- Thờ Phật như một vị THẦN THÁNH quyền năng cứu rỗi chúng sanh (Tha lực) về cảnh Niết Bàn. Đây là do lẫn lộn Niết Bàn - Nibana là cõi trời, cõi vĩnh hằng…và Phật là đấng TOÀN NĂNG cao cả. Do bắt chước hệ tư tưởng của Hồi Giáo và Bà La Môn Giáo.

- LINH HỒN có tồn tại ở dạng THÂN TRUNG ẤM sau khi chết một thời gian rồi mới đầu thai. Theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ thì sau Sát-na cận tử vừa diệt, sát-na kế tục liền sanh ngay sau đó, chúng sanh đó liền chuyển sang loài khác. Như nhiều người vừa chết thành Ngạ Quỷ, là một dạng chúng sanh vừa tái sanh mới. Nhưng nhiều người vẫn nghĩ là oan hồn chưa đào thai. Nên cho là tồn tại một thân giữa chừng.

- PHẬT TÁNH có sẵn trong mọi người, do NGHIỆP che đậy nên không trong sạch nên phải luân hồi, tu tập cầu đạo giải thoát để thấy BẢN THỂ NGUYÊN SƠ. Đây là tư tưởng của Kỳ Na Giáo là Bản thể trong sạch bị mắc kẹt trong Thân xác do Nghiệp che đậy, phải giải thoát và giác ngộ cho Linh Hồn - Phật Tính . Đức Phật không hề đưa ra luận thuyết Phật Tánh trường tồn trong thân xác hay tinh thần của chúng sanh.

- CÚNG TẾ, CẦU AN, CẦU SIÊU .Những phương pháp tế lễ trong thời Phật còn tại thế đều bị ngài bác bỏ. Nhưng sau này đạo phật lại du nhập phương thức này. Như cúng SAO là ảnh hưởng bởi Đạo LÃO ( Thập Nhị Thần Quân, Nhị Thập Bát Tú ). Cúng Hoả, Thuỷ cho chư thần thuộc Bà La Môn.

- TÍNH KHÔNG. Kinh Kim cang nói, “Nhất thiết hiền thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu sai biệt” (từ một pháp vô vi – tức Không – mà có nhiều tầng bậc hiền thánh khác nhau). Do vậy mà với Bồ tát, năm uẩn là không, ấy gọi là nội không”. Đây là ảnh hưởng của hệ tư tưởng của Đạo Lão về Thuyết Vô Vi, vạn vật trở về Đạo hư không! từ Đạo mà khởi sinh vạn pháp.

- TỤNG CHÚ. Theo quan điểm Mật Tông xác quyết “tức thân thành Phật”. Cái thân ngũ uẩn nếu tách rời ngã chấp thì không khác gì thân Phật. Từ nhận định ấy, Mật Tông có những lối tu hành đặc biệt. Một trong những lối tu đó là phương pháp quán Mandala gọi là deity yoga (thiền quán về chư thiên), trong đó, sau khi thiền định về Tính không của tâm thức, hành giả sử dụng nền tảng Không ấy để tưởng về thân và tâm mình như những thực thể hoàn toàn trong sáng không tì vết, như chư thiên. Cái tính KHÔNG này thuộc một loại thiền định vô sắc giới KHÔNG VÔ BIÊN XỨ, THỨC VÔ BIÊN XỨ đã có trước thời đức Phật trong Hindu Giáo.

