, không phải là bí mật—đây không phải là Mật tông!

    “Mật,” thì không có cách gì để truyền đạt. Điều bí mật chính là năng lực của bài chú. Không ai có thể nói cho quý vị biết chú nầy có năng lực gì, hoặc quý vị trì tụng thì sẽ như thế nào, như thế nào; mà “như người uống nước, nóng lạnh tự biết”—chỉ có quý vị tự mình biết mình mà thôi, người khác không thể nào biết được, do đó gọi là “mật”. Năng lực là bí mật, sự cảm ứng là bí mật, diệu dụng là bí mật, chứ không phải bài chú là bí mật! Bây giờ quý vị đều hiểu rõ rồi chứ?

    Những người không hiểu rõ Phật Pháp ắt hẳn cho rằng tôi giảng không đúng. Cho dù là không đúng, tôi cũng vẫn muốn nói như vậy. Quý vị cho là tôi đúng ư? Quý vị không thể nào nói như vậy được! Bởi vì quý vị vốn hoàn toàn không hiểu gì cả, thì làm thế nào quý vị biết được là tôi hiểu!!! Tôi thì càng không hiểu gì cả; tôi còn hồ đồ hơn nữa! Có điều, trước kia sư phụ tôi đã chỉ dạy cho tôi rất rõ ràng, cho nên mới biến đổi kẻ hồ đồ này thành một người biết giảng Chú Lục Tự Đại Minh của Mật tông!

    Mật tông được chia thành năm bộ—Đông, Tây , Nam , Bắc, và Trung ương. Phương Đông là bộ Kim Cang, chuyên hộ trì chánh pháp; bộ Bảo Sanh ở phương Nam; bộ Liên Hoa ở phương Tây; bộ Yết Ma ở phương Bắc và bộ Phật ở chính giữa. Nếu có thời gian quý vị hãy nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, trong đó có giảng về năm bộ này một cách tường tận.

    Trên thế gian, nếu có một người trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương không dám xuất hiện; nếu không có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì ma vương trong ba ngàn đại thiên thế giới sẽ lũ lượt kéo đến thế gian. Tại sao ư? Vì không có người quản thúc chúng, năm bộ đều không hoạt động, cho nên ma vương mới dám xâm nhập thế gian. Bởi nếu có một người biết tụng Chú Lăng Nghiêm thì ma vương sẽ không dám xuất hiện, cho nên chúng tôi mong muốn có thêm nhiều người trì tụng Chú Lăng Nghiêm. Trong khoá tu học hè đầu tiên của chúng ta, trước hết, tôi đã khảo hạch xem ai có khả năng học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Kết quả là có hai người đạt tiêu chuẩn, sau đó lại có thêm rất nhiều người có thể tụng chú được. Bây giờ tôi sẽ giảng về Chú Lục Tự Đại Minh.

    Đầu tiên là chữ “Án”. Khi quý vị tụng chữ “Án” nầy, tất cả quỷ thần đều phải chắp tay lại. Vì sao phải chắp tay lại? Đó là giữ gìn pháp tắc, tuân theo khuôn phép. Quý vị tụng một chữ nầy, thì tất cả quỷ thần đều không dám gây rối, không dám không tuân theo mệnh lệnh. Chữ nầy có nghĩa là “tiếng dẫn” (dẫn thanh), là tiếng mở đầu dẫn tới những lời chú tiếp theo, cho nên khi đọc chú, đầu tiên đều đọc chữ nầy.

    “Ma Ni” chính là “mâu ni”. “Mâu ni” là tiếng Phạn, dịch là “trí tịch,” tức là dùng trí huệ để làm sáng tỏ tất cả các đạo lý, và do đó đạt đến trạng thái tịch diệt vô sanh. Lại có thể dịch là “ly cấu,” nghĩa là rời xa tất cả bụi bặm dơ bẩn, ví như viên ngọc “như ý,” rất toàn hảo, không có chút tỳ vết. Viên bảo châu “như ý” nầy có công năng sanh trưởng tất cả công đức, có thể đáp ứng mọi sở nguyện của con người.

    “Bát Di” vốn nên đọc là “Bát Đặc Di,” dịch là “quang minh viên giác”; cũng dịch là “liên hoa khai,” tức là diệu tâm của Bồ tát Quán Thế Âm, diệu tâm ấy viên mãn đầy đủ, vô ngại. Đó là chữ “bát di.”

    Chữ “Hồng” có nghĩa là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ đều có thể được sanh ra từ chữ “Hồng” nầy. Lại có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện thần đến trợ giúp, che chở cho quý vị. Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị có tai nạn gì, tụng chữ nầy liền được tai qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là “thành tựu” —bất luận quý vị cầu nguyện điều gì, đều có thể được thành tựu như ý.

    Một khi quý vị niệm Chú Lục Tự Đại Minh, thì sẽ có vô lượng chư Phật, vô lượng Bồ tát và vô số hộ pháp Kim Cang thường xuyên đến ủng hộ quý vị. Cho nên, Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nói xong Chú Lục Tự Đại Minh nầy, liền có bảy ức đức Phật đến vây quanh, ủng hộ. Năng lực và diệu dụng của Chú Lục Tự Đại Minh không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng đạo giao cũng không thể nghĩ bàn. Do vậy nên gọi là Mật tông. Nếu giảng chi tiết hơn thì ý nghĩa nhiều đến vô lượng vô biên, không thể nào nói cho hết được; thế nên tối nay tôi chỉ giảng sơ lược cho đại chúng nghe mà thôi.

    Tôi có thể cho quý vị biết một chút về thứ thần lực bí mật không thể nói ra được. Tại sao tôi bảo là “thần lực bí mật không thể nói ra được”? Bởi vì những điều tôi nói thì chưa được một phần vạn của sự việc. Thế là thế nào? Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm u ám của sáu nẻo luân hồi trở nên sáng lạn. Điều cần thiết là quý vị phải chuyên tâm trì tụng mới có thể đạt được thứ Tam-muội này. Bấy giờ, ánh sáng không chỉ chiếu khắp trong sáu nẻo luân hồi, mà cả mười Pháp giới cũng biến thành “quang minh tạng”. Tôi hy vọng mọi người dù bận rộn đến đâu cũng nên nhín chút thì giờ để trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh nầy.
    Vạn ác dâm vi thủ , vạn thiện hiếu vi tiên .
    Lấy giới làm thầy , lấy khổ làm thầy .

  10. #10

    Mặc định

    Nam mô A di đà Phật!
    Ngồi xét lại mình xưa nay giới nào cũng phạm! Đau lòng thiệt!

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Similar Threads

  1. Phật và chư Thiên-Thế giới quan của Đạo Phật
    By Cửu Phẩm Liên Hoa in forum Đạo Phật
    Trả lời: 18
    Bài mới gởi: 08-06-2012, 01:28 PM
  2. KINH NÊN HÀNH TRÌ VÀ KHÔNG NÊN HÀNH TRÌ
    By linh_tinh_85 in forum Đạo Phật
    Trả lời: 0
    Bài mới gởi: 13-01-2012, 09:27 AM
  3. Bộ Mật Tông Tập 3-KINH CHUẨN ÐỀ ÐÀ LA NI HỘI THÍCH
    By phatphapvoluongton in forum Mật Tông
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 28-06-2011, 12:53 PM
  4. TỬ BÌNH CHÂN THUYÊN
    By thaiduong162 in forum Tử Bình, Tướng, Số, Khác...
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 20-04-2011, 11:29 AM
  5. YOGA GIẤC MỘNG VÀ SỰ THỰC HÀNH VỀ ÁNH SÁNG TỰ NHIÊN
    By ÁNH SÁNG -T2- ÚC CHÂU in forum Mật Tông
    Trả lời: 4
    Bài mới gởi: 21-01-2011, 01:35 PM

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •