Thiền sư Duy Tắc trả lời hành giả Tịnh độ
Thích Đồng Ngộ
( Trích dịch từ Tịnh Độ Tùng Thư)
(TVHQ): Sư họ Đàm, hiệu Thiên Như, người Cát An, Giang Tây. Thuở nhỏ, Sư xuất gia với ngài Hòa Sơn, sau du phương đến núi Thiên Mục đắc pháp và kế thừa Thiền sư Trung Phong Minh Bản. Năm 1341, Sư trụ ở Sư Tử Lâm thuộc Tô Châu. Năm sau, môn nhân hợp sức dựng chùa Bồ Đề Chánh Tông, thỉnh Sư thuyết pháp, xiển dương tông phong Lâm Tế. Ngoài ra, Sư còn nghiên cứu tột cùng giáo nghĩa của ngài Vĩnh Minh, tông Thiên Thai, xiển dương Tịnh độ, soạn Tịnh độ Hoặc Vấn để trừ nghi và sách tấn hành giả tu tập. Sư được Thuận đế nhà Nguyên ban hiệu Phật Tâm Phổ Tế Văn Tuệ Đại Biện Thiền sư và y kim lan. Tác phẩm do Sư trứ tác gồm : Lăng Nghiêm Kinh Hội Giải 20 quyển, Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ 10 quyển, Tịnh độ Hoặc Vấn, Thiền Tông Ngữ Lục, Thập Phương Giới Đồ Thuyết.
Sư thị tịch vào năm 1354, không rõ Tăng lạp bao nhiêu.
* * *
Một lần, hành giả Tịnh độ đến hỏi Sư :
Đại sư Vĩnh Minh nói : Có Thiền không Tịnh độ, mười hết chín lạc đường, không Thiền có Tịnh độ, vạn người tu vạn chứng, hình như Vĩnh Minh chủ trương Tịnh độ, ít đề cập đến các tông khác, e rằng có quá đề cao Tịnh độ, xem nhẹ Thiền tông chăng?
Thiền sư Duy Tắc đáp :
Câu hỏi này lớn thay ! Phải biết Vĩnh Minh không khen quá lời mà sự thật là như vậy. Tôi từng đọc qua các sách về Tịnh độ, biết rõ yếu chỉ của pháp môn này vốn dễ hành trì, dễ thể nhập, nhưng lại là pháp khó diễn nói, khó tin.
Sở dĩ, Đức Thế Tôn lúc còn tại thế nói Kinh A Di Đà cho chúng đệ tử vì Ngài biết trước rằng trong thời mạt pháp có rất ít người tin và thú hướng tu tập. Bởi vậy, Phật dẫn chư Phật trong sáu phương dùng tướng lưỡi rộng dài, nói lời chân thật nhằm phát khởi lòng tin nơi họ, phá mối nghi cho họ. Trong đoạn cuối của bộ kinh, chư Phật ngợi khen, rồi Thế Tôn tự ngợi khen, rằng : “Ta ở trong đời ác ngũ trược làm việc khó làm, diễn nói pháp khó tin này cho tất cả thế gian, đó là việc vô cùng khó". Phật dặn đi dặn lại như vậy cốt khuyên người tin và thú hướng. Hơn nữa, Đức Thế Tôn đại từ ban pháp trong mạt kiếp, một câu một kệ từ kim khẩu Phật nói ra, tất cả trời người đều tin nhận, vâng làm.
Thế nhưng chỉ riêng pháp môn Tịnh độ này, chúng sanh vẫn còn nghi là tại sao vậy? Bởi vì giáo môn này vô cùng rộng lớn, pháp tu này rất đơn giản, dễ dàng. Do nó rộng lớn nhưng lại đơn giản, dễ hành trì, cho nên chúng sanh không khỏi không nghi.
Nó rộng lớn vì gồm thâu tất cả căn cơ. Trên thì Bồ-tát Bổ xứ trong quả vị Đẳng Giác cũng sanh Tịnh độ, dưới đến ngu phu ngu phụ, bọn vô tri tạo Ngũ nghịch, Thập ác, trong lúc lâm chung niệm Phật sám hối, quy tâm về Tịnh độ thì đều được vãng sanh. Nó đơn giản dễ hành trì vì không cần phải gian nan, lao khổ, lại không bị mê lầm, lạc nẻo. Chỉ cần niệm 4 chữ danh hiệu “A Di Đà Phật" này, nhờ đây mà ra khỏi Ta-bà, sanh về Cực Lạc, được Bất thoái chuyển, thẳng đến thành Phật mới thôi. Nó rộng lớn như thế, đơn giản dễ làm như thế, nên những lời tán thán của Vĩnh Minh tất có dụng ý chứ không phải quá lời.
Hỏi : Phật, Tổ xuất thế vì việc độ sanh, việc lớn đã tỏ thì phát nguyện độ sanh, nay người đạt ngộ lại cầu sanh Tịnh độ, không đoái hoài đến người khác, đó không phải là sở nguyện của tôi !
Sư đáp : Ông cho rằng một khi tỏ ngộ là sạch hẳn cấu uế, được Bất thoái chuyển chăng? Không còn học Phật pháp, tu hành chứng quả nữa chăng? Liền ngang bằng chư Phật, vào sanh vào tử không bị chướng duyên trở ngại nữa chăng? Như vậy thì chư đại Bồ-tát tu Lục độ vạn hạnh trải qua hằng sa kiếp phải hổ thẹn với ông rồi ! Người xưa nói : “Bồ-tát còn mê khi cách ấm, Thanh văn còn muội lúc ra thai", huống gì kẻ hiểu sơ, ngộ cạn thì làm sao tự cứu mình nổi? Giả sử cảnh giới mà ông đạt ngộ sâu xa, sở kiến cao minh, hành giải tương ưng đi nữa, nhưng chưa lên ngôi Bất thoái, lục dụng chưa chu viên, ở trong đời ác trược giáo hóa những kẻ cang cường, đó là điều khó làm được.
Bởi vậy con thuyền không chắc chắn, mà chở nhiều người qua biển dữ, mình và người chết chìm là điều tất nhiên. Cho nên Vãng Sanh Luận ghi : “Vãng sanh cõi kia, được Vô sanh nhẫn rồi, vào lại sanh tử, cứu độ chúng sanh. Vì nhân duyên ấy, nên cầu sanh Tịnh độ". Những bậc tiên thánh cũng nói : “Chưa chứng đắc vị Bất thoái chuyển thì không thể trà trộn độ sanh, chưa được Vô sanh pháp nhẫn thì phải thường không lìa Phật, thí như đứa trẻ thường chẳng xa mẹ, lại như chim non chỉ có thể chuyền cành". Trong quốc độ này, bốn đường ác khổ, nhân quả đẩy đưa, ngoại đạo tà ma, thị phi vây bủa. Sắc đẹp, tiếng hay thường mê hoặc; ác duyên, ô trược mãi tổn thương, hiện đời chẳng có Phật để nương, lại bị cảnh duyên ấy loạn động, thì người mới đạt ngộ làm sao tránh khỏi muôn duyên làm trở ngại !
Bởi vậy, Thế Tôn ân cần khuyên họ cầu về Tịnh độ, đương nhiên là đúng. Vì Phật Di-đà kia đang thuyết pháp, cảnh duyên Cực Lạc thảy thanh tịnh. Còn nữa, nương theo Phật ấy, nhẫn lực dễ thành, chứng quả vị cao, liền được thọ ký, rồi sau giáo hóa chúng sanh, đến đi vô ngại.Thế nên, dù bậc thượng căn thượng trí vẫn nguyện vãng sanh, huống ông là kẻ trung căn hạ trí mới tỏ ngộ Phật pháp ! Lẽ đâu ông không thấy trong Kinh Quán Phật Tam-muội, Văn-thù tự nêu túc duyên, đó là chứng Niệm Phật Tam-muội, sẽ sanh Tịnh độ. Thế Tôn thọ ký cho Ngài rằng : “Ông sẽ vãng sanh thế giới Cực Lạc đó ư?". Ông lại không thấy trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền khuyên Thiện Tài Đồng tử, Hải hội đại chúng, dùng mười Đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc? Ông lại không thấy trong Kinh Lăng-già, Phật thọ ký cho Long Thọ bằng bài kệ : “Trong nước Nam Thiên Trúc, Tỳ-kheo đại danh đức, tên gọi là Long Thọ, hay phá tông Hữu Vô, đem pháp Đại thừa ta, soi sáng khắp thế gian, chứng Sơ Hoan Hỷ Địa, vãng sanh nước An Lạc chăng?" Ông lại không thấy trong Khởi Tín Luận, Bồ-tát Mã Minh phát nguyện cầu sanh; trong Vô Lượng Thọ Luận, Bồ-tát Thiên Thân cũng phát nguyện cầu sanh; trong Kinh Đại Bảo Tích, Thế Tôn ấn khả cho Tịnh Phạn Vương và 70.000 người trong dòng họ Thích vãng sanh Cực Lạc, trong Kinh Thập Lục Quán, Thế Tôn chỉ cho phu nhơn Vi Đề và 500 thị nữ cùng quán Di-đà. Hơn nữa, Tịnh Phạn, Vi Đề … đều là người hiện đời chứng đắc Vô sanh nhẫn, những người như họ ở Tây Trúc không thể nào kể hết. Đông Độ ta có Lô Sơn Viễn Công, các Tôn giả của các tông như Thiên Thai, Hiền Thủ, độ mình độ người, nào tăng nào tục vãng sanh Tịnh độ thật không kể xiết. Quốc vương Tịnh Phạn là cha của Phật, cả 70.000 người trong dòng họ Thích là quyến thuộc của Phật, nếu việc vãng sanh Tịnh độ không có lợi ích, thì Phật khuyên họ vãng sanh làm gì ! Những người chứng đắc Vô sanh nhẫn Phật mới cho phép độ sanh, còn như Tịnh Phạn và quyến thuộc đã được sức Nhẫn này rồi mà Phật vẫn còn thọ ký vãng sanh, như vậy việc Như Lai hộ trì, bảo dưỡng cho họ lẽ đâu không sâu xa chăng?
Phần đông Thiền giả thời nay không cứu xét liễu nghĩa sâu xa của Phật, chẳng biết cơ huyền của Đạt-ma, lòng không trí rỗng, sanh ra cuồng vọng. Thấy người tu Tịnh độ thì chê cười bảo rằng, cái học ấy dành cho kẻ ngu phu ngu phụ làm, quả thật là kẻ dốt nát. Tôi từng luận về sự nhầm lẫn này, rằng ngu phu ngu phụ như Văn-thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Mã Minh … chẳng mê lầm chánh đạo, chẳng mất căn lành, chẳng tan thân mất tuệ, chẳng bại hoại Phật chủng. Những kẻ tạo nghiệp phỉ báng pháp, mạt sát chư Thánh hiền, Phật tổ thấy họ thật đáng xót thương. Bởi vậy, Hòa thượng Vĩnh Minh phơi bày tâm can, chủ trương Tịnh độ, mong họ tự cứu bản thân mình. Ngài chuyên tâm hành trì, giáo hóa kẻ khác, nên lúc lâm chung biết trước giờ mất, lại có muôn ngàn điềm lành ứng hiện, toàn thân thành xá-lợi. Đâu chỉ có ngài Vĩnh Minh, mà những Thiền sư như : Tử Tâm Ngộ Tân, Chơn Hiết Thanh Liễu, Thiên Y Nghĩa Hoài, Viên Chiếu Tông Bản, Từ Thọ Hoài Thâm, Nam Nhạc Tuệ Tư, Tịnh Từ Đại Thông, Thiên Thai Hoài Ngọc, Lương Đạo Trân, Đường Đạo Xước, Tỳ Lăng Pháp Chân, Cô Tô Thủ Nột, Bắc Giản Giản, Thiên Mục Lễ … đều là bậc tông tượng trong Thiền môn, mật tu hiển hóa, xiển dương yếu chỉ Tịnh độ, không hẹn mà gặp, nào đâu chỉ có ngần ấy vị.
Tôi từng nghe một vị Tôn túc nói : “Tông phái của 5 nhà, Thiền tăng trong thiên hạ, ngộ và chưa ngộ, không một người nào chẳng về Tịnh độ". Tôi hỏi nguyên do, vị Tôn túc ấy đáp : “Như Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải là đệ tử chân truyền của Giang Tây Mã Tổ. Tòng lâm trong thiên hạ đều nương Ngài mà dựng lập, từ xưa đến nay không ai dám bàn cãi phải quấy. Thanh quy trong Thiền môn đều nương Ngài mà hành trì, từ trước đến nay không ai dám trái phép tắc ấy. Hãy xem trong Thanh Quy đó nói về việc tụng niệm cho Tăng bị bệnh, trong ấy ghi : Nhóm chúng đồng thanh xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, hoặc trăm tiếng, hoặc ngàn tiếng, rồi hồi hướng phục nguyện rằng : “Các duyên hết sạch, sớm được nhẹ nhàng, mệnh lớn khó thoát, về thẳng Lạc bang". Lại nữa, phần tẩm liệm tống táng chư tăng, đại chúng tụng niệm và hồi hướng phục nguyện rằng : “Thần siêu cõi Tịnh, nghiệp dứt trần ai, hoa sen thượng phẩm mở bày, Phật liền thọ ký đời này vãng sanh". Đến như lúc trà-tỳ, chư tăng vẫn không làm cách thức nào khác, mà chỉ thỉnh Duy-na cao giọng xướng “Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới Đại từ Đại bi A Di Đà Phật". Xướng như vậy 10 lần, đại chúng hòa theo 10 lần, thì gọi là 10 niệm. Xướng xong lại hồi hướng rằng : “Mười niệm vừa rồi, trợ giúp vãng sanh", đó không phải chỉ quy về Tịnh độ thì là cái gì?
Từ Bá Trượng đến nay, phàm lễ nghi tống táng chư tăng đều làm theo cách thức ấy. Thế thì “Tông phái của năm nhà, Thiền tăng trong thiên hạ, không có người nào không về Tịnh độ" lẽ đâu không đúng chăng ! Phải biết bản hoài lập pháp của Tổ sư Bá Trượng đâu phải không có căn cứ. Ông đã không hiểu được ý Tổ sư, lại không tự phát tâm tỉnh giác, vọng cho người đạt ngộ không nguyện vãng sanh, thì sở chấp của Thiền giả trong thiên hạ, thật chẳng ai bằng ông !
![[THẾ GIỚI VÔ HÌNH] - Mã nguồn vBulletin](images/misc/vbulletin4_logo.png)

Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
Bookmarks