- HỌC GIÁO PHÁP GOTAMA –TU THEO ÔNG PHẬT KHÁC. Dựa và một số bản kinh đề cập Phật Thích Ca dùng pháp môn chỉ tu qua ông Phật khác để giải thoát. Thật sự theo các nhà khảo cổ và nghiên cứu ngôn ngữ Sankrit thì dựa vào Văn Phạm một số bản kinh, họ xác định niên đại các kinh này được viết sau thời Phật 800 năm như : A Di Đà Kinh, Pháp Hoa, Lăng Nghiêm…nhưng lại không ghi tác giả. Nên rất khó biết được tác giả thuộc hệ phái nào. Theo tạng Tipitaka đã nêu rõ trong 1 Vũ Trụ cùng thời gian không bao giờ có 2 Phật xuất hiện. Và nếu đề cập Phật khác thuộc Vũ trụ khác thì loài chúng sanh trong Vũ Trụ này cũng không thể có Nhân – Duyên ( Đới nghiệp vãng sanh) qua bên kia. Nguyên tắc thành Phật có 5 điều trong đó phải là con người và là nam nhân sinh trong loài Người. Hệ tư tưởng này bị ảnh hưởng bởi tư tưởng vọng ngoại Thần Quyền thuộc Bà La Môn giáo.

- CỔ PHẬT TÁI LAI, A LA HÁN LUÂN HỒI. Một số tư tưởng cho rằng sau khi thành Phật, các vị Phật lại quay lại thị hiện là Bồ Tát, các vị thánh phải luân hồi tu tiếp cho thành Phật. Do bị lẫn lộn giữa Hữu Dư Niết Bản và Vô Như Niết Bàn. Định nghĩa Niết Bàn ( Đức Phật đã nêu rõ Niết Bàn là một trạng thái VÔ SANH - nên không bao giờ tái lai). Tư tưởng này thuộc hệ Hindu giáo về LINH HỒN TRƯỜNG CỮU BHRAMAN. Bhraman ( hiểu lộn là Phật tính ) thường hay thị hiện thành các vị Giáo Chủ, Thần Linh, Phật, Bồ Tát.. xuống thế gian để cứu độ trở về. Nên Hindu giáo thờ phật Thích Ca như là một thị hiện của Bhraman, sau khi Thích Ca trở về Bhraman, một thời gian nữa Bhraman lại thị hiện thêm nhiều vị khác như Di Lặc.

- LUẬN ĐỐN NGỘ HAY ẢNH HƯỞNG BỞI KỲ NA ? Một số Thiền Sư sử dụng một phương pháp PHÁ CHẤP bằng cách không cho đệ tử chấp gì trên đời bằng phương pháp Luận theo học thuyết Bất Nhị như sau :

“ Bất sanh cũng bất diệt
Bất thường cũng bất đoạn
Bất nhất cũng bất dị
Bất lai cũng bất xuất” Trung Quán Luận – Long Thọ

Nhưng trong đoạn kinh Phạm Võng (Brahmajàla sutta) - Dìgha Nikàya chỉ ra 62 loại Tà Kiến ngoại Đạo như sau :

“ Như vậy, vì sợ chấp thủ, vì chán ghét chấp thủ, nên vị ấy không trả lời: "Đây là thiện", cũng không trả lời: "Đây là bất thiện". Khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, vị ấy dùng lời ngụy biện trườn uốn như con lươn:
"Tôi không nói là như vậy.
Tôi không nói là như kia.
Tôi không nói là khác như thế.
Tôi không nói là không phải như thế.
Tôi không nói là không không phải như thế".

Này các Tỷ-kheo, đó là trường hợp thứ hai, y chỉ như vậy, căn cứ như vậy, một số Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận, khi bị hỏi đến vấn đề này hay vấn đề khác, dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn.”

Và một phương pháp Luận của Kỳ Na Giáo ( có trước thời Phật Gotama) cho Thiền sinh bằng phương pháp Hoặc nhiên luận (Syatvada) -Tattvartha Sutra còn gọi là Phi quyết đoán luận như sau :

1- Có;
2- Không;
3- Vừa có vừa không;
4- Không thể nói (không có không không)
5- Có, không thể nói;
6- Không, không thể nói;
7- Vừa có, vừa không, không thể nói.
8- Phán đoán khẳng định.
9- Phán đoán phủ định.
10- Phán đoán khẳng định kết hợp với phán đoán phủ định.
11- Không thể nói ra được — không thể diễn tả được.

Kết hợp giữa phán đoán 1 và phán đoán 4 ở trên.
Kết hợp giữa phán đoán 2 và phán đoán 4.
Kết hợp giữa phán đoán 3 và phán đoán 4
(Tattvartha Sutra – Jainism – Kỳ Na Giáo)

ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO CỦA NGƯỜI TRÍ

Đức Phật đã từng khẳng định về phương pháp tra cứu , khảo sát lý thuyết khoa học trước khi tin vào điều gì. Trong chương trình học Tiến Sỹ của các nước Châu Âu có một môn gọi là CHỐNG NGUỴ BIỆN TRONG KHOA HỌC có những phạm trù gần giống Đức Phật đã nêu ra:

Ðức Phật đã xác định có 10 điều không nên vội tin:
1/ Chớ có tin vì nghe truyền thuyết.
2/ Chớ có tin vì nghe truyền thống.
3/ Chớ có tin vì nghe người ta nói đồn.
4/ Chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng.
5/ Chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình.
6/ Chớ có tin vì đúng theo một lập trường.
7/ Chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện.
8/ Chớ có tin vì phù hợp với định kiến của mình.
9/ Chớ có tin nơi phát xuất có uy quyền.
10/ Chớ có tin vì bậc sa môn là đạo sư của mình.

Đạo Phật đã được truyền Khẩu một thời gian khoảng 400 năm mà không có sách vở ghi chép cho tới lần kết tập thứ IV. Trong khoảng thời gian đó đã bắt đầu lẫn lộn nhiều hệ tư tưởng khác nhau trong nội bộ Phật Giáo. Sau đó vì sự bất đồng quan điểm đã dẫn đến chia rẽ thành nhiều bộ phái như hiện nay và nhiều Bộ Kinh khác nhau theo tư tưởng luận riêng của họ.

Mà nên khảo sát, đối chiếu hệ tương tưởng đúng mà Đức Phật đã đưa ra và giới Luật để nhận định rõ ràng về lý thuyết tâm linh tránh trường hợp hiểu sai. ( Trước khi Phật mất, ngài đã dặn dò đệ tử hãy “Lấy Pháp - Dhamma và Luật - Vinaya Làm Thầy”). Ở đây PHÁP không phải Kinh Tạng, mà là PHƯƠNG PHÁP và TƯ TƯỞNG đúng đắng.

MAY MẮN CHO NHỮNG AI TÌM ĐẠO

Thời đại chúng ta là thời đại của khoa học, công nghệ thông tin, sự mở cửa của đất nước và mối liên thông về Văn Hoá, khoa học các nước được share rộng rãi. Nên chúng ta có thể đối chiếu và thu thập kiến thức rất dễ dàng so với vài mươi năm về trước. Có thể tự đi du lịch, nghiên cứu khắp thế giới một cách dễ dàng. May mắn của chúng ta đang ở trong một nước mà không có chiến tranh, bạo động, khủng bố, nên việc tu tập hành thiền, nghiên cứu khá thuận tiện.

Hãy tự nghiên cứu, suy luận và thực hành !

"Attadhipà attasaranà annasaranà dhamma dhipà dhamma saranà". Nghĩa là: "Tự mình hãy tìm ánh sáng, tự mình hãy nương nhờ lấy, không nên ỷ lại và nương nhờ kẻ khác". – Buddha

Tài Liệu Tham Khảo:
- Buddhavamsa - Đại Phật sử
- Kinh Coran - Islam Hồi Giáo
- Kinh Cựu Ước – Kitto giáo
- Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ - Minh Đức Triều Tâm Ảnh
- Kinh Vedanta - Vệ Đà – Hindu giáo
- Kinh Syatvada – Mahavira - Kỳ Na Giáo.
- Kinh Phạm Võng (Brahmajàla sutta) - Dìgha Nikàya



NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT