kết quả từ 1 tới 20 trên 45

Ðề tài: Sự hình thành Đại thừa - J. R. O'Neil

Threaded View

Previous Post Previous Post   Next Post Next Post
  1. #2

    Mặc định



    Sở tri chướng, chướng sở tri. Vì có sở tri chướng, nên bị sở tri sở chướng. Người nhị thừa có sở tri chướng. Họ nói: ‘’Tôi tu pháp tứ đế, hoặc pháp mười hai nhân duyên, thì tôi có thể liễu sinh thoát tử. Tất cả pháp mà chúng ta biết đều là Phật nói. Pháp đại thừa chẳng phải Phật nói mà là ngụy tạo.’’ Nơi nơi họ dùng ‘’tôi’’ làm tiền đề, cho nên nói người tiểu thừa, tiểu tri tiểu kiến, tiểu tâm tiểu lượng. Do đó: ‘’Trung đạo tự hóa’’, tức là giữa đường phế bỏ, mà chẳng tiến về trước. Người tiểu thừa chỉ biết tối đa về nhân quả trong tám vạn đại kiếp, chứ chẳng biết ngoài tám vạn đại kiếp. Ðây là biết gần chẳng biết xa. Có chỗ biết, có chỗ chẳng biết, biết phàm chẳng biết Thánh. Do đó, có câu:

    ‘’Bậc sơ địa chẳng biết bậc nhị địa
    Bậc thập địa chẳng biết bậc Ðẳng Giác
    Bậc Ðẳng Giác chẳng biết bậc Diệu Giác’’.


    Chỉ sai một chút thì chẳng biết. Giống như học sinh tiểu học, chẳng hiểu sách của học sinh trung học, học sinh trung học, chẳng hiểu sách học của sinh viên đại học, cùng một đạo lý ấy. Chẳng cùng trình độ thì chẳng biết cảnh giới đó.
    Hàng nhị thừa quán sát phàm phu rất rõ ràng; tâm bạn nghĩ gì, thân làm gì, họ thấy đều rõ ràng. Song, bậc Bồ Tát khởi vọng tưởng gì? Họ cũng chẳng biết. Bồ Tát dự bị tu hành hạnh môn gì, hàng nhị thừa chẳng cách gì biết được, vì sức quán sát của họ chẳng đạt đến được cảnh giới của Bồ Tát.

    Lúc Phật còn ở đời, có một ông già hơn tám mươi tuổi muốn xuất gia tu đạo, bèn đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn xin xuất gia. Chẳng may hôm đó Phật đi ra ngoài khất thực. Những vị A La Hán vận dụng thần thông để quán sát nhân duyên của ông già, song, tìm chẳng thấy ông già nầy có chút căn lành nào. Tại sao? Vì họ chỉ biết nhân duyên trong tám vạn đại kiếp. Mọi người quán sát rồi, thật tìm chẳng được chút căn lành nào, bèn từ chối không cho ông già xuất gia. Những vị đại A La Hán đó nói với ông già rằng:
    - ’’Ông già ơi ! Vì ông chẳng có căn lành xuất gia, cho nên ông không thể xuất gia. Ông chẳng có gieo trồng hạt giống bồ đề, muốn xuất gia chẳng đủ tư cách, xin ông hãy đi về’’!

    - Ông già nghe nói quá thất vọng bèn nói : ‘’Tôi cảm thấy đời người vô thường, khổ nhiều vui ít, là thật tâm muốn tu hành, cầu được giải thoát, chứ chẳng phải muốn nương Phật mặc áo, ăn cơm. Xin các vị tôn giả từ bi, phá lệ thu tôi làm chú tiểu Sa Di.’’

    Ông già cầu thỉnh ba lần nhưng vẫn chẳng được xuất gia, bèn cáo từ rời khỏi Tịnh Xá Kỳ Hoàn. Tâm càng nghĩ càng thương tâm: ‘’Ðệ tử của Phật chẳng từ bi, nói mình chẳng có căn lành, vậy khi nào tôi mới có căn lành? Mới có thể xuất gia?’’ Do đó, vừa đi vừa khóc, bất tri bất giác đi đến bờ sông Hằng, nghĩ muốn tự tử, chẳng còn muốn sống nữa. Ðang chuẩn bị nhảy xuống thì Phật hiện đến.

    - Ðức Phật hỏi: ‘’Ông già ! Ông làm gì đó ? Ðừng có làm như thế, đây là hành vi ngu si nhất.’’

    - Ông già khóc lóc nói: ‘’Con muốn xuất gia tu đạo, mà đến Tịnh Xá Kỳ Hoàn, nhưng đệ tử của Phật chẳng cho con xuất gia, nói con đời trước chẳng trồng căn lành xuất gia. Con cảm thấy sống chẳng còn có ý nghĩa gì nữa, chẳng bằng chết đi cho thanh tịnh !’’

    - Phật an ủi ông ta: ‘’Ông đừng có tự tử, phải biết thân người khó được, hãy đem dũng khí để sống. Ta hứa cho ông xuất gia.’’

    - Ông già đẫm lệ hỏi: ’’Ngài là ai?’’

    - Phật từ tốn nói : ’’Ta là Phật Thích Ca Mâu Ni mà ông muốn gặp đó.’’

    Lúc đó, ông già òa lên khóc, đảnh lễ Ðức Phật, theo Phật trở về Tịnh Xá. Phật làm lễ quy y và cho ông già xuất gia. Những vị đại A La Hán cảm thấy kỳ lạ nhưng không dám hỏi Phật.

    Ông già xuất gia rồi, sớm tối siêng năng tinh tấn, chẳng bao lâu chứng được quả vị A La Hán. Lúc đó, những vị A La Hán khởi hoài nghi, bèn thỉnh cầu Phật khai thị, là nhân duyên gì khiến cho ông già chứng quả?

    - Phật nói rằng: ‘’Các con chỉ biết sự việc trong tám vạn đại kiếp, mà chẳng biết sự việc ngoài tám vạn đại kiếp. Ông già nầy trước tám vạn đại kiếp, là tiều phu đốn củi, mỗi ngày vào núi nhặc củi. Một ngày nọ, ở trong núi gặp con cọp, ông ta vội chạy lên cây tránh cọp. Con cọp đó rất thông minh, dùng răng cắn thân cây, vồ thân cây để cho ông ta rớt xuống. Trong lúc sợ hãi như vậy, trong tâm hốt hoảng bèn kêu lên: ‘’Nam Mô Phật.’’ Tiếng Phật đó làm cho con cọp bỏ đi, tánh mạng của ông tiều phu cũng an toàn. Ðây là lúc bình thường chẳng đốt hương, việc xảy đến thì ôm chân Phật. Nếu ông ta lúc nào cũng niệm Phật, thì sẽ được vãng sinh về cõi Cực Lạc. Vì một tiếng ‘’Nam mô Phật’’ mà ông ta có tư cách xuất gia, các con biết gần mà chẳng biết xa, biết phàm mà chẳng biết Thánh. Các con có chỗ biết, có chỗ chẳng biết. Lúc đó, các vị đại A La Hán mới minh bạch tiền nhân hậu quả. Phật thì chẳng có gì mà không biết. Phiền não của Phật cũng chẳng còn nữa, cho nên gọi là hai hạnh vĩnh tuyệt.

    Hòa Thượng Tuyên Hóa (Tổ Sư Đời Thứ 9 Của Quy Ngưỡng Thiền Tông)
    Last edited by 123456789; 15-01-2018 at 07:27 AM.
    Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm dạy: "NẾU QUÊN MẤT TÂM BỒ ĐỀ MÀ TU CÁC PHÁP LÀNH, ĐÓ LÀ NGHIỆP MA."
    HT Tuyên Hóa dạy "Nơi nào có Kinh Hoa Nghiêm thì nơi đó có đức Phật."

Thread Information

Users Browsing this Thread

There are currently 1 users browsing this thread. (0 members and 1 guests)

Bookmarks

Quyền Hạn Của Bạn

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •