A - Nêu lên kiến giải của các nhà chú giải.
Trước tiên, nêu lên ba bậc của thượng phẩm vãng sanh. Có người nói bậc thượng phẩm thượng sanh là các Bồ tát từ Tứ địa đến Thất địa. Vì sao biết như vậy? Vì sanh về đó liền chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Bậc thượng phẩm trung sanh là các Bồ tát từ Sơ địa đến Tứ địa. Vì sao biết như vậy? Vì về đến Cực Lạc, trải qua một tiểu kiếp thì chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Bậc vãng sanh thượng phẩm hạ sanh là các Bồ tát chủng tánh đến Sơ địa. Vì sao biết như vậy? Vì sanh về cõi đó, trải qua ba tiểu kiếp được chứng Sơ địa. Ba phẩm vị này đều là bậc Đại thừa Bồ tát vãng sanh.
Kế đến, ba bậc của trung phẩm vãng sanh. Các nhà sớ giải nói: “Trung phẩm thượng sanh là bậc Tam quả (A na hàm).” Vì sao biết như vậy? Vì sanh về cõi đó liền chứng quả A la hán. Trung phẩm trung sanh là bậc nội phàm. Vì sao biết như vậy? Vì sanh về cõi đó liền chứng quả Tu đà hoàn. Còn trung phẩm hạ sanh là những người phàm tu thiện, sợ khổ cầu vãng sanh. Vì sao biết như vậy? Vì sanh về cõi đó, trải qua một tiểu kiếp chứng quả A la hán. Ba phẩm vị này chỉ là những bậc thánh giả Tiểu thừa vãng sanh.
Cuối cùng, ba bậc của hạ phẩm vãng sanh đều là các phàm phu sơ học Đại thừa, tùy theo nghiệp ác nặng nhẹ mà được chia làm ba phẩm.
B - Dùng lý luận đả phá.
a - Thượng phẩm thượng sanh: Phần trên nói Bồ tát Sơ địa đến Thất địa. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Các Bồ tát từ Sơ địa đến Thất địa là pháp tánh sanh thân, biến dịch sanh thân, không còn bị khổ vì phần đoạn sanh tử. Về mặt công dụng, các ngài đã tu tập phước trí trải qua hai đại a tăng kỳ kiếp, đã chứng nhân không và pháp không, đến trình độ không thể nghĩ bàn, thần thông tự tại, diệu dụng vô cùng. Các ngài thường cư trụ tại báo độ, thường được nghe Báo Thân Phật thuyết pháp, dùng lòng từ bi hóa độ chúng sanh khắp mười phương, trong chốc lát có thể hiện thân cùng khắp. Có việc gì để lo lắng mà phải nhờ đến Phu nhân Vi Đề Hy cầu vãng sanh Cực Lạc? Đoạn văn trên đã chứng minh rằng lập luận của các nhà sớ giải là sai lầm.
b - Thượng phẩm hạ sanh: Phần trên cho rằng bậc vãng sanh này là các Bồ tát từ chủng tánh đến Sơ địa. Không hẳn là như vậy! Như trong Kinh (Hoa Nghiêm) nói: “Các vị Bồ tát này gọi là bậc Bất thoái chuyển. Tuy ở trong sanh tử nhưng không còn bị đắm nhiễm, giống như loài thiên nga tuy ở trong nước mà lông không bị ướt.” Lại như Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: “Các Bồ tát ở giai vị này, do vì được hai loại thiện tri thức thủ hộ, cho nên không bị thoái chuyển. Đó là (1) mười phương chư Phật, (2) mười phương chư Đại Bồ tát. Thường giữ ba nghiệp thanh tịnh, không thoái chuyển trong việc tu hành thiện pháp, cho nên gọi là Bồ tát bất thoái. Các vị Bồ tát này có năng lực thị hiện tám tướng thành đạo, giáo hóa chúng sanh. Về công hạnh tu tập, đã trải qua một đại a tăng kỳ kiếp tu tập phước trí, v.v… Nếu đã có những công đức thù thắng như vậy, còn gì để lo lắng mà phải nhờ đến Phu nhân Vi Đề Hy cầu thỉnh vãng sanh Cực Lạc? Do đây biết rằng lập luận của các nhà sớ giải là sai lầm.
c - Trung phẩm trung sanh: Các nhà sớ giải cho rằng bậc trung phẩm thượng sanh là bậc Tam quả (A na hàm), thế nhưng, những bậc ở giai vị này đã không còn bị đọa ba đường, sanh vào bốn nẻo. Hiện tại, tuy cũng còn tạo nghiệp, nhưng chắc chắn không còn chiêu cảm quả báo đời sau. Đức Phật từng nói: “Bốn bậc thánh (Tiểu thừa) này, cùng ngồi chung với ta trên giường giải thoát.” Nếu đã có công đức như vậy, còn gì phải lo lắng mà phải nhờ đến Phu nhân Vi Đề Hy thưa thỉnh, cầu nguyện vãng sanh? Vả lại, chư Phật đầy lòng đại bi, thương xót những kẻ khổ đau, thường lân mẫn những người đang bị ngập chìm trong biển khổ, do đó mà khuyến tấn bọn họ vãng sanh Tịnh độ. Giống như đối với những người đang bị chết chìm, thì phải nên cứu họ trước, còn những kẻ đang ở trên bờ thì cần gì phải kéo họ lên. Dùng đoạn văn này để chứng tỏ rằng sự phán đoán của các nhà sớ giải cũng sai lầm như phần trước.
C - Dùng “Chín phẩm” đả phá.
A - THƯỢNG PHẨM.
a - Thượng phẩm thượng sanh: Các nhà sớ giải nói: “Bậc thượng phẩm thượng sanh là các vị Bồ tát từ Tứ địa đến Thất địa”, nếu vậy, tại sao Quán Kinh nói: “Ba loại chúng sanh có thể vãng sanh (thượng phẩm thượng sanh). Ba loại chúng sanh nào?
1/ Chỉ cần trì giới, tu tập từ bi,
2/ Tuy không thể trì giới, tu tập từ bi, nhưng có thể đọc tụng kinh điển Đại thừa,
3/ Không thể trì giới, tụng kinh, chỉ có thể niệm Phật Pháp Tăng.
Ba hạng người này, mỗi hạng đều theo hành nghiệp riêng biệt của họ mà tinh tấn hành trì, một ngày một đêm cho đến bảy ngày bảy đêm, tương tục không gián đoạn. Tất cả đều hồi hướng công đức tu tập, cầu nguyện vãng sanh. Lúc sắp mạng chung, đức A Di Đà cùng chư hóa Phật, thánh chúng Bồ tát, phóng quang tiếp dẫn, trong khoảnh khảy ngón tay, hành giả vãng sanh về cõi Cực Lạc.
Đoạn văn này chứng minh, sau khi đức Phật diệt độ, những phàm phu thượng phẩm cực thiện hành trì dũng mãnh tinh tiến, tuy trong khoảng thời gian ngắn, có thể gia nhập vào hàng ngũ của các bậc thượng thánh. Lại nữa, các bậc Bồ tát từ Tứ địa đến Thất địa, về mặt dụng công đã đến trình độ bất khả tư nghì, chả lẽ phải nhờ vào công phu tu tập từ một ngày cho đến bảy ngày để được chư Phật, Bồ tát đến rước, vãng sanh Cực Lạc hay sao?
b - Thượng phẩm trung sanh: Các nhà sớ giải cho rằng bậc vãng sanh này là Bồ tát từ Sơ địa đến Tứ địa. Nếu vậy, tại sao Quán Kinh nói: “Không cần phải thọ trì kinh điển Đại thừa.” Thế nào gọi là “không cần phải”? Nghĩa là đã đọc tụng hoặc chưa đọc tụng, thì gọi là “không cần phải”. Trong kinh chỉ nói đến “khéo hiểu ý thú (của kinh điển)”, chứ chưa đề cập đến việc hành trì. Lại nói “Tin sâu nhân quả, không phỉ báng Đại thừa. Dùng những thiện căn này hồi hướng cầu vãng sanh, thì lúc sắp mạng chung, Phật A Di Đà và các hóa Phật Bồ tát thánh chúng đồng đến tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc”.
Đoạn văn này chứng minh rằng sau khi Phật diệt độ, những hành giả phàm phu Đại thừa, công hạnh yếu kém, cho nên đến lúc lâm chung sự tiếp dẫn có điều khác biệt. Vả lại, các Bồ tát từ Sơ địa đến Tứ địa, dụng công của các ngài bất khả tư nghì, lẽ nào lại phải nhờ đến Phu nhân Vi Đề Hy cầu thỉnh mới được vãng sanh hay sao?
c - Thượng phẩm hạ sanh: Các nhà sớ giải cho rằng bậc vãng sanh này là các Bồ tát chủng tánh (Tam hiền) cho đến Sơ địa. Nếu vậy, tại sao Quán Kinh nói: “Cũng tin nhân quả”. Thế nào gọi là “cũng tin”? Nghĩa là hoặc tin hoặc không tin, cho nên nói “cũng”. Lại nói: “Không phỉ báng Đại thừa, chỉ cần phát Vô thượng đạo tâm (Bồ đề tâm). Hành giả đó dùng đây làm nghiệp chánh, mà không có nghiệp thiện nào khác, hồi hướng thiện nghiệp này, cầu nguyện vãng sanh. Lúc sắp mạng chung, đức A Di Đà và các hóa Bồ tát thánh chúng, cùng đưa tay tiếp dẫn vãng sanh.” Dùng đoạn văn này để chứng minh rằng sau khi đức Phật diệt độ, tất cả các chúng sanh phát tâm Đại thừa, do vì hành nghiệp không mấy tinh tấn, cho nên lúc lâm chung sự tiếp dẫn cũng có sự khác biệt.
B - TRUNG PHẨM
Đối với ba bậc trung phẩm, các nhà sớ giải nói:
a - Trung phẩm thượng sanh là các bậc Tam quả (A na hàm) Tiểu thừa.
Nếu vậy, tại sao Quán Kinh nói: “Nếu có chúng sanh thọ trì Ngũ giới, giữ Bát quan trai, hoặc tu các giới khác, không tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm … Khi lâm chung, được Phật A Di Đà cùng các tỳ kheo quyến thuộc vây quanh, phóng kim quang soi đến mình … Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh tâm vui mừng … Sanh về thế giới Cực Lạc.” Đoạn văn này chứng minh đây là những chúng sanh trì giới Tiểu thừa vào thời kỳ sau khi đức Phật diệt độ. Nào có phải bậc thánh gì đâu?
b - Trung phẩm trung sanh là những nội phàm đã kiến đạo.
Nếu vậy, tại sao Quán Kinh nói: “Nếu chúng sanh giữ chính chắn giới Bát quan trai, hoặc giới Sa di, v.v… trong một ngày đêm, … Hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Khi lâm chung, hành giả này thấy Phật A Di Đà cùng quyến thuộc … liền được sanh về ao sen ở cõi Cực Lạc.” Đoạn văn này chứng minh rằng người vãng sanh không phải là bậc nội phàm. Đây là sau khi đức Phật diệt độ, những phàm phu không biết tu thiện, buông trôi ngày tháng, sau đó nhờ gặp nhân duyên, thọ giới Tiểu thừa, hồi hướng công đức trì giới, cầu nguyện vãng sanh. Nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà liền được vãng sanh. Nếu nói là các bậc thánh Tiểu thừa vãng sanh cũng không ngại gì. Thế nhưng, Phật nói kinh này cho hàng phàm phu, không liên can đến các bậc thánh.
c - Trung phẩm hạ sanh là các phàm phu thế tục Tiểu thừa, chưa nhập vào hàng nội phàm, chỉ lo tu phước thế gian để cầu xuất ly.
Nếu vậy, tại sao Quán Kinh nói: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, hiếu dưỡng cha mẹ, tu hạnh nhân từ thế gian, khi lâm chung gặp thiện tri thức giảng cho nghe về sự vui chơi nơi cõi Phật A Di Đà và bốn mươi tám đại nguyện của tỳ kheo Pháp Tạng. Người ấy nghe xong hoan hỷ niệm Phật mà qua đời, thần thức liền được sanh về Tây phương Cực Lạc thế giới!” Dùng đoạn văn này để chứng minh rằng đây chỉ là những người không gặp Phật pháp, tuy cũng hiếu thảo nhân từ, nhưng chưa hề phát tâm cầu xuất ly sanh tử, đợi đến lúc lâm chung, gặp được thiện tri thức khuyến khích niệm Phật cầu vãng sanh. Người này do sự khuyến khích bèn phát tâm cầu sanh, liền được toại nguyện. Hơn nữa, người này chỉ làm những việc hiếu thảo nhân từ theo nghĩa thế gian, chứ không phải vì cầu ra khỏi sanh tử mà làm những việc này.
C - HẠ PHẨM
Các nhà sớ giải cho rằng “những người vãng sanh ở phẩm vị này là những phàm phu mới học Đại thừa, tùy theo tội chướng nặng nhẹ mà chia làm ba phẩm, chưa có giai vị trong đạo, khó phân cao thấp.” Điều này không đúng! Vì sao biết như vậy? Ba hạng người này, chưa hề có thiện căn thế gian hoặc thiện căn Phật pháp, mà chỉ biết làm ác. Vì sao mà biết?
a - Hạ phẩm thượng sanh: Trong đoạn kinh đề cập bậc hạ phẩm thượng sanh nói: “Người này tạo đủ tất cả các tội ác, chỉ trừ năm tội nghịch và tội báng pháp, không hề có một niệm biết hổ thẹn. Người này lúc lâm chung, gặp được thiện tri thức, giảng cho nghe giáo pháp Đại thừa, dạy cho niệm Phật một câu. Lúc đó, đức Phật A Di Đà liền sai các hóa Phật và chư Bồ tát đến nghinh tiếp, liền được vãng sanh.” Hạng người ác như vậy đầy dẫy khắp nơi, nếu gặp được duyên lành, sẽ được vãng sanh, nếu như không gặp thiện duyên, ắt sẽ đọa vào ba đường ác, khó mà ra khỏi.
b - Hạ phẩm trung sanh: “Người này trước đó thọ giới của Phật, thọ xong không chịu gìn giữ mà còn phá hủy. Lại còn ăn trộm vật của thường trụ tăng và hiện tiền tăng, bất tịnh thuyết pháp, lòng không hổ thẹn. Đến lúc lâm chung, các tướng lửa của địa ngục đồng thời hiện ra. Khi ấy, người này may mắn được gặp thiện tri thức, giảng nói cho nghe công đức của cõi Cực Lạc, khuyên nhủ cầu vãng sanh. Người này nghe xong (sanh lòng tin sâu) .... thấy các vị hóa Phật và Bồ tát hiện thân đến tiếp dẫn vãng sanh”. Lúc chưa gặp thiện tri thức, lửa địa ngục đến đón, sau nhờ gặp thiện tri thức, các vị hóa Phật đến đón. Đây đều là nhờ nguyện lực của đức Phật A Di Đà.
c - Hạ phẩm hạ sanh: “Những chúng sanh này tạo tội ngũ nghịch, thập ác, làm đủ các việc chẳng lành. Những kẻ ngu ấy, do ác nghiệp đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức .... dạy bảo quán niệm Phật A Di Đà .... Người này vâng lời, và do nhờ xưng danh hiệu Phật ... Khi mạng chung .... liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.” Người này nếu như không gặp thiện tri thức, ắt sẽ bị trầm luân, bởi do khi lâm chung gặp thiện tri thức cho nên thất bảo đến nghinh tiếp.
Lại nữa, nếu xem những đoạn kinh trong phần “định thiện” và chín phẩm vãng sanh, thì sẽ thấy bổn ý của Phật là sau khi ngài diệt độ, các phàm phu trong đời ác ngũ trược, do nhân duyên khác nhau mà đưa đến chín phẩm khác biệt. Vì sao? Các bậc vãng sanh ba phẩm thượng là các phàm phu gặp được Đại thừa, các bậc vãng sanh ba phẩm trung là các phàm phu gặp Tiểu thừa, còn các bậc vãng sanh ba phẩm hạ là các phàm phu gặp bạn ác. Dù tạo nghiệp ác, đến lúc lâm chung gặp được thiện tri thức, nhờ nguyện lực của Phât mà được vãng sanh Cực Lạc. Đến lúc hoa nở mới phát tâm (Bồ đề), làm sao có thể cho rằng bọn họ là những người Đại thừa sơ học? Nếu cố chấp vào kiến giải này, tự mình lầm lẫn, lại còn làm cho nhiều người khác lầm lẫn, quả thật là một điều nguy hại vô cùng.
Hiện nay, chúng ta sẽ đem kinh văn ra chứng minh bổn ý của đức Bổn Sư, đồng thời cũng giúp cho các phàm phu thiện ác hiện đời được cao đăng chín phẩm, sanh khởi lòng tin sâu đậm, nhờ nguyện lực của Phật, đều được vãng sanh Cực Lạc.
D - Dùng kinh văn dẫn chứng.
Hỏi: Từ những lập luận vừa nêu trên, làm sao biết chắc rằng đức Thế Tôn vốn vì phàm phu, không phải vì các bậc thánh mà nói kinh này? Không rõ có phải chỉ dựa trên tình cảm mà kích bác, hay có kinh văn nào để dẫn chứng hay không?
Đáp: Chúng sanh phiền não sâu nặng, trí tuệ thiển cận, bổn ý của đức Phật lại sâu rộng khó dò, chúng tôi đâu dám giảng giải theo ý riêng của mình. Hiện nay đem những lời Phật dạy để làm minh chứng. Trong phần này chúng tôi nêu ra mười điều.
Một, Quán Kinh nói: “Phật bảo Vi Đề Hy: Nay ta vì bà nói rộng các thí dụ, cũng khiến cho đời vị lai, tất cả phàm phu muốn tu Tịnh nghiệp, được sanh thế giới Cực Lạc ở phương tây.” Đây là minh chứng thứ nhất.
Hai, Quán Kinh nói: “Như Lai sẽ vì tất cả chúng sanh bị giặc phiền não bức hại trong đời vị lai mà nói ra nghiệp lành thanh tịnh.” Đây là minh chứng thứ hai.
Ba, Quán Kinh nói: “Nay ta sắp dạy bà Vi Đề Hy và chúng sanh đời sau pháp quán thế giới Cực Lạc ở phương tây.” Đây là minh chứng thứ ba.
Bốn, Quán Kinh nói: “Vi Đề Hy thưa: Bạch đức Thế Tôn, con nay nhờ sức Phật được thấy quốc độ kia. Nếu sau khi Thế Tôn diệt độ, những chúng sanh trược ác không lành, bị ngũ khổ bức não, phải làm thế nào để được thấy Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc?” Đây là minh chứng thứ tư.
Năm, trong phần quán “Mặt trời”, mở đầu nói: “Phật bảo Vi Đề Hy: Bà và chúng sanh nên chuyên tâm buộc niệm một chỗ để tưởng cảnh giới Tây phương. ... Phàm tất cả những người, nếu không phải bị mù từ lúc sơ sanh, đều thấy mặt trời lặn.” Đây là minh chứng thứ năm.
Sáu, như trong phần quán “Đất” nói: “Đức Phật bảo A Nan (và Vi Đề Hy): Ông nên ghi nhớ lời dạy của ta, để vì tất cả chúng sanh đời sau muốn thoát khổ, tuyên thuyết môn quán “Đất” này.” Đây là minh chứng thứ sáu.
Bảy, như trong phần quán “Hoa tòa” nói: “Vi Đề Hy được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, liền cúi đầu đảnh lễ và thưa rằng: Bạch đức Thế Tôn! Nay con nhờ từ lực được thấy Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát, chúng sanh đời sau phải làm thế nào để quán tưởng Tây phương Tam Thánh?” Đây là minh chứng thứ bảy.
Tám, kế đến trong phần đáp ứng lời thỉnh nói: “Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: Bà và chúng sanh, muốn quán tưởng đức Phật kia, trước tiên phải khởi tưởng ...” Đây là minh chứng thứ tám.
Chín, trong phần quán “Tượng” nói: “Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tất cả tâm tưởng của chúng sanh, cho nên khi tâm (chúng sanh) tưởng Phật...” Đây là minh chứng thứ chín.
Mười, như trong phần chín phẩm, mỗi phẩm đều nói: “Nếu chúng sanh....” Đây là minh chứng thứ mười.
Mười minh chứng vừa nêu trên đều chứng minh rằng đức Như Lai giảng mười sáu pháp quán này là cho các chúng sanh còn đang chìm đắm trong sanh tử, chứ không liên can gì đến các bậc thánh Đại, Tiểu thừa. Lấy đây làm chứng cứ, lẽ nào không đúng!
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)



Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks