"Sự khác biệt giữa Tánh Không của một đứa trẻ trước khi bản ngã của nó thành hình và tánh chất tỉnh thức hoàn toàn trong sáng vô tư như một đứa trẻ của Phật là như thế nào?"
Có sự giống nhau và có sự khác nhau. Thực ra, đứa trẻ là một vị Phật, nhưng Phật tánh của nó, tánh giác ngộ của nó, sự ngây thơ vô tư của nó vốn là tự nhiên, vốn dĩ đã có, không phải là sự thâu hái gặt quả. Sự ngây thơ của nó là một tánh chất, là một loại vô minh, chứ không phải là sự thành đạt tu trì. Sự ngây thơ của nó không có ý thức - đứa trẻ đó không ý thức, không quan tâm chút nào về tỉnh thức. Sự ngây thơ của đứa trẻ vốn sẵn có, vốn đã hiện diện nhưng đứa trẻ đã lãng quên, vô ý thức. Nó sẽ đánh mất sự ngây thơ vô tư đó. Nó phải mất. Thiên đường tuổi thơ sớm hay muộn gì rồi cũng sẽ bị mất; đứa trẻ đang đi trên con đường đánh mất tuổi thơ. Ðứa trẻ nào cũng đều đi qua những cửa ngõ đỗ vỡ, bất tịnh - đó là cuộc đời, là thế giới chúng ta đang sống.
Sự ngây thơ của đứa bé là sự ngây thơ của Adam trước khi bị trục xuất ra khỏi vườn Ðịa Ðàng, là sự ngây thơ trước khi Adam nếm thử Trái Cấm Tri Thức, là sự ngây thơ trước khi Adam có ý thức. Nó giống như bản năng của loài thú vật. Anh hãy nhìn vào mắt của bất cứ giống vật nào - một con bò, một con chó - anh thấy gì không? Ðó, ở đôi mắt con bò, con chó đó, có sự trong sáng, ngây thơ, cái tánh chất trong sáng ngây thơ vốn từng hiện hữu trong đôi mắt một vị Phật, nhưng duy có một sự khác biệt giữa nhau.
Sự khác biệt đó thật khác, thật xa nhau, khác hoàn toàn và mông mênh: đó là vị Phật đã "trở về nhà," còn loài vật thì "chưa rời khỏi nhà."
Ðứa trẻ vẫn ở vườn địa đàng, vẫn còn ở thiên đường. Nó sẽ mất thiên đường - bởi vì khi được một cái gì thì đổng thời ta sẽ mất đi một cái gì đó, bù lại.
Phật đã trở về nhà . . . sau khi đi một vòng thật tròn đầy. Phật đã bỏ đi, đã lạc bước, đã thất lạc, Phật đã rớt xuống tận cùng hố thẳm của tội lỗi, của đói khát, khổ đau, của địa ngục. Những "kinh nghiệm sống sót" sau những lần rơi xuống đó là một phần của sự trưởng thành và khôn lớn. Không có những kinh nghiệm đau thương đó, bộ xương của anh sẽ không có cứng cáp đâu, anh sẽ oặt ẹo, không có xương sống; có nghĩa là anh không có cái cột trụ nào để chống đỡ cả. Không có những kinh nghiệm thăng trầm biến đổi đó, sự ngây thơ của anh rất mong manh, nó không thể chịu đựng nổi sóng gió, bão tố cuộc đời. Nó rất yếu, nó không thể sống sót được. Sự ngây thơ trong trắng của anh phải chịu đi xuyên qua ngọn lửa cuộc sống - anh sẽ mắc phải một ngàn lẻ một lỗi lầm, một ngàn lẻ một lần anh bị rơi tòm xuống hố, nhưng rồi anh sẽ ngóc cổ đứng dậy trở lại được. Tất cả những kinh nghiệm đó, từ từ, từ từ sẽ làm anh chín muồi, sẽ làm anh khôn lớn chững chạc, và anh sẽ trưởng thành.
Sự ngây thơ của Phật là sự ngây thơ của một người đã trưởng thành, hoàn toàn trưởng thành. Cái tánh chất trẻ con là một vòng tròn không có trọng điểm nào ở trung tâm cả. Phật tánh cũng là một vòng tròn, một chu vi nhưng trụ rễ lại ở ngay trung tâm. Tánh chất trẻ con là không tên, một nặc danh không có ý thức. Phật tánh cũng nặc danh nhưng có ý thức. Cả hai đều vô sắc, vô danh . . nhưng đứa trẻ thì chưa biết gì về hình thái và khổ đau của sự không tỉnh thức. Nó cũng giống như anh chưa bao giờ ở tù nên anh không hiểu được tự do là gì, tự do qúi báu như thế nào. Và rồi anh bị ở tù nhiều năm hay nhiều đời, và một ngày kia, anh được phóng thích . . . anh rakhỏi tù, anh nhẩy, anh hát, anh ca; thật tuyệt diệu, ôi vô cùng tuyệt diệu! Và anh ngạc nhiên xiết bao khi anh thấy có người sống ở ngoài cửa ngục, đi đứng tự nhiên trên đường, đi đến sở làm, đến công xưởng, đến văn phòng . . . nhưng họ không hưởng thụ được tự do một chút nào - họ đã lãng quên, họ không biết rằng họ đang sung sướng được tự do. Làm sao họ biết được? Bởi vì họ chưa hề ở tù nên họ không biết cái đau khổ bị mất tự do; nền tảng của sự nhận thức của họ đã mất. Cũng giống như anh viết bằng phấn trắng lên trên bức tường mầu trắng - không có một ai có thể đọc được anh đã viết những gì. Anh sẽ nói gì với họ đây - bởi vì ngay cả chính anh, anh cũng không đọc được anh đã viết những gì.
Tôi có nghe một câu truyện dí dỏm về Mulla Nasruddin. Ông là người duy nhất trong làng biết viết; vì thế mọi người thường hay đến tìm ông để nhờ ông viết thơ, viết đơn từ, v.v. Ông là người duy nhất biết viết chữ. Một ngày kia, có một người đến nhà nhờ Nasruddin viết dùm cho một lá thơ theo lời hắn ta đọc - và lá thơ thật dài, dài lê thê - cuối cùng, người đàn ông đó nói với Nasruddin, "Ông vui lòng đọc lại tôi nghe, bởi vì tôi muốn chắc chắn rằng tất cả những gì tôi muốn nói đều được viết hết trong thơ, tôi không quên điều gì và ông cũng không bỏ sót hay viết lộn xộn một cái gì."
Mulla trả lời: "Bây giờ mới thực là khó khăn đấy. Tôi biết viết nhưng khổ quá, lại không biết đọc. Vả lại hơn nữa, lá thơ này không phải gởi cho tôi, cho nên thật không phải phép, không lịch sự để đọc lá thơ này."
Người kia đuối lý, bị thuyết phục, ý kiến của Nasruddin hoàn toàn đúng và hắn ta chỉ còn nước nói, "Phải, ông nói chí phải - lá thơ không phải gởi cho ông."
Nếu anh viết bằng phấn trắng trên bức tường trắng, chính anh cũng không đọc được, nhưng nếu anh viết trên bảng đen thì tất cả những gì anh viết đều hiện rõ ràng - anh có thể đọc được. Ðó, sự tương phản cần có nhau để hiện khởi. Ðứa trẻ không có sự tương phản; đứa trẻ làdãi lụa bạc trắng không có một đốm đen; tâm hồn đứa trẻ vô ý thức dưới bất cứ tình huống trạng thái nào; nhưng Ðức Phật là dãi lụa bạc trắng tinh trong vầng mây đen ám, tỉnh thức trong từng sát na mọi trạng huống thay đổi của tâm.
Ban ngày, những ngôi sao đã có trên bầu trời, các ngôi sao không biến đi đâu hết, chúng không di chuyển nhanh dễ sợ vậy đâu, chúng không thể biến mất. Cả ngày chúng vẫn có ở trên trời, nhưng anh không thể thấy chúng. Nhưng đến ban đêm, anh thấy các vì sao rõ hơn bởi vì có màn đêm tương phản. Hoàng hôn càng dần thấp xuống, càng xuống thấp, những ngôi sao lấp lánh hiện rõ ra trên bầu trời.
Ðứa trẻ có sự ngây thơ nhưng không có một cái nền tảng, một cái phông gì cả. Anh không thể thấy sự ngây thơ, anh không thể đọc được sự ngây thơ, anh không thấy gì cả vì không có sự đối nghịch tương phản. Một vị Phật thì đã sống trọn cả cuộc đời, đã làm tất cả những gì cần làm - tốt và xấu - đã chạm đến cái cực điểm, đã là một người tội lỗi, một vị thánh. Hãy nhớ là, một vị Phật không phải chỉ là thánh nhân đâu nhé; Phật có thể là một người tội lỗi, và cũng đã là một vị thánh. Chân Như Phât Tánh là vượt qua cả thánh - phàm, tội lỗi - trong sạch. Và bây giờ, vị Phật đó đã "trở về." Hãy nhớ là, Phật có nghĩa là "giác ngộ, là thức tỉnh!"
Ðó là lý do Phật đã thuyết trong bản kinh ngày hôm qua: "Na jhanam, na praptir na - apraptih - Vô Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố . . ." Không có trí, không có đắc, không có cả cái không chứng đắc. Khi Phật chứng đắc đại giác, có người đã hỏi Phật, "Ngài chứng đắc gì vậy?" Phật đã cười, nói rằng, "Ta không chứng đắc gì cả - Ta chỉ khám phá cái gì đã tiềm tàng sẵn có trong ta. Ta chỉ đơn giản "trở về." Ta đã thấy cái gì luôn vẫn ở trong ta, chân thật là của ta. Ta không bám víu chấp thủ vào cái đó, Ta chỉ đơn giản nhận diện ra nó. Ðó không phải là sự khám phá, mà đó là sự nhận diện trở lại, sự tái khám phá. Khi nào ngươi đạt được qủa vị giác ngộ, ngươi sẽ thấy hiểu được điều đó - không có chứng đắc gì cả khi đạt qủa vị giác ngộ. Bất thình lình ngươi thấy đó chính là Bản Tánh uyên nguyên của ngươi. Nhưng để thấy được chân tâm thường hằng đó, ngươi phải lạc bước, ngươi phải xuống sâu tận cùng cơn trốt xoáy của dòng sống. Ngươi phải nhẩy vào tất cả những nơi chốn và không gian bùn lầy ô nhiễm, chỉ để thấy Tánh Trong Sáng Tuyệt Ðối của ngươi, Tánh Thanh Tịnh Vô Nhiễm của ngươi."
Ngày trước, tôi đã nói về 7 lớp cửa - mà qua đó tự ngã con người được hình thành như thế nào, cái ảo giác về tự ngã bành trướng lên ra sao. Vì thế, thật hữu ích thiết thực để đi sâu tận vào những biến đổi trạng thái tự ngã.
Bẩy lớp cửa tự ngã đó không cách biệt và xa rời nhau, bẩy lớp cửa đó chồng tréo lên nhau. Song rất hiếm thấy một người nào đó thấu đạt được tự ngã của họ qua bẩy lớp cửa đó. Nếu người nào thẩm thấu được, họ chính là một tự ngã toàn vẹn, là chân ngã, là đại ngã. Và chỉ có Ðại Ngã mới có khả năng biến mất, chứ không phải là tiểu ngã, một bản ngã không hoàn hảo. Khi một trái cây chín, tự nó sẽ rơi xuống, khi nó chưa chín, nó vẫn đeo trên cành. Nếu anh vẫn bám víu vào bản ngã, hãy nhớ - trái cây chưa chín, vì thế� nó bám đeo lủng lẳng - cũng vậy, trái giác ngộ chưa chín, nó vẫn bám vào cành cây Chấp Ngã.
Ðây là nghịch lý: rằng chỉ có một tự ngã hoàn toàn thực sự tiến hóa mới có thể xả ly.
Thông thường, anh nghĩ rằng một người chấp ngã sẽ không thể nào xả ly được. Ðó không phải sự quán sát của tôi mà cũng không phải sự chiếu soi của chư Phật qua bao a tăng kỳ kiếp đến nay. Thực tế thì chỉ có người chấp ngã trọn vẹn mới có thể triệt để xả ly được. Bởi vì chính hắn, chỉ có hắn thấm sâu, hiểu rõ được cái đau khổ của tự ngã, chỉ có hắn mới có sức mạnh để xả ly. Hắn đã biết tất cả khả năng của tự ngã và cũng đã lọt tận vào những tình trạng bất mãn, bực mình, không như ý. Hắn đã đau khổ quá nhiều, và hắn hiểu thôi thế là qúa đủ rồi, hắn muốn tìm cách để xả ly bản ngã. Cái duyên cớ để xả ly có thể là Chúa, là Thượng Ðế, có thể là người thầy của hắn, bất cứ một duyên cớ, một đối tượng nào cũng được, hắn muốn vịn vào đó để xả ly dễ dàng sự ràng buộc của bản ngã hắn. Gánh nặng đó đã quá nặng và hắn đã gánh mang trên vai quá lâu rồi.
Những ai không phát triển được tự ngã triệt để cũng có thể xả ly nhưng sự xả ly đó của họ chưa toàn triệt. Vẫn còn một cái gì sâu thẳm bên trong đang bám víu chấp chặt, một cái gì sâu thẳm bên trong vẫn còn lấp lóe: "Có thể còn có cái gì đó trong tự ngã. Tại sao phải xả ly?"
Ở phương Ðông, cái tự ngã con người không được bộc lộ trọn vẹn. Họ đã học bài học Vô Ngã nhưng thực ra họ hiểu chưa toàn triệt về thuyết Vô Ngã. Họ đã hiểu sai khi họ quan niệm rằng nếu cái ngã đã được xả bỏ thì cần gì phái phát huy nó, để làm gì cơ chứ? Họ lý luận rất đơn giản: cái ngã phải bị đoạn trừ, cần phải đoạn trừ, thế thì bận tâm phát huy nó để làm gì? Tại sao phải tốn hao công sức để tạo lập nó? Nó phải bị đoạn bỏ. Vì quan niệm đó, người phương Ðông không quan tâm mấy về sự phát huy tự ngã. Và người phương Ðông rất dễ dàng cúi mình xuống lễ lạy bất cứ một ai. Họ dễ dàng xả bỏ tự ngã.
Anh sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng tất cả chư Phật ở phương Ðông đều phát xuất từ dòng Sát Ðế Lợi, dòng chiến sĩ - Phật, Mahavira, Parshwanath, Neminath. Tất cả hai mươi bốn vị đạo sư của Kỳ Na giáo cũng thuộc dòng Sát Ðế Lợi, và tất cả đạo sư của Ấn Ðộ giáo - Ram, Krishna - đều thuộc dòng Sát Ðế Lợi - ngoại trừ một người, đó là Parashuram màtheo lời người ta thuật lại là ông ta đã sanh ra trong một gia đình Bà La Môn, nhưng anh sẽ không tìm thấy một chiến sĩ nào đại tài hơn ông ta cả, và cũng thật ngẫu nhiên cuộc đời ông ta là cả một cuộc chiến trường kỳ. Và cũng ngạc nhiên xiết bao khi anh chợt nhận biết rằng không có đến một người Bà La Môn nào tuyên bố ta là một vị Phật, một đạo sư, một ẩn sĩ cả. Tại sao?
Người thuộc dòng Bà La Môn rất khiêm nhường, tự hạ mình; từ buổi ban sơ tu tập, họ đã được dạy dỗ và lớn lên trong sự khiêm cung, cho sự khiêm cung. Từ buổi ban sơ, họ đã học về Vô Ngã, vì thế cái bản ngã của họ không có để mà chín, và vì chưa chín muồi, bản ngã ẩn tàng trong họ vẫn đeo cứng bám víu không rời.
Người ở phương Ðông sở hữu những mảnh tự ngã rời rạc, những mảnh tự ngã vụn vỡ, họ nghĩ rằng thật dễ dàng để xả ly. Họ luôn sẵn sàng xả ly tất cả cho bất cứ một ai. Họ sẵn sàng xả bỏ ngay lập tức, không chậm trễ một phút giây nào cả - nhưng thực ra sự xả bỏ của họ không bao giờ rốt ráo tận cùng; nó chỉ là bề mặt, cạn cợt vậy thôi, luôn luôn cạn cợt vậy thôi.
Phương Ðông trái nghịch hoàn toàn với phương Tây: người ở phương Tây rất đởm lược, thẳng thắn, trung thực và bộc lộ trọn vẹn cá tánh bản ngã của họ. Bởi vì toàn bộ nền giáo dục phương Tây là sáng tạo ra một cá nhân tiến hóa, sành sõi, tinh vi, lịch lãm, đặc trưng, cho nên quan niệm rất khó để xả bỏ. Họ cũng chưa hề nghe cái danh từ "Xả Bỏ." Cái danh từ nghe có vẻ xấu xí, bẽ mặt làm sao! Nhưng nghịch lý ở đây là khi một người đàn ông hay phụ nữ Tây Phương không muốn thì thôi, chứ nếu họ muốn xả bỏ thì họ xả bỏ triệt để, không nửa chừng, không cạn cợt bề ngoài. Họ xả bỏ tận cùng, xả trọn vẹn. Sự xả bỏ của họ đi sâu vào tận cốt lõi con người họ, bởi vì cái ngã của họ đã phát triển hết mức. Cái ngã đã phát triển toàn triệt, tột đỉnh; nhưng anh lại cho là khó mà xả bỏ với cái bản ngã lột xác hết mức như vậy. Nhưng thực ra anh đã lầm, khi tự ngã của con người đã lên tới tột đỉnh, một khi họ đã xả bỏ thì họ lại dễ dàng xả bỏ cái một, xả bỏ tuyệt đối. Còn người phương Ðông cứ tưởng là mình đã xả ly tự ngã nhưng kỳ thực vì tự ngã chưa phát huy tột mức thì không bao giờ nó có thể đi sâu tận cùng được - lúc nào cũng ở mức lưng chừng, ương ương dở dở!
Phật là người đã trãi qua những kinh nghiệm cuộc sống, đã kinh qua ngọn lưả cuộc sống, đã lọt xuống tận cùng địa ngục cuộc đời, và đã nung nấu chín muồi bản ngã cho đến tột đỉnh khả năng của mình. Và chính ngay giây phút cực điểm đó, trái tự ngã rơi xuống và biến mất.
Như vậy, anh lại trở thành một đứa bé, anh đã tái sanh trở lại, đó là sự phục sinh. Trươc� hết, anh phải bị đóng đinh trên thập tự giá bản ngã, anh phải đau đớn thống thiết vô vàn trên thập tự giá bản ngã, anh phải vác mang cây thập tự giá bản ngã đó trên chính vai anh - và đi cho đến tận cùng. Cái bản ngã đó cần phải được hiểu, đuợc học, được kinh nghiệm, anh phải trãi qua hết tất cả những yêu cầu đó, thì sau đó anh mới không cần học hỏi nữa. Và đó là một niềm vui sướng to lớn, niềm đại lạc, đại hoan hỷ. Khi anh đã tự do không còn ở trong tù ngục nữa, anh nhẩy múa, anh hát ca, anh reo mừng, anh hò hét . . . đó là buổi lễ ăn mừng con người thật của anh, trong con người anh. Anh không thể tin được là tại sao những người đang sống ngoài cửa tù kia lại lừ đừ, ngắc ngoải chết và đang lê lết tấm thân tàn tạ của họ như vậy. Tại sao họ không nhẩy múa được? Tại sao họ không ăn mừng? Họ không thể reo mừng như anh được bởi vì có bao giờ họ ở tù đâu, họ chưa nếm cái mùi đau khổ trong tù ngục, họ chưa biết cái giá phải trả cho sự Tự Do Tâm Thức. Bởi thế, họ không thể nào thấu hiểu được giá trị đáng qúi của Tự Do, họ không ăn mừng hò hét như anh đang nhẩy múa, mà họ lại tự đày đọa mình vào hố thẳm dục lạc.
Anh phải trãi qua bẩy lớp cửa đó trước khi anh giác ngộ, trước khi anh thành Phật. Anh phải đi qua vùng đen tối nhất của cuộc đời, anh phải đi qua đêm đen tối nhất của tâm hồn, và anh trở về cõi sáng khi bình minh lố dạng, mặt trời phương Ðông chiếu sáng, và tất cả đều tràn đầy ánhsáng, ánh sáng tràn trề, trên mặt, trên môi, trên toàn thân thể. Ánh sáng giác ngộ toả rạng khi anh đã trút bỏ sạch cái lớp bản ngã của anh.
Nếu anh hiểu được tôi, thì toàn bộ cấu trúc đường lối giáo dục là nghịch lý hết: vì đầu tiên họ dạy anh về bản ngã, rồi họ dạy anh về vô ngã, cách xả bỏ bản ngã - người ta đi từ cửa thứ nhất đến cửa thứ hai, thứ ba, và mắc kẹt vào từng mảnh bản ngã rời rạc.
Tôi nói cửa thứ nhất là chính tự thân bản ngã. Ðứa trẻ bắt đầu tìm hiểu từ từ, từ từ: đứa trẻ phải mất gần 15 tháng để nhận thấy có cái gì trong nó và có cái gì ngoài nó, có cái gì tách rời nó. Nó biết nó có một tự thân tách rời hẳn những người khác. Nhưng vẫn có một số người bám víu chấp chặt vào cái mảnh bản ngã đó suốt cả cuộc đời, không sao xa lìa nổi. Ðó là những người duy vật, những người cộngsản, những người theo chủ nghĩa Karl Marx. Những người tin rằng thể chất, thân xác là tất cả, là trên hết - rằng không có cái ngoài cái thể xác này trong anh, rằng thể xác là toàn bộ hiện hữu của anh, rằng không có ý thức tách rời khỏi thể xác, trên thể xác, rằng ý thức chỉ là một hiện tượng hoá học xảy ra trên thể xác anh, rằng anh không tách biệt khỏi thể xác và khi thể xác hủy diệt, chết đi thì anh cũng chết theo, và tất cả biến mất không còn . . .cát bụi trở về cát bụi . . . không có gía trị nào trong anh cả - những loại người này đã hạ giảm con người xuống vật chất - con người chỉ là vật chất không hơn không kém.
Những người này bám đeo lủng lẳng vào lớp cửa thứ nhất; trình độ phát triển trí tuệ của họ dường như chỉ độ 15 tháng tuổi mà thôi. Cái bản ngã nguyên thủy phôi thai đó vẫn còn ở tình trạng vật chất, chưa phát triển được gì. Những loại người này vẫn đeo cứng vào hai thứ: thực phẩm và tình dục. Nhưng hãy nhớ, khi tôi nói "Duy Vật," "Cộng Sản," "Mác Xít," tôi không ngụ ý chỉ có những người duy vật mới chấp phần vật chất, mà cũng có những nhà duy linh học đeo bám vào cánh cửa thứ nhất . . .
(* người dịch tự bỏ một đoạn trong nguyên bản vì cảm thấy chưa được chính xác cho lắm. Bạn đọc muốn biết thì tìm nguyên tác Anh ngữ của Osho)
Anh ủng hộ hay anh chống đối lập thuyết đó, cũng không quan trọng gì - vì chính cái điều anh quan tâm (ủng hộ hay chống đối) đã cho tôi biết rõ thực chất bản ngã của anh đang đeo bám ở đâu. Tôi gồm thâu cả người theo chủ nghĩa Tư Bản vào trong danh sách loại này: người tư bản chỉ quan tâm đến tiền bạc, đến cách vơ vét tiền bạc, đến tích lũy tiền bạc - vì tiền bạc là sức mạnh, là quyền năng; tiền bạc có mãnh lực hơn tất cả. Anh có thể mua mọi thứ vật chất khác bằng tiền bạc. Nhưng anh chỉ mua được vật chất nmà thôi; anh không thể mua bất cứ một giá trị tâm linh nào bằng tiền bạc, anh không thể mua bất cứ một thứ gì có giá trị nội tại bằng tiền bạc; anh chỉ mua được vật chất mà thôi. Vật chất chỉ trao đổi lại bằng vật chất. Anh cũng không thể mua Tình Yêu bằng tiền bạc được; nhưng anh mua được tình dục bằng tiền bạc vì tình dục là phần vật chất của Tình Yêu. Với tiền bạc, vật chất có thể mua bán, có thể trao đổi.
Bây giờ anh ngạc nhiên lắm, phải không: tôi gồm nói luôn cả người cộng sản và người tư bản vào cùng một loại, một danh sách - cả hai là đối nghịch, cả hai là kẻ thù của nhau - song cả hai lại giống nhau, lại cùng một loại đấy. Người tư bản thì chúi đầu vào vơ vét tiền bạc; người cộng sản thì ra vẻ chống đối lại. Hắn không cho phép người dân nào được quyền cất giữ tiền bạc, ngoại trừ chính phủ. Nhưng điều quan tâm của hai kẻ tư bản và cộng sản cũng đều là tiền bạc. Lý thuyết có vẻ khác nhưng mục tiêu thì giống nhau. Thế cho nên, không phải tình cờ mà Karl Marx đặt tên quyển sách nói về chủ nghĩa Cộng Sản của ông ta là "Das Kapital." Ðó là thánh kinh của Cộng Sản, và tựa đề sách là "capital" (tư bản). Chủ nghĩa của người Cộng Sản là không cho phép người dân sở hữu tiền bạc, chỉ có chính phủ được quyền sở hữu, và làm cách nào để sở hữu chính phủ, sở hữu đất nước - như thế, nói tới nói lui, tựu trung cơ bản rõ ràng là làm sao tích lũy vơ vét tiền bạc.
Có một lần, tôi nghe nói Mulla Nasruddin đã thành người Cộng Sản. Tôi biết ông ta mà . . . vì thế tôi hơi ngạc nhiên. Kể ra cũng lạ thiệt! Phép lạ đấy! Tôi biết cả những sở hữu vật chất của ông ta. Vì thế, tôi đi gặp và hỏi Mulla:
-"Này Mulla, ông có hiểu nghĩa "Cộng Sản" là gì không?
-Tôi hiểu chứ!
-Ông có hiểu rằng khi ông có 2 căn nhà mà người kia không có, ông phải chia một căn nhà cho hắn không?
-Tôi sẵn sàng cho, cho ngay bây giờ.
-Ông có biết rằng nếu ông có 2 chiếc xe mà người kia không có, ông phải chia cho hắn một chiếc xe không?
-Sẵn sàng thôi, có gì đâu!
-Ấy thế thì, nếu ông có 2 con lừa, thì ông sẽ cho một con đi chứ?
-À, à, điều này thì tôi không đồng ý, tôi không thể chia được, không, không được.
-Ủa, tại sao vậy, cũng là một lập luận giống nhau, một hệ luận như nhau mà.
Mulla trả lời tỉnh queo:
-Không, không có giống nhau đâu - vì tôi có 2 con lừa, nhưng tôi đâu có 2 chiếc xe, 2 căn nhà!!!"
Ý thức của người cộng sản cơ bản cũng giống như ý thức người tư bản; tư bản cũng giống cộng sản vậy. Họ là người cộng sự với nhau trong cùng một trò chơi bịp bợm - và tên của cái trò chơi đó là "capital, Das Kapital."
Rất nhiều người, hàng triệu người chỉ tiến hoá được cái bản ngã phôi thai, nguyên sơ đó của họ mà thôi. Nếu anh cũng có cái loại bản ngã này thì rất khó cho anh để xả ly được; vì nó chưa chín muồi, nó còn "xanh chát."
Lớp cửa thứ hai, tôi đặt tên nó là Nhận Diện Tự Thân.
Ðứa trẻ bắt đầu hình thành và phát triển cái tư tưởng "Nó là Ai? Nhìn vào trong gương, nó thấy một bộ mặt giống nó. Mỗi buổi sáng, thức dậy, nó chạy vào phòng tắm, nhìn ngắm và nói: "Ðúng, vẫn đúng nó. Cái giấc ngủ kia không làm xáo trộn một cái gì."
Ðứa trẻ bắt đầu đã có một tư tưởng về trạng thái liên tục của tự ngã.
Những người liên quan và bị kẹt vào lớp cửa này là những người duy linh (tạm gọi như vậy đi). Họ nghĩ rằng họ sắp sửa được lên thiên đường rồi, họ sắp bay lên cực lạc đến nơi rồi, họ sẽ được giải thoát rồi, rằng họ sẽ ở đó.
Cũng vậy, khi anh "tưởng" về thiên đường, anh cho là chắc chắn anh s ẽ về đó. Có thể xác thân trần tục này của anh không có ở thiên đường, nhưng cái tánh liên tục nội tại sẽ tồn tại nơi đó. Thật vô lý và ngờ nghệch! Sự giải thoát, sự giải thoát tuyệt đối chỉ xảy ra khi bản ngã đã đươc� hòa tan và tất cả mọi nhận diện đều đã hoà tan và biến mất. Anh là Chân Không . . . là Chân Không . . . Vì thế, này Xá Lợi Phất, trong Chân Không không có Sắc hay "Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc . . ."
Không có tri kiến bởi vì không có ai là người biết cả; ngay cả không có thức bởi vì không có cái gì để được nhận thức và cũng không có ai là người nhận thức về một cái gì. Tất cả đều không! Tất cả đều biến mất!
Cái tư tưởng là đứa trẻ có cái tánh liên tục tự ngã là do các ông Duy Linh Học thổi phồng ra. Họ cứ tiếp tục mầy mò tìm kiếm nào là: linh hồn đi vào thể xác từ đâu, linh hồn thoát ra khỏi thể xác từ cái lỗ hổng nào, hình sắc của linh hồn như thế nào, ông đồng bà cốt , v.v. . . đại loại những thứ như vậy - tất cả những rơm rác và vô nghĩa đó. Cái Ngã không có hình thể. Ðó là Chân Không, đó là bầu trời trong vắt mênh mông không gợn một áng mây. Ðó là vô niệm, là im lặng, là vô hạn, là vô dung. Không có một cái gì có thể đo lường dung chứa được.
Cái tư tưởng về một linh hồn trường tồn, cái ý nghĩ về một bản ngã đó cứ tiếp tục đùa cợt trong trí óc anh. Ngay cả khi xác thân anh hoại diệt, anh vẫn khư khư chấp chặt cái ý nghĩ là "Tôi sẽ sống."
Trước kia, có nhiều người đã đến gặp Phật . . . bởi vì cái xứ sở này (Ấn Ðộ) đã bị cái loại "nhận diện tự thân" này chế ngự: người ta tin rằng là có một linh hồn bất diệt, một linh hồn trường cửu, một thần ngã - vì thế họ cứ đến gặp Phật hoài để hỏi "Khi tôi chết, có cái gì còn lại hay không?" Họ cứ hỏi đi hỏi lại có một câu hỏi đó thôi, và Ðức Phật đã cười và trả lời rằng: "Ngay bây giờ đây, đã không có cái gì rồi, cần gì phải đợi đến chết?"
Từ nguyên thủy ban sơ, đã không có một cái gì. Ðối với tư tưởng người Ấn Ðộ, cái quan niệm, lý thuyết đó thật không thể tưởng tượng nổi! Người Ấn đã bị kẹt vào cái loại Ngã thứ hai, tánh liên tục tự thân, và khó lòng mà chuyển hoá họ được, vì thế đạo Phật (sau khi Phật nhập diệt) đã không thể tồn tại ở Ấn Ðộ. Chỉ trong vòng 500 năm thôi, đạo Phật đã biến mất. Nhưng đạo Phật lai� cắm sâu rễ cái, và mọc nhanh mọc tốt tại Trung Hoa, bởi vì có Lão Tử. Lão Tử đã cấy tạo một mảnh đất mầu mỡ phì nhiêu cho đạo Phật tại Trung Hoa. Thời tiết khí hậu đã sẵn sàng, đã tốt đẹp, y như là người ta đã sửa soạn sẵn cho đất đai; giờ chỉ cần hột giống gieo xuống là nẩy mầm xanh tốt. Khi hạt giống Phật giáo đến Trung Hoa, nó đã nẩy mầm mọc nhanh tốt, xum xuê thành một cổ thụ - nhưng buồn thay tại Ấn, ngay tại quê hương Ðức Phật, đạo Phật đã chìm và biến mất. Vì sao? Vì Lão Tử chẳng có một quan niệm tư tưởng gì về một cái Ngã bất diệt gì cả, và người dân Trung Hoa cũng không thèm quan tâm gì về Ngã hayVô Ngã.
Trên thế giới, có ba loại văn hoá: một loại văn hoá là Duy Vật - loại này chi phối chế ngự nhiều ở phương Tây; loại thứ hai là Duy Linh - chiếm ưu thế ở Ấn Ðộ; và Trung Hoa là loại không duy vật cũng không duy linh.
Ðó là đạo Lão với chủ trương: "Hãy sống trong hiện tại, không màng đến tương lai, bởi vì suy nghĩ về địa ngục và thiên đường, cực lạc và giải thoát có nghĩa là tiếp tục quan niệm về tự ngã chính anh. Ðó là sự ích kỷ, chấp ngã. Theo Lão Tử, theo Ðức Phật, và cũng theo tôi, người nào cứ cố gắng đạt tới thiên đường, cực lạc là một người đại ích kỷ, đại chấp ngã vì hắn không hiểu biết một điều về chính tự nội thân của hắn - đó là Vô Ngã.
Cánh cửa thứ ba là Giá Trị Tự Thân: đứa trẻ học hỏi làm việc và thích thú khi làm những việc đó. Có một số người bị kẹt vào lớp cửa này - họ trở thành những kỹ thuật viên, những nhà trình diễn, những kịch sĩ, những diễn viên điện ảnh, họ là những chính trị gia, những ông bầu v.v. Cái đề mục cơ bản chính là tác nhân; họ muốn phô diễn khoe khoang cho cả thế giới biết rằng họ có thể làm được một cái gì đó. Nếu cuộc đời cho phép họ sáng tạo được một cái gì, tốt. Nếu cuộc đời không cho phép thì những kẻ này sẽ trở thành những kẻ phá hoại.
Anh có biết là Adolf Hitler muốn thi vào trường mỹ thuật không? Hắn ta muốn trở thành một hoạ sĩ; đúng vậy, ý tưởng của hắn là như thế; nhưng bởi vì hắn thi rớt, hắn bị từ chối, bởi vì hắn không trở thành một họa sĩ được, bởi vì hắn không thể thi đậu kỳ khảo hạch ở trường mỹ thuật - sự từ chối đó, sự thi rớt đó đã tác động mãnh liệt lên tâm hồn hắn; sự thi rớt đó là một vố đau điếng tái tê lên bản ngã của hắn, hắn không thể chấp nhận - và thế là sự sáng tạo trong hắn đã trở nên cay đắng chua chát. Hắn biến chất thành một kẻ phá hoại. Nhưng thực sự trong thâm tâm hắn, Hitler muốn thành họa sĩ, hắn muốn vẽ một cái gì đó, muốn làm một cái gì đó. Nhưng bởi vì hắn bị từ chối, hắn bị phủ nhận, tài năng của hắn không được công nhận, thế là để trả thù, hắn bắt đầu châm ngòi hủy diệt.
Kẻ tội phạm và tên chính trị gia không khác xa nhau mấy đâu, cả hai là anh em họ với nhau đấy. Nếu kẻ tội phạm có cơ hội tốt để thực hiện điều hắn muốn hay được phép làm cái gì hắn mong mỏi thì hắn sẽ trở thành một chính trị gia; và ngược lại nếu một nhà chính trị không được hay không có cơ hội nói hay hành động những gì hắn muốn thì hắn sẽ trở thành kẻ tội phạm ngay. Cả hai đều đứng ở bờ vực. Bất cứ lúc nào, nhà chính trị kia cũng có thể thành tên tội phạm và tên tội phạm thành một chính trị gia. Ðiều đó đã xảy ra đã từ bao đời bao kiếp nay, nhưng tại vì chúng ta không có cái nhìn nội tâm đủ sâu sắc để xuyên suốt thấy được sự vật đó thôi.
Cánh cửa thứ tư là Triển Hạn Tự Thân.
Danh từ "của tôi" là danh từ chủ chốt ở đây. Người ta bành trướng cái tự ngã của mình bằng cách tom góp tiền bạc, thâu tóm quyền hành, càng ngày càng bành trướng lớn ra, rộng ra: kẻ yêu nước thì nói, "Ðây là tổ quốc tôi, nước tôi là nước lớn mạnh nhất trên thế giới."
Anh có thể hỏi một người Ấn Ðộ ái quốc và hắn sẽ hò hét lên trong mọi ngóc ngách, hang cùng ngõ hẽm, "Ấn Ðộ là thánh địa, là xứ đạo đức phẩm hạnh, là tịnh độ trên thế giới."
Có một đạo sĩ Ấn Ðộ giáo được thiên hạ tôn sùng tạm phong hiệu thánh, một ngày kia, đến gặp tôi và nói rằng: "Này, ông có tin không, Ấn Ðộ là đất nước duy nhất mà tất cả chư Phật đã sanh ra, rất nhiều bậc Thánh Ðạo sư như Rama, Krishna và những vị khác nữa cũng sanh ra ở Ấn Ðộ đấy. Tại sao? - bởi vì đây là đất thánh, mảnh đất thánh thiện đạo đức nhất."
Tôi đã trả lời: "Sự thật trái lại: nếu ông thấy bên hàng xóm nhà ông, ở nhà một người nào đó, mỗi ngày đều thấy có bác sĩ ra vào, rồi lại vào ra - có khi ônglại thấy một ông dược sĩ, một ông thầy châm cứu, một người chữa bệnh bằng liệu pháp thiên nhiên, và người này người nọ cứ ra vào liên miên - ông nghĩ gì về sự kiện đó?"
Ông đạo sĩ trả lời, "Lẽ dĩ nhiên dễ hiểu thôi, cả nhà người đó bị bịnh rồi."
Ðó, đó chính là trường hợp của Ấn Ðộ: nếu cần nhiều Phật Thánh quá, dĩ nhiên đất nước đó chắc chắn bị bịnh hoạn gì rồi. Có qua nhiều người chữa bịnh, có quá nhiều dược sĩ. Ðức Phật có nói: "Ta là Ðấng Y Vương." Và anh biết Krishna cũng nói, "Bất cứ khi nào cuộc đời tăm tối, bất cứ khi nào có tội lỗi, bất cứ khi nào qui luật của vũ trụ xáo trộn thay đổi, ta sẽ trở lại." Thế thì tại sao thánh Krishna lại trở về lúc này? Tất nhiên là có một lý do nào đó rồi. Nhưng tại sao lại trở về Ấn Ðộ nhiều lần quá vậy?
Tuy nhiên, kẻ ái quốc thì quá hăng hái, quá xung động, quá chấp thủ, quá năng nổ. Hắn ta cứ tiếp tục, tiếp tục gào to tuyên bố rằng: "Ðất nước của tôi đặc biệt, tôn giáo của tôi đặc biệt, thánh đường của tôi đặc biệt, sách của tôi đặc biệt, đạo sư của tôi đặc biệt" - và mọi thứ khác chẳng là cái quái gì cả. Ðó là cái bản ngã của hắn kêu gào như vậy.
Có một số người kẹt cứng vào "cái của tôi" đó. Kẻ chấp tín điều, kẻ ái quốc, tín đồ Ấn Ðộ giáo, con chiên của Chúa, tín đồ Hồi giáo.
Cánh cửa thứ năm là Hình Ảnh Tự� Thân. Ðứa trẻ bắt đầu nhìn sâu vào những sự vật và tìm hiểu kinh nghiệm. Khi cha mẹ nó hài lòng về nó, đứa bé sẽ nghĩ rằng, "À, ta giỏi, ta ngoan, ta tốt." Khi cha mẹ nó nựng nịu, vỗ về, âu yếm nó, nó sẽ cảm thấy rằng, "Ta tốt, ta đáng được khen thưởng." Nhưng khi chamẹ nó giận dữ nhìn nó, la rầy nó, hét lên: "Không được làm cái này, không được làm cái kia . . .," đứa bé sẽ cảm nhận "có cái gì sai khác trong nó." Nó sẽ sợ hãi, giật bắn người lên, lùi bước tránh né.
Người ta kể lại rằng, "Có một đứa bé, ngày đầu tiên đến trường, khi thầy giáo hỏi "Em tên gì?", nó trả lời:
-"Em tên Johnny Don�t (Johnny Không).
Thầy giáo sửng sốt:
-"Johnny Don�t hả? Tên gì lạ vậy, thầy chưa từng nghe qua bao giờ."
Ðứa trẻ đáp:
-"Bất cứ lúc nào, bất cứ cái gì em làm, mẹ em đều la lên: "Johnny, không," bố em cũng la lên: "Johnny, không . . ." Vì thế, em nghĩ đó là tên em. Lúc nào cũng "không," làm cái gì cũng "không." Tất cả những gì em làm đều kỳ quặc, không thích hợp."